7/1980: Phạm Tuân, Người Việt Nam đầu Tiên Bay Vào Vũ Trụ

Phạm Tuân sinh ngày 14 tháng 2 năm 1947 tại xã Quốc Tuấn, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình. Ông đi bộ đội, được tuyển vào binh chủng Không quân Nhân dân Việt Nam năm 1965; tốt nghiệp Trường phi công quân sự ở Liên Xô năm 1967 và trở thành sỹ quan lái máy bay chiến đấu của Trung đoàn Không quân Sao Đỏ, tham gia chiến đấu bảo vệ vùng trời miền Bắc Việt Nam trong thời kỳ Chiến tranh Việt Nam.

Trung tướng Phạm Tuân.

Giữa năm 1972, ông là 1 trong 12 phi công được chọn để đào tạo lái tiêm kích bay đêm, chuẩn bị cho việc đánh B-52 (tiêm kích bay đêm yêu cầu kỹ thuật cao hơn nhiều so với lái tiêm kích ban ngày).

Trong thời gian từ 18 đến 29 tháng 12 năm 1972, máy bay Mỹ đánh phá miền Bắc dữ dội, Phạm Tuân xung phong trực chiến liên tục, nhiều khi suốt cả ngày đêm. Đồng chí luôn chủ động xin được cất cánh đánh máy bay B-52 của địch. Đêm 18-12-1972, khi được lệnh cất cánh, mặc cho máy bay địch đang đánh phá sân bay, Phạm Tuân nhanh chóng vận động qua hố bom đến nơi để máy bay và lập tức cất cánh. Địch phóng tên lửa khi phát hiện máy bay của đồng chí bay lên. Bình tĩnh tránh tên lửa địch, Phạm Tuân đến khu vực chiến đấu kịp thời. Khi được lệnh hạ cánh, máy bay địch vẫn đang đánh sân bay, hệ thống thông tin liên lạc, đèn dấu, đường băng sân bay hỏng, đồng chí vẫn hạ cánh an toàn.

Vào đêm 27 tháng 12 năm 1972, nhiều tốp máy bay B-52 từ hướng tây bắc bay vào đánh phá Hà Nội. Được lệnh cất cánh, Phạm Tuân nhanh chóng tiếp cận khu vực có máy bay địch, xin công kích. Lúc này, máy bay F4 bay ở nhiều độ cao, bảo vệ B-52 rất chặt chẽ, đồng chí đã dũng cảm xông thẳng vào tốp B-52, bắn 2 quả tên lửa, hạ tại chỗ 1 chiếc, trở về hạ cánh an toàn.

Phạm Tuân trên chiếc máy bay chiến đấu.

Do thành tích này, ngay sáng hôm sau (tức sáng 28/12) ông đã được Đại tướng Võ Nguyên Giáp gửi điện khen. Ông được phong danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam ngày 3 tháng 9 năm 1973, khi đó ông đang là Đảng viên, Thượng úy, Trung Đội trưởng thuộc Đại đội 5, Trung đoàn 921, Sư đoàn Không quân 371, Bộ Tư lệnh Phòng không - Không quân. Phạm Tuân chia sẻ, chiến công của ông có “80% là may mắn”, nhưng may mắn ở đây là có thời cơ, và phải biết chớp được thời cơ đó thì mới làm nên chuyện. Ông cho biết: “Trận ấy không thực sự phức tạp. Nhưng thành quả đó có được là do chúng ta đã từng đổ xương máu, đổ mồ hôi cho những trận chiến đấu trước”.

Năm 1980, Phạm Tuân khi đó mới 33 tuổi đã trở thành người đầu tiên của Việt Nam và châu Á bay vào vũ trụ. Cơ may này đến với ông khi năm 1977 Phạm Tuân được cử sang Liên Xô học tại Học viện Không quân Gagarin. Năm sau ông được chuyển loại sang bay vũ trụ. Phạm Tuân được chọn vào đội bay quốc tế thứ sáu trong chương trình Interkosmos của Liên Xô ngày 1 tháng 4 năm 1979. Khi chọn phi công vũ trụ, phía Liên Xô kiểm tra tất cả phi công và kỹ sư Việt Nam nhưng chỉ chọn được 3 vì nhiều người không vượt qua được các bài kiểm tra thể lực.

