6 Khái Niệm Cốt Lõi Của Marketing - YBOX
Có thể bạn quan tâm
Hidden Sea@Kỹ Năng
7 năm trước
16 Khái Niệm Cốt Lõi Của Marketing
Thuật ngữ "marketing" đã được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau vì người ta nghĩ rằng khi các tình huống thay đổi, thuật ngữ này cũng phải thay đổi sao cho phù hợp theo thời gian. Do đó, chỉ trong một thời gian ngắn, một loạt các khái niệm về “marketing" đã xuất hiện.
Trong bài báo này, saga.vn chỉ quan tâm đến CÁC KHÁI NIỆM CỐT LÕI chứ không đề cập tất cả. Khái niệm cốt lõi là khái niệm có sự rút gọn rõ ràng, được xác định, được chấp nhận rộng rãi, có liên quan và có thể xác minh được để hiểu rõ quá trình marketing nhằm hướng các luồng hàng hóa và dịch vụ từ người sản xuất đến khách hàng.
Những khái niệm cốt lõi này là:
- Nhu cầu, mong muốn và nhu cầu có khả năng chi trả;
- Sản phẩm;
- Giá trị và sự hài lòng;
- Trao đổi, giao dịch và các mối quan hệ;
- Thị trường;
- Marketer là khách hàng tiềm năng.
1. Nhu cầu, mong muốn và nhu cầu có khả năng thanh toán
Nhu cầu
Nhu cầu là khao khát hoặc ước muốn về sinh lý, tâm lý, an toàn, lòng tự trọng và được thể hiện mình. Nhu cầu sinh lý là nhu cầu cơ bản ở con người như thực phẩm, nơi ở, quần áo, tình dục; nhu cầu an toàn phát sinh khi cuộc sống của con người phải chịu những sự bất an cả trong tự nhiên và nhân tạo. Họ muốn được bảo vệ khỏi những tổn thất này khi họ thích sống tự do. Nhu cầu được tôn trọng là kết quả của sự cạnh tranh và đố kị.
Đương nhiên, mỗi người đều muốn nổi trội hơn người khác trong cuộc sống. Nếu người ta ăn cơm bình dân, người khác sẽ nghĩ đến cơm Dehradoon Basmati (một loại thực phẩm của người Ấn Độ); nếu một người có Maruti 800, thì người khác lại có Skoda; nếu người ta có đồ trang trí bằng vàng, người kia đang nghĩ đến bạch kim; nếu một người đi bằng xe hai bánh hoặc bốn bánh, người khác lại đi bằng máy bay và v.v. Cuối cùng, cũng là điều quan trọng nhất, có một số nhu cầu được gọi là nhu cầu được thể hiện mình.
Nhu cầu được thể hiện mình là những nhu cầu mang lại cho họ một vị thế độc nhất, hiếm có, chỉ vài người mới có được. Vì vậy, tất cả mọi người không thể đều là Ambanis, Jindal hay Mittals - những người có thành tích lớn lao và hiếm có. Đa số mọi người đều chiến đấu cho nhu cầu sinh lý, tiếp đó là nhu cầu an toàn, thấp hơn là nhu cầu được tôn trọng và thấp nhất là nhu cầu được thể hiện mình.
Mong muốn
Mong muốn là sự ao ước có được những thứ cụ thể để thoả mãn những nhu cầu sâu xa hơn đó. Trong thuật ngữ marketing, mong muốn nghĩa là nhu cầu cộng với khả năng chi trả. Nghĩa là nhu cầu là vô kể, còn mong muốn là có hạn. Ví dụ, nếu bạn hỏi một người là "anh có muốn ăn xoài không? Nếu chúng có sẵn, anh ta sẽ nói hãy dành hai quả cho tôi và ba quả cho cha tôi trên thiên đường”
Mong muốn là cái gì đó được chọn từ nhu cầu. Nếu đó là câu hỏi về ‘nhu cầu’, mọi người sẽ nói “Tôi cần cái này và cái kia; nếu đó là mong muốn; anh ấy nói tôi muốn điều này. Bằng cách đó, cả nhu cầu và mong muốn đều có rất nhiều; tuy nhiên, mức độ mong muốn ít hơn so với mức độ nhu cầu.
