NGHỀ THỦ CÔNG TRUYỀN THỐNG-Cổng Thông Tin điện Tử Tỉnh ...

Ngoài nông nghiệp, nhân dân còn thực hiện bách nghệ, nhằm sản xuất công cụ, vật dụng hàng ngày bằng phương pháp thủ công. Thông thường, họ làm nghề thủ công như một thứ kinh tế phụ trong những giai đoạn nông nhàn, nhưng cũng có bộ phận chuyên môn lấy nghề làm sinh kế chính. Theo Ô Châu cận lục của Dương Văn An, Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn, Đại Nam nhất thống chí của Quốc Sử quán triều Nguyễn… Xứ Huế từng tồn tại nhiều làng nổi tiếng về một nghề thủ công truyền thống nào đó, nhưng đến nay hầu hết đã mai một hay thu hẹp lại, người ta tạm gọi là làng nghề, mặc dù dân làng không phải toàn bộ đều làm nghề ấy. Làng nghề có mấy nhóm chính:

1. Nhóm làng nghề sản xuất công cụ - khí dụng, như nghề rèn sắt ở Hiền Lương, Mậu Tài, nghề đúc đồng ở Võng Trì, Dương Xuân (Sơn Điền, Phường Đúc), nghề kéo dây (thau, thép) ở Mậu Tài, nghề mài khí giới ở An Lưu, nghề làm đinh sắt, đinh đồng ở Hà Thanh, nghề đan lát (tre, mây) ở Bao La, nghề thắt gióng mây ở An Vân, An Cựu, nghề đan gót và làm mui đò ở Dã Lê, nghề làm guốc mộc ở An Ninh, nghề làm đăng nò (để đánh cá) ở Bác Vọng, nghề đan lưới (đánh cá) ở Thủ Lễ, Thụy Lôi (Phú Xuân), Uất Mậu, nghề gốm ở Dũng Cảm (Mỹ Xuyên), Cảm Quyết (Phước Tích), Nguyệt Biều (Long Thọ), nghề làm đồ sành sứ ở Ngư Võng, nghề làm nón lá ở Triều Sơn, Đồng Di, Tây Hồ, Phủ Cam, nghề làm tơi lá (áo mưa) ở Ô Sa, nghề đóng hòm (quan tài) ở Kim Long, Bao Vinh, nghề xẻ ván đóng thuyền ở Diêm Trường, Phụng Chánh, nghề làm chiếu đệm ở Bằng Lẵng, Phò Trạch, nghề làm mũ ở Hiền Lương, nghề làm trống ở Phổ Nam…

2. Nhóm làng nghề sản xuất vật liệu – trang trí, như nghề thếp vàng, sơn mài ở Tân Nộn (Tiên Nộn), nghề kim hoàn ở kế Môn, nghề chạm khắc gỗ ở Mỹ Xuyên, nghề khảm cẩn xà cừ ở Bao Vinh, nghề vẽ tranh thờ ở Lại Ân (Sình), nghề làm hoa giấy ở Thanh Tiên, nghề làm giấy ở Lương Cổ, Đốc Sơ, Thanh Lam, nghề làm mực ở Hoài Tài (Mậu Tài), nghề làm trướng liễn ở An Truyền (Chuồn), nghề làm tóc giả ở Quảng Xuyên, nghề vẽ tranh kính ở Huế…

3. Nhóm làng nghề sản xuất vật liệu – may mặc, như nghề dệt (nhiều loại) ở An Lưu, Sơn Điều, Dương Xuân, Vạn Xuân, Kim Long, Phủ Cam, nghề dệt tơ ở Phủ Cam (Trường Cởi), nghề dệt gấm, dệt nhiễu đổ ở Phú Xuân, nghề dệt lụa trắng ở An Lưu, nghề dệt mũ ở Quảng Yên, nghề dệt lụa ở Lãng Châu, Phò Nam, nghề dệt gấm cải hoa ở Vĩnh Cố (Vĩnh Xương), nghề dệt vải mặt nhỏ ở Đồng Di, Dương Nỗ, Địa Linh, nghề dệt vải thao đủi ở Mỹ Toàn (Mỹ Lợi), nghề xe chỉ, nhuộm chỉ ở Chợ Cống, nghề thêu ở Huế (phố Cẩm Tú)…

