37 Phẩm Trợ Đạo - Nguyên Thủy Chơn Như

(Trưởng lão Thích Thông Lạc, trích 37 Phẩm Trợ Đạo, TG.2010, tr.18-63)

Nguồn: Sách: 37 Phẩm Trợ Đạo

Ba mươi bảy phẩm trợ đạo gồm có theo thứ tự tu tập từ các pháp thấp đến các pháp cao như sau:

- NGŨ CĂN- NGŨ LỰC- TỨ VÔ LƯỢNG TÂM- TỨ BẤT HOẠI TỊNH- TỨ CHÁNH CẦN- TỨ NIỆM XỨ- THẤT GIÁC CHI- TỨ NHƯ Ý TÚC

***

NGŨ CĂN gồm có:

1- Nhãn căn tức là hai con mắt.2- Nhĩ căn tức là hai lỗ tai.3- Tỷ căn tức là hai lỗ mũi.4- Thiệt căn tức là lưỡi miệng.5- Thân căn tức là cơ thể.

Trên đây là NĂM CĂN trong cơ thể của chúng ta, nó thường phóng dật chạy theo sáu trần tạo ra muôn vàn sự đau khổ cho chúng ta, nên đức Phật dạy phương pháp đầu tiên là lấy NĂM CĂN tu tập. Ðối với người mới bước chân vào đạo Phật mà không tu NĂM CĂN là tu tập sai pháp. Người mới vào tu tập mà lo tập ngồi thiền nhập định là không biết pháp tu. Cho nên bất cứ một người nào mới đến với đạo Phật đều phải nghiên cứu Ba Mươi Bảy Phẩm Trợ Ðạo. Ba Mươi Bảy Pháp Môn này còn ghi chép trong kinh sách Nguyên Thủy được lưu giữ cho đến ngày nay. Tóm lược pháp môn tu NĂM CĂN là pháp môn ÐỘC CƯ, đó là pháp để bảo vệ và hộ trì:

1- Hai con mắt2- Hai lỗ tai3- Hai lỗ mũi4- Miệng5- Thân

Muốn bảo vệ giữ gìn NĂM CĂN ấy được thanh tịnh thì không nên phóng dật. Muốn tâm không phóng dật thì phải sống MỘT MÌNH. Sống MỘT MÌNH là phương pháp tu tập NĂM CĂN. Nhờ sống MỘT MÌNH nên NĂM CĂN không tiếp xúc với các duyên bên ngoài mà kinh sách Phật giáo gọi là NĂM TRẦN (chỗ này dùng năm căn nên dùng năm trần, còn chỗ nào dùng sáu căn mới dùng sáu trần).

Năm trần gồm có:

1- Sắc là tướng mạo, hình sắc của vạn vật trong vũ trụ như cây cỏ, đất đá, núi sông, các loài vật lớn hay nhỏ và con người.

2- Thinh là âm thanh, tiếng nói, tiếng kêu, tiếng khóc, tiếng rên, tiếng la hay tiếng hét, v.v...

3- Hương là mùi thơm, mùi thối, mùi thơm nồng nực hay mùi thối khó chịu.

4- Vị là vị ngọt, bùi, cay, đắng, mặn, lạt.

5- Xúc là va chạm, sờ mó, rờ rẫm, xoa bóp.

Khi muốn sống MỘT MÌNH cho được trọn vẹn thì phải dùng pháp NHƯ LÝ TÁC Ý thường xuyên tác ý lôi các căn vào trong thân như sau:

1- Mắt phải nhìn vào trong thân.

2- Tai phải nghe vào trong thân.

3- Mũi phải ngửi mùi trong thân.

4- Lưỡi phải nếm vị cay, đắng, ngọt, bùi, mặn, lạt trong thân (miệng).

5- Thân phải cảm giác nóng, lạnh, mát mẻ, đau nhức trong thân.

Và cuối cùng tác ý: “năm căn không được nhìn, nghe, ngửi, nếm, cảm giác năm trần bên ngoài mà hãy quay vào nhìn, nghe, ngửi, nếm, cảm giác trong thân”.

Ðó là cách thức tu tập để giữ gìn hạnh ÐỘC CƯ, sống không bị phóng tâm, phóng dật.

Nếu người nào vào tu viện mà không giữ hạnh ÐỘC CƯ trọn vẹn thì nên xin về để ở trong gia đình tu tập lại. Khi nào sống ÐỘC CƯ được thì hãy xin vào tu viện tu tập, còn chưa sống được độc cư thì nên ở trong gia đình tu pháp xả tâm ly dục ly bất thiện pháp.

ÐỘC CƯ là pháp phòng hộ năm căn như chúng tôi đã nói ở trên, pháp môn ÐỘC CƯ này rất quan trọng. Nhận xét người tu sĩ nào giữ gìn hạnh ÐỘC CƯ trọn vẹn là người tu sĩ tu tập có kết quả tốt, còn những vị nào phá hạnh ÐỘC CƯ thì biết ngay họ không tu tập được nên cho họ về sống đời đạo đức nhân bản - nhân quả trong gia đình còn có lợi ích cho mình cho người hơn. Bắt đầu vào tu pháp môn NGŨ CĂN là phải sống ÐỘC CƯ nên biết ngay người tu được hay không tu được. Vì có sống ÐỘC CƯ là tu tập được, còn không sống ÐỘC CƯ là tu tập không được.

Ở tu viện phần đông tu sĩ và cư sĩ đều rớt ở giai đoạn đầu tu tập phòng hộ NĂM CĂN này.

***

NGŨ LỰC gồm có:

1- Tín lực2- Tấn lực3- Niệm lực4- Ðịnh lực5- Tuệ lực

Khi tu tập pháp môn NĂM CĂN ở trên tức là dùng ý thức giữ gìn mắt, tai, mũi, miệng, thân thanh tịnh không cho NĂM CĂN chạy theo năm trần thì chúng ta đạt được năm thành quả, đó là NGŨ LỰC. NGŨ LỰC là nhóm năm pháp thứ 2 mà trong kinh sách Nguyên Thủy còn ghi lại và lưu giữ cho đến ngày nay.

Tóm lược pháp tu tập NGŨ LỰC. Trước tiên chúng ta muốn tu tập TÍN LỰC thì phải hiểu nghĩa rõ ràng. TÍN LỰC có nghĩa là lòng tin sâu sắc đối với Phật pháp không bao giờ thay đổi, lòng tin bất di bất dịch dù cho ai chống trái bài bác Phật giáo chúng ta cũng không bao giờ nghe, không bao giờ thay lòng đổi dạ, chỉ biết tin vào pháp Phật. Muốn có được lòng tin như vậy thì chúng ta phải sinh ra cùng thời với đức Phật ra đời hoặc phải sinh làm người được gặp một bậc tu chứng cũng làm chủ sinh, già, bệnh, chết như Phật.

Ðó là điều cần thiết tạo nên TÍN LỰC, nếu không có điều kiện này thì dù muốn dù không lòng tin của chúng ta không mạnh mẽ, chỉ tin một cách cạn cợt.

Người không đủ lòng tin dù có tu tập đúng pháp của Phật thì cũng chỉ tu tập lấy có, thường phá hạnh độc cư, đi nói chuyện người này đến người khác. Những người này hiện thân là MA BA TUẦN trong Phật giáo, thường đi đến thất người này rồi đến thất người khác làm cho mọi người không ai tu tập được. Khi thấy những loại MA BA TUẦN này thì quý thầy, quý cô nên đóng cửa thất không tiếp giao, đừng ở gần, nên tránh xa, tránh xa những người này như tránh xa vi trùng bệnh truyền nhiễm. Trong chúng chỉ có một con MA BA TUẦN thì trong chúng đó phải cẩn thận khi thấy bóng dáng con MA đó thì nên đóng cửa thất cho chặt và ngồi thiền nhiếp tâm bất động để vượt qua loài Ma Quỷ.

