Tiểu Luận Chính Sách Công Full - Tài Liệu Text - 123doc

Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)
  1. Trang chủ
  2. >>
  3. Luận Văn - Báo Cáo
  4. >>
  5. Báo cáo khoa học
Tiểu luận chính sách công full

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (187.14 KB, 17 trang )

PHẦN MỞ ĐẦUTrong những năm gần đây, sinh viên tốt nghiệp ra trường và bài toán việc làmđã không còn là câu chuyện riêng của bản thân người trong cuộc mà đã trở thànhbài toán làm đau đầu các chuyên gia, các nhà quản lý. Và cho đến bao giờ vấn đềviệc làm không còn là gánh nặng của sinh viên sau những năm miệt mài đèn sáchdường như vẫn còn là một câu hỏi chưa có lời đáp.Mỗi mùa tuyển sinh cận kề thì việc chọn trường, chọn nghề luôn là điều bănkhoăn lớn của nhiều bạn trẻ. Và trở thành tân sinh viên của các trường đại họcchính là ước mơ mà các bạn luôn cố gắng, nỗ lực hết mình để hướng tới. Tuynhiên, sau 4 - 5 năm (thậm chí còn lâu hơn nữa) “dùi mài kinh sử”, khi chuẩn bịhành trang bước vào cuộc sống thì không ít trong số họ luôn băn khoăn câu hỏi “Sẽđi đâu, về đâu?”.Câu chuyện sinh viên ra trường loay hoay tìm việc làm hay chấp nhận thấtnghiệp đã trở nên quá quen thuộc. Và mặc dù không phải là vấn đề gì mới, nhưnghàng ngày, hàng giờ vẫn luôn nóng hổi và nhận được sự quan tâm, theo dõi củasinh viên, gia đình hay cả dư luận xã hội.Và để làm rõ vấn đề nêu trên, chúng ta hãy xem xét, tìm hiểu sơ qua về chínhsách công, tiêu chuẩn để có một chính sách công tốt, hay vấn đề chính sách công làgì. Để từ đó có cơ sở phân tích “thực trạng sinh viên thất nghiệp sau khi ra trườnghiện nay ở nước ta”.I. KHÁI QUÁT VỀ CHÍNH SÁCH CÔNGDeLeon (1994) cho rằng: “Nghiên cứu chính sách có một lịch sử dài và mộtquá khứ ngắn”. Mặc dù chính sách của nhà nước là vấn đề nghiên cứu từ rất lâu,nhưng chỉ trở thành vấn đề được xem xét có tính hệ thống từ vài thập kỷ gần đây.Sự phát triển của nó gắn với một số (không nhiều) sự kiện lớn trên thế giới, đánhdấu sự thay đổi từ khi kết thúc thế chiến thứ hai.Các chính sách có thể được đề ra và thực hiện ở những tầng nấc khác nhau, từcác tổ chức quốc tế đến từng quốc gia, từ nhà nước đến các đơn vị, tổ chức chính trịxã hội, doanh nghiệp,..nhằm giải quyết những vấn đề đặt ra cho mỗi tổ chức đó vàchúng chỉ có hiệu lực thi hành trong tổ chức đó.1. Khái niệm chính sách công1.1. Khái niệm chính sáchTừ điển bách khoa Việt Nam đã đưa ra khái niệm về chính sách như sau:“Chính sách là những chuẩn tắc cụ thể để thực hiện đường lối, nhiệm vụ. Chínhsách được thực hiện trong một thời gian nhất định, trên những lĩnh vực cụ thể nàoTrang | 1đó. Bản chất, nội dung và phương hướng của chính sách tùy thuộc vào tính chất củađường lối, nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa…”Theo James Anderson: “Chính sách là một quá trình hành động có mục đíchtheo đuổi bởi một hoặc nhiều chủ thể trong việc giải quyết các vấn đề mà họ quantâm”.Ngoài ra, còn có thể kể đến một số khái niệm khác như:– Chính sách là những gì mà Chính phủ làm, lý do làm và sự khác biệt nó tạora (Dye 1972).– Chính sách là một hành động mang tính quyền lực nhà nước nhằm sử dụngnguồn lực để thúc đẩy một giá trị ưu tiên (Considine 1994).Như vậy, có thể hiểu đơn giản: Chính sách là chương trình hành động do cácnhà lãnh đạo hay nhà quản lý đề ra để giải quyết một vấn đề nào đó thuộc phạm vithẩm quyền của mình.1.2. Khái niệm chính sách côngCho đến nay trên thế giới, cuộc tranh luận về định nghĩa chính sách công vẫnlà một chủ đề sôi động và khó đạt được sự nhất trí rộng răi. Trên các ấn phẩm ởViệt Nam những năm gần đây, thuật ngữ “Chính sách công” được sử dụng vớinhiều góc độ khác nhau. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu về chính sách công ởnước ta vẫn còn khá khiêm tốn; nhiều vấn đề liên quan đến chính sách công cầnphải tiếp tục được làm rõ cả về lý luận và thực tiễn.Ở các nước phát triển và các tổ chức kinh tế quốc tế, thuật ngữ “Chính sáchcông” được sử dụng rất phổ biến. Có thể nêu ra một số quan niệm sau:William Jenkin cho rằng: "Chính sách công là một tập hợp các quyết định cóliên quan lẫn nhau của một nhà chính trị hay một nhóm nhà chính trị gắn liền vớiviệc lựa chọn các mục tiêu và các giải pháp để đạt được các mục tiêu đó".Định nghĩa này nhấn mạnh các mặt sau:– Chính sách công không phải là một quyết định đơn lẻ nào đó, mà là mộttập hợp các quyết định khác nhau có liên quan với nhau trong một khoảng thời giandài.– Chính sách công do các nhà chính trị trong bộ máy nhà nước ban hành. Nóicách khác, các cơ quan nhà nước là chủ thể ban hành chính sách công.