Anh Trai Bác Hồ Là Ai? - Cuộc đời Và Sự Nghiệp Cách Mạng

Nếu bạn chưa biết anh trai Bác Hồ là ai, cuộc đời và những năm tháng hoạt động cách mạng của ông như thế nào thì những thông tin sau đây hẳn sẽ hữu ích cho bạn.

Anh trai Bác Hồ là ai?

Ông Nguyễn Sinh Khiêm sinh năm 1888, mất năm 1950, có tên hiệu là Tất Đạt vốn là người có tư chất thông minh, sáng dạ, hiểu biết, vừa giỏi chữ Hán lại vừa biết chữ quốc ngữ và cả chữ Pháp.

Từ khi sinh, tức năm 1888 đến năm 1895 ông Khiêm được sống quây quần bên gia đình là ông bà, cha mẹ và chị, em ở làng Hoàng Trù. Đến năm 1895 cậu cùng em trai là Nguyễn Sinh Cung được cha mẹ chuyển đến Huế ở.

Ông Nguyễn Sinh Khiêm - anh trai Bác Hồ
Ông Nguyễn Sinh Khiêm – anh trai Bác Hồ

Năm 1900 ông lại cùng cha mình ra Thanh Hóa để giúp cha tổ chức kỳ thi Hương Canh Tý. Sau khi kết thúc kỳ thi ông được cha đưa về quê ở Hoàng Trù sống với bà ngoại và chị gái.

Năm 1901 sau khi cha ông đậu Phó bảng, ông theo gia đình về sống tại làng Kim Liên.

Năm 1903 ông theo cha lên Võ Liệt, Thanh Chương, rồi từ đó sang Đức Thọ, ra Diễn Châu, Yên Thành vừa học tập vừa được tiếp xúc với các nhà nho yêu nước trong vùng, trau dồi kiến thức và tinh thần yêu nước thương dân.

Đến tháng 5 năm 1906, ông cùng em trai theo cha vào Huế lần thứ 2, ông học tại trường tiểu học Pháp – Việt Đông Ba. Sau đó lại chuyển sang trường Quốc học Huế. Đến khi cha ông là Nguyễn Sinh Sắc vào Bình Định nhận chức tri huyện Bình Khê thì ông trở lại quê nhà Kim Liên sống cùng chị gái. Thời gian này ông bắt đầu cùng chị tham gia phong trào yêu nước của Phan Bội Châu.

Nếu bạn muốn tìm hiểu thêm về cuộc đời của bà Nguyễn Thị Thanh – chị gái Bác Hồ, bạn có thể xem thông tin Tại đây.

Cuộc đời cách mạng của ông Nguyễn Sinh Khiêm

Sau khi về Kim Liên được một thời gian ngắn, nhờ sự động viên của ông Lê Sách (Tú San) ông Khiêm đã mở lớp dạy chữ quốc ngữ đầu tiên trong vùng Bố Ân, Bố Đức, Kim Liên, Hoàng Trù. Tuy không có giáo án, không sách giáo khoa nhưng ông có phương pháp giảng dạy cực kỳ dễ hiểu, được học trò yêu mến, học hành mau chóng tiến bộ. Vài tháng sau ông tiếp tục mở thêm lớp dạy võ với thầy dạy là ông Đội Phấn.

Năm 1910 tên công sứ Nghệ An thời đó là Augé rất mê ca dao tục ngữ Việt, biết ông Khiêm là người có kiến thức cao rộng, hắn đã mời ông Khiêm về để biên tập chuyên đề về ca dao tục ngữ. Ông Khiêm nhận lời, nhưng khi làm ông cố tình bỏ qua những câu ca ngợi công công lao của bọn thống trị. Tên Augé biết quở ông là bỏ sót tài liệu và giơ chân định đá, ông Khiêm nắm được chân, dúi cho tên này ngã nhào rồi bỏ về Kim Liên, không làm nữa.