Tuy nhiên, khi chúng ta nói mãi về những mong muốn thay vì nhu cầu, những mong muốn đang trở nên đa dạng hơn để lựa chọn vì sự lựa chọn không chỉ là ước muốn. Vì vậy, nhu cầu có thể là thực phẩm, nơi ở và quần áo.
Trong trường hợp những nhu cầu này được chuyển đổi thành mong muốn - hãy đa dạng hóa nó. Thức ăn có thể là roti, chapatti, bánh mì, Nan, burgers, cutlets, pizza, idli, dosa, trứng tráng, nhiều loại như thịt gà, thịt cừu, thịt, thịt xông khói, xúc xích, thạch và nhiều thứ khác. Trong trường hợp là nơi ở, nó có thể túp lều, nhà tranh, nhà gỗ 1 tầng, trang trại, tòa nhà và những thứ khác. Với quần áo, nó có thể là áo sơ mi, quần, cà vạt, quần đùi, đồ lót, saris, váy, váy dài maxi, medies, minies, hot pants, quần sooc lửng, v.v.
Nhu cầu có khả năng chi trả
Khi nhu cầu phát sinh, mong muốn hiện lên, thì yêu cầu cũng được sinh ra.Nhu cầu có khả năng thanh toán là khi một người sẵn sàng mua một sản phẩm và có khả năng trả tiền cho nó. Nhu cầu có khả năng chi trả là biểu hiện của nhu cầu được hỗ trợ bởi sức mua của họ. Do đó, có sự khác biệt giữa nhu cầu, mong muốn và nhu cầu có khả năng chi trả.
Nhu cầu là một ước muốn đơn giản, mong muốn là một nhu cầu được lựa chọn khi họ thực sự quan tâm và nhu cầu có khả năng chi trả là một cam kết rõ ràng. Với mỗi món hàng, nó có thể là nhu cầu của người này, mong muốn của người kia và nhu cầu có khả năng chi trả của một người khác nữa.
Vì vậy, một người đàn ông giàu có nhu cầu có khả năng chi trả là một chiếc xe Mersedes sang trọng nhưng nó chỉ là một mong muốn cho người trung lưu và chỉ là nhu cầu của một người nghèo. Ví dụ này minh họa cho câu nói. “Nếu, ước muốn là những chú ngựa, mọi người sẽ không ngại mà cưỡi chúng.”
Tiền không được trồng trên cây mặc dù nó được gọi là cây tiền. Nơi mà mọi người sẽ lấy tiền và mua bất cứ thứ gì họ muốn.
2. Sản phẩm (Marketing Offer)
‘Sản phẩm’ (Marketing Offer) là thứ mà tổ chức marketing hoặc những nhà marketer thực hiện theo yêu cầu của người tiêu dùng. Đây là viết tắt của một sản phẩm đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng về chất lượng, số lượng, thời gian, giá cả, tính đồng đều, v.v. Sản phẩm có thể là "hữu hình" hoặc "vô hình".
'Sản phẩm hữu hình' là một sản phẩm có thể nhìn thấy, hữu hình, được thử nghiệm, nếm thử bởi các giác quan. Sản phẩm vô hình là một dịch vụ không nhìn thấy, vô hình, không di động, có sự hiện diện thực tế tại một thời điểm và địa điểm. Các sản phẩm có thể được phân loại thành hàng hóa tiêu dùng và hàng hóa tư liệu sản xuất.
Với hàng hóa tư liệu sản xuất, con người và công nghệ đóng vai trò mạnh mẽ. Một lần nữa, những hàng hóa tư liệu sản xuất này có thể là hàng tiêu dùng bền vững và hàng tiêu dùng không bền vững, hay còn được gọi là để tiêu thụ cuối cùng. Vì vậy, quạt, tủ lạnh, điện thoại, tủ đựng cốc là bền vững và bánh quy, pizza, kem đánh răng, kem tóc, dầu, đánh bóng vàv.v.. là hàng tiêu dùng không bền vững.