– Chính sách công nhằm vào những mục tiêu nhất định theo mong muốn củaNhà nước và bao gồm các giải pháp để đạt được mục tiêu đă lựa chọn.Thomas R. Dye lại đưa ra một định nghĩa ngắn gọn về chính sách công, songđịnh nghĩa này lại được nhiều học giả tán thành. Theo ông, "chính sách công là cáimà Chính phủ lựa chọn làm hay không làm". Ba mặt quan trọng của định nghĩa nàylà:Thứ nhất, không giống như các định nghĩa khác, nó không bàn luận về "mụctiêu" hay "mục đích" của chính sách. Các chính sách là các chương tŕnh hành độngriêng biệt; việc áp dụng các chính sách không có nghĩa là tất cả những ai đồng t́nhvới chính sách sẽ có cùng một mục đích như nhau. Trên thực tế, một số chính sáchTrang | 2ra đời không phải v́ sự nhất trí về mục tiêu, mà bởi v́ nhiều nhóm người khác nhauđồng t́nh với chính sách đó với nhiều nguyên do khác nhau (tuy nhiên, theo chúngtôi, dù các nhóm khác nhau có những mục tiêu khác nhau, song bản thân mỗi chínhsách vẫn phản ánh những mục tiêu nhất định của Chính phủ).Thứ hai, định nghĩa của Dye thừa nhận rằng, các chính sách phản ánh sự lựachọn làm hay không làm. Việc quyết định không làm có thể cũng quan trọng nhưviệc quyết định làm. Điều này hoàn toàn hợp lư trong trường hợp Chính phủ raquyết định không can thiệp vào hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước.Thứ ba, một điểm được nhấn mạnh ở đây là các chính sách không chỉ lànhững đề xuất của Chính phủ về một vấn đề nào đó, mà cũng là cái được thực hiệntrên thực tế. Nói cách khác, định nghĩa của Dye về những cái mà Chính phủ làmhoặc không làm, chứ không phải là cái mà họ muốn làm hoặc lập kế hoạch để làm.Wiliam N. Dunn cho rằng "chính sách công là một kết hợp phức tạp nhữngsự lựa chọn liên quan lẫn nhau, bao gồm cả các quyết định không hành động, docác cơ quan nhà nước hay các quan chức nhà nước đề ra". Ông dùng thuật ngữ "sựlựa chọn" – đây là điểm đáng lưu ư để tránh sự nhầm lẫn giữa chính sách với cáckhái niệm khác như quyết định hành chính.B. Guy Peter đưa ra định nghĩa: "chính sách công là toàn bộ các hoạt độngcủa Nhà nước có ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp đến cuộc sống của mọi côngdân". Định nghĩa này khẳng định chủ thể ban hành và thực thi chính sách công làNhà nước, đồng thời nhấn mạnh tác động của chính sách công đến đời sống củangười dân với tư cách là một cộng đồng.Từ các quan niệm trên, chính sách công có thể được nhìn nhận như sau:Trước hết, là một chính sách của nhà nước, của chính phủ (do nhà nước, dochính phủ đưa ra), là một bộ phận thuộc chính sách kinh tế và chính sách nói chungcủa mỗi nước.Thứ hai, về mặt kinh tế, chính sách công phản ánh và thể hiện hoạt độngcũng như quản lý đối với khu vực công, phản ánh việc đảm bảo hàng hóa, dịch vụcông cộng cho nền kinh tế.Thứ ba, là một công cụ quản lý của nhà nước, được nhà nước sử dụng để:Khuyến khích việc sản xuất, đảm bảo hàng hóa, dịch vụ công cho nền kinh tế,khuyến khích cả với khu vực công và cả với khu vực tư; Quản lý nguồn lực côngmột cách hiệu quả, hiệu lực, thiết thực đối với cả kinh tế, chính trị, xã hội, môitrường, cả trong ngắn hạn lẫn trong dài hạn. Nói cách khác chính sách công là mộttrong những căn cứ đo lường năng lực hoạch định chính sách, xác định mục tiêu,căn cứ kiểm tra, đánh giá, xác định trách nhiệm trong việc sử dụng nguồn lực côngnhư ngân sách nhà nước, tài sản công, tài nguyên đất nước.Tuy có rất nhiều cách định nghĩa khác nhau về chính sách công như đă nêutrên, song điều đó không có nghĩa là chính sách công mang những bản chất khácnhau. Thực ra, tùy theo quan niệm của mỗi tác giả mà các định nghĩa đưa ra nhấnmạnh vào đặc trưng này hay đặc trưng khác của chính sách công. Những đặc trưngTrang | 3này phản ánh chính sách công từ các góc độ khác nhau, song chúng đều hàm chứanhững nét đặc thù thể hiện bản chất của chính sách công.2. Cấu trúc chính sách côngCấu trúc của chính sách bao gồm:Thứ nhất, hành động ứng xử được thể hiện là thái độ đồng thuận hay phảnđối của chủ thể với kết quả vận động của mỗi đối tượng quản lý (thành phần kinhtế, các tổ chức, các ngành) hay một quá trình nào đó ( kinh tế, xã hội hay môitrường). Nếu đồng tình với sự tồn tại của các chủ thể, chủ thể sẽ cho phép duy trìvà thúc đẩy nó vận động phát triển tốt hơn. Trái lại, nếu phản đối thì chủ thể sẽkhông thừa nhận hay bài xích, tậy chay và tỉm cách kìm hãm tốc độ vận động củachúng để hạn chế tối đa những ảnh hưởng tiêu cực do các quá trình đó mang lại chocác ngành, lĩnh vực của nền kinh tế. Thái độ ứng xử như vậy của Nhà nước đượcđưa vào chính sách công đề định hướng cho hành động của mọi tổ chức và tầng lớpnhân dân trong xã hội.Ví dụ: Về giáo dục, Nhà nước ta có thái độ đồng thuận nên đã thúc đẩy mạnhmẽ các hoạt động đào tạo, bồi dưỡng để không ngừng nâng cáo dân trí. Thái độ nàyhoàn toàn trái ngược với Nhà nước thực dân phong kiến trước đây trong “chínhsách ngu dân” để dễ bề cai trị, bóc lột. Hoặc như vấn đề dân số, Nhà nước ta khôngủng hộ cho việc tăng nhanh dân số nên đã kìm hãm tốc độ sinh đề từng bước nângcao chất lượng dân số và cải thiện đời sống kinh tế, xã hội. Thái độ này trái ngượcvới quan điềm phổ biến trước đây dưới thời phong kiến: “hạnh phúc là con đàn,cháu đống”. Hoặc trước năm 