Anh hùng Phạm Tuân cho biết, tàu vũ trụ bay quanh trái đất trong điều kiện không có khí quyển, không trọng lượng. Để đảm bảo chuyến bay trong vũ trụ, phi công phải chịu đựng được sự tăng trọng lực khi con tàu được phóng lên, chịu được không trọng lượng khi tàu bay quanh vũ trụ; thích nghi với tốc độ và độ quay của con tàu. Tức là hệ thống tiền đình của phi công phải thích nghi được với điều kiện đặc biệt mà dưới đất không có.

“Ô tô tốc độ thường là 120 - 150 km một giờ, máy bay là 900 km một giờ nhưng tàu vũ trụ có vận tốc 7,92 km một giây. Với tốc độ đó, hệ thống tiền đình của chúng ta chưa bao giờ thu nhận khi ở mặt đất. Ngoài ra, con người ở vị trí cân bằng về lực nên mất sức hút của trái đất, máu không lưu thông bình thường mà đưa lên đầu nhiều hơn xuống chân”, ông phân tích.

Ông chia sẻ, lái máy bay chiến đấu, máy bay vận tải chỉ kéo dài vài tiếng và trên đường bay có thể hạ cánh nhưng bay trong vũ trụ không phải lúc nào cũng hạ cánh được. Có khi muốn hạ cánh chỗ này lại chệch sang chỗ khác nên phi công vũ trụ phải đảm bảo đủ sức khỏe, tỉnh táo để điều khiển con tàu an toàn.

Miệt mài luyện tập sức khỏe trong một năm rưỡi trước khi ngồi lên con tàu vũ trụ, anh hùng Phạm Tuân nhớ bài tập đầu tiên là ly tâm. Phi công ngồi trên một cái ghế được đặt với một cánh tay đòn dài khoảng 5 - 7m và quay tròn. Việc này sẽ tạo ra quá tải, lực đè lên người phi công khoảng 5-10-12 lần trọng lượng cơ thể. Mục đích của bài tập là để kéo máu trong cơ thể dồn xuống dưới, để xem khi não thiếu máu thì sức chịu đựng của người đó ra sao.

Bài tập thứ 2 là quay tiền đình. Phi công ngồi trên ghế được quay tròn, cứ 3 giây lại cúi đầu xuống tạo cánh tay đòn đưa máu lên não, 3 giây lại ngẩng đầu lên để máu tụt xuống. Nếu bình thường đi lại thì đầu quay 15-20 độ mỗi giây, nhưng trong trường hợp này thì quay liên tục khiến đầu óc rối loạn. Khi thi tuyển, mỗi người phải ngồi 10 phút trên ghế, nhưng nhiều người chỉ ngồi 5-7 phút thì bị nôn.

Phi công Phạm Tuân cùng nhà du hành vũ trụ Xô viết Viktor Vassilyevich Gorbatko thực hiện chuyến bay vào vũ trụ năm 1980.

1 giờ 33 phút ngày 23/7/1980 (giờ Hà Nội), Phạm Tuân cùng nhà du hành vũ trụ Xô Viết Viktor Vassilyevich Gorbatko được phóng vào không gian từ sân bay vũ trụ Baikonur trên tàu Soyuz 37. Vận tốc phóng nhích dần từ 0 đến 7,92 km một giây, lên đến độ cao 300 km thì tàu bay song song với trái đất và đạt vận tốc cao nhất. Và họ trở về Trái đất ngày 31 tháng 7 trên tàu Soyuz 36. Họ thực hiện nhiệm vụ trên trạm không gian Salyut 6 cùng với hai nhà du hành vũ trụ Xô viết khác.

Hành trang ông mang theo là ảnh gia đình, vợ con, phong thư, ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh, Tổng bí thư Lê Duẩn, một nắm đất Ba Đình, bản Tuyên ngôn độc lập, di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cờ Việt Nam và cờ Nga.... Tất cả sẽ được đóng dấu trạm vũ trụ và mang trở về mặt đất.

Những huy hiệu gắn trên ngực áo anh hùng Phạm Tuân khi bay vào vũ trụ.

