Alexis Faure Và Cuốn Bá Đa Lộc - Thụy Khuê

Khảo sát công trạng của những người Pháp giúp vua Gia Long

Chương 11

Alexis Faure và cuốn Bá Đa Lộc

Gabriel Aubaret dịch Gia Định Thành Thông Chí

I. Alexis Faure và cuốn Monseigneur Pigneau de Béhaine

Năm 1891, Alexis Faure, bí thư của Bộ trưởng Hải quân Pháp Chasseloup-Laubat,xuất bản ở Paris cuốn Monseigneur Pigneau de Béhaine évêque d'Adran[1] (Đức Giám Mục Bá Đa Lộc), sẽ dẫn là Faure, Bá Đa Lộc, trong đó, Faure xác nhận Bá Đa Lộc cầm đầu cuộc chiến Nguyễn Ánh-Tây Sơn, Puymanel và Dayot xây dựng nên quân đội Nguyễn Ánh, Puymanel và Le Brun là thuỷ tổ xây dựng các "thành Vauban" ở Việt Nam. Đó là lý do khiến chúng ta khảo sát cuốn sách này.

Vì làm việc dưới quyền Bộ trưởng, nên Faure có điều kiện tham khảo các tài liệu chính trị, quân sự, ngoại giao. Ông viết lại cuộc đời giám mục Bá Đa Lộc, qua một số tư liệu tìm thấy trong văn khố các bộ ngoại giao và quốc phòng. Đáng chú ý là những văn bản sau đây:

1- Bản ghi chép những điều Bá Đa Lộc tâu vua Louis XVI, khi ông đem hoàng tử Cảnh sang Pháp cầu viện. Lập luận của vị giám mục dựa trên hai yếu tố chính:

- Nếu đem quân "giúp" Nguyễn Ánh, nước Pháp sẽ đạt những lợi ích không nhỏ: ngoài sự quản lý một nước giầu có về sản vật như nước Nam, Pháp còn chặn đứng sự bành trướng của đế quốc Anh ở Á Châu.

- Nếu đánh là thắng ngay, vì tình trạng "tồi tệ" của quân Tây Sơn. Điểm này Bá Đa Lộc khai man, vì Nguyễn Ánh đã bị Nguyễn Huệ đuổi đến ba lần ra khỏi lãnh thổ.

2- Bản ghi buổi "khẩu cung" ở Pondichéry, Conway buộc Bá Đa Lộc phải trả lời trước "bộ tư lệnh" những câu hỏi chiến lược: Tấn công ở đâu? Vận tải quân đội bằng gì? Nhưng vị giám mục không trả lời được.

3- Faure tìm lại danh sách những người lính đào ngũ, trên các tầu Pháp có dịch vụ ở biển Đông từ 1785 đến 1789, tổng cộng là 369[2] người. Nhờ tư liệu này, ta có thể biết rõ học lực và cấp bậc của những người lính Pháp đào ngũ đến Nam Hà giúp Nguyễn Ánh.

Đó là ba điểm hữu ích.

Nhưng sách của Faure còn có ba khía cạnh xuyên tạc lịch sử trầm trọng, sau đây:

1- Faure tìm thấy bài Introduction của Sainte-Croix trước Maybon, nên trong cuốn Bá Đa Lộc (1891), ông đã sử dụng nhiều chi tiết sai lầm của Ste-Croix (đã nói ở chương 10).

2- Faure còn tìm thấy trong Văn khố Ngoại giao Pháp, những bản báo cáo của de Guignes, một Agent (nhân viên hay điệp viên) ngoại giao của Pháp tại Quảng Đông, gửi về Bộ Ngoại Giao. Faure sẽ nâng cấp de Guignes thành Consul (Lãnh sự) Pháp tại Quảng Đông, rồi ông dựa vào những bản báo cáo sai lầm của de Guignes, và những thông tin bịa đặt của Ste-Croix, để vẽ chân dung Bá Đa Lộc, như người thầy của Nguyễn Ánh.

3- Trong những báo cáo của de Guignes gửi về Bộ Ngoại Giao được Faure in lại, bản viết ngày 29/12/1791, có câu: "Các ông Olivier và Le Brun, sĩ quan Pháp, đã cho ông ta [Nguyễn Ánh] một cái bản đồ thành đài[3]. Câu này mở đầu cho sự xác định: Olivier de Puymanel và Le Brun là thuỷ tổ sự xây tất cả những thành trì Vauban ở Việt Nam, mà hầu như tất cả mọi người đều chép lại, kể cả những nhà nghiên cứu Việt, như Trương Vĩnh Ký, Nguyễn Đình Đầu.

Trương Vĩnh Ký chép lại những "thông tin" trong cuốn Bá Đa Lộc của Faure, 1891, để đưa vào cuốn Biên tích đức thầy, Pinho Quận Công, Sài Gòn, 1897.

Taboulet trong cuốn La Geste française en Indochine (Huân trạng của Pháp ở Đông Dương), 1955, chép lại bản báo cáo của de Guignes, in trong cuốn Bá Đa Lộc, cải biến thành thư chính thức, với tựa: Ông Lãnh Sự Pháp ở Quảng Đông gửi ông Bộ trưởng Ngoại Giao[4], để chính thức hoá bản báo cáo này thành một "công văn chính thức của bộ ngoại giao".

Tạ Chí Đại Trường vinh thăng Bá Đa Lộc ở vị trí cầm đầu, theo đúng quan điểm của Faure, và chép lại lập luận của Taboulet, xác định "sự kiện" Puymanel và Lebrun "xây" thành Gia Định và Puymanel xây cả thành Diên Khánh.

Nguyễn Đình Đầu, dựa theo các sách của Trương Vĩnh Ký, Taboulet và Tạ Chí Đại Trường để xác nhận Lebrun là "kỹ sư thiết kế đô thị đầu tiên" của Việt Nam.

Chúng tôi sẽ khai triển tất cả những vấn đề này trong chương 12: Huyển thoại Le Brun và Puymanel xây thành Gia Định và Diên Khánh.

Faure thăng chức cho Puymanel

Cấp bậc của Oliver de Puymanel và Le Brun, trước khi đào ngũ, do chính Faure tìm thấy trong hồ sơ của bộ quốc phòng. Về Olivier de Puymanel, Faure chép như sau:

"Tầu Dryade tới đảo Côn Lôn ngày 15/9/1788, để lại ở đây cha Paul Nghị [Hồ Văn Nghị], người thân cận của Bá Đa Lộc và 10 lính thuỷ Nam Hà được đưa [từ Pondychéry] về xứ. Tầu này cũng để lại một ngàn súng được mua từ Pháp cho vua Nam Hà. Tầu mất ở đây một lính tình nguyện binh nhì, ông Olivier de Puymanel đào ngũ cùng vài thủy thủ bắn pháo. Người lính tình nguyện này, trốn thoát ngày (19/9/1788) ở Côn Lôn, chẳng bao lâu sẽ nổi tiếng ở Nam Hà, sẽ trở thành Vệ uý Olivier de Puymanel.

Olivier de Puymanel lúc đó 20 tuổi, sinh tại Carpentras tháng 4/1768, con của Augustin Raymon và Françoise-Louise Vitalis. Người ta không biết thêm gì nữa về tình trạng hộ tịch và gia đình của anh. Chỉ chắc chắn rằng, Giám mục Bá Đa Lộc tất nhiên đã chú ý và thích anh trong chuyến vượt biển trên tầu Dryade[5], bởi vì người không ngần ngại trao cho anh chức Tham mưu trưởng quân đội Nam Hà (Chef d'Etat Major de l'Armée Cochinchinoise) và anh đã thực thi nhiệm vụ một cách cao cả tới chết, tại Malacca, nơi anh đi công vụ, ngày 23/3/1799"[6].