1986, Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện pháttriển một “nền kinh tế đóng” để vừa giữ gìn nền độc lập dân tộc, vừa chủ động pháttriển kinh tế quốc dân bằng nội lực. Nhưng ngày nay, cũng như hầu hết các nướctrên thế giới, chúng ta đang thực hiện chính sách “mở cửa nền kinh tế”.v.v…. Nhưvậy, thái độ ứng xử của Nhà nước ta với các vấn đề phát sinh hay sự tồn tại của cáchiện tượng xã hội nêu trên là vì mục tiêu nâng cáo dân trí, cải thiện đời sống dân cưv.v…. Những mục tiêu này là mong muốn của chủ thể về khả năng vận động củamột hiện tượng hay quá trình nào đó đến một kết quả nhất định. Đó là những mụctiêu hướng đạo được thể hiện trong chính sách và mang tính định hướng cao. Nóimột cách khác mục tiêu chính sách công là những giá trị hướng tới phù hợp với yêucầu phát triển chung của nền kinh tế, xã hội.Thứ hai, hành động ứng xử còn được hiểu là cách giải quyết vấn đề theo mụctiêu định hướng của chính sách. Đó là cách thức mà chủ thể sử dụng trong quá trìnhhành động để tối đa hóa kết quả về lượng và chất của mục tiêu chính sách hay còngọi là những biện pháp của chính sách. Trên cơ sở định hướng của chính sách, chủthể tìm kiếm các giải pháp để đạt mục tiêu trong từng điều kiện, hoàn cảnh cụ thểvề không gian, thời gian với các nguồn lực nhất định.Do mục tiêu của chính sách mang tính định tính cao nên các biện pháp củachính sách cũng chứa đựng những động lực thúc đẩy, cân bằng hay kìm hãm theoyêu cầu mục tiêu. Nhìn một cách tổng quát, biện pháp của chính sách thường chứaTrang | 4đựng những cơ chế nhằm quy định các nguyên tắc tác động của chủ thể đến mỗiquá trình làm cho chúng vận động có hệ thống theo một hành lang nhất định. Ví dụ:để đạt mục tiêu chính sách giáo dục, Nhà nước ta có thể đầu tư cho giáo dục,khuyến khích phát triển giáo dục toàn dân, cho phép các thành phần kinh tế đầu tưphát triển giáo dục ngoài công lập, hoặc phát triển các hình thức đào tạo, kể cả đàotạo từ xa; để thực hiện mục tiêu chính sách dân số, Nhà nước ta có thể sử dụng cácbiện pháp giáo dục thuyết phục, biện pháp kinh tế và cả biện pháp hành chính. Dùlà biện pháp nào thì chúng đều phải tuân theo những cơ chế phù hợp với xu thế vậnđộng nhằm đạt được mục tiêu của chính sách.Như vậy, có thể thấy cấu trúc của một chính sách bao gồm hai bộ phận hợpthành quan trọng và thống nhất với nhau, đó là mục tiêu chính sách và biện phápchính sách. Mối quan hệ giữa mục tiêu và biện pháp của chính sách là mối quan hệbiện chứng – lịch sử được thề hiện trên các phương diện: quan hệ tương đồng, quanhệ tập hợp và quan hệ vận động.3. Vai trò chính sách côngChính sách công có vai trò to lớn trong hoạt động quản lý xã hội của nhànước.Trong nền hành chính nhà nước, chính sách công là bộ phận nền tảng trọngyếu của thể chế hành chính, là cơ sở và chi phối các yếu tố cấu thành khác của nềnhành chính như: bộ máy hành chính; đội ngũ cán bộ - công chức; tài chính công.Ở Việt Nam, với hoạt động quản lý, điều hành của Chính phủ trong nền kinhtế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thì chính sách công là công cụ tiền đề,không thể thay thế và chi phối các công cụ quản lý khác như pháp luật, kế hoạch,phân cấp - phân quyền… Điều đó giải thích vì sao trong những năm gần đây Đảngvà Nhà nước ta luôn đặc biệt quan tâm tới việc nâng cao vai trò của chính sáchcông như là một công cụ hữu hiệu nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước nóiriêng và đẩy mạnh chất lượng của sự nghiệp đổi mới nói chung. Tuy nhiên, trướcyêu cầu ngày càng cao và phức tạp của quản lý nhà nước thì hoạt động hoạch địnhvà thực thi chính sách công ở nước ta đang ở trong bối cảnh nào và đặt ra nhữngvấn đề gì cần giải quyết?Trong thời gian qua, hoạt động hoạch định chính sách công đã đạt được mộtsố kết quả đáng khích lệ cả về số lượng và chất lượng trên các lĩnh vực trọng yếu,cấp bách về kinh tế, chính trị (tổ chức bộ máy nhà nước, an sinh xã hội, quân sự,ngoại giao…). Một số chính sách công quan trọng đã được luận chứng khoa họchơn, bám sát thực tiễn đất nước, địa phương và ngành. Nhờ đó, bước đầu đã tạo lậpvà hoàn thiện được một hệ thống chính sách công khá phù hợp, đáp ứng được yêucầu ngày càng cao của quản lý hành chính nhà nước, phục vụ chiến lược phát triểnkinh tế - xã hội của đất nước. Trong lĩnh vực kinh tế, một số chính sách mới đượcTrang | 5ban hành đã đáp ứng được về cơ bản yêu cầu phát triển và hoàn thiện thể chế củanền kinh tế thị trường, đặc biệt, có tính ứng phó khá tốt với tác động của cuộckhủng hoảng kinh tế toàn cầu như: chính sách kích cầu, chính sách điều chỉnh tiềnlương cơ bản, chính sách hạ thấp lãi suất cho vay của ngân hàng, lãi suất tối đa chotiền gửi bằng đồng Việt Nam, chính sách mang ngoại tệ, tiền Việt Nam của cá nhânkhi xuất nhập cảnh, chính sách điều chỉnh thuế thu nhập cá nhân, chính sách miễngiảm thuế sử dụng đất nông nghiệp… Theo đó, nhiều chính sách đã phát huy đượctác dụng trong kiềm