Âm Dương – Wikipedia Tiếng Việt
Có thể bạn quan tâm
| Bài này không có nguồn tham khảo nào. Mời bạn giúp cải thiện bài bằng cách bổ sung các nguồn tham khảo đáng tin cậy. Các nội dung không nguồn có thể bị nghi ngờ và xóa bỏ. Nếu bài được dịch từ Wikipedia ngôn ngữ khác thì bạn có thể chép nguồn tham khảo bên đó sang đây. (tháng 1/2022) (Tìm hiểu cách thức và thời điểm xóa thông báo này) |

| Chuyên đề |
| Đạo giáo |
|---|
Học thuyết
|
Nhân vật
|
Thần tiên
|
Tông phái
|
Điển tịch
|
Động thiên phúc địa
|
Khác
|
|
Âm dương (chữ Hán: 陰陽, bính âm: yīn yáng) là hai khái niệm để chỉ hai thực thể đối lập ban đầu tạo nên toàn bộ vũ trụ.
Quá trình hình thành
[sửa | sửa mã nguồn]Nguồn gốc của âm dương
[sửa | sửa mã nguồn]Âm dương là hai khái niệm được hình thành cách đây rất lâu. Về nguồn gốc của âm dương và triết lý âm dương, rất nhiều người theo Khổng An Quốc và Lưu Hâm (nhà Hán) mà cho rằng Phục Hy là người có công sáng tạo và được ghi chép trong Kinh Dịch (2800 TCN). Một số người khác thì cho rằng đó là công lao của "âm dương gia", một giáo phái của Trung Quốc.
Trừu tượng hóa âm dương
[sửa | sửa mã nguồn]
Từ việc khái niệm âm dương được dùng để chỉ những cặp đối lập cụ thể ở trên, người xưa tiến thêm một bước là dùng nó để chỉ những cặp đối lập trừu tượng hơn ví dụ như "lạnh-nóng", rồi cặp "lạnh-nóng" lại là cơ sở để suy tiếp như về phương hướng: "phương bắc" lạnh nên thuộc âm, "phương nam" nóng nên thuộc dương; về thời tiết: "mùa đông" lạnh nên thuộc âm, "mùa hè" nóng nên thuộc dương; về thời gian: "ban đêm" lạnh nên thuộc âm, "ban ngày" nóng nên thuộc dương. Nếu tiếp tục suy diễn nữa thì: đêm thì tối nên "tối" thuộc âm, ngày thì sáng nên "sáng" thuộc dương; tối có màu đen nên "màu đen" thuộc âm, ngày sáng thì nắng "đỏ" nên "màu đỏ" thuộc dương.
Từ cặp "mẹ-cha" (nữ-nam, cái-đực) có thể suy ra rằng:
- Giống cái có khả năng mang thai (tuy một mà hai), nên về loại số, thì số "chẵn" thuộc âm; giống đực không có khả năng ấy, một là một, nên số "lẻ" thuộc dương. Điều này giải thích tại sao quẻ dương là một vạch dài (|), còn quẻ âm là hai vạch ngắn (:).
- Về hình khối thì khối vuông ổn định, tĩnh, tỷ lệ giữa cạnh và chu vi là 1:4, số 4 là số chẵn, chính vì thế mà khối vuông thuộc âm; hình cầu không ổn định, động, tỷ lệ giữa đường kính và chu vi là 1:3 (số ), số 3 là số lẻ, chính vì vậy mà khối cầu thuộc dương (xem Hình 2).
Tuy vậy, các cặp đối lập chưa phải là nội dung chính của triết lý âm dương. Triết lý âm dương không phải là triết lý về các cặp đối lập. Tất cả các dân tộc trên thế giới đều có các phạm trù đối lập nhau, ngôn ngữ của tất cả các dân tộc đều có từ trái nghĩa. Điều quan trọng của triết lý âm dương chính ở bản chất và quan hệ của hai khái niệm âm dương. Đó chính là điều khác biệt triết lý âm dương với các triết lý khác.
Các quy luật của triết lý âm và dương
[sửa | sửa mã nguồn]Tất cả các đặc điểm của triết lý âm dương đều tuân theo hai quy luật cơ bản. Đó là quy luật về bản chất của các thành tố và quy luật về quan hệ giữa các thành tố.
Quy luật về bản chất của các thành tố
[sửa | sửa mã nguồn]Quy luật về bản chất của các thành tố của triết lý âm dương là:
- Không có gì hoàn toàn âm hoặc hoàn toàn dương
- Trong âm có dương, trong dương có âm.