4. Nhóm làng nghề sản xuất vật liệu – xây dựng, như nghề làm vôi hàu ở Nghi Giang, Vinh Hiền, nghề làm gạch ngói ở Xóm Ngõa – Địa Linh, Long Thọ, Nam Thanh, Triều Sơn Tây, nghề nung vôi đá ở Nguyệt Biều – Long Thọ (nghề làm giấy cũng có thể thuộc nhóm này, vì ngày xưa người ta dùng giấy như một thành tố như vôi vữa, nhất là để xây cung điện, thành đài…)

5. Nhóm làm nghề sản xuất ẩm thực phẩm, như nghề đánh cá ở Dương Xuân, Thủy Bạn (Lưu Bạn), An Bằng và các làng ven sông, đầm, biển, nghề kéo mật mía ở Tân Quán, Long Hồ, Thượng An, nghề làm men rượu ở Việt Dương, Tây Thành, nghề nấu rượu ở Tân Lai, An Thành, Phù Lai, Vu Lai, Hà Thanh, nghề làm bột, bột bán ở La Khê, An Thuận, Truồi, nghề làm bánh ở Lý Khê (Lễ Khê), Tri Lễ, nghề làm bánh tráng ở Tráng Lực, Lựu Bảo, nghề làm bún ở Hương Cần, Vân Cù, nghề làm muối ở Khánh Mỹ, Diêm Trường, Phụng Chánh, Mỹ Toàn….

6. Nghề kim hoàn làm đồ trang sức, chỉ có một làng Kế Môn (nay thuộc xã Điền Môn, huyện Phong Điền, Thừa Thiên Huế). Về sau, nghề này được phổ biến và phát triển ở thành phố Huế và một số nơi khác. Người ta thờ hai cha con ông Cao Đình Độ, Cao Đình Hương làm Tổ nghề. Cao Đình Độ gốc ở vùng Cẩm Tú, tỉnh Hà Tĩnh, di cư vào Nam làm con nuôi họ Trần Duy làng kế Môn. Ông giỏi nghề luyện vàng bạc, bịt khảm và làm đồ nữ trang. Vua Gia Long nghe tiếng, trưng tập vao Nội Kim tượng cục (cuộc thợ vàng trong cung). Về già, ông truyền nghề cho con là Cao Đình Hương và dân làng Kế Môn để đền ơn bảo dưỡng. Mất ngày 7-2-1810. Ông Hương nối nghiệp cha làm nghề kim hoàn, và được xem là “đệ nhị tổ” (tổ thứ hai) của nghề này. Ông mất ngày 27-2-1970. Khu mộ Tổ Kim Hoàn đã được Nhà Nước công nhận là di tích văn hóa theo Quyết định ngày 22-3-1990 của Bộ Văn hóa Thông Tin.

Những ngành nghề thủ công truyền thống kể trên cũng được nhân dân thực hiện rải rác ở các nơi khác, cùng với những nghề phổ biến, đặc biệt là công cụ lao động nông nghiệp, như làm cày, bừa, xe đạp nước, xe quạt lúa, cối xay lúa, cối chày giã gạo, vì những thứ này nhu cầu rất cao. Nhìn chung, trong quá khứ, chúng cũng “đã góp phần làm nên diện mạo văn hóa Huế, để lại nhiều dấu ấn tuyệt tác trên các công trình kiến trúc vật thể, cũng như hòa mình vào trong những tinh hoa phi vật thể về lối ăn, cách ở, về một kiểu ứng xử hài hòa giữa con người và tự nhiên”. Ngày nay, máy móc và kỹ thuật hiện đại chiếm ưu thế, nên đại bộ phận ngành nghề thủ công truyền thống phải nhường bước, mai một dần đi. Tuy vậy, một số ngành nghề thủ công vẫn còn tác dụng, máy móc không thể thay thế được bàn tay và khối óc con người, thì nhà nước cần có chính sách khôi phục, phát huy, đua vào quỹ đạo vận hành của nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần để xây dựng quê hương…

Từ khóa » Việc Phát Triển Nghề Thủ Công Truyền Thống ở Khu Vực Nông Thôn Hiện Nay Góp Phần Quan Trọng Nhất Vào