chế lạm phát, góp phần ổn định giá cả thị trường và mức độtăng trưởng của nền kinh tế trong điều kiện khủng hoảng kinh tế. Điều đó đượcđánh giá như những phản ứng kịp thời của nhà nước trước những biến động lớn củakinh tế toàn cầu và khu vực.4. Chu trình chính sách công4.1. Khái niệmChu trình chính sách được hiểu là quá trình luân chuyển các bước từ khởi sựchính sách đến khi xác định được hiệu quả của chính sách trong đời sống xã hội.4.2. Các bước trong chu trình chính sáchBước đầu tiên trong chu trình chính sách là khởi sự chính sách. Khởi sựchính sách bao gồm các hoạt động nhằm xác định được những mong muốn, nhữngmâu thuẫn nảy sinh trong đó có chứa đựng vấn đề cần được tập trung giải quyếtbằng chính sách (vấn đề chính sách). Muốn xác định được vấn đề chính sách cầnphải thường xuyên quan sát và phân tích tỉnh hình thực tế để dự báo được mâuthuẫn cơ bản cần giải quyết nhằm duy trì sự tồn tại và phát triển của xã hội.Tiếp theo là hoạch định chính sách, đây là bước đề xuất thái độ ứng xử củachủ thể với vấn đề chính sách bằng cả mục tiêu và biện pháp chính sách. Nếu bướcnày làm đúng yêu cầu sẽ cho ra đời một chính sách tốt.Kế đến là tổ chức thực thi chính sách, đây là bước đưa chính sách vào thựchiện trong đời sống. Bước này bao gồm các hoạt động triển khai, phối hợp thựchiện, kiểm tra đôn đốc và hiệu chỉnh chính sách cùng các biện pháp tổ chức thực thiđể chính sách phát huy tác dụng trong cuộc sống. Có thể nói bước này có ý nghĩaquyết định đến sự thành bại của một chính sách.Cuối cùng là đánh giá chính sách, đây là bước đo lường kết quả và hiệu quảcủa một chính sách trong thực tế sau khi đã đưa chính sách vào thực thi. Đánh giáchính sách có thể tiến hành thường xuyên hay định kỳ tùy theo mục đích, yêu cầuquản lý của chủ thể.Giữa tổ chức thực thi và đánh giá chính sách có một hoạt động quan trọngnhằm giữ cho chính sách tồn tại và phát huy tác dụng trong đời sống xã hội, ngaycả khi phải thay đồi các biện pháp thực hiện mục tiêu chính sách. Hoạt động đó gọilà duy trì chính sách.Sau khi đánh giá chính sách chúng ta sẽ lại thấy có những mâu thuẫn mớinảy sinh từ việc giải quyết các mâu thuẫn đã có. Nếu những mâu thuẫn mới nảysinh cần được giải quyết bằng chính sách thì chủ thể lại tiếp tục xem xét để cho raTrang | 6đời một chính sách mới. Cứ như thế chu trình chính sách được lặp lại với mức độngày càng hoàn thiện cả về lượng và chất.Có thể minh họa các bước trong chu trình chính sách như sau:Trang | 7II. TIÊU CHUẨN CHO MỘT CHÍNH SÁCH CÔNG TỐT1. Chính sách tốt phải hướng tới mục tiêu phá triển chungMục tiêu chính sách phản ánh mong muốn của nhà nước về những giá trịkinh tế - xã hội cần đạt dduocj trong tương lai phù hợp với yêu cầu phát triển chungcủa đời sống xã hội. Muốn tốt phải đề cập tới mục tiêu cụ thể, đích thực vừa phùhợp với định hướng phat triển vừa phù hợp với nhu cầu của đời sống xã hội.2. Chính sách tốt phải tạo ra động lực mạnhSau khi ban hành, nếu một chính sách đề cập được những vấn đề bức xúc màxã hội đang quan tâm giải quyết, tác động trực tiếp đến nguyên nhân của vấn đềbức xúc mà xã hội đang quan tâm giảu quyết tác đọng trực tiếp đén ngyên nhân củavấn đề, có mục tiêu cụ thể, rõ ràng với những biện pháp khoa học chứa đựng cơ chếtác động thích hợp sẽ có ảnh hưởng tích cực đén hooatj động kinh tế - xã hội.3. Chính sách tốt phải phù hợp với tình hình thực tếMột chính sách được ban hành phải xuất phát từ những vấn đề nảy sinh từthực tế và trở về giải quyết những vấn để đó, bởi vậy chính sách mới được banhành nhất thiết phải phù hợp với những điều kiện cụ thể. Nghĩa là cả mục tiêu vàbiện pháp của chính sách phải phù hợp với điều kiện của đất nước, vừa đáp ứngđược yêu cầu bức xúc của đời sống xã hội, vừa không làm phát sinh hay hạn chếđược những vấn đề mâu thuẫn với mục tiêu quản lý.4. Chính sách tốt phải có tính khả thi caoTính khả thi của chính sách phụ thuộc vào sự ủng hộ của dân chúng, trình độđiều hành quản lý của nhà nước và điều kiện thuận lợi của môi trường.5. Chính sách tốt phải đảm bảo tính hợp líTính hợp lí của chính sách được hiểu là sự cân đối, hài hòa giữa mục tiêuchính sách với nguyện vọng của đối tượng thụ hưởng trong hiện tại và tương lai.Tính hợp lí còn có nghĩa là để chính sách phát huy được tác dụng đúng với tínhnăng riêng của nó không làm biến dangjchinhs sách.6. Chính sách tốt phải mang lại hiệu quả cho đời sống xã hộiHiệu quả của chính sách là cơ sở để duy trì sự tồn tại và phát triển của cácquá trình kinh tế - xã hội theo định hướng. Để đánh giá chính sách công thôngthường người ta chia các chính sách công thành các chương trình, dự án khác nhauđể trên cơ sở đó đánh giá được chi phí của đầu vào, kết quả của đầu ra.Những yêu cầu trên đây được coi là những tiêu chuẩn để đánh giá về mộtchính sách xem có tốt hay không căn cứ vào đó, các nhà quản lý sẽ tìm kiếm đượcmục tiêu và giải pháp tốt trong quá trình hoạch định chính