Quy luật này cho thấy việc xác định một vật là âm hay dương chỉ là tương đối, trong sự so sánh với một vật khác. Ví dụ về trong âm có dương: đất lạnh nên thuộc âm nhưng càng đi sâu xuống lòng đất thì càng nóng; về trong dương có âm: nắng nóng thuộc dương, nhưng nắng nhiều sẽ có mưa nhiều (hơi nước bay lên) làm nên mưa lạnh thuộc âm. Chính vì thế mà việc xác định tính âm dương của các cặp đối lập thường dễ dàng. Nhưng đối với các vật đơn lẻ thì khó khăn hơn nên có hai hệ quả để giúp cho việc xác định tính âm dương của một đối tượng:
- Muốn xác định được tính chất âm dương của một đối tượng thì trước hết phải xác định được đối tượng so sánh. Màu trắng so với màu đỏ thì là âm, nhưng so với màu đen thì là dương. Ta có thể xác lập được mức độ âm dương cho nhiều hệ; ví dụ, về màu sắc thì đi từ âm đến dương ta có đen-trắng-xanh-vàng-đỏ (đất "đen" sinh ra mầm lá "trắng", lớn lên thì chuyển thành "xanh", lâu dần chuyển thành lá "vàng" và cuối cùng thành "đỏ")
- Muốn xác định được tính chất âm dương của một đối tượng thì phải xác định được cơ sở so sánh. Giả dụ, nước so với đất thì, về độ cứng thì nước là âm, đất là dương; nhưng về độ linh động thì nước là dương, đất là âm.
Quy luật về quan hệ giữa các thành tố
[sửa | sửa mã nguồn]Quy luật về quan hệ giữa các thành tố của triết lý âm dương là:
- Âm dương gắn bó mật thiết với nhau, vận động và chuyển hóa cho nhau, và
- Âm phát triển đến cùng cực thì chuyển thành dương, dương phát triển đến cùng cực thì chuyển thành âm.
Ngày và đêm, tối và sáng, mưa và nắng, nóng và lạnh,... luôn chuyển hóa cho nhau. Cây màu xanh từ đất "đen", sau khi lớn chín "vàng" rồi hóa "đỏ" và cuối cùng lại rụng xuống và thối rữa để trở lại màu "đen" của đất. Từ nước lạnh (âm) nếu được đun nóng đến cùng cực thì bốc hơi lên trời (thành dương), và ngược lại, nếu được làm lạnh đến cùng cực thì nó sẽ thành nước đá (thành âm).
Tất cả các quy luật trên được thể hiện đầy đủ trong biểu tượng âm dương (xem Hình 1) nói lên bản chất và sự chuyển hóa của âm và dương.
So sánh với các quy luật của logic học
[sửa | sửa mã nguồn]Trong logic học cũng có hai quy luật tương đương với hai quy luật ở trên. Đó là quy luật về bản chất của thành tố - luật đồng nhất, và quy luật về quan hệ giữa các thành tố - luật lý do đầy đủ mà hệ quả của nó là luật nhân quả.
Luật đồng nhất (bản chất A=A) chỉ đúng khi sự vật và hiện tượng đứng yên, mà điều này thì không biện chứng vì sự vật và hiện tượng luôn vận động (đổi mới), mà nếu vận động thì nó không thể đồng nhất với chính nó được nữa. Trong khi đó, quy luật về bản chất của triết lý âm dương là trong âm có dương, trong dương có âm, tức là trong A đã có B rồi.
Luật lý do đầy đủ xác lập nên luật nhân quả cũng chỉ xem xét sự vật và hiện tượng trong sự cô lập, không liên hệ với môi trường xung quanh, trong khi trên thực tế, sự vật và hiện tượng tồn tại trong không gian và quan hệ với các sự vật và hiện tượng khác. Cái này là nhân của cái kia, nhưng nó lại là quả của cái khác. Không có nhân tuyệt đối và quả tuyệt đối rất phù hợp với luật chuyển hóa âm dương bất tận, vô thủy (không có bắt đầu) và vô chung (không có kết thúc).
Hai quy luật của logic học là sản phẩm của lối tư duy phân tích, chú trọng đến các yếu tố biệt lập của văn hóa du mục; trong khi quy luật của triết lý âm dương là điển hình của tư duy tổng hợp, chú trọng đến các quan hệ của văn hóa nông nghiệp.
Hai hướng phát triển của triết lý âm dương
[sửa | sửa mã nguồn]Triết lý âm dương là cơ sở để xây dựng lên hai hệ thống triết lý khác đó là hệ thống "tam tài, ngũ hành" và "tứ tượng, bát quái".