Trong đoạn văn trên, chỉ cách nhau có mấy hàng, Faure đã tăng chức cho Puymanel từ binh nhì lên "Tham Mưu Trưởng quân đội Nam Hà" vì được Bá Đa Lộc chú ý! Bức chân dung Olivier của Faure, sẽ được mọi người chép lại, trích dẫn, sửa đổi, theo nhu cầu, "quên" xuất xứ binh nhì, đào ngũ, của Puymanel, chỉ giữ lại chức Tham mưu trưởng quân đội Nam Hà. Và câu: "Một ngàn khẩu súng Gia Long mua", sẽ biến thành "1000 khẩu súng do Bá Đa Lộc mua về giúp Gia Long"... rồi được tô vẽ đủ kiểu, tùy theo tác giả, từ Trương Vĩnh Ký, Cosserat, Maybon, Cadière, Taboulet, đến Tạ Chí Đại Trường...

Chúng tôi đã chứng minh Ste-Croix, dựa vào lời kể bịa đặt của Dayot để tự thăng chức cho mình và Puymanel trong chương 10, ở đây xin trình bầy những sự biạ đặt của Faure:

Trong chương 18, note 2, trang 215, Faure viết: Le Brun là binh nhất, Olivier là binh nhì, nhưng trước đó 5 trang, ở chương 17, trang 210, ông đã viết câu:

"... số lính thuỷ Pháp bỏ tầu trong khi thi hành nhiệm vụ, lên tới 359 [369] tên, mà hầu hết, nếu không muốn nói là tất cả đều đầu quân cho vua Nam Hà, và trở thành linh hồn của bộ binh và thủy binh xứ này. Trong số đó, có những sĩ quan, những sinh viên sĩ quan, đủ khả năng chỉ huy như các ông Olivier de Puymanel, Le Brun, Guillon, Magon de Médine, Tardivet, Malespine, Dayot, những người này, dưới tay Giám Mục Bá Đa Lộc, mỗi người, với khả năng của họ, sẽ góp phần xây dựng lại vương quốc Nam Hà, mau chóng khôi phục sức chiến đấu của nước này đến thắng lợi và chẳng bao lâu nghiền nát cuộc nổi loạn vũ bão do anh em Tây sơn khởi xướng và cầm đầu"[7].

Câu vừa dẫn trên đây, tiêu biểu cho lối viết sử của Faure:

1- Tự thăng chức cho những người lính Pháp, từ binh nhì, binh nhất, lên sĩ quan, sinh viên sĩ quan, có khả năng chỉ huy.

2- Cho họ trở thành linh hồn của bộ binh và thủy binh của Nam Hà.

3- Cho họ ở dưới quyền của Đức Giám Mục Bá Đa Lộc.

4- Cho họ nghiền nát cuộc nổi loạn của anh em Tây Sơn.

5- Cho họ góp phần xây dựng lại vương quốc Nam Hà.

6- Đếm họ là 369 người lính Pháp đào ngũ ở vùng Thái Bình và Ấn Độ Dương.

Cả sáu xác định này đều không có một cơ sở, một chứng từ, hay một sự kiện nào, minh định. Câu chuyện thần thoại sáu điểm này, được Faure viết ra, chắc nịch, bất chấp những vô lý:

- Chưa từng thấy hiện tượng binh nhất, binh nhì nào tiến nhanh như thế, trong lịch sử quân đội loài người.

- Toàn bộ 369 lính thuỷ Pháp đào ngũ vùng Thái Bình và Ấn Độ Dương đều đến được Việt Nam, đầu quân Nguyễn Ánh, như thể họ có thể đi bộ (vì chưa có tầu bay, tầu hoả) để đến nước Việt và cả vùng Châu Á Thái Bình Dương cũng chỉ có mình Nguyễn Ánh mộ quân!

- Nam Hà là một xứ man di, vô chủ, không có tướng, không có vua, nhờ Đức Giám Mục đứng lên chỉ huy các "sĩ quan" Pháp, nghiền nát quân "phản loạn" Tây Sơn, dựng lại cơ đồ cho một Gia Long, chưa từng hiện hữu, nếu không có người Pháp.

Lối lập luận này, tưởng là thần thoại, đã được mọi người chép lại và đi vào "lịch sử".

Faure phong thánh Bá Đa Lộc

Sau Ste-Croix, Faure với những "thông tin" như vậy đã tạo thành một cuốn sách phong thánh Giám mục Bá Đa Lộc và đưa Puymanel, Dayot lên tột đỉnh.

Theo Faure, vị Giám mục đã giữ địa vị thống soái quân đội Nam Hà ngay từ 1779-1780: "Sự phòng thủ Sài Gòn do Giám Mục điều khiển, người đã ứng chiến làm Bộ trưởng Chiến tranh. Dưới sức xung động mạnh mẽ của người, [bộ này] đã được phát triển trong vài năm yên tĩnh vừa qua"[8]. Câu này Faure đã phỏng theo những lời của Ste-Croix trong bài Introduction.

Tiếp đó, Faure hùng hồn mô tả các trận đánh do vị giám mục "cầm quân", có trận chết như rạ, nhưng thiên tài của vị giám mục bao giờ cũng sáng tỏ. Vua đi theo "người" trong tất cả hành trình sôi nổi này và công trình lớn nhất là "người" là đã cứu vua thoát chết, và đã đem Hoàng tử Cảnh sang Pháp cầu viện và Faure kết luận:

"Như đức Hồng y giáo chủ Richelieu[9] đức giám mục Bá Đa Lộc trực tiếp thương lượng với các cường quốc bên ngoài, tổ chức các hạm đội và quân đội, lãnh đạo hoặc chỉ huy những đoàn quân lớn, có thể tính đến 50.000 người mà không sợ nói quá. Cũng như đức Hồng y Richelieu, đức giám mục Bá Đa Lộc có đoàn vệ binh riêng, có cờ lệnh riêng bằng lụa đỏ (những Khâm sai của giáo hoàng kế nhiệm ông ở nước Nam, đã giữ gìn lá cờ cẩn thận, nhưng có lẽ, do lệnh trên, không cho ai xem), ông đi tiên phong ra trận; lá cờ lệnh được treo cùng với cờ trắng của vua trên các chiếm hạm. Theo ông Bissachère, trong những hội đồng chiến tranh và các buổi họp khác, đức cha luôn luôn ngồi cạnh và ngang hàng với vua. Vậy ta có thể nói, đức giám mục Bá Đa Lộc là vị giáo chủ chiến tranh cuối cùng của lịch sử chúng ta"[10].

Faure lầm đấy, không phải Bissachère viết câu: "đức cha luôn luôn ngồi cạnh và ngang hàng với vua" mà là Ste-Croix, y viết câu này vì y lầm Nguyễn Ánh với Hoàng tử Cảnh!

Riêng câu: "đức giám mục Bá Đa Lộc trực tiếp thương lượng với các cường quốc bên ngoài", sẽ được Maybon nhận vơ thêm: Bá Đa Lộc viết tất cả thư từ cho vua Gia Long (xem chương 14, Maybon và chương 20, Việc đối ngoại của vua Gia Long).

Để xoá những lập luận cho rằng Bá Đa Lộc cầm quân tham chiến, chỉ cần một câu của giáo sĩ Lavoué: "Đức Ông [Bá Đa Lộc] có đánh nhau không? Đức Ông có dám hành động trái với lệnh của Đức Thánh Cha [Giáo Hoàng] không? Những kẻ biết rõ Đức Ông không thể tin được điều đó"[11].

Faure viết tiếp: "Đức giám mục thấy vấn đề quân sự là cốt yếu nhất và khẩn thiết nhất, nên người cho Dayot làm tư lệnh hải quân với chức vụ hải quân đại tá"[12].

Lại lầm nữa: Dayot, chưa từng có chức tư lệnh hải quân, bị kết án tử hình vì tội làm đắm tầu, phải trốn đi (xem chương 10, Ste-Croixchương 19, Dayot).

Faure viết: "Sau thủy binh, Đức giám mục Bá Đa Lộc để tâm tổ chức bộ binh, hồi đó chỉ là những băng đảng. Người thanh niên Olivier de Puymanel trở thành đại diện đặc trách nhận lệnh trực tiếp của Đức Cha, nói cách khác Olivier là Tổng Tham Mưu Trưởng quân đội dưới quyền điều khiển của Đức Cha."[13]

Từ Tham mưu trưởng (Chef d'état major) lại được thăng Tổng Tham Mưu Trưởng (Chef d'état major général)! Rồi Faure tưởng nhớ Puymanel bằng những hàng: "Người sĩ quan chết ở tuổi 31 này, đã hoàn tất ở Nam Hà một công trình đồ sộ, những ai biết rõ bao nhiêu thành trì Vauban mà ông đã xây trong thời kỳ 10 năm, đều ngưỡng mộ, kính phục"[14].