Những hành động tránh xa loài MA BA TUẦN là nói lên lòng tin của mình đối với Phật pháp không lay chuyển, còn ngược lại những người không có lòng tin hay lòng tin chưa đủ thường mở cửa thất ra tiếp duyên. Ðó là những người thích nói chuyện với những loài ma này. Quý vị nên lưu ý: Con đường tu theo Phật giáo không khó nhưng khó là do MA BA TUẦN cám dỗ quý vị để phá hạnh ÐỘC CƯ khiến cho tâm quý vị thường bị phóng dật.

Khi có lòng tin sâu Phật pháp thì quý vị rất siêng năng tu tập không bao giờ biếng trễ. Khi có lòng tin thì mới có cố gắng tu tập. Sự cố gắng nỗ lực tu tập hết mình thì gọi là TẤN LỰC.

Khi hằng ngày nỗ lực nhiếp tâm tu tập đúng pháp không hề sai sót một niệm nào cả, luôn luôn duy nhất có một niệm TÂM BẤT ÐỘNG từ giờ này đến giờ khác, từ đó niệm này trở thành một sức lực của niệm nên gọi là NIỆM LỰC.

Khi niệm có lực chúng ta chỉ cần niệm là toàn cả thân tâm chúng ta gom lại thành một khối duy nhất không ai làm gì cho nó bị phân ra được nên gọi là ÐỊNH LỰC.

Khi thân tâm gom lại thành một định lực thì trong khối định lực đó có một sự hiểu biết vượt ra khỏi không gian và thời gian. Sự hiểu biết không còn bị lệ thuộc vào không gian và thời gian được gọi là TUỆ LỰC.

Ðến đây chúng ta đã có đủ năm lực. NGŨ LỰC này có được là do chúng ta tu tập NGŨ CĂN, khi ngũ căn thanh tịnh thì NGŨ LỰC xuất hiện đầy đủ.

Tuy nói vậy chớ trên đường tu tập NGŨ CĂN khi tu tập một căn nào thanh tịnh thì nơi căn đó xuất hiện đầy đủ NGŨ LỰC. Cho nên NGŨ CĂN và NGŨ LỰC là những pháp đầu tiên tu theo Phật giáo, nếu chưa tu tập NGŨ CĂN, NGŨ LỰC mà tu tập pháp nào cũng mất căn bản, vì vậy quý vị nên nhớ.

Có nhiều người bắt đầu tu tập mà không tu tập những pháp căn bản NGŨ CĂN và NGŨ LỰC lại tu tập thiền định hoặc niệm Phật nhất tâm cầu vãng sinh Cực Lạc Tây Phương, hoặc tham thoại đầu, công án hoặc niệm chú hoặc tụng kinh Pháp Hoa. Những điều tu tập như vậy chứng tỏ người tu tập không rõ đường đi lối về của Phật giáo. Do tu tập sai pháp như vậy nên dù có tu tập ngàn đời muôn kiếp cũng chẳng tu tập đến đâu. Một bằng chứng hiện giờ cho chúng ta biết có bao nhiêu tu sĩ cũng như cư sĩ tu tập hết sức nhưng chẳng có một người nào tu làm chủ SINH, GIÀ, BỆNH, CHẾT, vì đó là tu sai pháp, không đúng Phật pháp.

Ðọc tiểu sử DANH TĂNG VIỆT NAM tập I, tập II có trên mấy trăm vị cao tăng Việt Nam nhưng xét lại những danh tăng đó chỉ là những nhà học giả, nhất là những vị có lối sống kỳ đặc khác thường khiến cho người đời tưởng là chứng đạo, chớ theo đúng pháp của Phật thì chưa có một vị nào tu tập đến đâu cả. Kinh sách của các Ngài viết chỉ là kiến giải kinh nghiệm bản thân của mình không giống chút nào lời dạy của Phật, nhất là lặp lại ý nghĩa kinh sách của TổTrung Hoa để lại, chỉ là những lý thuyết suông, không có kinh nghiệm trong tu hành làm chủ sanh, già, bệnh, chết. Vì thế những kinh sách này toàn là kinh tưởng.

Khi đọc hết hai tập DANH TĂNG VIỆT NAM chúng tôi rất xấu hổ, những danh tăng Việt Nam chỉ có kiến thức hữu học thế gian, huân tập những kiến thức trong kinh sách Ðại Thừa của các học giả Trung Hoa, chớ Kinh sách Phật giáo của Việt Nam chẳng có cuốn sách nào cả. Ngay cả dòng Thiền lớn nhất của Việt Nam là TRÚC LÂM YÊN TỬ cũng chịu ảnh hưởng THIỀN TÔNG và TỊNH ÐỘ TÔNG Trung Hoa.

Việc khéo léo thiện xảo của vua Trần Nhân Tông là biết hợp hai giáo pháp của hai tông phái lớn nhất của Trung Quốc lại, lập thành pháp môn tu hành cho dòng thiền TRÚC LÂM Việt Nam. Chỉ có những người không hiểu biết mới hãnh diện cho rằng Việt Nam cũng có dòng thiền không thua gì Trung Quốc, chớ kỳ thật Thiền Tông Việt Nam, THIỀN chẳng ra THIỀN mà TỊNH chẳng ra TỊNH. THIỀN gì mà còn tụng niệm (tụng Tâm kinh bát nhã). TỊNH gì mà còn tham công án, tham thoại đầu, biết vọng liền buông. Có lẽ đây là THIỀN TỊNH song tu. THIỀN TỊNH song tu đó là lời nói che đậy sự tu hành của THIỀN TÔNG VIỆT NAM bị bế tắc.

Ðọc hết kinh sách Phật giáo và Thiền Tông Việt Nam chúng tôi chẳng thấy có một cuốn sách nào là kinh sách của Việt Nam cả, toàn là lai căng ảnh hưởng tư tưởng Phật giáo và Thiền Tông Trung Quốc.

Tại sao dân tộc Việt Nam có một nền văn hóa riêng biệt không thua gì văn hóa các nước trên thế giới, thế mà bị ảnh hưởng Phật giáo Trung Quốc rất nặng; không tự mình vươn lên xây dựng cho mình một nền văn hóa đạo đức Phật giáo, không chịu ảnh hưởng Phật giáo Ấn Ðộ hay Trung Quốc hay Phật giáo của bất cứ một nước nào mang Phật giáo đến với đất nước chúng ta.

Ðọc lịch sử Phật giáo Việt Nam chúng ta thấy rất rõ Phật giáo truyền vào Việt Nam đi vào ba ngõ:

1- Ngõ thứ nhất từ Trung Hoa đến.2- Ngõ thứ hai từ Ấn Ðộ sang.3- Ngõ thứ ba từ Lào, Thái Lan và Campuchia sang.

1- Ngõ thứ nhất từ Trung Hoa: Từ Trung Hoa truyền đến Việt Nam có hai dòng tư tưởng Phật giáo: Phật giáo Tịnh Độ Tông và Thiền Tông. Khi văn hóa Phật giáo từ Ấn Ðộ truyền sang thì người Trung Quốc mượn nền văn hóa đó, rồi khéo tự chế biến thành một nền văn hóa Phật giáo Trung Quốc, là Thiền tông và Tịnh Độ tông thật là tuyệt vời, làm dồi dào cho văn hóa đất nước mình.

