Chăn Nuôi Trâu Bò - Xemtailieu

logo xemtailieu Xemtailieu Tải về Chăn nuôi trâu bò
  • pdf
  • 41 trang
Giáo trình CHĂN NUÔI GIA SÚC NHAI LẠI Biên soạn: T.S Nguyễn Văn Thu - [email protected] Th.S Nguyễn Văn Hớn - Th.S Hồ Quảng Ðồ ([email protected] - [email protected]) VAI TRÒ VÀ VỊ TRÍ CỦA NGÀNH CHĂN NUÔI TRÂU BÒ -------------------------I. Vai trò của ngành chăn nuôi trâu bò. 1. Thế giới. Hiện nay ở các nước phát triển, ngành chăn nuôi trâu bò đã đạt được nhiều thành tựu. Nhằm mang lại nhiều sản phẩm phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng của con người, các nhà chuyên môn đã tạo ra nhiều nhóm giống mới, chuyên dụng để cày kéo, lấy thịt hoặc lấy sữa. Nguồn thức ăn của trâu bò chủ yếu là cỏ, các phụ phẩm của ngành công, nông nghiệp sẳn có tại địa phương. Do đó trâu bò ít cạnh tranh với nguồn lương thực của con người. Công tác cải tạo giống: ứng dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật như thụ tinh nhân tạo kết hợp với sự kiểm tra sự rụng trứng để điều tiết việc đẻ bò đực, bò cái...Người ta cũng áp dụng phương pháp cấy phôi. ỨNG DỤNG NHỮNG KỸ THUẬT TIÊN tiến vào dinh dưỡng như chế biến thức ăn viên...Ngoài cỏ xanh người ta còn dùng thức ăn đã được xử lý. 2. Ở Việt Nam. Chăn nuôi trâu bò từ trước đến nay chủ yếu để cung cấp sức kéo cho nông nghiệp. Hiện nay và những năm sắp tới thịt và sữa sẽ ngày càng trở thành nhu cầu cần thiết của xã hội. Do đó đàn trâu bò sữa, thịt sẽ phát triển nhanh góp phần mang lại hiệu quả kinh tế cao cho người chăn nuôi. Ngành chăn nuôi trâu bò có vai trò quan trọng trong việc cung cấp sức kéo, phân bón cho trồng trọt. Ðồng thời cung cấp thịt sữa cho nhu cầu tiêu dùng của con người. Cung cấp 1 một số sản phẩm như da, sừng...cho ngành công nghiệp chế biến. Ngoài ra ngành chăn nuôi trâu bò còn góp phần tạo công ăn việc làm cho nông dân lúc nhàn rỗi. --------------------------------------§ẶC ÐIỂM SINH HỌC CỦA TRÂU BÒ. 1. Ðặc điểm về tiêu hóa. Hệ tiêu hóa của trâu bò hoạt động theo cơ chế nhai lại. Bộ máy tiêu hóa của trâu bò gồm 4 túi. Mỗi túi sẽ có một chức năng riêng đó là dạ cỏ, tổ ong, lá sách và múi khế. Thức ăn của trâu bò chủ yếu là thức ăn thô xơ. Ba dạ ở trên chủ yếu là tiêu hóa cơ học, khi đến dạ múi khế thì sự tiêu hóa hóa học là chính. Cấu tạo của bộ máy tiêu hóa gồm: - Miệng: răng, lưỡi, tuyến. Răng tổng số 32 răng được chia ra: hàm trên 12, hàm dưới 10 răng bên cạnh còn có gờ sừng (khác nhau ở 8 răng của hàm dưới). Từ 8 răng cửa người ta có thể xem và định tuổi của trâu bò. Răng trâu bò có 3 giai đoạn: mọc, thay, mòn răng. - Tuyến nước bọt bao gồm tuyến mang tai, tuyến dưới hàm. - Yết hầu: - Thực quản: Là một ống nối từ yết hầu đến dạ dày (thực tế nó đi đến dạ lá sách). Thức ăn sau khi được nghiền đi qua thực quản vào dạ cỏ và từ dạ cỏ đến miệng. - Dạ dày gồm có 4 túi: Dạ cỏ: Thức ăn sau khi đưa vào dạ cỏ được lên men bằng vi sinh vật Protozoa. Dạ có kích thước lớn khi gia súc trưởng thành, tuy vậy dạ múi khế nhỏ. Trong trường hợp bê nghé thì có hiện tượng ngược lại, dạ múi khế chiếm 80%. Khi gia súc biết ăn, ba dạ ở dưới phát triển rất nhanh để đáp ứng cho nhu cầu dự trữ và tiêu hóa. Khi thức ăn ăn vào dạ cỏ thì vi sinh vật sử dụng nguồn đạm làm điều kiện nuôi dưỡng bản thân vi sinh vật. Khi vi sinh vật chết nguồn đạm được phóng thích và được cơ thể trâu bò hấp thu. Mỗi loại thức ăn sẽ có loài vi sinh vật phân hủy thức ăn khác nhau. Căn cứ vào vấn đề này để tác động thích hợp nước bọt pH: kiềm: 8,2, thức ăn m + dạ cỏ pH; 6,5 - 7. Dạ tổ ong: Cũng tiêu hóa bằng vi sinh vật. Dạ lá sách: Tiêu hóa vi sinh vật. Dạ múi khế: Tiêu hóa hóa học. - Ruột non: dài khoảng 40 m 2 - Ruột già: dài khoảng 8 m, và cuối cùng là hậu môn. * Chức năng ống tiêu hóa. Mục đích chuyển thức ăn thực vật hoặc những loại thức ăn khác thành hợp chất hóa học dễ hấp thu để nuôi các mô, các tế bào của cơ thể. Ðồng thời thải ra ngoài những chất cặn bã trong quá trình tiêu hoá. Quá trình tiêu hóa xảy ra theo một số quy trình như sau: Thức ăn được lấy vào miệng ---> cắt, nhai, nghiền ---> trộn với nước bọt ---> nuốt xuống dạ cỏ ---> thức ăn mịn sẽ tiếp tục đi xuống dưới còn