Câu: bao nhiêu thành trì Vauban mà Puymanel đã xây trong 10 năm, của Faure sẽ được người ta chép đi, chép lại, để tôn Puymanel thành thủy tổ việc xây thành Vauban ở Việt Nam.

Rồi Faure hăng say kể tiếp câu chuyện giám mục Bá Đa Lộc lập "trường võ bị": "... Phải tạm thời hạn chế, thành lập một đội quân 3000 người, do những người lính thuỷ mà Đức Giám Mục đem về, thường trực tập luyện cho họ. Người nghĩ rằng số quân đội nòng cốt này chưa đủ, [tuy vậy] trong khi chờ đợi, nó phải là một trường quân sự cho lính và nhất là cho sĩ quan bản xứ, tuyệt đối không biết gì về thuật đánh giặc.

Để khai tâm cho chúng về thuật này, chính người đã dịch và chú thích những sách Pháp thích hợp sang chữ nôm (idiome cochinchinois); những cuốn sách này nhiều bản còn rải rác đâu đó, người ta đã lầm khi giấu đi, như đã từng giấu lá cờ lệnh vinh hiển của đức cha. Olivier de Puymanel lại hân hạnh được đức cha chọn điều khiển trường võ bị tổng hợp này, ở đó phát xuất những sĩ quan và hạ sĩ quan người bản xứ, đã học về quy luật trận địa, họ sẽ thể hiện giá trị và kinh nghiệm ấy trên chiến trường"[15].

Cả đoạn này sẽ biến thành: "các sĩ quan Pháp huấn luyện và cải tổ quân đội Nguyễn Ánh theo lối Tây phương" mà ta có thể đọc được ở hầu hết khắp nơi!

Câu chuyện Đức Giám mục có dịch sách hay không, sẽ được bàn trong chương 15, Cadière. Faure tiếc rằng các sách Đức giám mục dịch người ta đã lầm khi giấu đi, như đã từng giấu lá cờ lệnh vinh hiển của đức cha. Không biết Faure muốn ám chỉ ai? Kẻ nào mà lại dám giấu "sách dịch" và "cờ lệnh" của đức cha?

Chưa hết, Faure còn kể tiếp: hai vị tướng nổi tiếng Kaô-Kôun [chưa biết là ai, có thể chỉ Nguyễn Văn Thành] và Taô-Koun [chắc chỉ Võ Tánh, vì đoạn sau nói đến việc tử tiết trong thành Qui Nhơn] cũng xuất thân từ trường võ bị của GM Bá Đa Lộc, do Puymanel điều khiển! Vẫn theo Faure, cạnh trường võ bị, còn có trại Mộ binh, do Laurent Barisy chỉ huy![16]

Và sau đây là "sự kiện" Bá Đa Lộc xây thành Sài Gòn và quyết định xây các thành Vauban: "Trong khi tổ chức quân đội và thủy quân, Giám Mục Bá Đa Lộc không bỏ quên sự củng cố các thành đài trong hệ thống phòng thủ. Thành cũ Sài Gòn xây dưới sự điều khiển của người mười năm trước, được sửa chữa và mở rộng lớn lao thêm theo những bản đồ mới. Người cũng quyết định chương trình kiến thiết các thành Vauban, sẽ được xây ngay ở Vĩnh Long, Hà Tiên, Châu Đốc, Mỹ Tho, Biên Hoà, v.v... để che chở cho những vị trí chính yếu của cả xứ, tránh những xâm phạm của quân thù, đến từ Tây hay Đông, từ Xiêm La hay Bắc Hà."[17]

Đọc một số trích đoạn trên đây đã quá đủ để thấy rõ "tinh thần bịa đặt" của tác giả: Toàn thể quân đội thủy bộ của Nguyễn Ánh đều do đức giám mục Bá Đa Lộc tạo ra! Toàn bộ hệ thống thành đài cũng do Đức Giám Mục quyết định kiến thiết! Những "sĩ quan", "kỹ sư", "kiến trúc sư" Le Brun, Puymanel, Dayot... là nòng cốt xây dựng nên quân đội thủy bộ của Nguyễn Ánh và toàn bộ "thành đài Vauban" ở Việt Nam!

Những "sáng tác" về "công ơn trời biển" của Bá Đa Lộc và các "sĩ quan" Pháp, xuất phát từ cuốn Bá Đa Lộc của Faure, sẽ được nhiều người chép lại, xé lẻ, tô điểm thêm rải rác khắp nơi, trở thành những "sự thật". Tạ Chí Đại Trưòng là trường hợp tiêu biểu.

Tạ Chí Đại Trường: Bá Đa Lộc lãnh đạo cuộc chiến từ 1783

Tạ Chí Đại Trường, không những chấp nhận "sự kiện" Bá Đa Lộc là "thầy của Nguyễn Ánh" do Sainte-Croix đưa ra, rồi Faure thêm thắt và dựng lên thành "sự thực lịch sử", mà ông còn đưa ra những "thông tin mới", chứng minh vai trò lãnh đạo của Bá Đa Lộc (theo Faure, từ 1779-1780), trong những câu, đoạn, sau đây:

-"Từ đầu tháng 3/1783, Bá Đa Lộc đã phải hội bàn với Nguyễn Ánh về việc tránh Tây Sơn"[18]. Câu này xác định vai trò "chủ chốt" của Bá Đa Lộc, ngụ ý ông Bá đã "gọi" Nguyễn Ánh đến để "hội bàn" việc trốn Tây Sơn, từ năm 1783.

- "Việc xẩy ra ở Phú Quốc vào khoảng đầu tháng 7/1783. Nguyễn Ánh đến hỏi Bá Đa Lộc tìm cách giúp đỡ lấy lại nước"[19]. Câu này xác định thêm một lần nữa, vai trò "chủ chốt" của Bá Đa Lộc: Nguyễn Ánh đến cầu Bá Đa Lộc, xin kế lấy lại nước, cũng từ 1783.

- "Chiến thắng Trà Vinh xong, Đỗ thanh Nhân trở về sửa soạn chiến thuyền, huấn luyện thủy binh cùng bộ binh. Ông tiếp tục học hỏi về khoa học, kỹ thuật Tây phương với Bá Đa Lộc"[20]. Câu này chứng tỏ Bá Đa Lộc là người "huấn luyện" Đỗ Thanh Nhơn, từ những ngày đầu.

- "Trên thành, Bá Đa Lộc cho đặt thêm nhiều đại bác giả làm nghi binh. Quân Diệu ở ngoài bắn đại bác vào không hiệu quả mới đắp luỹ đất vây quanh"[21]. Câu này xác định Bá Đa Lộc một mình làm chủ tướng giữ thành Diên Khánh (năm 1794), đối đầu với Trần Quang Diệu. Việc này ngụ ý: các đại tướng Phạm Văn Nhơn, Tống Phước Đạm, Mạc Văn Tô, Nguyễn Đức Thành có mặt ở trong thành đều... vô dụng. Một điểm khó hiểu nữa: Tại sao súng giả của Bá Đa Lộc lại làm cho súng thật của Trần Quang Diệu bắn vào, không có hiệu quả? Và một câu hỏi: Tạ Chí Đại Trường lấy những "thông tin" này ở đâu? Ông không cho biết xuất xứ.

Để "chứng minh" tiếp câu chuyện Bá Đa Lộc là thầy của Nguyễn Ánh và cả Đỗ Thanh Nhơn, Tạ Chí Đại Trường đưa ra những "thông tin" khác sau đây:

- Nửa đêm Nguyễn Ánh đến tìm Bá Đa Lộc để hỏi ý kiến về việc giết Đỗ Thanh Nhơn.

- Bá Đa Lộc dạy Đỗ Thanh Nhơn dùng lựu đạn.

Hai điểm này cần khảo sát, vì nó giúp ta hiểu cách sử dụng tài liệu của Tạ Chí Đại Trường.