Với hàng hóa tiêu dùng, thiên nhiên đóng vai trò quan trọng hơn cả mặc dù công nghệ cũng rất quan trọng. Đó là những sản phẩm nông nghiệp như: sữa, trứng, rau, trái cây, bơ, thị gà, thịt cừu, thịt xông khói, thịt bò, mật ong, v.v…
Nhắc lại thêm, hàng hóa tư liệu sản xuất có thể là "công nghiệp" trái ngược với tiêu dùng. Hàng hóa công nghiệp là các mặt hàng lắp đặt và thiết bị, dụng cụ cầm tay, cung cấp cả dịch vụ văn phòng và nhà máy và dịch vụ bảo trì.
Mỗi công ty có thị trường bao gồm sản phẩm hoặc dịch vụ hoặc dòng sản phẩm hoặc dịch vụ mà khách hàng chọn từ dòng sản phẩm. Các dòng sản phẩm tạo danh mục sản phẩm của công ty mà toàn bộ công ty có sẵn để cung cấp cho người tiêu dùng hoặc các lớp người tiêu dùng.
Việc tung ra sản phẩm thị trường phải đáp ứng kỳ vọng của người tiêu dùng là một giá trị thực sự cho lợi ích chi phí tối đa với mức giá hợp lý.
3. Giá trị và sự hài lòng của người tiêu dùng
Giá trị được nhìn từ góc độ của khách hàng, là năng lực của một sản phẩm hoặc dịch vụ mà từ đó người tiêu dùng có được mức độ hài lòng nhất định.
Một giá trị được đánh giá bởi mức độ hài lòng. Do đó, nếu mức độ hài lòng thấp, điều đó có nghĩa là sản phẩm có giá trị thấp đối với người tiêu dùng và ngược lại.
Sự hài lòng là một trạng thái tâm lý và không thể đo lường vì nó không định lượng được. Ở đây, khái niệm về chi phí rất phù hợp. Cả nhà sản xuất và người tiêu dùng đều quan tâm đến chi phí.
Ví dụ, một mặt hàng được cung cấp miễn phí hoặc mặt hàng đó rất dễ mua, giá cả phải chăng thì mọi người sẽ chớp lấy cơ hội mua ngay mà nếu không thì sẽ do dự khi mua nó nếu giá trở nên không thể chấp nhận hoặc cắt cổ.
Ở đây, người ta có thể xác định 'chi phí' cho người tiêu dùng là giá trị bằng tiền của những gì được mua. Trong thực tế, nó là một vấn đề lớn đang được xem xét trong marketing bởi vì nó có nghĩa là một sự hy sinh của một số sự thay thế hoặc những phần khác của người tiêu dùng.
Lấy ột ví dụ khi người cha đang có ý định mua một chiếc xe hơi.
Trong khi người con trai nghĩ đến việc tham gia một khóa học thạc sĩ về quản lý thanh toán. Cả xe hơi và khóa học đều tốn kém, nhưng chi phí của người cha chỉ cho phép xe hơi hoặc khóa học.
Trong trường hợp này, người cha phải bỏ ý tưởng mua hàng của mình để hỗ trợ giáo dục đại học cho con trai có bảo đảm việc làm với mức lương cao. Cuối cùng, nhưng không kém phần quan trọng, sự hài lòng được đo lường theo Nhu cầu, mong muốn và nhu cầu có khả năng chi trả của người tiêu dùng.
4. Trao đổi, giao dịch và mối quan hệ
Trao đổi
Trao đổi là cơ sở rất cơ bản của marketing. Trong thực tế, một cái tên khác để gọi thuật ngữ “trao đổi” là marketing. Các nhà sản xuất hàng tiêu dùng và vật liệu sản xuất đang cung cấp tất cả các loại hàng hóa cần thiết cho xã hội theo độ tuổi theo trọng lượng đến chất lượng, giá cả, địa điểm, thời gian, tính đồng đều và v.v.
Trừ khi, chúng được trao đổi thành tiền hoặc giá trị của tiền bạc, thì điều đó không có nghĩa gì cả. Nếu trao đổi không diễn ra, sự chồng chất hàng tồn kho sẽ diễn ra, ảnh hưởng xấu đến toàn bộ cơ chế sản xuất và phân phối vì nó không phù hợp với tiêu thụ.