sách, đồng thời cũngđánh giá được mức độ hoàn thiện của một chính sách khi được ban hành.III. KHÁI QUÁT VỀ VẤN ĐỀ CHÍNH SÁCH CÔNG VÀ THƯC TIỄNHIỆN NAY Ở NƯỚC TA1. Khái niệm vấn đề chính sách côngTrang | 8Hiện nay có nhiều quan niệm khác nhau về vấn đề chính sách công, tùy theogóc độ tiếp cận.Chẳng hạn có nhiều nhà khoa học và quản lý cho rằng : Vấn đề chính sáchcông là những nhu cầu tương lai của đời sống xã hội cần đạt được bằng chính sách.Davit Dery định nghĩa: "Vấn đề chính sách công là các nhu cầu, các giá trị,hay các cơ hội cải thiện chưa được thực hiện hóa".Về bản chất, nhu cầu tương lai của xã hội chính là sự khác biệt giữa mongmuốn tương lai và tình trạng hiện tại của xã hội.2. Đặc điểm vấn đề chính sách côngVấn đề chính sách công cũng được sinh ra như mọi vấn đề, nhưng có nhữngkhác biệt mang những đặc trưng sau đây:- Tính phụ thuộc của các vấn đề chính sách công: Các vấn đề chính sáchcông trong một lĩnh vực thường ảnh hưởng đến các cấn đề chính sách công trongmột lĩnh vực khác. Trên thực tế, các vấn đề chính sách công không tồn tại một cáchđộc lập, mà là các thành phần của một hệ thống các vấn đề, nghĩa là hệ thống cácđiều kiện bên ngoài dẫn đến tình trạng mà cộng đồng không mong muốn. Thật khóhoặc không thể nào giải quyết các vấn đề thông qua sử dụng một cách tiếp cậnphân tích chuyên biệt, nghĩa là chia nhỏ vấn đề thành các bộ phận cấu thành, vìhiếm khi các vấn đề có thể được xác định và giải quyết một cách độc lập với nhau.Đôi khi việc giải quyết nhiều vấn đề đan xen với nhau một cách đồng thời còn dễhơn giải quyết một vấn đề đơn lẻ. Hệ thống các vấn đề phụ thuộc lẫn nhau đòi hỏimột cách tiếp cận hệ thống, nghĩa là xem các vấn đề là không thể tách rời và khôngthể đo lường riêng biệt so với hệ thống, trong đó chúng là những thành phần đanxen với nhau.- Tính chủ quan của các vấn đề chính sách công: Chúng ta chỉ có thể có cácvấn đề chính sách công khi chúng ta mong muốn thay đổi một tình trạng vấn đề nàođó. Các vấn đề chính sách công là sản phẩm của sự phán xét chủ quan của conngười. Những con người khác nhau xác định, phân loại, giải thích và đánh giá mộtvấn đề khác nhauVí dụ: Ô nhiễm không khí có thể được định nghĩa theo hàm lượng khí CO2và các hạt trong khí quyển - nhưng cùng những số liệu như vậy về việc ô nhiễm cóthể được lý giải theo những cách hết sức khác nhau.- Tính nhân tạo của các vấn đề chính sách công: Các vấn đề chính sách côngkhông tồn tại tách rời với những cá nhân và những nhóm đã xác định vấn đề. Hơnnữa, nhiều vấn đề cco6ng do con người tạo ra. Điều này có nghĩa là không cónhững trạng thái xã hội "tự nhiên" tự tạo ra các vấn đề chính sách.- Tính động của các vấn đề chính sách công: Có nhiều giải pháp khác nhaucho một vấn đề công, vấn đề công và giải pháp giải quyết vấn đề có thể thay đổi,bởi vấn đề công có thể bị thay đổi do sự thay đổi của môi trường. Hơn nữa, các giảipháp cho một vấn đề công cũng có thể được thay đổi do sự thay đổi của khoa học công nghệ, cho dù vấn đề đó không thay đổi.Trang | 9- Việc thừa nhận tính phụ thuộc, tính chủ quan, tính nhân tạo, và tính độngcủa các vấn đề chính sách công giúp chúng ta tránh được những hệ quả không thểlường trước do ban hành những chính sách dựa vào giải pháp đúng cho một vấn đềkhông đúng.3. Nguồn gốc vấn đề chính sách côngĐể phân tích về nguồn gốc vấn đề chính sách công,chúng ta cần nghiên cứunguồn gốc chung của mọi vấn đề. Muốn biết vấn đề sinh ra từ đâu, trước tiên phảibiết nó là gì. Vấn đề là những mâu thuẫn nảy sinh cần được giải quyết để cho thựcthể tồn tại và phát triển. Như vậy, vấn đề phải gắn liền với các dạng vật chất vàcũng vận động như các dạng vật chất khác. Bằng cách tư duy này có thể xác địnhđược nguồn gốc của vấn đề chính sách công như sau:- Vấn đề chính sách công sinh ra từ các hoạt động thực tế trong xã hội.- Vấn đề chính sách công sinh ra từ những nguyện vọng của nhân dân.- Vấn đề chính sách công sinh ra từ những tác động quản lý nhà nước.- Vấn đề chính sách công sinh ra từ những tác động của môi trường bênngoài xã hội.4. Căn cứ lựa chọn vấn đề chính sách côngNghiên cứu đặc tính của vấn đề chính sách công cho phép xác định đượcnhững vấn đề công cần phải có sự can thiệp của nhà nước. Tuy nhiên, nhà nướckhông thể giải quyết cùng một lúc tất cả các vấn đề, mà phải chọn trong số đónhững vấn đề cần giải quyết trước. Để chọn đúng vấn đề, nhà phân tích phải cẩntrọng xem xét một số căn cứ chủ yếu sau:- Căn cứ vào tính bức xúc của vấn đề chính sách;- Căn cứ vào yêu cầu quản lý nhà nước đối với vấn đề chính sách;- Căn cứ vào khả năng giải quyết vấn đề chính sách của nhà nước;- Căn cứ vào sự ủng hộ của nhân dân đối với vấn đề chính sách;Kết quả phân tích lựa chọn vấn đề chính sách công được dùng làm cơ sở đểcác cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoạch định chính sách công.5. Thực tiễn hiện nay ở nước taXã hội càng phát triển, cơ sở hạ tầng ngày càng