Về việc đầu, ông Tạ viết như sau:

"Vào gần nửa đêm một ngày nào đó, ông [Nguyễn Ánh] đi tìm Bá Đa Lộc để hỏi ý kiến [về việc giết Đỗ Thanh Nhơn]. Ông này phân vân giữa Đỗ Thanh Nhân và Nguyễn Ánh, cả hai người ông đều có ý giữ liên lạc để lợi dụng truyền đạo, nên trả lời thối thác một cách khôn ngoan, Ánh khóc về, vẫn không bỏ ý định giành lại quyền binh.

Tống Phúc Thiêm thấy được ý Ánh, tâu xin trừ "giặc bên cạnh vua". Ánh suy nghĩ rất lâu và hai nguời bàn bạc kỹ lưỡng. Cuối cùng mưu kế được đặt ra. Nguyễn Ánh giả bệnh ở mãi trong cung, các quan văn võ phải vào vấn an. Nhưng mấy ngày đầu, Đỗ Thanh Nhân không tới. Đến cuối ngày thứ ba, ông tới với một số đông vệ sĩ như thường lệ. Để quân hầu ở ngoài, Nhân tiến vào trong gặp mẹ, vợ Nguyễn Ánh trong phòng bệnh, cả hai không hay biết gì hết. Nhân chưa kịp nói một lời thì một nhóm vệ sĩ ở phòng bên cạnh tiến ra, giết chết ngay"[22].

Tại sao ông Tạ lại biết rõ từng chi tiết đến như vậy: nào là "nửa đêm" Nguyễn Ánh "đi tìm" Bá Đa Lộc để hỏi mưu chước; cả chuyện Nguyễn Ánh khóc nữa, và đến cuối ngày thứ ba Đỗ Thanh Nhơn mới vào, lại có gặp mẹ và vợ Nguyễn Ánh ở đấy, nhất là biết cả chuyện hai người đàn bà này không biết gì về âm mưu này, vv... những chi tiết cần cho một tiểu thuyết ly kỳ, nhưng đối với một cuốn sử, độc giả sẽ hỏi: Chép ở đâu? Ai kể? Không thấy ông Tạ nói gì về xuất xứ những điều ông đưa ra.

Chúng tôi tìm mãi mới thấy một đoạn văn tựa đề: Fragment pour servir à l'histoire de MGR l'évêque d'Adran (Mẩu chuyện dùng để kể về lịch sử Đức Giám Mục Adran), in trong Launay III, t.312-313. Đoạn văn này không biết ai viết, đề năm 1799, kể theo lối cổ tích, chuyện một ông quan lớn, trước khi vua chết, giao cho ông chức phụ chính đại thần, nhiệm vụ trông nom thái tử 9 tuổi, sẽ kế vị. Viên phụ chính chuyên quyền, tàn ác, nên vua trẻ ghét và sợ. Đức Giám Mục là người được vua, phụ chính và toàn thể triều đình kính nể. Một tối, lúc 10 giờ đêm, vua sai mời Đức Giám Mục đến hỏi ý kiến về việc giết viên phụ chính. Đức Giám Mục trả lời, ông là người đứng đầu đạo Thiên Chúa ở đây, không thể cho ý kiến về việc giết người. Thất vọng, vua khóc lóc thảm thiết, sau vua bàn với một vị đại thần tổ chức ám sát: vua giả đau, phụ chính vào thăm, vua cho một nhóm vệ sĩ xông vào giết. Câu chuyện này có vẻ lắp ghép việc Bùi Đắc Tuyên, phụ chính của Quang Toản, lúc lên ngôi 9 tuổi; sau Tuyên chuyên quyền, bị giết, với việc Nguyễn Ánh diệt Đỗ Thanh Nhơn, trong một bối cảnh khác hẳn. Chúng tôi đoán Tạ Chí Đại Trường phỏng theo câu chuyện này, vì có những chi tiết: đang đêm, vua đi tìm vị giám mục hỏi ý kiến, vua khóc lóc, vua giả đau, vv... có trong văn bản này; và ông thêm vào vài chi tiết ghi trong Liệt Truyện, để tôn vinh Bá Đa Lộc.

Về việc Đỗ Thanh Nhơn bị giết, Trịnh Hoài Đức viết: "Tháng giêng năm Mâu Tuất [1778] thu phục được Gia Định, sau giao cho Phương quận công [Đỗ Thanh Nhơn] làm phụ chính thượng tướng quân. Sau vì cậy công thất lễ, hầu có lòng khác, đêm 23 tháng 3 năm Tân Sửu [16/4/1781] giết đi[23].

Liệt Truyện ghi: "Mùa xuân năm Tân Sửu [1781], Thanh Nhân có tội bị giết chết. Khi trước Thanh Nhân tự phụ có tài sức dũng, trong tay coi quản binh ở Đông Sơn, ngấm ngầm muốn ngang ngược lộng quyền; lại từ khi có công suy tôn, càng kiêu ngạo dông dỗ hơn, quyền sinh sát giữ đoạt, để sống hay giết chết, cho chức tước hay đoạt lại đều do ở tay cả (...) Lại thiêu đốt người sống, bắn giết người đàn bà có chửa, hình phạt rất thâm độc, người đều cắn răng tức giận (...) Vua cho là người có công nên vẫn ưu đãi, dung túng, hoặc thân tới nhà riêng, Thanh Nhân cũng không kính lễ (...) Chưởng cơ Tống Phúc Thiêm mật tâu xin trừ bỏ tên giặc ở cạnh vua đi. Vua cho là phải, bèn giả cách ốm, cho triệu Thanh Nhân vào trong nội, bàn việc, nhân đó sai võ sĩ bắt giết đi."[24]

Tạ Chí Đại Trường: Bá Đa Lộc dạy Đỗ Thanh Nhơn dùng lựu đạn

Cuốn Lịch sử Nội chiến ở Việt Nam, có 4 tiết, nói đến công lao của Bá Đa Lộc và những người Pháp đến giúp Nguyễn Ánh:

- Tiết 5: "Kỹ thuật Tây phương rụt rè bước vào chiến tranh Nam Hà" (t. 106-115).

- Tiết10: Nguyễn Phúc Ánh cầu viện Tây Phương (t.175-186).

- Tiết 12: Tiếp viện của Bá Đa Lộc (t.200-208).

- Tiết 13: Những lực lượng chiến đấu (t.211-237).

Trong những tiết này, Tạ Chí Đại Trường thường lấy lại những lập luận các sử gia thuộc địa rồi phụ hoạ thêm bằng cách đưa ra những "lập luận mới", những "bằng chứng mới". Hạ thấp Nguyễn Ánh chưa đủ, ông Tạ còn viết những lời khâm phục Tây phương, hạ thấp cả Tây Sơn:

"Nguyễn và Tây Sơn đều biết rằng nếu lôi kéo được về phiá mình đám người mắt xanh da trắng, đi trên những chiếc tầu đồng vững vàng ngoài đại dương kia, thì họ có cơ hội kết thúc chiến tranh mau chóng hơn (...) Tây Sơn đã từng ve vãn giáo sĩ ở Quảng Nam (1774), ở Gia Định (1783)"[25].

"Thấy được kỹ thuật cao độ của Tây phương, Nguyễn Nhạc mới đề nghị với họ xin người luyện tập sĩ tốt, mướn tầu chở binh lính, mở giao thương. Nhưng ông đã thất bại như ta thấy"[26].

Không biết ông Tạ lấy những tin này ở đâu, mà biết Tây Sơn ve vãn giáo sĩ, Nguyễn Nhạc xin người luyện tập sĩ tốt...?

Hoặc: "Khi Macartney tới, viên trấn thủ ở Quảng Nam nài nỉ người Anh bán khí giới và đạn dược, lộ cho họ thấy rằng Tây Sơn cần được giúp với bất cứ giá nào"[27].