thức ăn nhẹ và to sẽ được ợ lên miệng để nhai lại ---> tiếp tục xuống dạ cỏ ---> ống tiêu hóa ---> hấp thu vào cơ thể để nuôi cơ thể. Nghiền thức ăn: Thức ăn đầu tiên được nghiền ra, thức ăn nghiền càng mịn thì nó có diện tích tiếp xúc với bề mặt dịch tiêu hóa càng nhanh và càng hiệu quả hơn. Rất thuận tiện cho việc hoạt động của hệ vi sinh vật và dịch tiêu hóa của dạ múi khế động vật. Thức ăn khô cần phải được nghiền nhuyễn. Trộn nước bọt: Tuyến nước bọt ở miệng tiết ra một lượng nước bọt rất lớn và sự tiết càng nhiều khi khẩu phần thức ăn là cỏ khô. Ðể điều hòa lại có khả năng nuốt dễ dàng do đó nước bọt có vai trò làm trơn thức ăn, trước khi nuốt vào nó có chất đệm ở dạng cỏ với chất chứa hàm lượng bicarbonat, hàm lượng men amilase. Sự nhai lại: trâu bò thường ăn thức ăn nhanh ngay vào đồng. Quá trình này rất quan trọng làm cho thức ăn càng mịn ---> tiêu hóa tốt đồng thời cũng thải ra một lượng chất khí rất lớn. Thức ăn càng khô nhẹ được ở trên, mịn ở dưới. Do đó thức ăn chưa mịn được tiếp tục ợ lên để nhai lại. Sự nhai lại chỉ xảy ra lúc nghỉ. Sau khi nhai lại tạo thành viên thực hoàn. Trâu bò trưởng thành cần khoảng thời gian nhai lại 7 giờ, còn bê nghé 15 - 16. Thời giờ nhai lại tốt nhất từ 12 giờ đêm - 3 giờ sáng. Hệ sinh thái của vi sinh vật dạ cỏ rất phức tạp và nó phụ thuộc vào thức ăn, bao gồm nấm, vi khuẩn, protozoa, mỗi loại có tác động lên một loại thức ăn nào đó. Thức ăn chính của động vật nhai lại là Carbohydrat, phần lớn chứa nhiều celluloz và ...?.... celluloz ở dạ có tác nhân phân hủy Carbohydrat là vi khuẩn. Một vài loài vi sinh vật trong dạ cỏ còn tổng hợp ra các men phân giải hầu hết các cấu trúc phức tạp của thực vật. Tuy nhiên cũng có một số loài chỉ sử dụng hóa chất đơn giản: celluloza, glucose. Sự hoạt động của một vài vi khuẩn trong dạ cỏ có sự phối hợp với nhau, vi khuẩn này còn sử dụng sản phẩm lên men của loài vi khuẩn khác. 1. Nấm: Có hầu hết trong các động vật ăn cỏ và thường cơ chế này hoạt động trong môi trường yếm khí và nấm có những thân giống như roi của Protozoa. Nấm là thành phần đầu tiên xâm nhập và tiêu hóa cấu trúc tế bào thực vật bắt đầu từ bên trong, đồng thời nó phá vỡ cấu trúc của tế bào thực vật. Sự công phá này làm cho vi khuẩn bám vào và tiếp tục tiêu hóa. 3 2. Protozoa: là động vật đơn bào có nguồn gốc từ thực vật. Protozoa có mặt trong dạ cỏ của trâu bò khi ăn thức ăn nhiều xơ, mật độ thấp 100.000 Protozoa /1ml. Nếu ăn khẩu phần có nhiều tinh bột và đường thì mật độ rất cao có thể lên đến 4 triệu Protozoa /1ml khẩu phần ăn sẽ ảnh hưởng đến các loại của Protozoa, nhân tố cân bằng và khối lượng của chúng thì hiện nay chưa được nghiên cứu. Gồm có một loại chính: Entodicopnorphs và Holostrics. Loại đầu có mặt trong dạ cỏ với khẩu phần ăn chủ yếu có tính tinh bột hoặc chủ yếu là xơ. Loài Holotrics có trong khẩu phần nhiều xơ có đường như mía hoặc là các đồng cỏ tươi. 3. Vi khuẩn: Thường là nhóm chiếm lượng lớn trong dạ cỏ của trâu bò. Gồm các nhóm: vi khuẩn tự do trong dịch dạ cỏ, chiếm khoảng 30%. Vi khuẩn bám vào các mẫu thức ăn 70%, ngoài ra vi khuẩn còn cư ngụ ở các nếp gấp biểu mô. Vi khuẩn bám vào Protozoa (CH4) thức ăn liên tục chuyển khỏi nên phần lớn thức ăn sẽ bị tiêu hóa đi, số lượng vi khuẩn ở dạng tự do trong dịch dạ cỏ rất là quan trọng để xác định tốc (phân hóa), công hóa và lên men thức ăn. Tiêu hóa vi sinh vật ở dạ cỏ: Sau khi thức ăn được ăn vào trong dạ cỏ nó được trộn lẫn với dịch dạ cỏ có chứa hàng tỉ vi sinh vật. Những vi sinh vật này nó sẽ phá vỡ các hóa chất phức tạp Carbohydrat, celluloza, hemi celluloz bởi sự lên men và cho ra những chuỗi acid béo sẽ được hấp thụ trực tiếp từ dạ cỏ và dạ tổ ong theo con đường máu và nó được dùng như một nguồn năng lượng và cũng là nguồn C giúp cho việc cấu tạo nhiều hồng cầu quan trọng trong đó có mỡ sữa. Protein trong thức ăn được phá vỡ để cho ra các peptid và acid amin, NH3 và amin vi sinh vật dùng những cơ chất này để xây dựng nên tế bào. Sau đó vi sinh vật đi xuống đường ruột cũng như được thoái hóa và nó là nguồn cung cấp protein cho trâu bò. 4. Sinh lý sinh sản. * Con đực: Chịu tác động của thần