Khi bay trời đang tối và lúc thấy ánh sáng thì con tàu đã vào vùng biển Nhật Bản, rồi sau đó ông nhìn thấy hình ảnh trái đất... Với vai trò phi công thí nghiệm, kỹ sư của con tàu, Phạm Tuân ngồi ở vị trí lái phụ, chịu trách nhiệm toàn bộ thông số,bảng điều khiển của tàu. Khi có tình huống khẩn cấp thì ấn những nút giúp chỉ huy xử lý.

Con tàu vũ trụ đi 9 phút thì lên đến quỹ đạo và một ngày sau mới lắp ráp xong trạm vũ trụ. Tại đây, hai phi công cùng làm việc, thực hiện các thí nghiệm trong tình trạng không trọng lực; quan sát bề mặt trái đất xem mũi đứt gãy để phán đoán vị trí các mỏ khoáng sản; quan sát hướng chảy của sông, vùng biển tập trung nhiều cá để hướng dẫn ngư dân; quan sát các hành tinh xa... Phạm Tuân cũng tiến hành các thí nghiệm cây trồng trên bèo hoa dâu. Ông còn chụp ảnh đất nước Việt Nam từ quỹ đạo Trái Đất. Anh hùng Phạm Tuân đã ở trong không gian trong vòng 7 ngày, 20 giờ 42 phút và thực hiện tổng cộng 142 vòng quỹ đạo quanh Trái Đất.

Phạm Tuân cho biết: Chuyện mang bèo đi là do đội ngũ các nhà khoa học quyết định, chứ ông không thể thích mang gì thì mang. Bèo hoa dâu dễ sinh sôi nảy nở, hút khí cacbonic, sản sinh ra oxy. Trên vũ trụ lại có rất nhiều tia nhiễm xạ có tác động lên con người, lên sinh vật tạo nên sự đột biến sinh học, và mang bèo hoa dâu lên là để phục vụ mục đích nghiên cứu này.

Với thành tích này, ông được trao tặng danh hiệu Anh hùng Lao động Việt Nam năm 1980 kèm theo Huân chương Hồ Chí Minh ở tuổi 33, cấp bậc Trung tá. Cùng năm đó, ông cũng vinh dự trở thành một trong những người nước ngoài đầu tiên được trao tặng danh hiệu Anh hùng Liên Xô, kèm theo Huân chương Lê nin. Như vậy ông là người Việt Nam duy nhất ba lần được trao tặng danh hiệu Anh hùng (Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân và Anh hùng Lao động của Việt Nam, Anh hùng Liên Xô).

Ông tốt nghiệp Học viện Không quân Gagarin (Liên Xô) năm 1982.

Năm 1989 ông là Phó Tư lệnh Chính trị Quân chủng Không quân. Từ năm 1999, ông mang quân hàm Trung tướng của Không quân Việt Nam, giữ chức Tổng cục trưởng Tổng cục Công nghiệp Quốc phòng trực thuộc Bộ Quốc phòng (từ năm 2000).

Năm 2002, ông được bầu làm Chủ tịch Ngân hàng Thương mại Cổ phần Quân đội; đồng thời giữ những chức vụ quan trọng trong các công ty trực thuộc ngân hàng này.

Năm 2008, Phạm Tuân về hưu theo quyết định của Chính phủ.

Anh hùng Phạm Tuân đã lập nên hai kỷ lục không bao giờ bị phá: Người lái máy bay chiến đấu đầu tiên bắn rơi B-52 và cũng là người châu Á đầu tiên bay vào vũ trụ.Hai kỷ lục khiến cả thế giới ngỡ ngàng ấy là những nỗ lực phi thường của Phạm Tuân cùng với công lao của đất nước Liên Xô, mà giờ đây nhắc lại hai từ đó, biết bao người vẫn bồi hồi xúc động.

Lê Khiêm (tổng hợp)

Nguồn:

- “Anh hùng Phạm Tuân”, Chân dung anh hùng thời đại Hồ Chí Minh, Tập II, H.: Lao động; Quân đội nhân dân, 2000, tr.1181.

Từ khóa » Phạm Tuân Nghiên Cứu Bèo Hoa Dâu