Nếu Công ty ô tô Toyota sản xuất 2.000 xe hơi mỗi ngày và không được trao đổi hoặc bán, Công ty Toyota phải hài lòng với việc tích trữ sẵn. May mắn thay, 2.000 xe hơi, tiêu thụ 700 chiếc xe mỗi ngày trên đất Mỹ và 1.300 chiếc còn lại trên toàn thế giới. Do đó trao đổi là một quá trình diễn ra sự cung cấp và thực hiện kiểm soát giá cả.
Nếu nhà sản xuất tặng quà miễn phí, quyên góp, từ thiện, nó không còn được gọi là trao đổi. Thêm nữa, nếu người ta lấy những thứ từ nhà máy riêng, trang trại riêng, khu vườn riêng, nó cũng không tạo ra sự trao đổi. Nếu một người đàn ông kinh doanh dự trữ hàng hóa để bán ở một mức giá, không được xem là trao đổi nếu anh ta cung cấp hàng hóa cho các thành viên gia đình và bạn bè của mình miễn phí.
Giao dịch
Giao dịch là sự thỏa thuận diễn ra giữa các bên của sàn giao dịch là người mua và người bán.
Người bán đã sẵn sàng với lượng hàng hóa để cung cấp và người mua đã sẵn sàng với số tiền cần thanh toán. Các thỏa thuận hoặc giao dịch này có thể là tiền mặt hoặc tín dụng. Trong những sự cạnh tranh khốc liệt ngày nay, các giao dịch tiền mặt tạo thành một phần nhỏ trong tổng số giao dịch.
Một số công ty bán hàng hóa với tổng tiền trả bằng tín dụng lên mức 90%, trong khi tiền mặt chỉ chiếm 10%.
Ngày nay, kinh doanh càng được mở rộng, càng nhiều người mua hàng hóa và dịch vụ bằng thẻ tín dụng. Quy tắc không phải là "tiền trao cháo múc", mà là "mua trước trả sau". Vì vậy, mua một chiếc xe hơi, căn hộ hoặc nhà, hay học phí hoàn toàn nằm trong tầm với của tầng lớp trung lưu và cả tầng lớp thấp hơn. Khái niệm “EMI” đã giúp tất cả mọi người có thể thực hiện mọi điều ngay bây giờ và trả tiền sau.
Các mối quan hệ
Các mối quan hệ là mối quan hệ kinh doanh liên kết và lâu dài dựa trên sự tin tưởng lẫn nhau giữa tổ chức marketing và đặc biệt là khách hàng lâu dài. Trong thực tế, vấn đề về sự thu hút và chăm sóc khác hàng dài lâu không hề đơn giản. Luôn nhớ một câu sau:” Khách hàng là thượng đế”
Khách hàng luôn được đảm bảo hạnh phúc nhờ sự hài lòng về mặt chất lượng, giá cả, thời gian, số lượng, lượng cung thường xuyên.
Một khi khách hàng hiểu được rằng nhà marketer luôn quan tâm đến mình trong mọi hoàn cảnh, anh ấy xây dựng thiện chí với công ty; giới thiệu với bạn bè và người thân của mình, từ đó góp phần tăng trưởng khách hàng cho công ty.
Trong trường hợp khách hàng không hài lòng, nó giống như một quả xoài hỏng, anh ta làm cho các loại xoài khác cũng bị hỏng theo. Đó là lý do tại sao mối quan hệ marketing đã trở thành một khía cạnh chuyên biệt của marketing hiện đại, tin tưởng vào việc xây dựng quan hệ đối tác lâu dài với khách hàng cho lòng trung thành lâu dài hơn.
5. Thị trường
Như đã đề cập trước đó, thị trường không nhất thiết phải là một địa điểm. Thị trường gồm người mua và người bán gặp trực tiếp hoặc họ liên lạc với nhau để có thông tin chi tiết về những gì người bán phải cung cấp và những gì người mua sẵn sàng mua. Nó là một cơ chế tạo điều kiện cho việc định giá một cách dễ dàng và nhanh chóng vì lợi ích chung của người mua và người bán, sự hiện diện vật chất của hàng hóa và con người tại một thời điểm không phải là thị trường.