được nâng cao, các vấn đềbức xúc sinh ra ngày càng nhiều cũng như nhiều vấn đề chính sách công cũng tănglên và cần Nhà nước ta can thiệp giải quyết. Hiện nay, Việt Nam ta đang phải đốimặt với nhiều vấn đề chính sách công vô cùng bức xúc, tham nhũng, ô nhiễm môitrường, đói nghèo, già hóa dân số…là những vấn đề tiêu biểu nhất. Một vấn đềđang được quan tâm trên cả nước và bức xúc hơn hết là “Tình trạng thất nghiệp củasinh viên sau khi ra trường”.Lao động, việc làm là một yếu tố tất yếu không thể thiếu được của con người,nó là hoạt động cần thiết và gắn chặt với lợi ích của con người.Trang | 10Việc làm có vai trò quan trọng trong đời sống xã hội, nó không thể thiếu đốivới từng cá nhân và toàn bộ nền kinh tế, là vấn đề cốt lõi và xuyên suốt trong cáchoạt động kinh tế, có mối quan hệ mật thiết với kinh tế và xã hội, nó chi phối toànbộ mọi hoạt động của cá nhân và xã hội.Đối với từng cá nhân thì có việc làm đi đôi với có thu nhập để nuôi sống bảnthân mình, vì vậy nó ảnh hưởng trực tiếp và chi phối toàn bộ đời sống của cá nhân.Việc làm ngày nay gắn chặt với trình độ học vấn, trình độ tay nghề của từng cánhân, thực tế cho thấy những người không có việc làm thường tập trung vào nhữngvùng nhất định (vùng đông dân cư khó khăn về điều kiện tự nhiên, cơ sở hạ tầng,..),vào những nhóm người nhất định (lao động không có trình độ tay nghề, trình độvăn hoá thấp,..). Việc không có việc làm trong dài hạn còn dẫn tới mất cơ hội traudồi, nắm bắt và nâng cao trình độ kĩ năng nghề nghiệp làm hao mòn và mất đi kiếnthức, trình độ vốn có.Đối với kinh tế thì lao động là một trong những nguồn lực quan trọng, là đầuvào không thể thay thế, vì vậy nó là nhân tố tạo nên tăng trưởng kinh tế và thu nhậpquốc dân, nền kinh tế luôn phải đảm bảo tạo cầu và việc làm cho từng cá nhân sẽgiúp cho việc duy trì mối quan hệ hài hoà giữa việc làm và kinh tế, tức là luôn bảođảm cho nền kinh tế có xu hướng phát triển bền vững, ngược lại nó cũng duy trì lợiích và phát huy tiềm năng của người lao động.Do tầm quan trọng như vậy nên lao động, việc làm luôn là vấn đề nóng, đượcquan tâm đặc biệt và chiếm vị trí quan trong trong các chính sách phát triển củamọi quốc gia.Ở Việt Nam những năm qua, lao động việc làm luôn là vấn đề nóng và chiếmvị trí quan trọng trong các chính sách phát triển của Đảng và Nhà nước. Là quốcgia với nguồn lao động dồi dào và đang trong thời kì dân số vàng thì vấn đề tậndụng hiệu quả nguồn lực này cho phát triển đất nước là vấn đề hàng đầu, quantrọng và cấp bách hiện nay của nước ta. Trong nhiều năm qua, Đảng và Nhà nướcta luôn quan tâm và đưa ra nhiều chính sách nhằm phát triển việc làm, tận dụnghiệu quản thời kì dân số vàng để đưa đất nước nhanh chóng tiến lên. Chúng ta đãđạt được nhiều thành tựu. Tuy nhiên, vấn đề việc làm vẫn luôn là vấn đề nhức nhối,làm đau đầu các nhà hoạch định chính sách. Tình trạng thiếu việc làm, thất nghiệpvẫn còn cao, đặc biệt ngay cả nguồn lao động đã qua đào tạo, có trình độ cao đẳng,đại học trở lên vẫn rất cao. Hiện trạng sinh viên ra trường không có việc làm chiếmsố lượng không nhỏ, gây lãng phí một nguồn lực lớn không được tham gia vào hoạtđộng sản xuất đang là vấn đề nhức nhối của các cơ sở giáo dục, của hàng trăm ngànsinh viên và của các nhà hoạch định chính sách.Trong thời gian gần đây, Việt Nam có tỷ lệ sinh viên khi mới ra trường bị thấtnghiệp đang ở mức cao. Theo số liệu thống kê của Bộ Lao động – Thương binh vàXã hội vào quý II năm 2016 cả nước có 418.200 người có chuyên kĩ thuật thấtTrang | 11nghiệp, đặc biệt có 191.300 người có trình độ từ đại hoc trở lên, 94.800 người cótrình độ cao đẳng chuyên nghiệp và 59.100 người có trình độ trung cấp chuyênnghiệp. Đây thực sự là sự lãng phí quá lớn cho nền kinh tế, là mối quan tâm và lolắng của hàng triệu sinh viên đang theo học trong các trường đại học, cao đẳng vàcần thiết phải được giải quyết nhất là trong hoạch định các chính sách của Nhànước. Vậy nguyên nhân của vấn đề này xuất phát từ đâu? Và nó đã để lại hậu quảnghiêm trọng gì? Cần phải có biện pháp như thế nào để giải quyết vấn đề này?6. Nguyên nhân, hậu quả của vấn đề thất nghiệp của sinh viên sau khi ratrườngViệt Nam là nước đang phát triển với dân số đông trên 90 triệu người và đangtrong thời kì dân số vàng với khoảng trên 54 triệu người đang trong độ tuổi laođộng. Với lượng lao động đông đảo, mỗi năm lại có thêm khoảng 1 triệu lao độngmới nhưng nền kinh tế còn nhiều khó khăn, phát triển chưa theo kịp với số lượngnhu cầu việc làm tăng thêm làm cho cung lao động luôn lớn hơn nhu cầu lao độngcủa các doanh nghiệp. Điều này đã gây ra thất nghiệp, đối với sinh viên thì việc tìmmột công việc trong thị trường lao động như vậy đã khó, tìm được việc đúng ngànhhọc còn khó hơn. Trong tình hình đó, Nhà nước ta cũng đã có nhiều chính sách.Biện pháp nhằm mở rộng thị trường lao động trong nước (các chính sách khuyếnkhích đầu tư, các chính sách về thuế, tín dụng......nhằm kích thích người dân, doanhnghiệp làm ăn tạo thêm việc làm) và nước ngoài như xuất khẩu lao động sang HànQuốc, Nhật bản....