kinh và thể dịch khi con đực thành thục về tính dục, lúc ấy có những xung động về thần kinh, những xung động này từ cơ quan kích thích não thùy trước tiết ra FSH, LH. Não thùy trước sản sinh 6 hormon trong đó có 3 hormon tác động quá trình sinh sản. Thùy sau tiết Oxytoxin. Các phân hóa tố này kích thích vào quá trình sinh trưởng của gia súc. Quy trình nầy được điều hành bởi hệ thần kinh và cơ chế hệ thống chuyển dịch. Tuyến yên gồm có hai phần nó độc lập nhau là tiền thùy thể và hậu thùy thể, thường có quan hệ độc lập với nhau. Cả hai là một nhánh của não và có quan hệ nhau bằng thần kinh trung ương. Tác động của tiền thùy thể bằng thể dịch, hậu thùy thể truyền đi bằng con đường thần kinh. Từ hạ khu não dưới tác động của hệ của RH, tiền thùy thể sản sinh ra FSH và LH. FSH tácđộng lên ống sinh tinh ---> tinh trùng. LH tác động vào tế bào ludig ---> kích thích tố Androgen. Androgen tác động đến các cơ quan sinh dục phụ. Ðồng thời Androgen có tác 4 động lên ống sinh tinh và túi ống sinh tinh tác động ngược lên tiền thùy thể đồng thời với androgen. Androgen còn tác động lên Hypothalanus. * Ở gia súc cái. Noãn sào là tuyến hổn hợp có 2 chức năng sản xuất ra noãn và bài noãn, bên cạnh đó còn sản xuất ra 1 số hormon: Oestrogen và Progesteron. Hai hormon này có nhiệm vụ quan trọng trong sự tiết sữa, tăng trưởng, phát triển và giữ chức năng di truyền nòi giống, tác động lên các bộ phận sinh dục phụ. - Noãn sào tiết ra oestrogen kích thích cho noãn bào phát triển và chín. - Hormon Progesteron: Là hormon do thể vàng phân tiết. Progesteron là hormon cái quan trọng trong sự duy trì bào thai trong thời kỳ thai nghén. 5 3. Sinh lý sự làm việc. Ðể gia súc làm việc tốt cần chú ý đến năng lượng cung cấp cho quá trình làm việc, từ đó cung cấp khẩu phần thức ăn thích hợp. Năng lượng được tính từ ATP...Năng lượng có rất nhiều dạng. Năng lượng thô: Năng lượng xảy ra thường xuyên trong cơ thể gia súc thông qua chu trình Krebs để tạo ra năng lượng dưới dạng hóa năng ATP trong quá trình chuyển các acid lactic, pyruvic. ATP là nguồn cung cấp năng lượng cho nhu cầu hoạt động của cơ thể. --------------------------------CÁC GIỐNG TR¢U BÒ A. Giống nuôi để cày kéo *. Giống Bò : 6 1. Bò Việt Nam : có màu vàng, vàng nhạt hoặc vàng đậm. Bò Việt Nam nhỏ con, năng suất thấp, trọng lượng khoảng 160 - 220 kg. Sản lượng sữa 350 - 400kg vừa đủ cho bê bú. Tỉ lệ thịt xẻ 42 - 44% 2. Bò Sind : Nhập vào Việt Nam khoảng năm 1920. Màu lông nâu cánh dán hay màu đỏ, trán gồ, u vai cao, yếm rộng. Trọng lượng trưởng thành ở con cái 350 - 400 kg; và 500 550 kg ở con đực. Sản lượng sữa 1200 - 1500 kg /chu kỳ 305 ngày. Tỉ lệ mỡ sữa 4 - 4,5 %. 3. Bò Sahiwal : Lông màu xám đen hoặc nâu đen, ngoại hình giống như bò sind. Bò trưởng thành con cái nặng 400 - 450 kg và con đực nặng 550 - 600kg. Sản lượng sữa bình quân 1600- 2700 KG / CHU KỲ 300 NGÀY, TỈ LỆ MỠ SỮA 4-4,5%. Ở Việt Nam có nuôi ở Dục Mỹ (Khánh Hòa). *. Giống trâu : Trâu ta : Thuộc loại trâu đầm lầy đa số có lông màu đen xám, có một số điểm trắng ở dưới hầu, cổ, phần da dưới bụng màu hồng. Sừng cong cánh ná. Trọng lượng trưởng thành trâu đực trung bình 500 kg và con cái 450 kg. Tỉ lệ thịt xẻ trâu ở Ðồng bằng sông Cửu long là 46,7%, trâu có thể làm việc 1 - 1,5 tháng và 4 - 6 giờ /ngày. Năng suất cày đạt 3 - 4 công / ngày. B. Giống trâu bò sữa : *. Giống Bò : Bò Hà Lan (Holstein friesian) Lông màu lang trắng đen, thân hình trước nhỏ sau to, bầu vú phát triển. Trọng lượng trưởng thành ở con cái 550 - 650 kg, con đực 800 - 1000kg. Sản lượng sữa bình quân 5000 - 6000kg, cá biệt có con 12.000 - 15.000 kg. Ở NƯỚC TA NĂNG SUẤT SỮA BÌNH quân đạt 4000 - 4200 kg / 305 ngày. Bò đực thiến 18 tháng tuổi đạt 375 kg, tỉ lệ thịt xẻ 57%, ở 24 tháng đạt 505 kg với tỉ lệ thịt xẻ 56,2%. Bò Jersey : Là kết quả lai tạo giữa bò Bretagne (Pháp) với bò địa phương của Anh sau đó pha thêm máu bò Normandre (Pháp). Lông màu xám nâu hoặc nâu đen có một số ít màu vàng nhạt. Trọng lượng bò đực khoảng 500 kg và bò cái khoảng 300 - 350 kg. Năng suất sữa 3500 4500 kg/ chu kỳ, tỉ lệ mỡ sữa 5 - 5,5% mỡ sữa màu vàng, hạt to, thích hợp cho việc sản xuất bơ . 