Các lực lượng trao đổi và kiểm soát giá diễn ra dễ dàng và nhanh chóng đại diện cho thị trường. Thị trường ’là điểm khởi đầu bởi vì marketing theo sau nó. Đó là lưu lượng hàng hóa từ người bán đến người mua và tiền hoặc giá trị của tiền theo người mua giúp tiếp cận người bán để hoàn tất việc trao đổi.
Thị trường được phân loại theo một số cách đã được đề cập ở đầu chương.
6. Marketer và khách hàng tiềm năng
Marketer
Marketer là cá nhân hoặc tổ chức tham gia vào việc cung cấp hàng hóa; họ có danh mục đầu tư của riêng mình trong phạm vi các sản phẩm họ có thể cung cấp cho những người mua quan tâm. Marketer chỉ tạo ra địa điểm, thời gian sở hữu và tiện ích nhận thức.
Họ không sản xuất nhưng mua từ các nhà sản xuất hàng tiêu dùng và vật liệu công nghiệp và bán cho người mua hoặc để tiêu thụ cuối cùng hoặc để chế biến và bán tiếp.
Khách hàng tiềm năng
Người cộng sự của thị trường và marketing là khách hàng tiềm năng. Nếu chỉ có các marketer (người bán) hoặc chỉ có khách hàng tiềm năng, thì nó sẽ không thể tạo thành một thị trường được. Marketer ở đó vì có khách hàng tiềm năng. Nếu không thì không có ai để mua hàng hóa và dịch vụ.
Marketer sẽ làm gì? Đó là lý do tại sao khách hàng tiềm năng là người tiêu dùng và họ đang ở vị trí của thượng đế hoặc ở một hệ thống marketing. Khách hàng tiềm năng là người hoặc tổ chức sẵn sàng mua và thanh toán cho hàng hóa và dịch vụ. Khách hàng không hủy hoại các marketer bởi vì chúng ta hiểu rằng không thể ”vỗ tay chỉ với một bàn tay.”
Theo saga.vn
----------------------------
Hợp Tác Cùng YBOX.VN Truyền Thông Miễn Phí - Trả Phí Theo Yêu Cầu tại http://bit.ly/YBOX-Partnership
1,775 lượt xem
Thích 1Không thích 0Chia sẻ 1Lưu bài 2Từ khóa » Khái Niệm Dịch Vụ Cốt Lõi
-
Tổng Quan Về Marketing Dịch Vụ - VOER
-
Sản Phẩm Cốt Lõi Là Gì? Đặc điểm Chức Năng Và Thiết Kế Sản Phẩm
-
Sản Phẩm Cốt Lõi Và Các Dịch Vụ Bổ Sung Có Nghĩa Là Gì?
-
Dịch Vụ Cốt Lõi Là Gì ? (Phần 2) Nó Có Phải ...
-
Bài Giảng Marketing Dịch Vụ Chương 4 Marketing MIX đối Với Dịch Vụ
-
[PDF] I/ KHÁI QUÁT VỀ DỊCH VỤ - Hiast
-
Dịch Vụ Cốt Lõi Và Dịch Vụ Bao Quanh - VIETNAMNET.INFO
-
Giá Trị Cốt Lõi Là Gì? 4 Giá Trị Cốt Lõi Trong Kinh Doanh NHKS
-
Sản Phẩm Cốt Lõi Là Gì? Nó Có Phải Linh Hồn Của Doanh Nghiệp?
-
Sản Phẩm Cốt Lõi Là Gì? Tầm Quan Trọng Của Sản Phẩm Cốt Lõi
-
Khái Niệm Dịch Vụ Khách Hàng
-
KHÁI NIỆM DỊCH VỤ KHÁCH HÀNG - Cempartner
-
Chương 4: Marketing Mix đối Với Dịch Vụ - Tài Liệu, Ebook
-
Giá Trị Cốt Lõi Là Gì? Có Ví Dụ Minh Họa - SMART CEO 4.0