Đã có nhữg tác động tích cực, tuy nhiên còn nhiều bất cập, khókhăn nên việc mở rộng thị trường lao động cò chậm. Ảnh hưởng của khủng hoảngkinh tế thế giới vẫn còn cộng thêm các chính sách phát triển kinh tế của Nhà nướccòn nhiều bất cập, lúng túng chưa thực sự hiệu quả đã làm cho việc tạo thêm việclàm còn ít, chưa đáp ứng được nhu cầu thực tế.Một thực tế khác đó là do sinh viên của ta khi ra trường phần nhiều là thiếu kĩnăng, nghiệp vụ để có thể tham gia, hội nhập nhanh chóng vào thị trường lao độngvói những tiêu chuẩn ngày càng khó khăn hơn. Nguyên nhân của vấn đề này là dochất lượng đào tạo, đặc biệt là đào tạo đại học còn kém không theo kịp thực tế. Cáctrường đại học, cao đẳng mở ra ngày càng nhiều nhưng chỉ chú ý đến số lượng màít quan tâm đến chất lượng đào tạo. Sự liên kết giữa các trường với các doanhnghiệp còn lỏng lẻo, ít được quan tâm , điều này dẫn tới sinh viên sau khi ra trườngphải đào tạo lại hoặc tham gia vào thị trường lao động nhưng không đáp ứng đượcnhu cầu của nhà tuyển dụng, và do đó mà bị thải loại. Hoặc phải làm những côngviệc không đúng chuyên môn, mang tính phổ thông. Yếu tố nữa là do sinh viên họckhông đúng với sở thích, năng lực cá nhân, điều này có nhiều nguyên nhân như dobị ép buộc từ phía gia đình, do thiếu thông tin trong chọn ngành học, do theo tâm líđám đông chọn những ngành được nhiều người lựa chọn (ví dụ như ngân hàng,...nhưng thực tế lại đang thừa lao động trong những ngành này ). Một nguyên nhânkhác là do tâm lí sính bằng, do ảnh hưởng tiêu cực của kinh tế thị trường, tâm líTrang | 12thích hưởng thụ sinh ra tệ lười biếng học tập của sinh viên mà dẫn đến học tậpkhông thực chất, không nắm được kiến thức, do đó mà khi ra trường sinh viên bị lỗhổng kiến thức lớn lên không thể làm việc hoặc là không tốt. Một vấn đề rất quantrọng, đó là do chính sách giáo dục còn nhiều hạn chế bất cập chưa tạo được độtphá trong việc nâng cao chất lượng đào tạo, đặc biệt là giáo dục đại học, thiếu cơchê kiểm soát chất lượng giáo dục. Các cơ sở đào tạo mở ra tràn lan nhưng thiếu đicơ chế giám sát, kiểm tra chất lượng đào tạo một cách hiệu quả, thực chất, chưagắn được nhu cầu thực tế của doanh nghiệp với đào tạo.Từ những nguyên nhân trên có thể thấy hậu quả của vấn đề này không hề đơngiản. Chỉ một vấn đề thất nghiệp của sinh viên có thể dẫn tới những hậu quả khólường và không thể kiểm soát được nếu không được ngăn chặn ngay lập tức. Hậuquả nghiêm trọng để lại đầu tiên là kinh tế - xã hội sẽ không thể nào phát triển vữngmạnh hay vươn xa hơn nữa nếu số lượng sinh viên thất nghiệp sau khi ra trườngngày càng nhiều. Nhu cầu của con người ngày một tăng cao mà chính họ lại khôngthể thực hiện được bất cứ nhu cầu nào cho xã hội thì tình trạng đói nghèo sẽ diễn ratheo hướng tiêu cực nhất. Hiện nay trên đất nước ta có những khu vực thừa nguồntri thức( tập trung ở các thành phố lớn như Hà Nội, Thành Phố Hồ Chí Minh…)nhưng lại có những khu vực thiếu nguồn tri thức( tập trung ở các tỉnh nghèo, miềnnúi ). Thành phố chật hẹp ngày càng chật hẹp thêm do số lượng sinh viên ở lại tìmcho mình một chỗ đứng đông, nạn thất nghiệp xảy ra nhiều, cuộc sống khó khănđói, nghèo đó đã đẫn tới hậu quả hình thành ngày một nhiều các tệ nạn xã hội. Vànếu một đất nước có chính trị không yên ổn hay đời sống kinh tế - xã hội của ngườidân không được đảm bảo, tệ nạn xã hội luôn tồn tại và tăng lên thì đất nước đó sẽkém phát triển, ngày càng suy thoái dần dần và đất nước ấy không thể tồn tại mộtcách hoàn hảo nữa.Trên cơ sở phân tích trên, sơ đồ cây vấn đề sau đây sẽ mô tả đầy đủ nguyênnhân cũng như hậu quả của thực trạng “Sinh viên thất nghiệp sau khi ra trường”như sauTrang | 13Sơ đồ mô tả cây vấn đề chính sách công “Sinh viên thất nghiệp sau khi ra trường”Đất nước kém pháttriển, suy thoáiTệ nạn xã hộiĐói nghèoKinh tế - Xã hộikhông phát triểnSINH VIÊN THẤT NGHIỆPSAU KHI RA TRƯỜNGThiếu kỹ năng, nghiệpvụChính sách giáodục bất cập, kémhiệu quả (giáo dụcđại học)Đào tạo chủyếu theo sốlượng, ít chútrọng chấtlượngThiếuthựchànhtronghọc tậpCung lao động vượt cầulao độngNgành họckhông phùhợp với bảnthânPhươngphápgiảng dạylạc hậuÁp lựcgia đìnhThiếuthôngtinSố ngườitrong độtuổi laođộng caoNhu cầulao độngtăngchậmKinh tếphát triểnchậmThị trường laođộng (trongnước, nướcngoài) chậmmở rộngTrang | 14Nơi đào tạo chỉvì lợi ích cánhân,vì lợinhuậnGiáo viên khôngnhiệt tình vớinghề, không cótrách nhiệmChính sách kinh tếchưa thực sự hiệuquảKhủnghoảng kinhtế7. Biện pháp giải quyết vấn đề thất nghiệp của sinh viên sau khi ra trườngThứ nhất, cần quan tâm hơn đến chất lượng giáo dục đại học, cao đẳng màđầu tiên là ở chất lượng đầu vào. Giáo dục đại học cần hướng tới năng lực và kĩnăng mà sinh viên thu nạp được sau bốn năm học. Cần phải có sự gắn kết giữa đàotạo nguồn