7 *. Giống trâu : Trâu Murrah : Là giống trâu nổi tiếng trên thế giới, có nguồn gốc từ ẤN §Ộ. NGOẠI HÌNH TOÀN thân màu trắng, da mỏng, bóng, lông thưa, sừng xoắn dạng trôn ốc. Ðây là giống trâu chuyên sản xuất sữa nên bầu vú phát triển. Trọng lượng trưởng thành 500 -700 kg, tuổi phối giống lần đầu là 3 - 3,5 tuổi. Tuổi đẻ lứa đầu 4,5 tuổi. Nhịp đẻ 15 - 16 tháng. Thời gian mang thai là 305 ngày, sản lượng sữa 1500 - 1800 kg/chu kỳ cho sữa 9 tháng. Tỉ lệ mỡ sữa 7 - 7,5 %. Tỉ lệ thịt xẻ trung bình 48- 52%. C. Các giống bò thịt : Bò Montbéliarde : Màu lông đặc trưng là lang trắng đỏ. Tầm vóc lớn, con đực nặng 900 - 1200kg, bò cái nặng 600 - 700kg. Sản lượng sữa trung bình 5819kg, tỉ lệ bơ 3,7% và tỉ lệ đạm 3,3%. Giống bò nầy cho sản lượng thịt và chất lượng thịt cao, tốc độ sinh trưởng tốt. Bò Nâu Thuỵ sĩ (Brown Swiss ) : Ở NƯỚC PHÁP GỌI LÀ BÒ BRUNE, là giống bò kiêm dụng sữa -thịt. Lông màu nâu sáng hay xám đậm. Trọng lượng con đực 900 - 1000kg; con cái nặng 600 - 700 kg. Sản lượng sữa trung bình 3500 - 4000kg; tỉ lệ mỡ sữa 3,5 - 4%; tỉ lệ đạm 3,3%. Tỉ lệ thịt xẻ 55 - 60%, tăng trọng nhanh 12 tháng tuổi nặng 300 - 400kg; 24 tháng tuổi nặng 450 600kg, phẩm chất thịt ngon. Bò Charolais : Lông màu trắng kem. Bò đực trưởng thành nặng 1000 - 1200 kg, bò cái 680 - 800 kg. Khả năng tăng trọng bình quân 1200 - 1500g / ngày. Nuôi thịt đến 12 tháng tuổi bê đực nặng 525 kg, bê cái 448 kg. Tỉ lệ thịt xẻ 62 - 65%. Bò Hereford : Thân hình vạm vỡ, lông màu đỏ có vết trắng ở đầu, trán, ức, bụng, 4 cổ chân và ở cụm đuôi. Trọng lượng trưởng thành ở con đực nặng 850 -1000 kg, bò cái 600 - 650 kg. Bê đực thiến nuôi thịt lúc 15 - 18 tháng đạt 450 - 460 kg. Tỉ lệ thịt xẻ 58 - 62%. Bò Santa-gertrudis : Màu lông đỏ thắm. Trọng lượng trưởng thành ở con đực 800 - 1000 kg và con cái đạt 550 - 600 kg. Giết thịt ở 18 tháng tuổi bê đực đạt 509 kg; bê cái đạt 376 kg. Bò Limousin : 8 Lông có màu đặc trưng là vàng hoe. Bò đực có trọng lượng 1000 - 1500kg, bò cái nặng 700- 800kg. Năng suất thịt cao, chất lượng ngon. Bê nuôi chăn thả trên đồng cỏ tốt không cần bổ sung thức ăn tinh chúng vẫn tăng trọng 1000g/ngày với con đực và 860g/ngày ở con cái. Thớ thịt mịn, mềm, ít mỡ và tỉ lệ thịt xẻ cao 63 - 74%. Bò Blonde d' Aquitaine : Tầm vóc lớn, con đực 1500kg, con cái trên 1000kg. Nuôi đến 1 năm tuổi mỗi ngày tăng trọng 1600g. Tỉ lệ thịt xẻ 75%. -------------------------------------CH¡N NU¤I TR¢U BÒ CÀY KÉO I. MỤC §ÍCH VÀ Ý NGHĨA : Trâu bò là loài gia súc có thể phục vụ sức kéo tiết kiệm được nhiên liệu, sức kéo của trâu bò thường rẻ tiền hơn máy móc, do chúng sử dụng thức ăn rẻ tiền như rơm cỏ, hơn thế nữa chúng còn cung cấp những lợi tức khác như nghé, phân bón cho người nông dân. Trong xu thế nguồn nhiên liệu xăng dầu của thế giới ngày càng cạn kiệt, sử dụng sức kéo gia súc có một ý nghĩa quan trọng về kinh tế và chống sự ô nhiễm môi trường do máy móc công nghiệp gây ra. Sức kéo trâu bò sẽ còn tiếp tục phục vụ cho nông nghiệp ở một số nơi mà đất đai và ruộng đồng nhỏ, địa hình nhiều sông rạch hay là đồi dốc nên việc cơ giới hóa không thích hợp. Nhưng đối với trâu bò cày kéo có thể đáp ứng được. Ngoài ra trâu bò có thể di chuyển trên những đường gồ ghề, hoặc đường mòn hẹp. Vào mùa vụ trâu bò có thể cày bừa, kéo lúa, vận chuyển rơm rạ...Ngoài mùa vụ trâu bò có thể tham gia chuyên chở hàng hoá hoặc kéo nước... làm cho sức kéo của trâu bò có lợi tức cao. Ngoài việc đóng góp to lớn cho con người về sức kéo lúc còn sống. Khi chết trâu bò còn có thể cung cấp các sản phẩm như: thịt, da, xương, sừng...phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng của con người. Ðối với các nước đang phát triển, trâu bò là nguồn sản xuất chủ yếu và được xem như là chiếc "máy cày sống" của các nông dân nghèo. Khi cần có thể bán đi để lấy tiền chi tiêu cho gia đình. Do đó trâu bò được xem như tài sản có giá trị của người nông dân. II. CHỌN TRÂU BÒ NUÔI CÀY KÉO : 1. Ngoại hình và thể chất. Là phương pháp quan trọng phổ biến ở ÐBSCL, có thể dựa vào ngoại hình, thể chất để chọn trâu bò nuôi. Vì từ ngoại hình cao cho biết tốt xấu, khỏe mạnh, bệnh, lành, dữ... 