Nếu so sánh phương Đông với phương Tây thì phương Tây chú trọng đến tư duy phân tích, siêu hình còn phương Đông chú trọng đến tư duy tổng hợp, biện chứng. Nhưng nếu xét riêng ở phương Đông thì nếu đi từ bắc xuống nam ta sẽ thấy phía bắc Trung Quốc nặng về phân tích hơn tổng hợp, còn phía nam thì ngược lại, nặng về tổng hợp hơn phân tích. Triết lý âm dương bắt nguồn từ phương Nam, nhưng đối với các dân tộc Đông Nam Á, do tính phân tích yếu nên họ chỉ lại ở tư duy âm dương sơ khai mang tính tổng hợp. Trong khi đó khối Bách Việt đã phát triển và hoàn thiện nó. Tổ tiên người Hán cũng vậy, sau khi tiếp thu triết lý âm dương sơ khai, họ cũng phát triển nó nhưng do năng lực phân tích của họ mạnh hơn năng lực phân tích của người Bách Việt mà từ triết lý âm dương ban đầu, người Bách Việt và người Hán đã xây dựng nên hai hệ thống triết lý khác nhau.
Ở phương Nam, với lối tư duy mạnh về tổng hợp, người Bách Việt đã tạo ra mô hình vũ trụ với số lượng thành tố lẻ (dương): hai sinh ba (tam tài), ba sinh năm (ngũ hành). Chính vì thế mà Lão Tử, một nhà triết học của nước Sở (thuộc phương Nam) lại cho rằng: "nhất sinh nhị, nhị sinh tam, tam sinh vạn vật". Tư duy số lẻ là một trong những nét đặc thù của phương Nam. Trong rất nhiều thành ngữ, tục ngữ Việt Nam, các số lẻ như 1, 3, 5, 7, 9 xuất hiện rất nhiều. Ví dụ: "ba mặt một lời"; "ba vợ, bảy nàng hầu"; "tam sao, thất bản"...
Ở phương Bắc, với lối tư duy mạnh về phân tích, người Hán đã gọi âm dương là lưỡng nghi, và bằng cách phân đôi thuần túy mà sinh ra mô hình vũ trụ chặt chẽ với số lượng thành tố chẵn (âm). Chính vì vậy Kinh Dịch trình bày sự hình thành vũ trụ như sau: "lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái, bát quái biến hóa vô cùng" (hai sinh bốn, bốn sinh tám). Người phương Bắc thích dùng số chẵn; ví dụ, "tứ đại", "tứ mã", "tứ trụ",... Lối tư duy như vậy, hoàn toàn không có chỗ cho ngũ hành - điều này cho thấy, quan niệm cho rằng "âm dương - ngũ hành - bát quái" chỉ là sản phẩm của người Hán có lẽ là một sai lầm, nhưng theo quan niệm trong phong thủy thì "lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái, bát quái sinh ngũ hành, ngũ hành sinh vạn vật" ngũ hành lại được sinh từ bát quái ứng với Đoài-Càn (kim), Tốn-Chấn (mộc), Khảm (thủy), Ly (hỏa), Cấn-Khôn (thổ) tạo thành vòng tuần hoàn luôn bổ trợ lẫn nhau nhưng vì một số bất cập nên không được nhiều người biết đến, vào thời nay phong thủy đa số đều dùng cách này để đọc phong thủy.
Triết học Âm dương
[sửa | sửa mã nguồn]Âm dương đại diện cho 2 nguyên tố có tánh đối nghịch tạo nên mọi thực thể cân bằng đôc lập do Zoaster người sáng lập ra Hỏa giáo nước Ba tư đề xướng . Thí dụ , Ngày Đêm, Sáng Tối ,Nóng Lạnh ...Ngày dương Tối âm , Sáng dương Tối âm , Nóng dương Lạnh âm .