Câu này ông Tạ trích của Imbert trong cuốn Le séjour en Indochine de l'ambassade de Lord Macartney (Những ngày ở Đông Dương của Đại sứ Macartney), in tại Hà Nội, năm 1942. Lời Imbert cũng rất khó tin vì hai lẽ: Barrow, trong cuốn A voyage to Cochinchina (Chuyến đi Nam Hà, chương 4), mô tả rất kỹ những cuộc gặp gỡ với quan chức triều Cảnh Thịnh, không hề nhắc đến việc "trấn thủ Quảng Nam nài nỉ người Anh bán khí giới". Chưa kể, Imbert là kẻ hậu sinh, người Pháp, viết cuốn sách in năm 1942, làm sao biết có sự "nài nỉ" này.

Nhưng đặc biệt đáng chú ý là câu sau đây của Tạ Chí Đại Trường:

"Chính Bá Đa Lộc, bằng cách nói chuyện chơi" cũng đã du nhập kiến thức, kỹ thuật mới vào Gia Định, khi ông dạy Đỗ Thanh Nhơn lối dùng lựu đạn"[28].

Câu này trích trong đoạn ông Tạ đưa ra để kể công Bá Đa Lộc đã trực tiếp tham gia cuộc chiến, giúp Nguyễn Ánh; và vị giám mục đã "phân trần" về hành động của mình. Đoạn này như sau:

"Trong khi phân trần về hành động đã can dự vào chính trị Đại Việt, Giám mục D'Adran chứng minh cho ta thấy xác nhận trên trong bức thư đề ngày 26-7-1779: "Hai chiếc tầu từ Macao đến Bassac trong năm nay để buôn bán... Một người Trung hoa đưa ý kiến với ông lớn [TCĐT chú thích là Đỗ Thành Nhơn] của xứ Cochinchine cho ông ta biết rằng tầu chứa đầy đại bác, diêm tiêu, lưu hoàng và các thứ khí giới, đạn dược khác. Ông quan mà tôi rất quen đó đương hết sức cần các thứ hoàng hoá này, vội vã bắt tôi viết thư cho các quan coi tầu yêu cầu họ bán cho ông hết hay một phần. Hay nếu có thể, họ đem tầu giúp xứ Cochinchine; đổi lại, họ được hưởng quyền ghé bến và những quyền lợi khác nữa."

Tuy các vị chủ tầu có phàn nàn về thái độ tham dự của Bá Đa Lộc, cách giao thiệp này cũng đưa tới kết quả là vào khoảng tháng hè 1781 trong cuộc duyệt binh tháng 5 Tân Sửu với không dưới 3 vạn quân, 80 thuyền đi biển, 3 đại chiến thuyền, sử quan ghi rõ có hai chiếc tầu tây (Tây dương thuyền).

Thực ra, Bá-đa-lộc và các LM giòng Franciscain ghi nhận tới 3 chiếc tầu Bồ đào nha chở đầy binh lính, khí giới, súng đạn và lương thực. Chính Bá-đa-lộc, "bằng cách nói chuyện chơi" cũng đã du nhập kiến thức, kỹ thuật mới vào Gia định khi ông dạy Đỗ thanh Nhân lối dùng lựu đạn, làm giúp một thước đo góc đạc điền, một rapporteur, một ống loa, một dụng cụ thiên văn (?) và những dụng cụ toán học khác... Hơn nữa, ông còn cho người giúp việc của ông, Mãn-noài, Emmanuel... một tay lính thuỷ breton, sang phụ tá Nguyễn Ánh, điều khiển một chiếc tầu Bồ."[29]

Đoạn văn trên hơi khó hiểu. Chúng tôi xin "thông dịch" đại ý, toàn cảnh như sau:

Thấy kỹ thuật "cao độ của Tây phương", Nguyễn Nhạc "xin" họ giúp nhưng không thành. Nguyễn Ánh may mắn được Bá Đa Lộc giúp. Vị Giám mục, để phân trần về việc mình can dự vào chiến tranh này, trong bức thư đề ngày 26/7/1779, Bá đã kể câu chuyện sau đây:

Có hai tầu buôn, chở đầy vũ khí từ Macao đến Nam Hà. Đỗ Thanh Nhơn muốn mua, bèn nhờ Bá viết thư cho viên thuyền trưởng, đề nghị họ bán cả tầu hoặc một phần, cho Đỗ Thanh Nhơn, hoặc đem "cả tầu về giúp" Nam Hà thì sẽ được quyền vào cảng không phải đóng thuế. Các chủ tầu phàn nàn về "thái độ can thiệp" của Bá Đa Lộc. Nhưng nhờ sự "can thiệp" này, mà Nguyễn Ánh mới có cuộc duyệt binh năm hè năm 1781 [với hai tầu Tây phương]. Bá còn cho biết, không những có 2 tầu [do ông "can thiệp" mà Nguyễn Ánh mới có] mà tới 3 tầu Bồ Đào Nha "chở đầy binh lính khí giới và lương thực". Chính Bá Đa Lộc "bằng cách nói chuyện chơi" cũng đã giảng cho Đỗ Thanh Nhơn biết kỹ thuật mới của Tây phương và dạy Đỗ Thanh Nhơn dùng lựu đạn.

Vì câu chuyện này vô lý, chúng tôi mới tìm đọc nguyên văn tiếng Pháp, xem Bá Đa Lộc thực sự nói gì trong lá thư đề ngày 26/7/1779, thì đây là một bản tuyên bố, không phải là thư, xin dịch nguyên văn như sau:

"26/7/1779

Pierre-Joseph-Georges, giám mục Adran, Đại lý giáo hoàng ở Nam Hà, Cao Miên và Chàm, gửi tới tất cả những ai cần biết, lời chào.

Năm nay [1779] có hai tầu buôn [Bồ] từ Macao đến Bassac [Cà Mau], một người Hoa báo ngay cho quan đại thần Nam Hà biết tầu chở đại bác, salpêtre, lưu huỳnh và nhiều quân nhu khác. Vị quan này, rất thân với tôi, đang cần đến tất cả những hàng hoá này, khẩn khoản nhờ tôi viết thư cho các thuyền trưởng, đề nghị họ bán cho ông một phần hay tất cả, hoặc cứ đem tầu ghé thẳng vào Nam Hà, sẽ được miễn các thứ thuế nhập khẩu. Tôi làm giúp và hai vị thuyền trưởng này, lúc từ Cao Miên trở lại, đã gửi ngay những người lái tầu sang điều đình với ông quan, xong việc, cả hai hoa tiêu đều bằng lòng, một người quay về Bassac một người ở lại đây. Còn tôi, sau khi làm xong việc giới thiệu các thuyền trưởng với ông quan, tôi đi thăm một phần giáo phận của tôi, vì các tu sĩ và giáo dân đang đợi tôi từ một tháng nay.

Những vị thuyền trưởng khi đến đây cùng với tầu của họ lại tưởng rằng tôi cốt ý tránh và than phiền thái độ của tôi đối với họ. Lại được một giáo sĩ, có ác cảm với tôi, phụ hoạ, họ bảo rằng:

1- Họ nghi tôi muốn cướp quyền tự do của tầu [Bồ] ở Macao đến buôn bán ở đây.

2- Họ than phiền tôi làm vài việc xấu với vua Cao Miên.

3- Họ buộc tội tôi dạy người Nam Hà cách đúc đại bác, làm bom và những khí giới khác..."[30]

Bài tuyên bố này được Launay in lại và trình bầy dưới tựa đề: "Vụ tầu Bồ Đào Nha, tuyên bố của đức GM Bá Đa Lộc (Affaires des vaisseaux portugais, Déclaration de Mgr Pigneaux)".

Lời tuyên bố của Ba Đa Lộc trên đây có mục đích: Thuật lại vụ năm 1779, có hai tầu buôn Bồ chở đại bác, salpêtre, lưu huỳnh... từ Macao đến Cà Mau. Một người Hoa báo tin này cho quan đại thần biết. Vị đại thần, quen thân với Bá Đa Lộc, khẩn khoản nhờ ông liên lạc với thuyền trưởng, hỏi mua một phần hàng hoá; hoặc cứ chở thẳng hàng đến bến cảng, thì sẽ được miễn thuế nhập khẩu. Bá Đa Lộc làm xong việc môi giới này rồi đi thăm giáo dân. Việc mua bán cũng đã ngã ngũ. Nhưng khi thuyền trưởng của hai tầu này, từ Cao Miên trở lại, không thấy ông Bá, lại tưởng ông muốn tránh họ, thêm một giáo sĩ Bồ ghét ông Bá, gây hiểu lầm, khiến người Bồ đổ cho ông những tội sau đây:

1- Họ nghi ông cướp quyền tự do của tầu [Bồ] ở Macao đến buôn bán tại Nam Hà.