9 Trâu bò cày kéo phải chọn: - Thân mình dài, phần trước thân cao hơn sau, thân khở (trước cao sau thấp). - Ðầu to, tai to và mỏng, mắt tròn, mũi đen ướt. - Mặt gân guốc: Nhiều tĩnh mạch nổi lên. - Miệng rộng và ăn dễ dàng, ăn được nhiều chất dinh dưỡng cho duy trì sự làm việc, nếu ăn ít không đủ chất dinh dưỡng cung cấp cho cơ thể do đó không làm việc tốt được. - Cổ dài vừa phải và to nơi gia súc bị đặt ách cày, chịu một lực lớn, liền lạc chính giữa đầu và vai. - Ngực: rộng, nở nang, có khả năng hô hấp tốt. - Sườn tròn đều và khít giúp co giản và thở. - Lưng thẳng và rộng. + Nếu võng: Bụng to xệ ---> sức kéo (buông thỏng). - Bốn chân phải đều và chắc chắn: Chịu sức nặng cơ thể và sức kéo (cày và lún trong sình lầy) phải khỏe mới có thể di chuyển dễ dàng: nhanh, năng suất cao, nếu chậm năng suất thấp. - Móng khít, nếu hở bị đất vào làm viêm móng và thối móng sẽ bị loại. - Ði đứng phải ngay thẳng, không chạm chân, vòng kiềng chữ bát (yếu). - Da mịn, óng mượt, mau lớn, khỏe. - Sừng: Chọn theo tập tục. + Trâu đực ngấn sừng thưa: tốt. + Trâu cái ngấn sừng dầy: mắn đẻ - Bụng: Gọn (bụng bồ đài: to khỏe, ăn nằm) - Chóp lông đuôi cuối cùng nhiều: khỏe, sống lâu. - Sừng: + Có nhiều dạng: gốc tre. * Gốc tre: To ngắn không nhọn: Khỏe 10 * Sừng ngữa: Ðầu sừng có trắng mốc ra: yếu. * Sừng lao: Thong, dài, nhọn: hay hút người (dữ) + Kiểu sừng: Hứng gió, vênh..... * Hứng gió: Ðỉnh cong về trước: lợi chủ * Vênh: Sừng 2 bên cong đều nhau: Ðực trái, cái phải: tốt và ngược lại: xấu. - Bước chân sau: dài hơn bước trước - Chọn những gia súc hiền lành, nhanh nhẹn, chăn dắt dễ dàng (do quy trình tập và sử dụng). - Xoáy: (khoáy): Hình thành trên gia súc, đã có kinh nghiệm từ lâu là đầu mối giao nhau của các cơ nhạy cảm và dễ tác động nhất từ đó ảnh hưởng đến cơ thể. Là một tập quán quan trọng lâu đời hình thành trong dân gian Việt nam. Việc chọn gia súc nuôi, thông thường các nông dân chú ý các xoáy sau đây: Ví dụ: Xoáy tốt như xoáy bàn cờ: đóng đều 2 vai trước. Xoáy trước vai: làm việc nhanh nhẹn Có 5 xoáy xấu: Giúp người chăn nuôi loại trâu bò. + Xoáy sình bụng: ở hông trái của trâu, hay bị chướng hơi dạ cỏ. + Xoáy dày: Dưới bàn chân đi không lâu được. + Xoáy chứng: ở hông phần đuôi phía sau: hay chứng khó điều khiển Thường trâu bò có từ 5 đến 10 xoáy trên cơ thể nó. + Xoáy lệ, xoáy tam tinh (chính giữa trán: dữ, chém người), xoáy chém người chăn. 2. Ðo kích thước một số chiều đo Trâu bò có thể được đánh giá chọn lựa qua các chiều đo như: Dài thân, cao vây, cao khum, vòng ngực, vòng ống và tính các chỉ số chiều đo như chỉ số: dài thân, tròn mình, to xương, cao chân,.. 3. Ðộ dai sức 11 Dựa trên nhiều chỉ tiêu về chức năng sinh lý để chọn: thân nhiệt, nhịp tim, nhịp thở...đo trước và sau làm việc. Thời gian phục hồi sức khỏe dựa vào các chỉ tiêu sinh lý, mát: 2 giờ. 4. Phương pháp tính công làm việc: Cho gia súc làm việc thử để xem khả năng làm việc dựa vào phương pháp tính công làm việc. Biệp pháp này cần thiết phải đo lực kéo, tốc độ và chiều dài của đoạn đường làm việc. III. KHẢ N¡NG LÀM VIỆC CỦA TR¢U BÒ : Ở NHỮNG NƯỚC ÐANG PHÁT TRIỂN, sức kéo dùng cho nông nghiêp thường dựa vào động vật đặc biệt là trâu bò. Do đó trâu bò thường nằm trong tay các chủ nông nhỏ và được đối xử tử tế. Cũng như các động vật khác trâu bò tạo ra một công hơi cao hơn một ít so với công kéo thật sự, vì một phần của công nầy được dùng để nó đi tới. Công làm việc tạo ra được tính bằng N/m hay Joule, có thể được tính bằng công thức sau : Công sản sinh ( joule) = sức kéo ( N ) x quảng đường (m) 1. Sức kéo Sức kéo là sức đòi hỏi để kéo một vật trên một khoảng cách nào đó. Khả năng làm việc phụ thuộc vào các yếu tố sau: giống, sức khỏe, giới tính, trọng lượng cơ thể, phương pháp đặt ách, sự huấn luyện, phương pháp kéo, tốc độ đi và các điều kiện làm việc ngoài đồng. Ðối với bò: dưới những điều kiện về quản lý và huấn luyện tương tự, bò lớn có khả năng làm việc cao hơn bò nhỏ cùng giống và giới tính. Bò thích hợp cho việc trồng trọt nhẹ và kéo xe. Bò có thể kéo đồ nặng tương tự như ngựa có cùng trọng lượng sống nhưng chỉ đi bộ KHOẢNG 2/3 TỐC ÐỘ CỦA NGỰA. Ở