Quy luật Dịch Vận Âm Dương
[sửa | sửa mã nguồn]Tất cả các quy luật Âm dương được thể hiện cho biết bản chất và sự chuyển hóa của âm và dương. Thí dụ như Ngày và đêm, tối và sáng, mưa và nắng, nóng và lạnh,... luôn chuyển hóa cho nhau. Lá cây thay đổi màu sắc theo 4 mùa như sau màu xanh ở mùa xuân, màu vàng ở mùa hạ , màu đỏ ở mùa thu , màu đen ở mùa đông . Quy luật Âm dương bao gồm Dịch (biến hóa) và Vận (vận hành) âm dương
Tam dịch âm dương
[sửa | sửa mã nguồn]Dịch có nghỉa là biến hóa . Tam dịch âm dương có nghỉa là 3 biến hóa âm dương bao gồm
| Dịch âm dương | Ý nghỉa | |
| Bất dịch | Không biến hóa | Trong Âm có Dương, trong Dương có Âm |
| Dịch | Biến hóa | Âm Dương khác biệt , Âm dương thịnh suy |
| Biến dịch | Biến đổi | Âm Dương cực đại , Âm dương độc lập . |
Tứ vận âm dương
[sửa | sửa mã nguồn]Vận có nghỉa là vận hành , vận động. Tứ vận âm dương có nghỉa là 4 vận động âm dương
| Vận âm dương | Ý nghỉa | |
| Sinh | Sinh thành | Sinh ra chào đời |
| Thịnh | Cực thịnh | Phát triển đến cực thịnh |
| Suy | Suy tàn | Suy tàn yếu nhược |
| Diệt | Diệt vong |
Biểu đồ âm dương
[sửa | sửa mã nguồn]Có 2 loại biểu đồ dùng để biểu thị âm dương gồm Hào vạch Phục hy và Thái cực đồ Chu Đôn Di
Hào vạch Phục hy
[sửa | sửa mã nguồn]Theo như trong truyền thuyết, khoảng 5 nghìn năm trước vua Phục hy đi tuần thú ở phương nam. Khi đi qua con sông hoàng hà, có con long mã hiện lên, với 55 dấu chấm đen trắng trên lưng. Sau đó ông về vẽ lại, rồi đặt tên cho bức vẽ này là Hà đồ. Đến sau này, cũng từ bức vẽ này, phục hy vẽ thành Tiên Thiên Bát Quái .
Phục hy dùng Hào vạch để biểu thị Âm dương như sau
- Hào dương được biểu thị bằng một vạch liền __
- Hào âm được biểu thị bằng một vạch đứt _ _
Vòng tròn Thái cực đồ Chu Đôn Di
[sửa | sửa mã nguồn]Thái cực đồ được dùng để biểu thị âm dương trong một vòng tròn gồm hai nửa đối xứng ôm trọn lấy nhau Âm (màu đen) và Dương (màu đỏ). Trong mỗi phần đối xứng lại có một chấm tròn màu đối lập nằm trong đó. Màu sắc của Thái Cực đồ có thể thay đổi, cũng như độ xoắn vào nhau của hai hình đối xứng.Thái Cực đồ thể hiện ý nghĩa của triết học Phương Đông, cụ thể là thuyết Âm Dương rất rõ ràng . Trong mỗi một tổng thể (hình tròn) luôn tồn tại hai mặt đối lập Âm và Dương . Hai mặt đó tương hỗ với nhau, bù đắp nhau thành một thể hoàn thiện.
Không một tổng thể, cá thể nào có thể tách biệt hoàn toàn hai mặt đó. Trong Âm có Dương, trong Dương có Âm, cũng như trong phần màu đỏ có chấm màu đen, và ngược lại. Âm thịnh Dương suy ngược chiều kim đồng hồ thì Dương thịnh, Âm suy thuận chiều kim đồng hồ. Khi phần màu đen lớn dần thì phần màu đỏ nhỏ dần và ngược lại. Cực thịnh thì suy . Khi đạt đến độ cực đại thì xuất hiện yếu tố đối lập ngay trong lòng, và phần đó sẽ phát triển dầnTriết gia đời Tống Chu Đôn Di (1017-1073 CE) tạo ra thái cực đồ dựa trên nền tảng