2- Họ than ông làm những việc xấu xa với vua Cao Miên.

3- Họ buộc ông tội dạy người Nam Hà cách đúc đại bác, làm bom và khí giới khác.

Vì vậy, Bá Đa Lộc phải viết bản tuyên ngôn này để bảo vệ danh dự thầy tu, đại lý giáo hoàng.

Tóm lại, ý của Bá Đa Lộc rõ ràng: Ông không hề tham dự vào chiến tranh. Ông cũng chẳng làm gì trở ngại cho việc buôn bán khí giới của tầu Bồ với Nam Hà cả, ông chỉ giúp một vị đại thần, bạn thân, liên lạc với hai tầu Bồ mà thôi. Xong việc, ông đi thăm con chiên của ông. Khi đến Hà Tiên (hay Gia Định) hai vị thuyền trưởng Bồ vì không thấy ông ở đấy, đã hiểu lầm, tưởng ông trốn không muốn tiếp họ. Hai vị này lại gặp một giáo sĩ Bồ vốn ghét ông, nên cả ba về hùa, thêu dệt, tố cáo ông ba điều đã nói ở trên.

Sở dĩ có những tranh chấp, tố cáo này, vì thời đó, Pháp và Bồ cạnh tranh kịch liệt trên địa hạt tôn giáo cũng như buôn bán.

Không hiểu tại sao một bản tuyên ngôn viết khá rõ ràng, rành mạch như vậy, lại được Tạ Chí Đại Trường hiểu và viết lại như trên kia. Chúng tôi phân tích sau đây sự Tạ Chí Đại Trường hiểu lầm lời của Bá Đa Lộc như thế nào:

1- Trước hết, vì ông Tạ hiểu sai câu chữ (xem bản tiếng Pháp ở chú thích), câu "hoặc có thể đưa tầu ghé vào Nam Hà, sẽ được miễn các thứ thuế nhập khẩu" lại được ông hiểu thành: "đem tầu giúp xứ Cochinchine; đổi lại, họ được hưởng quyền ghé bến và những quyền lợi khác nữa". Hai người này chỉ là thuyền trưởng, họ có phải là chủ tầu đâu, làm sao họ có thể đem tầu "giúp" xứ Cochinchine được, và "biếu" tầu rồi cũng chỉ được quyền ghé bến và những quyền lợi khác? Là những quyền lợi gì? Ai lại đem cho không tầu, để đổi lấy quyền "ghé bến"?

2- Ông Tạ tiếp tục hiểu sai nữa, khi viết: "Tuy các vị chủ tầu có phàn nàn về thái độ tham dự của Bá Đa Lộc". ÔngTạ đã lầm thuyền trưởng với chủ tầu. Hai vị thuyền trưởng này chẳng hề phàn nàn về "thái độ tham dự" nào của Bá Đa Lộc cả, họ phàn nàn vì ông Bá không ở lại (Hà Tiên hay Gia Định, vì trong văn bản, không nói rõ nơi) để đón họ, mà lại đi vắng.

3- Từ cái sai trên, Tạ Chí Đại Trường móc nối thêm nữa: ông cho rằng cách "giao thiệp" [đúng hơn là xoay xở] của Bá Đa Lộc, đã đưa đến kết quả là cuộc duyệt binh năm 1781 với "3 vạn quân, 80 thuyền đi biển, 3 đại chiến thuyền, sử quan ghi rõ có hai chiếc tầu Tây (Tây dương thuyền)" [tức là: nhờ Bá Đa Lộc khéo xoay xở được 2 chiếc tầu Bồ cho không, vì thế Nguyễn Ánh mới có cuộc duyệt binh năm 1781 với 2 tầu Tây dương! Và không phải chỉ có hai, "thực ra, Bá-đa-lộc và các LM giòng Franciscain ghi nhận tới 3 chiếc tầu Bồ đào nha chở đầy binh lính, khí giới, súng đạn và lương thực"]. Cách viết sử suy diễn như thế, thực là đáng ngại.

4- Đoạn sau cùng còn tệ hơn nữa, ông Tạ viết: "Chính Bá-đa-lộc, "bằng cách nói chuyện chơi" cũng đã du nhập kiến thức, kỹ thuật mới vào Gia định khi ông dạy Đỗ thanh Nhân lối dùng lựu đạn, làm giúp một thước do góc đạc điền, một rapporteur, một ống loa, một dụng cụ thiên văn (?) và những dụng cụ toán học khác... Hơn nữa, ông còn cho người giúp việc của ông, Mãn-noài, Emmanuel... một tay lính thuỷ breton, sang phụ tá Nguyễn Ánh, điều khiển một chiếc tầu Bồ."

Viết đoạn văn này, ông Tạ dựa theo điểm thứ ba, trong bài tuyên bố ngày 26/7/1779 của Bá Đa Lộc. Chủ đích của Bá Đa Lộc là phản bác ba điều bị người Bồ lên án đã kể ở trên. Điều thứ nhất vừa trình bầy. Điều thứ nhì liên quan tới vua Cao Miên, không cần dịch. Điều thứ ba là đoạn này:

"Còn về điều thứ ba, tôi không bao giờ làm và giúp ai làm bom, làm đại bác, hay bất cứ khí giới nào khác. Tôi biết quá rõ việc này không phù hợp với tình trạng [thầy tu] của tôi. Một điều có thể dẫn đến những nghi ngờ này, là việc ông quan hỏi tôi về cách nạp một quả lựu đạn ông có từ Cao Miên, và vài thứ vụn vặt khác về loại này, tôi giải thích cho ông trong lúc trò chuyện. Tôi cũng chia độ một graphomètre, một phần tư vòng tròn, một thước đo góc cho ông và đặt làm cho ông một loa phóng, một vành thiên văn và vài dụng cụ toán học khác. Đó là những gì tôi thấy có bổn phận phải ghi ra để ngăn chặn hậu quả những vu cáo và báo cáo của những kẻ có ý xấu." [31]

Bá Đa Lộc viết rất rõ ràng: mọi sự đồn đại chỉ vì ông quan (le mandarin) hỏi ông cách nạp một quả lựu đạn ông có từ Cao Miên (charger une grenade qu'il avait eue du Camboge). Trong bối cảnh của câu này, ta chỉ có thể hiểu: le mandarin là Mạc Thiên Tứ, khó có thể là Đỗ Thanh Nhơn như Tạ Chí Đại Trường viết, vì hai lẽ:

1- Mạc Thiên Tứ (1718-1780), công thần nhà Nguyễn, là ân nhân của Bá Đa Lộc, kể từ tháng 6/1775, đã cho phép ông lập trụ sở ở Hòn Đất và giảng đạo khắp Hà Tiên.

2- Không thấy chỗ nào Bá Đa Lộc nhắc đến Đỗ Thanh Nhơn, vị tướng hiếu sát, giết người như cỏ rác này là bạn cả.

Mạc Thiên Tứ, quan trấn thủ Hà Tiên, nhà văn học và khoa học, không biết dùng lựu đạn, và cần những dụng cụ thiên văn, đo lường... Bá Đa Lộc cũng như một số thầy tu uyên bác, đều rành về thiên văn và khoa học, nên đã mua giúp người bạn và ân nhân Mạc Thiên Tứ những việc đó.

Tạ Chí Đại Trường đưa tên Đỗ Thanh Nhơn vào, để vinh thăng Bá Đa Lộc, ở hai điểm:

- Đã xoay xở cho Nguyễn Ánh được 2, 3 tầu Tây phương của Bồ Đào Nha.

- Đã du nhập kiến thức mới vào Gia Định bằng cách "dạy" Đỗ Thanh Nhơn, một vị tướng tinh thạo khí giới, đóng tầu trường đà... cách dùng lựu đạn!