1.- Dòng tư tưởng Phật giáo Tịnh Ðộ Tông do ảnh hưởng Nho giáo nên mang tính chất mê tín, hoang đường, lạc hậu; thường có ảnh hưởng trong giới bình dân vì giới này dễ tin.

Chúng ta ai cũng biết Phật giáo Tịnh Ðộ Tông từ Trung Quốc truyền sang Việt Nam là dòng tư tưởng mê tín. Ðó là một Phật giáo không còn nguyên chất Phật giáo Ấn Ðộ, nó chịu ảnh hưởng tư tưởng Khổng giáo, Trang Tử Trung Quốc, rồi sản sinh ra một loại Phật giáo mê tín, lạc hậu, thường lấy sự cúng bái, tụng niệm làm công phu tu hành của mình. Cho nên khi có bệnh tật hay tai nạn thì tụng kinh cầu an; nếu có người chết làm ma chay thì tụng niệm kinh cầu siêu. Khi tụng niệm kinh cầu siêu thường đánh chuông, gỏ mõ, và trống kèn, đàn nhạc theo giọng tụng kinh niệm Phật ê, a giống như ca hát, mà các nhạc sư gọi NHẠC ÐẠO. Chính vì muốn ru hồn con người vào cảnh mộng nên các nhà sư Ðại Thừa Trung Hoa mới xây dựng một thế giới siêu hình Cực Lạc Tây Phương để linh hồn người chết có chỗ nương tựa. Cho nên lấy sự cúng bái tụng niệm làm đường công phu: Trưa, chiều, tối khuya, chuông, mõ, trống, phách, đẩu nhịp nhàng theo giọng tụng niệm cao thấp ngâm nga giống như hát bộ.

Phật giáo Tịnh độ tông từ Trung Hoa truyền sang qua Việt Nam gây tư tưởng mê tín rất nặng cho cả một dân tộc Việt Nam, đến ngày nay sự mê tín này đã trở thành một nếp sống tư tưởng văn hóa mê tín lạc hậu. Hiện giờ muốn bỏ truyền thống văn hóa mê tín này không phải dễ. Ðó là một việc làm hết sức khó khăn. Trong những năm phong trào Việt Minh nổi dậy ra lệnh cấm dẹp những mê tín này, nhưng khi phong trào Việt Minh thay đổi thì nạn mê tín lại tràn lan khắp nơi, và còn mê tín nhiều hơn trước nữa.

Theo chúng tôi nghĩ muốn dẹp trừ tư tưởng Phật giáo mê tín thì không có gì bằng mở những lớp học đạo đức nhân bản - nhân quả khiến mọi người am hiểu đâu là chánh tín và đâu là mê tín. Nhờ có sự hiểu biết Chánh tín của Phật giáo thì tệ nạn mê tín trong dân gian sẽ dần dần được quét sạch. Tư tưởng mê tín được truyền thừa lâu đời thì không có một thế lực hay một quyền uy nào cấm được, chỉ có ý thức con người biết nó là mê tín thì mới dẹp bỏ được mà thôi. Dòng tư tưởng mê tín này đã trở thành một nền văn hóa của dân tộc Việt Nam. Cho nên hiện giờ muốn dẹp bỏ những mê tín lạc hậu này thì bắt đầu phải biên soạn sách giáo khoa đạo đức nhân bản - nhân quả từ tiểu học, trung học và sáchphổ thông để giúp mọi người am tường những mê tín lạc hậu đó từ đất nước Trung hoa truyền sang Việt nam.

Từ lâu dân tộc Việt Nam đã chịu ảnh hưởng dòng tư tưởng văn hóa Phật giáo mê tín của Trung Quốc truyền sang, nhìn cảnh đồng bào dân tộc chúng ta hao tốn biết bao nhiêu tiền bạc mua đồ giấy vàng mã để rồi đem thiêu đốt. Trong cả nước, tính ra hằng năm đã tiêu phí hằng tỷ bạc về vấn đề mê tín lạc hậu này, thật là đau lòng.

2.- Dòng tư tưởng thứ hai từ Trung Hoa truyền sang Việt Nam đó là Thiền Tông. Thiền Tông chịu ảnh hưởng tư tưởng Lão giáo nên dòng tư tưởng này mang tính triết lý, ảnh hưởng trong giới trí thức, thường dùng lý luận đề cao triết học TÁNH KHÔNG, nhờ triết học tánh không nên dễ thu hút giới trí thức. Phật giáo Thiền tông lấy lý luận dẫn chứng khoa học làm chỗ dựa vững chắc nên dễ dàng lừa gạt giới trí thức.

Nhất là khi truyền sang qua Nhật Bổn được người Nhật triển khai tận cùng loại tư tưởng Phật giáo Thiền tông này. Ðại diện cho Phật giáo Thiền Tông Nhật Bổn có đại sư SUZUKI, ông đã viết sách thiền làm nổi sóng các nước Ðông Nam Á Châu. Từ năm 1970 đến năm 1980 người ta hướng về Thiền Tông như làn sóng ào ạt, nhưng từ năm 1980 đến nay làn sóng thiền Tông mới lần lần xuống cấp, bởi vì Thiền tông lý luật rất hay nhưng tu chứng đạo thiền thì không ai tu tập được. Có đạt được cũng chỉ lọt vào trạng thái KHÔNG TƯỞNG.

Qua mọi sự kiện trên, chúng ta nên lưu ý pháp môn nào tu tập được và pháp môn nào tu tập không được. Mục đích tu tập của Phật giáo không phải diệt ý thức. Vì ý thức vốn là điều kiện cần thiết cho sự làm chủ thân tâm nên đức Phật Thích Ca Mâu Ni dạy: “Ý làm chủ, ý tạo tác, ý dẫn đầu các pháp”. Nếu ý thức bị ức chế như Tịnh Ðộ Tông, Thiền Tông và Mật Tông thì đó là tu tập sai pháp của Phật giáo. Phật giáo lấy ý thức dẫn tâm vào đạo. Cho nên đạo Phật mới có pháp môn NHƯ LÝ TÁC Ý như lời đức Phật đã dạy trong kinh TẤT CẢ LẬU HOẶC: “có như lý tác ý, lậu hoặc chưa sanh sẽ không sanh khởi, mà lậu hoặc đã sanh thì bị tiêu diệt”. Câu này dạy quá rõ ràng, nhờ đó chúng ta mới biết Phật giáo Thiền Tông và Phật giáo Tịnh Ðộ Tông Trung Quốc không phải là Phật dạy, mà do các tổ Trung Quốc tu hành chưa tới nơi tới chốn rồi kiến giải viết ra kinh sách theo kinh nghiệm tu tập của mình.

- Ngõ thứ hai từ Ấn Ðộ Phật giáo truyền sang vào miền Bắc đất nước ta, nhưng dân tộc Việt Nam đã chịu ảnh hưởng Phật giáo Trung Quốc nên họ không theo, vì thế các nhà sư Ấn Ðộ trở về nước. Do những điều kiện này mà di tích văn hóa Phật giáo Ấn Ðộ không có lưu lại đền tháp chùa ở miền Bắc Việt Nam.