Vô cực tạo ra Thái cực. Thái cực hoạt động tạo ra dương. Khi chuyển động đến giới hạn, nó trở nên tĩnh. Trong tĩnh, nó tạo ra âm, tới cực đại, nó lại hoạt động. Động và tĩnh chuyển hóa, cái này là nền của cái kia. Khi âm và dương đã phân hóa, hai trạng thái xuất hiện. Sự chuyển hóa và kết hợp của âm và dương tạo ra kim, mộc, thủy, hỏa, thổ. Ngũ hành . Ngũ hành đơn giản là âm và dương, âm và dương chẳng qua chính là thái cực, thái cực có nền tảng từ vô cực. Do vậy, trong quá trình tạo ra ngũ hành, mỗi hành đều chứa đựng bản chất riêng của nó . Các thời kỳ biến đổi của khí được sắp xếp hài hòa, qua đó bốn mùa được tiếp diễn. . (tr. Adler 1999:673-4)Thái cực được hiểu là trật tự cao nhất có thể nhận thức được, với nó, sự tồn tại lưu chuyển. Nó rất gần nghĩa với khái niệm Đạo giáo: "sự đảo ngược chính là sự dịch chuyển của đạo". "Thái cực" tạo ra âm dương: động tạo ra dương, khi dương lên đến cực đại, nó chuyển hóa thành tĩnh. Trên nền tĩnh tại, thái cực tạo ra âm. Khi âm cực đại, lại chuyển hóa thành động. Động và tĩnh, trong vòng tuần hoàn đó, là nguồn gốc của nhau. Sự phân hóa giữa âm và dương được xác định và hai trạng thái âm dương được bộc lộ. Từ sự chuyển hóa của dương và sự kết hợp của âm, "ngũ hành"- kim, mộc, thủy, hỏa, thổ ra đời. Khi ngũ hành phân hóa, chúng tạo ra sự hài hòa. Khi đã có sự hài hòa, 4 mùa xuất hiện. Âm và dương tạo ra vạn vật, và vạn vật lại tiếp tục tạo ra nhiều thứ khác; quá trình này không bao giờ dứt. (Wu, 1986)
Ứng dụng Âm Dương
[sửa | sửa mã nguồn]| Loại | Âm | Dương |
| Vạch Âm Dương | -- | __ |
| Lưỡng nghi | Nghi Âm | nghi Dương |
| Tứ tượng | Thái Âm, Thiêu Âm | Thái Dương, Thiêu Dương |
| Bát quái | Đoài, Ly, Tốn, Khôn | Kiền, Chấn, Khảm, Cấn |
| Khí | Âm Khí(lạnh) | Dương Khí (nóng) |
| Ngũ hành | Khắc Thổ khắc Hỏa khắc Mộc khắc Thủy khắc Kim | Sinh Kim sinh Thủy sinh Mộc sinh Hỏa sinh Thổ |
| Thiên Can | Ất, Đinh, Kỷ, Tân, Quý | Ất, Đinh, Kỷ, Tân, Quý |
| Địa Chi | Sựu, Mảo, Tị, Mùi, Dậu, Hợi | Tý, Dần, Thìn, Ngọ, Thân, Tuất |
| Tứ trụ | Trăng, Nước | Trời , Đất |
| Đông Y | Bệnh Âm | Bệnh Dương |
| Quẻ dịch | Nghi Âm | Nghi Dương |
| Lịch | Âm lịch | Dương lịch |
Ứng dụng trong thực tế
[sửa | sửa mã nguồn]Âm dương trong thực tế hiện đại đã được khái quát hóa để chỉ ra hai mặt đối lập nhau trong một sự vật, một hiện tượng. Từ đó chúng được dùng để điều phối, trấn áp hay hỗ trợ nhau. Như trong Đông Y chúng được dùng để xem xét sự mất cân bằng giữa các cơ quan để biết tả hay bổ chúng. Trong nhân tướng học chúng được dùng để xem xét một cá nhân thiên về cá tính nóng hay lạnh, để sử dụng nhân lực phù hợp với công việc.
Xem thêm
[sửa | sửa mã nguồn]- Văn hóa Việt Nam
- Tín ngưỡng Việt Nam
- Đạo giáo Việt Nam
- Nho giáo Việt Nam
- Triết học
- Tôn giáo
- Thái cực đồ
Tham khảo
[sửa | sửa mã nguồn]Liên kết ngoài
[sửa | sửa mã nguồn]- Yin-yang symbol defined and illustrated
Từ khóa » Số âm Dương Là Gì
-
Số âm Và Số Dương Là Gì? - Selfomy Hỏi Đáp
-
Học Thuyết Âm Dương
-
Thế Nào Là "Âm Dương"? - .vn
-
Âm Dương, Ngũ Hành Và Bản Chất Của Sim Số Phong Thủy
-
Tìm Hiểu Về Cơ Sở âm Dương Của Khoa Tử Vi
-
ÂM DƯƠNG NGŨ HÀNH TRONG LÔ ĐỀ
-
Học Thuyết âm Dương-ngũ Hành ứng Dụng Trong Y Học
-
Âm Dương Là Gì? Khám Phá Sự Huyền ảo Của Lưỡng Nghi đất Trời
-
Âm Dương Là Gì? Cách Cân Bằng âm Dương Ngũ Hành Trong Phong ...
-
Thế Nào Là Âm Dương? Quy Luật Thuyết Âm Dương Ngũ Hành
-
Âm Dương Là Gì?
-
Âm Dương Là Gì Trong Phong Thủy - GocPhongThuy.Net
-
Phong Thủy Âm Dương: Kiến Thức Cơ Bản Nên Biết
-
Sự Quan Trọng Của Cân Bằng Âm Dương Trong Phong Thủy Số