Vì không hiểu rõ tiếng Pháp, Tạ Chí Đại Trường đã biến lời tuyên bố của Bá Đa Lộc: Tôi không can dự vào cuộc chiến, thành một lời ngược lại: tôi đã chiếm được cho Nguyễn Ánh hai tầu chiến Bồ và dạy tướng Đỗ Thanh Nhơn biết dùng lựu đạn!

Lời tuyên bố trên đây của giám mục Bá Đa Lộc rất quan trọng, nó đã bác bỏ tất cả những "thông tin" cho rằng Bá Đa Lộc có dính líu xa gần đến chiến tranh. Bá Đa Lộc chính thức xác định ông chỉ là thầy tu, lo chuyện đạo. Trong số những lập luận bị Bá Đa Lộc đào thải, đáng kể nhất là lập luận của Alexis Faure trong cuốn Bá Đa Lộc, người đã vẽ chân dung ông và tôn ông lên hàng "nguyên soái" cầm đầu quân đội Nguyễn Ánh, rồi cho ông chức "Bộ trưởng bộ chiến tranh", từ 1780, và biến ông trở thành Richelieu của Gia Long!

II- Gabriel Aubaret dịch Gia Định Thành Thông Chí

Vua Tự Đức, muốn yên mặt Nam để có thể sai Nguyễn Tri Phương ra Bắc dẹp loạn, đành phải ký hoà ước Nhâm Tuất, nhượng cho Pháp ba tỉnh Biên Hoà, Gia Định và Định Tường. Nhưng sau đó, vua hết sức muốn chuộc lại, bèn sai Phan Thanh Giản sang Pháp điều đình. Napoléon III phái trung tá hải quân Gabriel Aubaret sang Việt Nam xem xét tình hình. Aubaret tỏ ra ôn hoà, được nhiều sử gia Việt có cảm tình. Trần Trọng Kim, Phan Khoang đều cho rằng sở dĩ việc điều đình không thành vì vua Tự Đức không dứt khoát, cố tình kéo dài thương thuyết để hy vọng sẽ chiến thắng, hoặc quân Pháp thấy đánh bất lợi sẽ tự rút lui. Nhưng Thực Lục cho biết chính phía Pháp cố tình kéo dài thương thuyết và một mặt vẫn tấn công.

Ta có thể tạm hiểu Aubaret được lệnh "giả vờ" thương thuyết để chứng tỏ thực tâm của nước Pháp. Về mặt Pháp, bộ trưởng Hải quân và Thuộc điạ Chasseloup Laubat, năm 1864, đã dâng sớ tâu vua Pháp, không cho chuộc ba tỉnh Nam kỳ. Sự kiện này có thể liên hệ tới cuốn sách tựa đề:

(Gia-Đinh-Thung-Chi) Histoire et description de la Basse Cochinchine (Pays de Gia Định) traduites pour la première fois, d'après le texte chinois original, par G. Aubaret, capitaine de frégate, publiées par ordre de s. exc. le comte de Chasseloup-Laubat, ministre de la Marine et des Colonies. Paris, Imprimerie Impériale, 1864.

Dịch: (Gia Định Tùng Chi) Lịch sử và miêu tả miền nam nước Nam (Vùng Gia Định), do G. Aubaret, hải quân trung tá, dịch lần đầu, theo bản gốc chữ Hán, ấn hành theo lệnh của Ngài Bá Tước de Chasseloup-Laubat, bộ trưởng Hải quân và Thuộc điạ. Paris, nhà in Hoàng gia, 1864.

Trong cái tựa rất dài này, có hai điểm đáng chú ý:

1- Biến tên đích thực của cuốn sách Gia Định thành thông chí (Ghi chép thông suốt về thành Gia Định) thành Gia Định Tùng chi (Gia Định, nhiều chi họp lại) và bỏ hẳn chữ thành. Chúng ta sẽ hiểu rõ tại sao, ở dưới.

2- Không đề tên tác giả Trịnh Hoài Đức, chỉ ghi mơ hồ: dịch theo bản gốc chữ Hán. Để độc giả có thể nhầm là sách của người Trung Hoa. Một sự miệt thị và gian dối của dịch giả.

Bài Introduction (Nhập đề) còn đi xa hơn nữa, Aubaret viết:

"Độc giả sẽ kinh ngạc khi thấy sự vong ân bội nghiã của sử gia [chỉ Trịnh Hoài Đức]; không những không nói gì đến Giám mục Bá Đa Lộc mà cũng không nhắc nhở gì đến những sĩ quan lỗi lạc của Pháp mà Gia Long đã hoàn toàn dựa vào để khôi phục lại ngai vàng. Nhưng độc giả cũng đừng quên rằng cuốn sách này được viết dưới triều Minh Mạng, ông hoàng bẩm sanh có tánh vô ơn, cho nên nếu viết theo đúng cảm tưởng của mình thì có thể rất nguy hiểm. Tuy nhiên chữ "Pháp" được thấy nhiều lần trong sách, và người ta còn ca tụng một người lính thủy gốc Breton [chỉ Mạn Hoè] sau khi chết được thần thánh hoá ở Nam Kỳ" (trang IV).

Giọng điệu thực lạ lùng của một dịch giả nói về tác giả của cuốn sách mà mình dịch, chưa kể sự suy diễn có tính bệnh hoạn của dịch giả về một ông vua "bẩm sanh có tánh vô ơn".

Nhân nói qua về thành Gia Định, Aubaret không quên nhấn mạnh: "Ngày nay [1864] người ta còn gọi là thành Phan Yên, khi nói đến công cuộc vĩ đại do đại tá Pháp Olivier thực hiện" (t. VII)".

Và cuối cùng, ông cho biết mục đích của mình khi dịch cuốn sách này: "Mục đích của chúng tôi, khi dịch sách này, trước hết là thực tiễn và muốn giới thiệu một xứ đáng chú ý trên nhiều bình diện, về địa thế cũng như về sự giầu có của đất đai, có thể trở nên nguồn lợi tức quan trọng đối với nước Pháp, đồng thời Pháp có thể truyền bá ảnh hưởng tinh thần một cách chính đáng trong vùng viễn đông, nơi những thế lực thương mại Âu Châu hôm nay đang nhòm ngó. Paris ngày 1/7/1863" (t. XIII).

Vậy ta có thể hình dung câu chuyện như thế này: sách dịch xong ngày 1/7/1863, Aubaret trình cho bộ trưởng Chasseloup-Laubat. Sau khi tham khảo kỹ càng cuốn sách, bởi đây là cuốn sách toàn thư về miền Nam, có thể so sánh với bộ Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú về miền Bắc, năm sau, 1864, ông bộ trưởng tâu lên Pháp hoàng: một xứ cực kỳ giầu có về tài nguyên như vậy, ta không thể không chiếm cho được.

Nhưng mục đích của sự dịch không chỉ ngừng ở đó, Aubaret còn muối mặt bỏ hẳn chương quan trọng nhất là Thành trì chí,Trịnh Hoài Đức viết về thành Gia Định và các thành đồn khác được xây dựng dưới thời Gia Long. Không những Trịnh Hoài Đức mô tả thành Gia Định rõ ràng và tường tận, và ông còn mô tả những thành khác xây theo lối bát giác như thành Gia Định. Nếu để cho độc giả đọc chương Thành trì chí này, thì không ai còn coi thành Gia Định là một thành Tây do người Tây xây.

Tại sao? Bởi vì trong chương này, Trịnh Hoài Đức, ngoài việc mô tả thành phố Gia Định, từng nét, từng nét, rõ ràng. Ông còn kê khai vị trí các địa điểm đáng chú ý: Công binh xưởng (Cục Chế Tạo) ở trong thành sau đường Cấn Chỉ và Đoài Duyệt. Kho bạc ở phiá phải đường Càn Nguyên và Khảm Hiểm. Kho thổ sản ở bên trái đường Càn Khảm. Trại đúc súng ở phiá trước, bên trái Cục chế tạo, đúc các loại súng lớn bằng đồng, bằng sắt, và súng hoả xa trụ. Kho thuốc súng ở mặt sau nội thành. Xưởng thuyền chiến ở phiá đông, cách thành một dặm, trên sông Tân Bình, xưởng dài 3 dặm, làm thuyển hải đạo, chiến hạm, ghe chiến cụ... Xưởng voi, Xuởng thuốc súng, Khám đường, Sứ quán, Trường học, Trường Diễn võ ... ở đâu, ở đâu, Trịnh Hoài Đức đều nói rõ cả.