nhân lực và nhu cầu của xã hội. Phải xác định rõ các doanh nghiêp, nhàtuyển dụng cần gì, để hướng tới mục tiêu đào tạo. Việc đào tạo đại học, cao đẳngcần mang tính ứng dụng thực tế, tránh tình trạng sinh viên sau khi ra trường vẫn chỉcó một lượng kiến thức lý thuyết mà chưa biết áp dụng như thế nào. Để làm đượcđiều đó, nên tạo điều kiện cho sinh viên được tiếp xúc trực tiếp với công việc thựctiễn của các doanh nghiệp, tổ chức nhiều hơn. Phải có sự liên kết giữa nhà trườngvà doanh nghiệp, nhà trường nên dựa vào nhu cầu tuyển dụng trong tương lai củadoanh nghiệp để đề ra chỉ tiêu tuyển sinh.Thứ hai, đối với người lao động, trước tiên phải có định hướng việc làm tươnglai ngay trong thời gian học tập, để tìm cách tiệm cận với thực tế công việc đó, traudồi cho bản thân những kĩ năng mà nhà tuyển dụng yêu cầu. Một trong những giảipháp đó là vấn đề làm thêm, thực tập, sinh viên làm quen dần với công việc tươnglai, để biết bản thân thiếu, yếu những khía cạnh nào để tự khắc phục.Thứ ba, cần có sự quan tâm, giải quyết của Nhà nước và các cơ quan có thẩmquyền về vấn tham khảo ý kiến của các chuyên gia, nhà khoa học, doanh nghiệptrong xây dựng chích sách giáo dục quốc gia, đặc biệt là giáo dục đại học và giáodục nghề nghiệp.Tóm lại, tạo công ăn việc làm cho người lao động nói chung và sinh viên sautốt nghiệp nói riêng là một vấn đề cần được quan tâm hàng đầu. Tuy nhiên, điều đókhông thể giải quyết trong một sớm một chiều, mà đây là vấn đề xuyên suốt của xãhội từ thời kì này qua thời kì khác, cần được Nhà nước quan tâm, hoạch định chínhsách phù hợp, thiết thực để giải quyết.Trang | 15PHẦN KẾT LUẬNSinh viên, những người được đào tạo bài bản, có trình độ là lực lượng laođộng to lớn góp phần vào phát triển kinh tế nước nhà. Là lực lượng chủ chốt trongviệc tiếp thu những thành tựu của văn minh nhân loại vào công cuộc xây dựng đấtnước, là lực lượng đi đầu trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.Nhận thức được tầm quan trọng của nguồn nhân lực chất lượng cao cho xây dựngvà phát triển đất nước, những năm qua Đảng và Nhà nước ta luôn dành mối quantâm đặc biệt cho việc đào tạo, phát triển nguồn lực này. Tuy nhiên, ngoài nhữngthành tựu đạt được thì vẫn cò đó nhiều mặt hạn chế. Tình trạng sinh viên ra trườngthiếu năng lực, không đáp ứng được nhu cầu thị trường, thất nghiệp gia tăng, làmtrái với ngành nghề đào tạo nên không hát huy được năng lực đang là vấn đề nhứcnhối, làm lãng phí nguồn lực to lớn của xã hội. Vì vậy, Đảng và Nhà nước cần cónhững chính sách giáo dục, phát triển kinh tế, việc làm... thiết thực, hiệu quả hơnnữa nhằm tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cao, đủ khả năng hội nhập vào nềnkinh tế toàn cầu, tận dụng tối đa, hiệu quả nguồn nhân lực dồi dào để đưa nước tanhanh chóng thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu , tiến nhanh, tiến vững chắc để sánhngang với các cường quốc năm châu.Trang | 16MỤC LỤCTrangTrang | 17

Tài liệu liên quan

  • Tiểu luận Chính sách giá cả trong các công việc Marketing.doc Tiểu luận Chính sách giá cả trong các công việc Marketing.doc
    • 28
    • 1
    • 16
  • Tài liệu Tiểu luận: Chính sách tỷ giá hối đoái và những điều kiện tự do hoá tỷ giá ở Việt nam pdf Tài liệu Tiểu luận: Chính sách tỷ giá hối đoái và những điều kiện tự do hoá tỷ giá ở Việt nam pdf
    • 28
    • 881
    • 2
  • Tiểu luận chính sách ngoại thương cộng hòa philippines Tiểu luận chính sách ngoại thương cộng hòa philippines
    • 7
    • 627
    • 8
  • Tiểu luận Chính sách kiểm soát tín dụng của ngân hàng nhà nước Việt Nam Tiểu luận Chính sách kiểm soát tín dụng của ngân hàng nhà nước Việt Nam
    • 27
    • 915
    • 1
  • Tiểu luận Chính sách kiểm soát lạm phát của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay Tiểu luận Chính sách kiểm soát lạm phát của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
    • 66
    • 826
    • 1
  • Tiểu luận: Chính sách tỷ giá hối đoái ở Việt Nam pptx Tiểu luận: Chính sách tỷ giá hối đoái ở Việt Nam pptx
    • 28
    • 1
    • 1
  • Tiểu luận: Chính sách Marketing của Big C trong quá trình điều tra khách hàng ppt Tiểu luận: Chính sách Marketing của Big C trong quá trình điều tra khách hàng ppt
    • 27
    • 950
    • 0
  • Tiểu luận: Chính sách công tác quản lý và đổi mới giáo dục trong phương pháp giảng dạy pot Tiểu luận: Chính sách công tác quản lý và đổi mới giáo dục trong phương pháp giảng dạy pot
    • 28
    • 1
    • 5
  • Tiểu luận chính sách cổ tức Tiểu luận chính sách cổ tức
    • 62
    • 1
    • 5
  • tiểu luận chính sách nợ tác động như thế nào đến giá trị doanh nghiệp tiểu luận chính sách nợ tác động như thế nào đến giá trị doanh nghiệp
    • 28
    • 682
    • 4

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

(121.03 KB - 17 trang) - Tiểu luận chính sách công full Tải bản đầy đủ ngay ×

Từ khóa » Tiêu Luận Vai Trò Của Chính Sách Công