ẤN ÐỘ, MỘT cặp bò có thể nâng nước để tưới nữa hecta. Bò thiến Hariana cò thể kéo trọng tải 310 - 540% thể trọng của chúng trong một ngày làm việc 6 giờ. Bò đực ở Mông cổ có khả năng kéo chiếc xe nặng 1300 kg với quảng đường 30 km mỗi ngày. Bò làm việc của Indonesia cày đất khô từ 300 đến 350 m2 mỗi giờ. Ðối với trâu : Trâu so với bò thì kém lanh lợi và chậm, song nếu chăm sóc tốt, cho nghỉ ngơi thích đáng và cho đầm tắm từng thời gian thì chúng sẽ có sức mạnh hơn. Thường một con bò đực tốt có thể đi được 80 km trong khi đó trâu chỉ đi được 50 km ở Trung Quốc, trâu thiến một giờ có thể đi được 3 km và kéo nặng 900 - 1360 kg (FAO, 1948). Những trâu đực không dùng làm giống thì thường thiến vào lúc 4 - 6 tuổi. Trâu thiến Ðường giang có thể kéo xe nặng 400 - 500 kg mỗi ngày đi trên 25 km. Phần lớn các nhà nghiên cứu cho rằng ở ruộng lúa trâu là vô địch, song ở những nơi yêu cầu mau chóng thì bò đực lại thích hợp hơn. 12 Trâu thiến Trung Quốc có khả năng cày 0,25 - 0,33 ha đất có tưới trong một ngày làm việc từ 8 - 10 giờ, nghỉ 5 lần. Theo Nguyễn Văn Thu (1987), ở Ðồng Bằng Sông Cữu Long trâu có thể: 2. Ðặt ách ở cổ trâu bò: Việc thiết kế và đặt ách có ảnh hưởng đến công suất của trâu bò. Bộ ách phải thích hợp với với loại hình đặt biệt của trâu bò để chúng cảm thấy dể chịu, ÁCH NÊN ÐƠN GIẢN, RẼ TIỀN. Ách thường được làm từ các loại cây gỗ thông thường chắc chắn và nhẹ để dễ vận chuyễn. 3. Sự huấn luyện : Làm việc có hiệu quả còn tùy thuộc vào sự huấn luyện. Phương pháp huấn luyện rất đơn giản trâu bò thường dễ dạy, luyện tập ít khi kéo dài. Ðể luyện tập dễ dàng và tiện việc điều khiển, bê nghé lúc 10 - 12 tháng tuổi phải được xỏ mũi. Ðối với bê nghé thường cho theo mẹ lúc làm việc. Vào lứa tuổi thích hợp (18 - 24 tháng tuổi) người ta tập cho trâu bò làm quen với công việc. Ðầu tiên cho trâu bò làm quen với dụng cụ cày kéo sau đó buộc vật nhẹ ở phía sau khi chăn thả rồi dần dần thay vật nặng hơn. Khi đến tuổi làm việc chúng hầu như sẳn sàng thực hiện bổn phận của mình. IV. DINH D¦ỠNG VÀ THỨC ¡N CHO TR¢U BÒ LÀM VIệC : Ở TRẠNG THÁI NGHỈ, TRÂU BÒ trưởng thành phần lớn chỉ tiêu tốn năng lượng cho trao đổi cơ bản. Bò đực làm việc như cày kéo sử dụng các chất dinh dưỡng tạo năng lượng như ATP gấp 6 - 10 lần khi nghỉ. Gia súc ở các nước đang phát triển phần lớn được nuôi bằng phế phẩm nông nghiệp và có thể được cho ăn thêm phụ phẩm như cám, tấm,...Chúng thường được chăn thả hay cắt cỏ ở ven đường. Thường trâu bò cày kéo ăn những thức ăn như vậy là thiếu dinh dưỡng. Khi con vật phải làm việc nhiều, các axít béo nhiều cacbon được oxy hóa mạnh để tăng lượng ATP, sử dụng 80 - 90 % oxy hấp thụ được ở cơ làm việc. Cơ làm việc sử dụng nhiều glucoz hơn cơ nghỉ 50 %. Bò cái làm việc mà năng suất sữa không giảm thì cần được cung cấp nhiều thức ăn để tăng lượng glucoz và axít béo nhiều cacbon. Ngày nay ở một số nước có khuynh hướng sử dụng bò cái thay cho bò đực để làm việc ngoài nhiệm vụ cày kéo còn có thể cho sữa và nuôi con. Việc dùng bò cái cho sữa và nuôi con vào cày kéo mà thức ăn chủ yếu bằng phụ phẩm trồng trọt cần phải chú ý : 13 Trâu bò cày kéo cần tăng nhu cầu về axit amin, axít béo nhiều cacbon và glucoz. Các loại bánh dầu và cỏ họ đậu rất được ưa chuộng vì là những nguồn thích hợp về protein thoát qua và axít béo nhiều cacbon. Các loại thức ăn có thể dùng cho trâu bò cày kéo: Bảng 1. Tiêu chuẩn khẩu phần hàng ngày của trâu bò cày DO ỦY BAN NÔNG NGHIỆP TRUNG ương ban hành. 14 V. CH¡M SÓC VÀ NU¤I D¦ỠNG : Trâu Bò làm việc mỗi ngày cho ăn 3 lần : sáng, trưa và chiều. Vào những ngày làm việc ban đêm người ta còn cho ăn bổ sung thêm một số thức ăn như cám, thức ăn hổn hợp, cháo, có thể uống thêm nước đường...Sau các giờ làm việc, chúng ta cần xoa bóp vai cày trong vài phút, bắt ve, cạy đất trong móng chân, đất bùn bám trên mình trâu bò. Vệ sinh sạch sẻ các vết thương, bôi thuốc sát trùng cẩn thận vào những chổ có vết thương (nếu có). Mùa hè cho trâu bò đầm tắm hằng ngày (nhất là trâu chịu nóng kém, thích bóng râm). Cho trâu bò làm việc ngoài nắng 1-2 giờ nên cho chúng nghỉ giải lao, gặm cỏ, uống nước. Chuồng trại cần