- Ngõ thứ ba Phật giáo Nam Tông từ Lào, Thái Lan, Campuchia truyền sang, vì thế mà những tỉnh sát ranh giới Camphuchia, Lào có một số người theo tu tập, nhưng phần đông họ là người Việt các sắc tộc khác, chớ người Việt chính gốc thì không theo.

Như vậy chúng ta thấy rất rõ dân tộc Việt Nam chịu ảnh hưởng văn hóa Phật giáo Trung Quốc rất sâu nặng, không thể có một tư tưởng Phật giáo nào làm thay đổi tư tưởng họ được. Như chúng ta ai cũng biết, nếu dựa theo dòng lịch sử Phật giáo truyền sang qua đất nước chúng ta thì Phật giáo không còn là của Phật giáo chính gốc nữa mà là một Phật giáo lai căng Trung Hoa. Phật giáo lai căng là một loại Phật giáo tu hành uổng công vô ích vì tu hành chẳng đến đâu cả mà còn làm hao tốn tiền của một cách vô ích... Phật giáo hiện giờ là Phật giáo Bà La Môn giáo, cho nên không ai tu chứng làm chủ sinh, già, bệnh, chết được, nếu chúng tôi không ra công dựng lại Chánh pháp của Phật, chắc không còn ai biết Phật giáo chân chánh là gì nữa.

Cho nên nói NGŨ LỰC mà nhận ra đúng Chánh pháp của Phật thì tu tập lần lượt xuất hiện đủ NĂM LỰC, còn nhận ra không đúng Chánh pháp của Phật thì khó có NĂM LỰC được. Tại sao vậy? Vì lòng tin phải đặt đúng chánh Pháp của Phật thì siêng năng tu tập mới có kết quả tốt đẹp, còn không đúng chánh pháp của Phật thì tu tập không bao giờ có kết quả, nên dù có siêng năng cũng chỉ một thời gian mà thôi. Chính siêng năng là nhờ tu tập có kết quả, còn tu tập không kết quả thì không sao siêng năng được. Phải không quý vị?

Khi tu tập siêng năng đúng pháp thì NIỆM LỰC hiện tiền mà niệm lực hiện tiền từ giờ này sang giờ khác thì đó là ÐỊNH LỰC. Khi định lực ngự trị trong tâm chúng ta suốt bảy ngày đêm thì tâm rất thanh tịnh, giống như nước hồ trong xanh, vì thế tất cả mọi sự việc trong quá khứ hay tương lai khi chúng ta muốn biết thì chúng hiện ra rất rõ. Do đó mà danh từ trong kinh Phật gọi đó là TUỆ LỰC. Tới đây con đường tu tập của chúng ta đã hoàn mãn, tâm luôn luôn BẤT ÐỘNG. Do sự bất động này mà người tu hành làm chủ sự sống chết dễ như trở bàn tay.

Tuy có Ba Mươi Bảy phẩm Trợ đạo nhưng không phải tu tuần tự theo từng pháp mà nên chọn pháp nào phù hợp với đặc tướng của mình mà tu tập thì chứng đạo ở pháp đó, chớ không phải tu hết cả Ba Mươi Bảy Pháp Môn.

Cho nên khi vào tu tập chúng ta nên chọn pháp phòng hộ sáu căn rồi lấy CHÂN LÝ DIỆT ÐẾ, ôm chặt pháp NGŨ LỰC tu tập đến khi TUỆ LỰC xuất hiện thì chúng ta thành công. Nếu chúng ta không chọn pháp NGŨ CĂN và NGŨ LỰC tu tập thì chúng ta nên chọn pháp môn TỨ VÔ LƯỢNG TÂM đây là pháp thứ ba của Phật giáo trong 37 pháp tu tập.

***

TỨ VÔ LƯỢNG TÂM gồm có:

1- Từ Vô Lượng Tâm2- Bi Vô Lượng Tâm3- Hỷ Vô Lượng Tâm4- Xả Vô Lượng Tâm

Trên đây là bốn pháp Vô Lượng Tâm là nhóm bốn pháp của Phật giáo trong Ba Mươi Bảy Phẩm Trợ Ðạo. Khi tu tập bốn pháp này giúp cho tâm chúng ta mở rộng LÒNG YÊU THƯƠNG đến với muôn loài. Nhờ lòng yêu thương ấy mà không có một ác pháp nào tác động vào thân tâm chúng ta được, tức là chúng ta biết buông xả mọi ác pháp bằng lòng yêu thương. Cho nên gọi nó là TỨ VÔ LƯỢNG TÂM nghĩa là pháp môn dạy chúng ta mở rộng lòng thương yêu rộng lớn như đất trời. Tứ Vô Lượng Tâm chỉ có Phật giáo mới có mà thôi, nó còn ghi lại trong kinh sách Nguyên Thủy cho đến ngày nay. Nếu quý vị không đủ lòng tin thì hãy tìm ngay kinh tạng Pali do Hòa Thượng Minh Châu dịch.

Bắt đầu tu tập Tứ Vô Lượng Tâm thì nên tu tập tâm từ. TỪ VÔ LƯỢNG TÂM có nghĩa là lòng yêu thương rộng lớn như đất trời phủ trùm vạn vật không chỗ nào là không có lòng yêu thương ấy. Lòng yêu thương ấy không có một vật gì mà không thương yêu, thương yêu từ cây cỏ đất đá núi sông, từ không khí ánh sáng mặt trời mặt trăng, các tinh tú ngày đêm đều thương yêu cả. Từ Vô Lượng Tâm có nghĩa là lòng yêu thương tất cả muôn loài còn đang sống, còn đang hít thở không khí, còn đang hoạt động, rung động theo không gian và thời gian. Người tu tập lòng Từ Vô Lượng Tâm là người tu tập Chánh Niệm Tĩnh Giác, nhờ có TĨNH GIÁC nên chúng ta mới thực hiện Từ Vô Lượng Tâm, nhờ có Từ Vô Lượng Tâm chúng ta mới buông xả tất cả ác pháp một cách dễ dàng. Khi thực hiện được TỪVô Lượng Tâm thì đồng thời là BI Vô Lượng Tâm, HỶVô Lượng Tâm và XẢVô Lượng Tâm cũng xuất hiện một lượt. Tứ Vô Lượng Tâm tuy nói là bốn pháp, nhưng chỉ tu tập thành tựu một pháp là ba pháp kia đều xuất hiện đủ.

Ðây gọi là một chùm pháp, chúng ta nên chọn một trong bốn pháp này, pháp nào mà mình ưa thích nhất là pháp đó đúng đặc tướng của mình.

Nếu chúng ta có duyên với pháp môn TỪVô Lượng Tâm thì tu tập rất thích thú và kết quả tu tập đâu là đạt được ngay liền. Còn nếu chúng ta tu tập mà không có kết quả tức là chúng ta không có duyên với pháp môn này thì chúng ta nên thay đổi pháp tu tập.

Chúng ta nên chuyển qua tu tập pháp môn NIỆM PHẬT TỨ BẤT HOẠI TỊNH. NIỆM PHẬT TỨ BẤT HOẠI TỊNH là nhóm bốn pháp trong ba mươi bảy pháp tu tập của Phật giáo. Pháp môn NIỆM PHẬT TỨ BẤT HOẠI TỊNH là một nhóm bốn pháp môn mà người ta lầm tưởng là pháp môn Tịnh Ðộ.