Năm 1913 khi ông 25 tuổi được bầu làm hương hào, phụ trách công tác hương bản. Bên ngoài là hương hào, nhưng bên trong ông tìm mọi cách có lợi cho dân, bằng cách giảm nhẹ sưu thuế, cải cách chế độ cúng tế, đám đình. Thậm chí ông còn bí mật tham gia hoạt động chống Pháp trong tổ chức Đội Quyên, Đội Phấn, chính ông là người vận động tài chính để tiếp tế cho nghĩa quân đóng ở căn cứ Bố Lư (Thanh Chương) và Đông Hồ (Tân Kỳ) hoạt động.

Năm 1914 thực dân Pháp còn tìm cách mua chuộc ông bằng cách mời ông xuống Vinh vừa dọa nạt vừa nịnh, chúng đưa cho ông một số tiền lớn và hứa nếu bắt được Quyên, Phấn thì sẽ thưởng lớn cho ông. Ông vui vẻ nhận số tiền rồi ra về. Nhưng thay vì chỉ điểm, ông còn lấy số tiền mà địch đưa để tiếp tế cho nghĩa quân hoạt động.

Sự việc bại lộ, ngày 1/4/1914 ông bị bắt giam ở nhà lao Vinh. Sau thời gian tra tấn, tra khảo chúng đã mở phiên tòa xét xử ông vào ngày 25/9/1914 kết án 3 năm tù khổ sai. Ông đã tìm cách vượt ngục nhưng không thành, bị bắt lại kết thêm tội gây phiến loạn tăng án lên 9 năm khổ sai.

Ngày 31/7/1915 ông bị đày đi khổ sai ở Khánh Hòa bằng việc đắp đường huyện Ba Ngòi, Khánh Hòa. Lao động khổ sai trong vòng 5 năm, đến tháng 3/1920 ông được chuyển về giam lỏng ở Huế, hàng tháng ông phải ra trình diện bọn thống trị. Tuy đăng ký ở  lại Trạch Phổ nhưng ông vẫn hay đi lại ở vùng Phổ Chi.

Ông có cách lách luật trình diện hàng tháng bằng cách sau này ông đợi đến cuối tháng đi từ Trạch Phổ hay Phú Lễ đến Huế trình diện, xong ở lại đến hôm sau đầu tháng, ông lại vào trình diện tiếp cho tiện. Như vậy thay vì trước đây cứ mỗi tháng đến Huế trình diện 1 lần, thì giờ mỗi lần đến Huế ông trình diện cho cả 2 tháng. Biết vậy nhưng bọn quan lại vẫn nể ông, không dám tỏ thái độ gì, chúng còn ra sức mua chuộc, mỗi lần ra Huế trình diện, chúng lại biếu ông vài lít rượu, với mục đích khuyến khích ông uống rượu, dẫn đến nghiện ngập, suy nhược tinh thần, không còn ham hố hoạt động cách mạng nữa.

Suốt gần 20 năm ở Huế và các vùng lân cân Huế, với sự quản lý nghiêm ngặt, o ép tinh thần của thực dân và phong kiến Nam triều, tinh thần cách mạng của ông đã tạm thời lắng xuống đến mức chúng tưởng là đã mất hẳn, nhưng khi trở về quê hương thì tinh thần đó lại trở nên mạnh mẽ hơn bao giờ hết.

Năm 1922 khi chị gái ông là Nguyễn Thị Thanh được chuyển từ nhà lao Quảng Ngãi ra Huế, ông đã bắt liên lạc và 2 chị em lại bí mật tham gia hoạt động cho tổ chức yêu nước ở Huế.

Năm 1926 hai chị em lên hoạt động ở Sơn Quả, Cổ Bi, có lần ông bị bọn mật thám vây bắt nhưng chạy thoát được.