thoáng mát tránh mưa tạt gió lùa. Ðặt biệt là mùa đông chuồng trại không được che chắn, gặp khi trời gió rét đột ngột, gió lùa có thể làm cho trâu bò bị cảm lạnh, viêm phổi và chết. Mỗi trâu bò cần 4 - 6 m2 diện tích nền chuồng, chuồng phải khô ráo dể làm vệ sinh, không bị ứ đọng nước. Nền chuồng nên xây bằng xi măng và nên có mùng để che muỗi . Có một số nơi không có chuồng thường cho trâu bò đầm dưới sình để tránh ruồi muỗi, nhưng có nhược điểm bị nhiễm bệnh ký sinh trùng và bị bệnh ngoài da. Trâu bò đi làm về không cho ăn ngay, nên cho chúng nghỉ ngơi tắm rữa sau đó cho uống nước muối pha loãng (10 g / 100 kg thể trọng) để gia súc khỏe rồi mới cho ăn. Trâu bò 15 thường ăn một lượng cỏ tươi bằng 1/10 trọng lượng cơ thể và có thể uống 30 - 40 lít nước mỗi ngày. Buổi sáng trâu bò có thể làm việc từ 5 giờ - 9,30 giờ và buổi chiều làm việc từ 15 giờ - 18 giờ . Nên định kỳ tiêm phòng các bệnh truyền nhiễm như : Tụ huyết trùng, Lở mồm long móng. Ðịnh kỳ kiểm tra và phòng bệnh ký sinh trùng đường máu, bệnh sán lá gan...Ðối với bê nghé chú ý bệnh giun đủa, cầu trùng. Muốn cho trâu bò làm việc tốt, dai sức ta phải cho trâu bò nghỉ ngơi, thường làm việc 10 ngày, cho nghỉ 01 ngày. Tránh cho trâu bò làm việc quá sức, quá mức. Trâu bò cái trước và sau khi đẻ 01 tháng phải được nuôi dưỡng và chăm sóc chu đáo. Ðối với trâu bò làm việc nhiều, sức khỏe giảm sút, gầy cần phải quan tâm đến việc bồi dưỡng bằng các loại cỏ tươi, thức ăn tinh hay bổ sung các khối bánh urê-mật đường giúp trâu bò mau lấy lại sức. VI. CÁC BIỆN PHÁP N¢NG CAO N¡NG SUẤT VÀ SứC KHOẻ Gia Súc LàM VIệC : Ðối với gia súc làm việc, việc duy trì sức khỏe là hết sức cần thiết, gia súc làm việc bị lệ thuộc vào những đòi hỏi nặng nề về thể chất và dễ bị tổn thương do công việc nặng ngoài đồng áng. Một lực gây ra bởi sự kích xúc gọi là kích xúc tố và những kích xúc tố bao gồm các yếu tố về di truyền, dinh dưỡng, quản lý và bệnh tật. Hậu quả của kích xúc là gia súc có một sự đáp ứng miễn dịch bị ức chế và đưa đến kết quả là dể bị bệnh nhiểm trùng bình thường gia tăng tính cảm ứng đối với các vi khuẩn không độc, sự hoạt hóa của siêu vi khuẩn tiềm ẩn và sự đáp ứng yếu với thuốc chủng. Việc làm quá sức ở trâu bò có thể là một kích xúc tố mạnh. Trâu bò thường làm việc nặng vào đầu mùa mưa, đây cũng là lúc mà sự kích xúc về dinh dưỡng mạnh nhất. Sự kết hợp của hai kích xúc tố nầy là lý do cho việc gia tăng xảy ra bệnh tụ huyết trùng vào lúc nầy trên trâu bò. Tương tự trên có thể là nguyên nhân của bệnh tiêm mao trùng xảy ra ở trâu làm việc ở miền Bắc Việt Nam. Bệnh ở chân như Lở mồm long móng làm cản trở sự kéo của trâu bò và làm giảm khả năng làm việc. Bệnh ký sinh cũng là những kích xúc tố ảnh hưởng đến khả năng làm việc của trâu bò. Trâu bò làm việc dể bị tổn thương do một số nguyên nhân sau : 16 Nhằm làm tăng năng suất làm việc giảm khả năng kích xúc ở trâu bò chúng ta cần chú ý: -------------------------------------CH¡N NU¤I BÒ SỮA I. CHỌN BÒ SỮA ÐỂ NUÔI : -Về ngoại hình : dáng thanh, có góc cạnh rỏ nét có dạng hình tam giác vuông góc mà góc vuông nằm ở phần mông, phần thân sau phải phát triểnvà rộng chiều ngang để tạo điều kiện phát triển của bầu vú. Bốn chân phải khỏe đặc biệt là 2 chân sau vì phải đỡ trọng lượng nặng của bầu vú. Bầu vú phải lớn để có khả năng tích trữ nhiều sữa. Bốn thùy của bầu vú phải đều, núm vú phải nở để dễ dàng vắt sữa. Tỉnh mạch vú phải nổi rõ. - Các giống bò sữa có thể được chọn để nuôi như : Hà Lan, Jersey bò lai F1, F2, F3 giữa bò Hà lan với bò Red Sindhi hoặc lai Sindhi. II. CHUỒNG TRẠI : Chuồng trại bò sữa thường được xây theo kiểu một hoặc hai mái, cần xây nơi cao ráo, dễ thoát nước, xa khu dân cư nhưng gần trục giao thông chính để dễ vận chuyển. Chuồng nên xây theo hướng Nam hoặc Ðông nam. Nền chuồng bằng phẳng không trơn trợt, bền chắc có độ dốc thích hợp 1,5-2% tốt nhất là nền xi măng, tường thường cao khoảng 1,2m. Nếu nuôi nhốt nên có sân chơi để cho trâu bò vận động. 17 Kích thước các loại chuồng : III. KỸ THUẬT CH¡N NU¤I BÒ SỮA : 1. Chăn nuôi bò đang vắt sữa : Hằng ngày cần tắm chải cho bò, bảo đảm cho bò sữa được vận động. Việc