Pháp môn Tịnh Ðộ là pháp môn niệm danh hiệu Phật Di Ðà, dùng câu Di Ðà ức chế ý thức để tưởng thức xuất hiện hoạt động, nên trong kinh Di Ðà dạy: “Thất nhật nhất tâm bất loạn chuyên trì danh hiệu A Di Ðà dữ chư thánh chúng hiện tại kỳ tiền”. Câu này có nghĩa là niệm Phật Di Ðà bảy ngày đêm tâm không loạn thì sẽ thấy cảnh giới Cực Lạc Tây Phương và Thánh chúng. Khi chúng ta ức chế ý thức không hoạt động thì liền ngay đó tưởng thức hoạt động, khi tưởng thức hoạt động thì một thế giới ảo xuất hiện như cảnh giới trong giấc chiêm bao.

***

TỨ BẤT HOẠI TỊNH gồm có:

1- Niệm Phật2- Niệm Pháp3- Niệm Tăng4- Niệm Giới

Trên đây là nhóm bốn pháp của Phật giáo theo lời dạy của Phật còn ghi lại trong kinh sách Nguyên Thủy.

Pháp niệm Phật này không giống pháp môn niệm Phật trong kinh sách Ðại Thừa. Pháp môn niệm bốn Bất Hoại Tịnh này dạy chúng ta sống như Phật (niệm Phật), sống như các pháp (niệm Pháp), sống như chúng thánh Tăng (niệm Tăng) đệ tử của Phật và sống như giới luật (niệm Giới). Chữ niệm ở đây không có nghĩa là niệm lầm thầm trong miệng mà chữ niệm ở đây có nghĩa là bắt chước, làm theo từng hành động cho đúng những oai nghi chánh hạnh của những bậc chân tu. Trong bốn pháp môn này cũng là một chùm pháp, nếu chúng ta chỉ cần tu một pháp trong bốn pháp này thì cũng thành tựu luôn cả bốn pháp kia, vì một pháp là cả bốn pháp.

Ví dụ: Tu tập pháp thứ nhất là NIỆM PHẬT trong pháp môn TỨ BẤT HOẠI TỊNH thì cũng giống như tu tập NIỆM PHÁP, NIỆM TĂNG và NIỆM GIỚI. Cho nên tuy nói là bốn pháp, có bốn tên khác nhau nhưng khi thực hành thì trong bốn pháp này không khác nhau. NIỆM PHẬT cũng giống như NIỆM PHÁP, NIỆM PHÁP cũng giống như NIỆM TĂNG, NIỆM TĂNG cũng giống như NIỆM GIỚI, vì Phật sống đúng như PHÁP, Phật sống đầy đủ GIỚI và Phật sống làm gương mẫu cho CHÚNG THÁNH TĂNG. Cho nên người sống giống như Phật là người sống không sai PHÁP, người sống không sai PHÁP là người sống không sai khác CHÚNG THÁNH TĂNG; sống không sai khác CHÚNG THÁNH TĂNG là sống đúng GIỚI LUẬT. Muốn tu tập pháp môn NIỆM TỨ BẤT HOẠI TỊNH thì chỉ tu một pháp môn NIỆM PHẬT thì thành tựu luôn cả bốn pháp: niệm PHẬT, niệm PHÁP, niệm TĂNG, niệm GIỚI. Khi tu tập NIỆM TỨ BẤT HOẠI không hợp với đặc tướng của mình nên thường bị niệm vọng tưởng khởi hay bị hôn trầm, thùy miên, vô ký và ngoan không tấn công thì chúng ta nên thay đổi pháp tu tập. Thay đổi pháp tu tập thì chúng ta tu tập ngay pháp môn TỨ CHÁNH CẦN. Tuy pháp môn Tứ Chánh Cần có bốn pháp tu tập, nhưng kỳ thực chỉ tu tập một pháp mà thôi.

Dưới đây là pháp môn tu tập Tứ Chánh Cần. Pháp môn Tứ Chánh Cần cũng là nhóm bốn pháp trong Ba Mươi Bảy Phẩm Trợ Ðạo của Phật giáo.

***

TỨ CHÁNH CẦN gồm có:

1- Ngăn ác pháp2- Diệt ác pháp3- Sinh thiện pháp4- Tăng trưởng thiện pháp

Trên đây là bốn pháp tu tập của pháp môn Tứ Chánh Cần. Pháp môn Tứ Chánh Cần là nhóm bốn pháp của Phật giáo theo lời dạy của đức Phật còn ghi lại trong kinh sách Nguyên Thủy. Bốn pháp này rất quan trọng trong sự tu tập theo Phật giáo. Ðây là một phương pháp giúp cho người tu sĩ Phật giáo hằng ngày sống trong thiện pháp, sống trong tâm BẤT ÐỘNG.

Ai cũng biết mục đích của Phật giáo là sống trong tâm BẤT ÐỘNG. Muốn tâm BẤT ÐỘNG thì hằng giây, hằng phút, hằng giờ, hằng ngày phải siêng năng tu tập NGĂN ÁC. Ngăn ác pháp tức là ngăn từng tâm niệm THAM, SÂN, SI, MẠN, NGHI. Khi có niệm khởi lên trong tâm thì hãy mau mau dùng pháp NHƯ LÝ TÁC Ý làm cho niệm đó dừng lại và tan biến mất. Khi niệm đó dừng lại và tan biến mất thì để lại một khoảng thời gian ngắn tâm trong BẤT ÐỘNG rồi có niệm khác khởi lên, khi có niệm khác khởi lên như vậy thì chúng ta lại tác ý ngăn chặn niệm ấy thì niệm ấy dừng lại và tan biến mất, lúc bấy giờ để lại cho tâm chúng ta BẤT ÐỘNG một khoảng thời gian ngắn nữa. Hằng ngày chúng ta chỉ cần tu tập một pháp NGĂN ÁC là có đủ bốn pháp DIỆT ÁC, SINH THIỆN, TĂNG TRƯỞNG THIỆN PHÁP. Cho nên tu tập Tứ Chánh Cần không phải tu cả bốn pháp mà chỉ tu tập một pháp mà thôi.

Khi vào tu tập chúng ta nên lấy pháp môn đầu tiên của Tứ Chánh Cần mà tu tập đó là pháp môn NGĂN ÁC. NGĂN ÁC tức là ngăn các niệm khởi, nhưng trong tâm chúng ta có niệm thiện khởi thì chúng ta phải làm sao? Dù niệm đó thiện nhưng vì tâm chúng ta chưa ly dục ly ác pháp hết nên thiện đó vẫn còn là ác pháp chớ không phải là thiện pháp thật sự.

Hiện giờ trong tâm chúng ta có một niệm thiện duy nhất đó là niệm thiện tâm BẤT ÐỘNG. Cho nên trong pháp môn Tứ Chánh Cần dạy SINH THIỆN TĂNG TRƯỞNG THIỆN, tức là niệm thiện TÂM BẤT ÐỘNG, niệm này thì không nên diệt mà phải tăng trưởng sống cho được với TÂM BẤT ÐỘNG này, còn tất cả niệm thiện khác đều diệt sạch. Như khi tâm khởi ra niệm thì phải mau mau đình chỉ không cho chúng hoạt động, do ngăn các niệm khởi nên tâm sẽ BẤT ÐỘNG. Tâm BẤT ÐỘNG là chúng ta đã đạt được mục đích giải thoát của Phật giáo. Vì thế chúng ta chỉ cần tu một pháp mà thôi, pháp NGĂN ÁC là đủ rồi. Cho nên nói tu tập Tứ Chánh Cần chớ thực ra chỉ có tu tập pháp NGĂN ÁC.