Nhất là ông còn cho biết về các đồn luỹ xây cùng thời ấy: Đồn Giác Ngư (tức đồn Cá Trê) (xây ngày 1/4/1789) và đồn Thảo Câu (trấn Biên Hoà), đối diện nhau trên 2 bên bờ sông Tân Bình (sông Sài Gòn). Lũy Hoa Phong ở Bình Dương, do Tống suất trưởng cơ Nguyễn Lễ, bình định Cao Miên rồi đắp năm 1700. Luỹ Bán Bích ở địa phận Bình Dương và Tân Long, do đốc chiến Nguyễn Đàm xây, hình giống mặt trăng xếp, sau khi thắng quân Xiêm năm 1772 [Luỹ Bán Bích sẽ là khởi thuỷ của thành Gia Định]. Đồn Tân Châu, do trấn thủ Vĩnh Thanh là Nguyễn Văn Xuân đắp năm 1818. Đồn Mỹ Tho, hình vuông, đắp năm 1792. Đồn trấn Vĩnh Thanh (Vĩnh Long và An Giang), bát giác, do trấn thủ Lưu Phước Tường xây năm 1813. Đồn Châu Đốc, bát giác, Lưu Phước Tường xây 1815. Đồn Châu Giang, bát giác, Nguyễn Văn Xuân xây năm 1818, vv... Nguyễn Đàm hay Nguyễn Cửu Đàm là người đầu tiên vạch điạ phận thành phố Gia Định bằng luỹ Bán Bích, năm 1772.

Tất cả những công trình này đều do người Việt xây, không có dấu vết Vauban nào cả và cũng không thấy Trịnh Hoài Đức nói đến công lao của một ông Le Brun hay ông Olivier de Puymanel nào. Đó là lý do khiến Aubaret đã bỏ hẳn chương sáu: Thành trì chí của Trịnh Hoài Đức, không dịch. Và sau này Cadière có thể nhận vơ tất cả những công trình này là do Puymanel xây, hoặc dạy dân ta xây, mà không sợ chứng cớ rành rành đã nằm trong Gia Định Thành Thông Chí của Trịnh Hoài Đức.

[1] Monseigneur Pigneau de Béhaine évêque d'Adran, Augustin Challamel, Paris, 1891.

[2] Có chỗ ông ghi 359, nhưng đếm lại thì đúng là 369.

[3] Nguyên văn tiếng Pháp: MM Olivier et Lebrun, officiers français, lui donnèrent un plan de ville fortifiée.

[4] Taboulet, La Geste française en Indochine, I, t. 242.

[5] Ý nói hành trình Bá Đa Lộc và Hoàng tử Cảnh từ Pháp về năm 1788, trên tầu Dryade: khởi hành từ Orient (Bretagne, Pháp) để đến Pondichéry (Ấn Độ).

[6] Faure, Bá Đa Lộc, chương 17, t. 199-200.

[7] Faure, Bá Đa Lộc, chương 17, t. 210.

[8] Faure, Bá Đa Lộc, chương 3, t. 41.

[9] De Richelieu (1585-1642), Hồng y giáo chủ, Thừa tướng của Louis XIII (1610-1643) đã giúp vua dựng nghiệp.

[10] Faure, Bá Đa Lộc, chương 18, t. 220-221.

[11] Thư giáo sĩ Lavoué gửi quản thủ Létondal ngày 27/4/1795, Launay, III, t. 286.

[12] Faure, Bá Đa Lộc, chương 18, t. 217.

[13] Faure, Bá Đa Lộc, chương 18, t. 221.

[14] Faure, Bá Đa Lộc, chương 17, t. 200-201.

[15] Faure, Bá Đa Lộc, chương 18, t. 221-222.

[16] Faure, Bá Đa Lộc, chương 18, t. 222-223.

[17] Faure, Bá Đa Lộc, chương 18, t. 224.

[18] Tạ Chí Đại Trường, Lịch Sử Nội Chiến ở Việt Nam, t. 113.

[19] Tạ Chí Đại Trường, Lịch Sử Nội Chiến ở Việt Nam, t. 113 và 177.

[20] Tạ Chí Đại Trường, Lịch Sử Nội Chiến ở Việt Nam, t. 100.

[21] Tạ Chí Đại Trường, Lịch Sử Nội Chiến ở Việt Nam, t.279.

[22] Tạ Chí Đại Trường, Lịch Sử Nội Chiến ở Việt Nam, t.100-101.

[23] Gia Định Thành Thông Chí, t. 40.

[24] TL, II, t. 498-499.

[25] Tạ Chí Đại Trường, Lịch Sử Nội Chiến Ở Việt Nam, t. 175.

[26] Tạ Chí Đại Trường, Lịch Sử Nội Chiến ở Việt Nam, t. 106.

[27] Tạ Chí Đại Trường, Lịch Sử Nội Chiến ở Việt Nam, t. 220.

[28] Tạ Chí Đại Trường, Lịch Sử Nội Chiến ở Việt Nam, t. 107.

[29] Tạ Chí Đại Trường, Lịch sử Nội Chiến ở Việt Nam, t. 106-107.

[30] Nguyên văn tiếng Pháp: "26/7/1779

Pierre-Joseph-Georges, évêque d'Adran, Vicaire apostolique de Cochinchine, Camboge et Ciampa, à tous ceux à qui besoin sera, salut.

"Deux vaisseaux étant venus cette année de Macao à Bassac, pour y faire le commerce, un Chinois en donna aussitôt avis au grand mandarin de Cochinchine, et lui annonca que les vaisseaux étaient chargés de canons, de salpêtre, soufre, et autres munitions de guerre. Le mandarin, avec qui je suis fort lié, se trouvant dans un grand besoin de toutes ces marchandises, me pressa vivement d'en écrire aux capitaines et de les prier, de sa part, de les lui vendre tout ou en partie, ou même de passer en Cochinchine avec leurs vaisseaux si cela était possible, remettant à cet effet tout droit d'encrage et autres. Je fis sa commission et les capitaines, au retour du Cambodge, envoyèrent tout de suite leurs pilotes pour s'arranger avec lui. Les arrangements pris, et les pilotescontents, l'un retourna à Bassac, l'autre demeura ici. Pour moi, après avoir recommandé les capitaines au mandarin, je partis pour aller faire la visite d'une partie de mon Vicariat, où les missionnaires et les chrétiens m'attendaient depuis plus d'un mois.

Les capitaines arrivés ici avec leurs vaisseaux s'imaginèrent que je m'étais éloigné à dessein, et se plaignirent de ma conduite à leur égard. Confirmés dans leur opinion par un religieux missionnaire, qui, de son côté, n'a pas tout lieu d'être content de moi, on dit que: 1- ils me soupconnèrent de vouloir ôter aux vaisseaux de Macao la liberté de venir faire le commerce ici; 2- ils se plaignirent que j'avais quelques mauvaises affaires avec le roi du Camboge; 3- ils m'accusèrent d'avoir enseigné aux Cochinchinois la manière de fondre des canons, de faire des bombes et autres armes..." (Histoire de la Mission de Cochinchine 1658-1823, Launay, III, t. 75).

[31] Nguyên văn tiếng Pháp: "Quant au troisième article, je n'ai jamais fait ni aidé à faire aucune bombe, canon ou autre arme quelconque. Je sais trop que cela ne convient en aucune manière à mon état. Ce qui a pu donner lieu à ces soupçons, c'est que le mandarin m'ayant interrogé sur la manière de charger une grenade qu'il avait eu du Camboge, et autres bagatelles en ce genre, je le lui avais dit par manière de conversation. Je lui graduai un graphomètre, quart de cercle, un rapporteur et lui fis faire un porte-voix, un anneau astronomique, et autres instruments de mathématique. Voilà ce que j'ai cru devoir remarquer pour empêcher les effets que pourraient causer les calomnies et les rapports de personnes mal intentionnés". Launay III, t. 76.

Thụy Khuê

© Copyright Thuy Khue 2015

Từ khóa » Tiểu Sử Bá đa Lộc