vắt sữa phải thực hiện đúng thao tác kỹ thuật. Nhu cầu dinh dưỡng : Căn cứ vào thể trọng để tính nhu cầu duy trì. Căn cứ vào năng suất sữa, tỉ lệ mỡ sữa, khả năng tăng trọng và thời kỳ có thai để tính nhu cầu sản xuất của một bò sữa. a. Nhu cầu duy trì của bò sữa : 18 b. Nhu cầu năng lượng và đạm để sản xuất ra 1 kg sữa Chú ý : Một đơn vị thức ăn = 2500 Kcal năng lượng trao đổi - Ðối với bò mang thai từ 3 - 6 tháng tuổi cần bổ sung thêm 1 ÐVT¡/ ngày - Ðối với bò mang thai từ 7 - 9 tháng tuổi cần bổ sung thêm 2 ÐVT¡/ ngày - Ðối với bò đang tăng trọng cần bổ sung thêm 1 ÐVT¡/ ngày 2. Chăn nuôi bò cạn sữa : Việc cạn sữa cho bò nhằm mục đích giúp bò mẹ có thời gian tích lũy cơ thể cho chu kỳ cho sữa mới, có đủ dưỡng chất nuôi thai tốt ở giai đoạn cuối kỳ cho sữa, giúp bò mẹ có điều kiện nghỉ ngơi. Bò thường cạn sữa 2 tháng trước khi bò đẻ và chia làm 3 giai đoạn : - Từ 1 - 10 ngày tuổi : hạn chế và không cho ăn thức ăn tinh, thức ăn nhiều nước, không xoa bóp bầu vú. - Từ 11 - 50 ngày : Cho ăn theo mức tiêu chuẩn kỹ thuật, bắt đầu xoa bóp bầu vú mỗi ngày 1 - 2 lần ; mỗi lần từ 5 - 10 phút. - Từ ngày 51 đến khi đẻ : tùy tình trạng mà tác động cho phù hợp, tránh để bò có sữa trước khi đẻ vì dễ dàng bị viêm vú. 3. Nuôi bê từ sơ sinh - 6 tháng tuổi : Một bê nặng 25 kg dự kiến tăng trọng 500g/ ngày ; nhu cầu duy trì là 0,7 ÐVT¡ và nhu cầu tăng trọng 0,9 ÐVT¡. Mỗi ÐVT¡ cần 120 g đạm tiêu hoá ; 8g Ca ; 5g P. Bê mới đẻ nên tách mẹ cho bú bằng bình sau đó cho uống sữa bằng xô. Sau khi đẻ cho bê bú sữa chính của mẹ nó trong vòng 10 ngày đầu và từ 3 - 5 lần/ngày. Sau đó ta có thể cho 19 bê uống sữa nguyên hoặc sữa gạn kem, có thể cai sữa bê ở 4 tháng tuổi. Bê được tập ăn thức ăn thô từ ngày thứ 10 trở đi. Cần cho bê ăn uống hợp vệ sinh, tránh tiêu chảy. Không cho bê theo mẹ, mỗi ngày có thể tắm chải 1 lần. Nên tẩy giun đủa và cầu trùng cho bê. Nên có bãi chăn thả riêng cho bê : đồng cỏ tốt, bằng phẳng và gần chuồng. 4. Chăn nuôi bê từ 7 - 24 tháng tuổi : Giai đoạn nầy nên chăn thả từ 7 - 8 giờ trên đồng cỏ, cần chăm sóc chu đáo, nếu không bê dễ bị còi cọc, chậm lớn, ảnh hưởng đến khả năng sinh sản sau nầy. Chúng ta có thể phân đàn theo nhóm tuổi. Khi trọng lượng bê đạt 65 - 70% trọng lượng cơ thể bò trưởng thành xem tầm vóc và tuổi để phối giống cho bò. Ðối với bò cái tơ chữa, chúng ta phải nuôi dưỡng thật tốt, ngoài nhu cầu dinh dưỡng về duy trì, tăng trưởng chúng ta cần chú ý đến nhu cầu nuôi thai 3 tháng trước khi đẻ. Nên xoa bóp bầu vú giúp cho bò quen với người, thao tác vắt sữa, điều kiện vắt sữa mỗi ngày xoa bóp 1 - 2 lần và mỗi lần từ 10 - 15 phút. 5. Những yếu tố ảnh hưởng đến sản lượng sữa : - Giống: Sự khác biệt giữa các giống có ảnh hưởng đến sản lượng sữa - Thức ăn và nước uống: Nếu thức ăn không đủ số lượng và chất lượng trong chừng mực nào đó thì bò phải sữ dụng chất dinh dưỡng cho nhu cầu duy trì cơ thể và sản xuất sữa trong một thời gian ngắn (Thức ăn -> máu -> não -> hệ thần kinh. . . sau đó mới đến xương, cơ và mỡ. Do đó khi thiếu cơ thể sẽ huy động chất dinh dưỡng từ mỡ -> cơ -> xương và sau cùng là thần kinh và bào thai. Vì thế giải thích tại sao bò gầy vẫn cho sữa. Nước chiếm 80 - 85% trong thành phần của sữa, nếu đảm bảo yêu cầu nước thì sản lượng sữa có thể tăng 5 - 10%. - Trọng lượng của bò sữa: Trong cùng một giống, bò có trọng lượng lớn thường cho sữa cao hơn, vì bò to lớn ăn nhiều, tiêu hoá tốt -> chất dinh dưỡng cung cấp cho bò sữa phong phú và sản lượng sữa sẽ cao. - Tuổi của bò sữa: Bò từ 2 - 5 tuổi thường cho sản lượng sữa cao nhất. Tuổi càng cao thì sản lượng sữa càng giảm. Sản lượng sữa đạt cao nhất thường là vào chu kỳ thứ 3. - Ngoại hình: Mỗi giống bò thường có đặc điểm ngoại hình khác nhau, qua đặc điểm của giống người ta có thể xác định được năng suất sữa : Bò sữa có dạng hình thoi, vú thịt, tĩnh mạch vú không nổi rõ -> thường cho năng suất sữa thấp. Bò có dạng hình tam giác, bầu vú phát triển, tĩnh mạch vú nổi rõ thường cho năng suất sữa cao. - Thời gian mang thai cũng ảnh hưởng đến sản lượng sữa. - ẢNH hưởng bởi môi trường và khí hậu. 20 Tải về bản full

Từ khóa » Bò Xoáy Tam Tinh