Pháp NGĂN ÁC là pháp đầu tiên trong bốn pháp của pháp môn Tứ Chánh Cần. Xin quý vị lưu ý trong khi tu tập pháp môn này. Con đường tu tập theo Phật giáo nếu không tu tập pháp môn Tứ Chánh Cần thì không bao giờ tu tập pháp nào có giải thoát cả, vì pháp môn Tứ Chánh Cần rất quan trọng, nó là đệ nhất pháp XẢ TÂM của Phật giáo. Cho nên những ai không tu tập Tứ Chánh Cần mà tu tập các pháp môn khác là không biết đường lối tu tập của Phật giáo. Không biết đường lối của Phật giáo mà tu tập thì tu tập sai làm mất căn bản con đường tu tập của mình.

Pháp môn Tứ Chánh Cần như đội quân tiền phong luôn luôn đi trước khai sơn phá thạch để cho cả một quân đoàn thiện chiến tiến sâu vào căn cứ giặc, nhờ đó nó mới san bằng những căn cứ của giặc để TỨ NIỆM XỨ đến thành lập chánh quyền cai trị. Cho nên những ai tu tập pháp môn TỨ NIỆM XỨ mà chưa tu tập pháp môn Tứ Chánh Cần là không biết đường lối tu tập. Tu như vậy là sai, chẳng bao giờ có giải thoát, vì tu lộn ngược pháp, pháp trước ra sau pháp sau ra trước. Xin lưu ý quý vị pháp môn Tứ Chánh Cần bao giờ cũng tu tập pháp môn TỨ NIỆM XỨ trước.

***

TỨ NIỆM XỨ gồm có:

1- Quán thân trên thân2- Quán thọ trên thọ3- Quán tâm trên tâm4- Quán pháp trên pháp

Pháp môn TỨ NIỆM XỨ là một pháp môn tu tập để chứng đạo, pháp môn này là pháp môn rất quan trọng cho sự chứng đạo, nếu ai không tu tập pháp môn này thì không bao giờ chứng đạo, cho nên chúng ta cần phải thông suốt đường lối tu tập như thế nào đúng và như thế nào sai. Một lần nữa chúng tôi xin nhắc quý vị: phải tu tập pháp môn TỨ CHÁNH CẦN rồi sau mới tu tập đến pháp môn TỨ NIỆM XỨ, nếu không biết thì đừng tu tập, có tu tập thì chỉ uổng công mà thôi. Ðừng nghe nói pháp môn TỨ NIỆM XỨ mà ham tu cao. Pháp môn TỨ NIỆM XỨ dành cho những bậc giới luật nghiêm túc, dành cho những bậc tâm đã BẤT ÐỘNG trước các ác pháp và các cảm thọ, chớ không phải pháp môn này ai muốn tu tập là tu tập được. Nếu quý vị tu tập mà không biết khả năng trình độ của mình thì đó là tu tập sai pháp. Xin quý vị cần quan tâm.

Dưới đây là pháp môn TỨ NIỆM XỨ, một pháp môn dành cho những người đã tu tập xong NGŨ CĂN, NGŨ LỰC và TỨ CHÁNH CẦN. TỨ NIỆM XỨ là nhóm bốn pháp của Phật giáo theo lời dạy của đức Phật còn ghi lại trong kinh sách Nguyên Thủy. TỨ NIỆM XỨ theo BÁT CHÁNH ÐẠO thì nó là CHÁNH NIỆM. Vậy trạng thái CHÁNH NIỆM như thế nào? Trạng thái CHÁNH NIỆM là trạng thái tâm BẤT ÐỘNG, THANH THẢN, AN LẠC, VÔ SỰ, tâm luôn luôn tỉnh giác trên bốn chỗ THÂN, THỌ, TÂM, PHÁP. Cho nên TỨ NIỆM XỨ gọi là TRÊN THÂN QUÁN THÂN. Tuy nói rằng trên thân quán thân nhưng sự thật là trên THÂN quán cả bốn chỗ THÂN, THỌ, TÂM, PHÁP. Tuy nói bốn pháp chớ khi tu tập chỉ có tu tập một pháp TRÊN THÂN QUÁN THÂN mà thôi.

Pháp môn TỨ NIỆM XỨ là pháp môn nhiếp tâm BẤT ÐỘNG cuối cùng của Phật giáo, vì chính người tu tập sống được với tâm BẤT ÐỘNG là đã chứng đạo. Ở đây không còn tu pháp môn nào khác nữa. Cho nên pháp môn TỨ NIỆM XỨ được xem là pháp môn tu tập cuối cùng của Phật giáo gọi là CHÁNH NIỆM. Nơi đây tất cả năng lực làm chủ thân tâm sẽ được xuất hiện trên mảnh đất BẤT ÐỘNG. BẢY GIÁC CHI cũng xuất hiện đầy đủ trên tâm BẤT ÐỘNG này. Vì thế quý vị đừng vội vàng tu tập TỨ NIỆM XỨ mà nên xét lại tâm mình đã BẤT ÐỘNG chưa, nếu tâm BẤT ÐỘNG thì mới tu tập TỨ NIỆM XỨ, còn chưa thì nên trở lại tu tập pháp môn TỨ CHÁNH CẦN.

Trên thân quán thân như thế nào?

Trên thân quán thân có nghĩa là dùng mắt nhìn thấy, tai lắng nghe, cảm nhận xúc chạm và ý thức quan sát ngay trên thân, nếu thân có đau nhức chỗ nào liền biết ngay, thân đi biết thân đi, thân ngồi biết thân ngồi, thân nằm biết thân nằm, thân đứng biết thân đứng, v.v... Bất cứ thân làm điều gì đều biết, thân ăn biết thân ăn, thân ngủ biết thân ngủ, thân quét sân biết quét sân, thân lặt rau đều biết thân lặt rau. Thân ngồi yên biết thân ngồi yên và khi thân ngồi yên bất động thì biết hơi thở ra hơi thở vô trên thân.

Tất cả hành động đều được xem là trên thân quán thân. Dù quán hơi thở ra hơi thở vô cũng chính là trên thân quán thân. Tuy nói trên thân quán thân nhưng thật sự là đang quán bốn chỗ: thân, thọ, tâm, pháp. Vì biết thân là biết thọ, biết thọ là biết tâm, biết tâm là biết pháp, biết pháp là biết thân. Cho nên trên TỨ NIỆM XỨ biết chỗ này thì liền biết chỗ khác. Bốn chỗ này như một khối tuy nói bốn nhưng mà một.

Quán thân trên thân tức là tâm tỉnh thức trên thân, nên thân xảy ra một điều gì dù lớn lao hay nhỏ nhặt tâm đều biết rất rõ. Cho nên nói trên thân quán thân chớ kỳ thực là quán TÂM BẤT ÐỘNG. Nếu tâm TÂM BẤT ÐỘNG suốt bảy ngày đêm là tu tập chứng đạo.Trong suốt bảy ngày đêm tâm thường bị hôn trầm thùy miên vô ký và loạn tưởng thì nên dùng pháp ngăn ác diệt ác để mà diệt các ác pháp này.

Thầy xin nhắc lại, nếu chúng ta tu tập pháp môn TỨ NIỆM XỨ trên thân quán thân mà không thực hiện BA THIỆN HẠNH thì không bao giờ chứng được trạng thái TỨ NIỆM XỨ, cũng như chúng ta tu tập BA THIỆN HẠNH mà CÁC CĂN không chế ngự tức là không ÐỘC CƯ thì BA THIỆN HẠNH không thành công có nghĩa là không bao giờ diệt hết ác pháp. Cho nên CHẾ NGỰ CÁC CĂN là một vấn đề quan trọng trong việc tu tập BA THIỆN HẠNH. Vậy chế ngự các căn là chế ngự như thế nào? Trong thân con người có năm căn:

1- Nhãn căn (hai con mắt)2- Nhĩ căn (hai lỗ tai)3- Tỹ căn (hai lỗ mũi)4- Thiệt căn (lưỡi)5- Thân căn (cơ thể)

Chế ngự các căn là làm cho căn không chạy theo các trần bên ngoài, không bị các trần bên ngoài lôi cuốn các căn. Căn và trần không lôi cuốn, không chạy theo thì tâm BẤT ÐỘNG hiện tiền quý vị có thấy không? Rất tiếc quý vị về đây tu tập người nào cũng mong muốn chứng đạo nhưng luôn luôn để CĂN và TRẦN tìm nhau thì làm sau chứng đạo hỡi quý vị? Ðời thì khổ vô vàn, các pháp vô thường nay còn, mai mất không chờ đợi một ai. Cớ sao quý vị lại xem thường, có gì vui mà ham nói chuyện; có gì vui mà ham nhìn ngó người khác làm gì? Muốn tu chứng đạo hãy siêng năng CHẾ NGỰ CÁC CĂN, nhờ đó mới mong chứng đạo quý vị ạ! Muốn chế ngự các căn có kết quả vậy chúng ta hãy tu tập các pháp môn nào?

Chúng ta hãy lắng nghe đức Phật dạy: “Này các tỳ kheo! Cái gì là thức ăn cho Các Căn Được Chế Ngự? Chánh Niệm Tỉnh Giác, cần phải trả lời như vậy”.

Ðức Phật đã dạy rõ ràng: “CHÁNH NIỆM TỈNH GIÁC” là pháp môn tu tập “CHẾ NGỰ CÁC CĂN”. Chánh Niệm Tỉnh Giác là một pháp môn tu tập trên THÂN HÀNH NGOẠI và THÂN HÀNH NỘI tức là nương vào THÂN HÀNH tu tập như:

1- Ði kinh hành 10 bước hoặc 20 bước rồi đứng lại nghỉ. Trong thời gian đứng nghỉ phải tập trung tâm vào hơi thở, nghĩa là biết hơi thở ra và hơi thở vào.

Khi thở ra thở vào đếm 1 kế tiếp thở ra thở vào đếm 2 và cứ như vậy nương theo hơi thở đếm đến 20 hơi thở, nhưng phải nhớ khi nhiếp tâm trong hơi thở không để một niệm nào xen vào, còn có niệm xen vào trong hơi thở thì tu tập bớt hơi thở lại, khi nào không có niệm khởi rồi lần lượt tăng dần hơi thở lên cũng như đi kinh hành vậy rồi chuyển tiếp tục đi kinh hành lại và cứ tu tập như từ 5 phút đến 30 phút rồi sau này lần lượt tăng lên dần đến 1 giờ. Nên lưu ý khi bước đi phải tập trung tâm chỉ biết bước đi không có một niệm nào sinh khởi vào thì mới tăng dần lên đến 1 giờ, còn có niệm khởi thì phải lui lại đúng thời gian chỉ còn biết bước đi mà thôi. Ðó là cách thức tu tập CHÁNH NIỆM TỈNH GIÁC giai đoạn đầu.

2- Ði kinh hành cũng 10 bước hoặc 20 bước rồi ngồi xuống nghỉ. Trong thời gian ngồi xuống nghỉ phải tập trung tâm vào hơi thở, nghĩa là biết hơi thở ra và hơi thở vào.

Khi thở ra thở vào cũng đếm 1 kế tiếp thở ra thở vào đếm 2 và cứ như vậy nương theo hơi thở đếm đến 20 hơi thở, nhưng phải nhớ khi nhiếp tâm trong hơi thở không để một niệm vọng nào xen vào, còn có niệm vọng xen vào trong hơi thở thì tu tập bớt hơi thở lại, khi nào không có niệm khởi rồi lần lượt tăng dần hơi thở lên cũng như đi kinh hành vậy. Ở đây chỉ có khác ở phần đi kinh hành 1 là tu tập hơi thở là phải ngồi. Khi tu tập xong hơi thở thì lại tiếp tục đi kinh hành và cứ tu tập như vậy từ 5 phút đến 30 phút rồi sau này lần lượt tăng lên dần đến 1 giờ. Nên lưu ý khi bước đi phải tập trung tâm chỉ biết bước đi không có một niệm nào sinh khởi vào thì mới tăng dần lên đến 1 giờ, còn có niệm khởi thì phải lui lại đúng thời gian chỉ còn biết bước đi mà thôi.

Ðó là cách thức tu tập CHÁNH NIỆM TỈNH GIÁC THÂN HÀNH NIỆM NỘI VÀ THÂN HÀNH NIỆM NGOẠI, đây là ở giai đoạn kinh hành thứ nhất.

BẢY GIÁC CHI gồm có:

1- Niệm Giác Chi2- Tinh Tấn Giác Chi3- Khinh An Giác Chi4- Hỷ Giác Chi5- Ðịnh Giác Chi6- Xả Giác Chi7- Trạch pháp Giác Chi

Trên đây là nhóm BẢY pháp của Phật giáo theo lời dạy của đức Phật còn ghi lại trong kinh sách Nguyên Thủy.

Khi chúng ta tu tập tác ý tâm BẤT ÐỘNG mà chỉ còn có một tâm BẤT ÐỘNG từ giờ này đến giờ khác mà không có một niệm nào xen vào chỗ tâm BẤT ÐỘNG là chúng ta đã đạt được NIỆM GIÁC CHI. NIỆM GIÁC CHI tức là tâm BẤT ÐỘNG trên TỨ NIỆM XỨ (trên thân quán thân). Lúc nào chúng ta cũng thấy siêng năng trong trạng thái thân tâm BẤT ÐỘNG trên TỨ NIỆM XỨ thì đó là TINH TẤN GIÁC CHI xuất hiện. Trên trạng thái TINH TẤN GIÁC CHI xuất hiện tâm BẤT ÐỘNG, AN LẠC, NHẸ NHÀNG thì đó là KHINH AN GIÁC CHI xuất hiện. Trên trạng thái KHINH AN GIÁC CHI có một niềm vui hoan hỷ thì đó là HỶ GIÁC CHI xuất hiện. Trên trạng thái HỶ GIÁC CHI kéo dài từ ngày này sang ngày khác mà không mất trạng thái này là ÐỊNH GIÁC CHI xuất hiện. Trên trạng thái ÐỊNH GIÁC CHI này kéo dài mãi suốt bảy ngày đêm, không có một niệm nào xen vô xen ra thì đó là XẢ GIÁC CHI. Khi XẢ GIÁC CHI xuất hiện thì tâm ly dục ly ác pháp hoàn toàn, lúc bấy giờ tâm không còn năm triền cái và bảy kiết sử nữa. Khi NĂM TRIỀN CÁI và BẢY KIẾT SỬ bị diệt trừ tận gốc thì TRẠCH PHÁP GIÁC CHI xuất hiện. Khi TRẠCH PHÁP GIÁC CHI xuất hiện thì tâm chúng ta đầy đủ TỨ NHƯ Ý TÚC.

BỐN NHƯ Ý TÚC gồm có:

1- Ðịnh Như Ý Túc2- Tinh Tấn Như Ý Túc3- Tuệ Như Ý Túc4- Dục Như Ý Túc

Khi Bảy Năng Lực Giác Chi xuất hiện đầy đủ thì chúng ta có đủ Tứ Như Ý Túc. Khi có Bốn Như Ý Túc thì mới nhập được Bốn Thánh Ðịnh, còn chưa có Bốn Như ý Túc thì không bao giờ nhập Bốn Thánh Ðịnh được, do đó ai nói nhập thiền định bảy tám ngày hay sáu bảy tháng là nhập thiền định tưởng. Cho nên khi người nào nói về thiền mà nói không đúng lời dạy của Phật là biết ngay họ là những người chịu ảnh hưởng pháp thiền của ngoại đạo, còn không là những người nghiên cứu kinh sách rồi nói ra thì chúng ta cũng biết ngay họ là những người sống trong kiến giải tưởng chớ không biết cách thức nhập thiền định nào cả.

***

Như đức Phật dạy khi nào chúng ta tu chứng thì mới dám dạy người tu, còn chưa chứng thì đừng dạy, nếu dạy sẽ đưa người ta vào con đường thiền tưởng như hiện giờ các sư các thầy từ Nam Tông đến Bắc Tông tu chưa xong mà dạy người tu nên thầy trò tu thiền mà vào bệnh viện trị bệnh, thật là xấu hổ vô cùng. Thiền sư dạy người tu thiền là phải làm chủ bệnh, chớ thiền sư gì mà chết trong bệnh ung thư như thiền sư ni Ayya Khema. Thiền sư đã viết 25 tác phẩm nói về thiền và Phật giáo, nhưng cái chết của thiền sư thì sách của thiền sư không còn giá trị nữa. Vì thiền còn bệnh tật là thiền ngoại đạo. Nếu người nào tu theo đúng pháp của Phật tâm Bất Ðộng trên Tứ Niệm Xứ như trên đã dạy thì nhập từ Sơ thiền đến Tứ thiền thì tất cả bệnh đau trên thân đều đuổi ra khỏi thân. Và chính Tứ thiền là pháp môn làm chủ sự sống chết, có nghĩa hành giả nhập được Tứ thiền thì tịnh chỉ được hơi thở, nhờ đó muốn sống chết hồi nào thì cũng rất tự tại, chết là chết ngay liền. Thiền định như vậy mới thật sự là thiền định của Phật giáo.

Nhìn lại từ Ðông sang Tây biết bao nhiêu là thiền sư. Ông thì bị xe đụng chết, ông thì đi nằm bệnh viện rồi chết. Những bệnh của quý vị thiền sư đều thuộc về loại bệnh nan y. Khi được làm thiền sư dạy đạo thì phật tử dâng cúng những thực phẩm ngon bổ, càng ngon bổ thì càng độc, do đó “thích” ăn ngon bổ nên không có vị nào thoát khỏi những bệnh nan y. Ðạo Phật ly dục ly bất thiện pháp thế mà thiền sư còn thích ăn ngon bổ vậy xưng là thiền của Phật giáo thì thiền của Phật giáo làm sao có thiền như vậy được. Tu hành chưa nhiếp được tâm bao nhiêu mà đi dạy người khác tu thật là những người đang “háo danh” muốn mình làm thầy thiên hạ. Thật đáng chê trách. Muốn làm thầy dạy người tu tập thì phải có đủ Bảy Năng Lực Giác Chi, nếu chưa có thì nên im hơi, lặng tiếng để lo tu tập cứu mình ra khỏi biển khổ. Ðó là điều duy nhất quý vị nên làm, đừng nghĩ đến ai cả mà hãy nghĩ đến mình.

Muốn tu tập có Bảy Năng Lực Giác Chi thì phải tìm hiểu pháp nào tu tập mà có Bảy Năng Lực Giác Chi, chớ không phải từ trên pháp môn Bảy Giác Chi tu tập mà có Bảy Năng Lực Giác Chi.

Quý vị nên nhớ kỹ bài pháp các “THỨC ĂN”. Nếu quý vị không biết pháp nào tu tập có Bảy Năng Lực Giác Chi thì hãy lắng nghe đức Phật dạy: “Này các tỳ kheo! Cái gì là thức ăn cho Năng Lực Bảy Giác Chi? Bốn Niệm Xứ, cần phải trả lời như vậy”.

vvv

Tổng cộng lại tất cả các pháp tu tập của đạo Phật chúng ta có đúng là BA MƯƠI BẢY PHÁP MÔN, ngoài ba mươi bảy pháp môn này, để thực hiện trọn đủ trong chương trình BÁT CHÁNH ÐẠO thì không còn pháp môn nào khác nữa, xin quý vị lưu ý đừng để giáo pháp ngoại đạo lừa đảo. Ðạo Phật chỉ có ba mươi bảy môn tu tập này mà thôi, không còn một pháp môn nào khác nữa. Nếu còn có pháp môn nào ngoài ba mươi bảy pháp pháp môn này thì đó là pháp môn của ngoại đạo.

Bởi vậy Phật giáo có pháp môn riêng của Phật giáo mà ngoại đạo không bao giờ có những pháp môn ấy, cho nên ngoại đạo không thể nào mạo nhận pháp môn của mình là pháp môn của Phật giáo được. Kinh sách Ðại Thừa và kinh sách Thiền Tông muốn mạo nhận những kinh sách này là của Phật thuyết nhưng không làm sao được nên Ðại Thừa và Thiền Tông mới nghĩ ra phương cách gạt tín đồ bằng cách dựng lên những trang thiền sử có 33 vị Tổ sư thiền Ấn Ðộ và Trung Quốc. Kinh sách Ðại Thừa và Thiền Tông làm trái ngược lại với lời di chúc của đức Phật trước khi nhập Niết Bàn: “Này các thầy tỳ kheo, sau khi Ta nhập diệt các thầy tỳ kheo hãy lấy GIỚI LUẬT và Giáo Pháp (TỨ NIỆM XỨ) của Ta làm thầy, làm chỗ nương tựa vững chắc, không nương tựa một điều gì khác, đừng lấy ai làm thầy cả”. Kinh sách phát triển làm sao gạt được khi kinh sách nguyên thủy còn ghi lại lời di chúc đó. Ba mươi bảy pháp môn của Phật còn kia thì bộ mặt dối trá bị lật tẩy, quý vị có thấy không? Quý vị cũng biết kinh sách phát triển Ðại Thừa và kinh sách Tối Thượng Thừa của Thiền Tông Trung Hoa cố ý mạo nhận là Phật thuyết, nên xếp kinh A Hàm những lời đức Phật dạy vào hàng Tiểu Thừa để lừa đảo mọi người. Nhưng khi đọc kinh Nikaya nguyên gốc của Phật mới biết Ðại Thừa và Tối Thượng Thừa là kinh sách của Phật giáo Trung Quốc chịu ảnh Khổng giáo và Lão giáo rất nặng, cho nên kinh sách phát triển và kinh sách Tối Thượng Thừa không còn là Phật giáo nguyên thủy.

Kinh sách phát triển và kinh sách Tối Thượng Thừa tu hành không bao giờ làm chủ SINH, GIÀ, BỆNH, CHẾT. Cho nên kinh sách này không bao giờ dám đá động đến việc tu tập làm chủ sinh tử và chấm dứt luân hồi.

***

Từ khóa » Ba Mươi Bẩy Phẩm Trợ đạo