Đến năm 1929 ông chuyển về Phú Lề, về đây ông vẫn tiếp tục sống cuộc đời bình dị. Đến năm 1940 sau thời gian hoạt động ông bị thực dân Pháp bắt và mở phiên tòa ngày 27 tháng 08 năm 1940 xét xử hai tháng ngồi tù và phạt 20 đồng bạc. Nhưng mãi đến ngày 16 tháng 8 năm 1941 ông mới được ra khỏi nhà tù Vinh. Sau khi ra khỏi tù ông đã đi khắp các vùng từ Thanh Chương, Du Đồng đến  miền Trạch Phổ, Ưu Điền của Huế để gặp gỡ một số tù chính trị đang an trí ở đây, trong đó có cả ông Hải Triều tức Nguyễn Khoa Văn.

Đến ngày 23 tháng 8 năm 1945 cuộc cách mạng tháng 8 thành công ở Huế, ông Cả Khiêm cùng với dân chúng hân hoan đón mừng tin vui, ông ra sức động viên thanh niên tham gia cách mạng. Khi được biết chủ tịch Hồ Chí Minh người lãnh đạo cuộc cách mạng thành công chính là Nguyễn Ái Quốc – em trai mình, ông vô cùng sung sướng.

Gia đình riêng của ông Nguyễn Sinh Khiêm

Quãng thời gian năm 1920 sau khi ra tù, ông không ở nội thành Huế, mà chuyển về Trạch Phổ ở trong nhà ông Nguyễn Văn Đề, là người ông quen khi lao động khổ sai. Về đây ông làm nghề bốc thuốc và mở lớp học chữ Hán. Đây cũng là nơi ông quen người vợ hiền thảo của mình – bà Nguyễn Thị Giáng. Lúc đó chồng bà Giáng mới qua đời, để lại cho bà một đứa con trai đang còn chập chững đi. Từ ngày chồng mất, bà Giáng đau ốm liên miên, may sao bà được ông Cả Khiêm chữa cho lành bệnh.

Đến năm 1930 khi bà Giáng mãn tang chồng, ông Cả Khiêm đã chuyển về sống cùng, cậu con riêng của bà là Hà Hữu Thừa được ông Cả Khiêm hết mực thương yêu, đùm bọc, dạy dỗ như con đẻ.

Cuối năm 1933 bà Giáng có với ông một người con gái, đặt tên là Nguyễn Thị Cao. Khi bé Cao lên 3 tuổi thì mất vì mắc bệnh.

Đến năm 1937 bà Giáng sinh tiếp người con gái thứ 2 tên Nguyễn Thị Ba. Khi Ba chào đời, bà Thanh – là chị ruột của ông Cả đã đến Phú Lễ thăm và ở lại đây cả tuần để chăm sóc cháu.

Đầu năm 1940, bé Ba mắc bệnh và qua đời. Ông Cả gần như suy sụp hẳn vì không vượt qua được cú sốc quá lớn, ông làm nghề bốc thuốc mà không cứu được con. Quá suy sụp, đến tháng 2 năm 1942 ông tạm biệt bà Giáng về lại Nghệ An.

Thời gian này về quê, ông đã tìm nơi cải táng mới cho mẹ mình là bà Hoàng Thị Loan trên núi Đại Huệ. Đồng thời ông cũng tổ chức diễn tuồng Trưng Nữ Vương do cụ Phan Bội Châu soạn, mở lại lớp dạy võ, sau đó ông quay lại Huế.

Năm 1943, bà Giáng lại sinh cho ông một cậu con trai đặt tên là Nguyễn Tất Thông, tiếc thay Thông cũng chỉ sống được 6 tháng. Đau khổ vì mất con đến 3 lần, ông Cả Khiêm lại bỏ nhà ra đi.

Hà Hữu Thừa – con riêng của bà Giáng được ông Cả Khiêm nuôi nấng trưởng thành, sau này cậu phục vụ trong quân đội, năm 1992 về hưu với quân hàm đại tá.

Còn bà Nguyễn Thị Giáng có được 16 năm (1930-1946) làm vợ ông Cả Khiêm, có với ông 3 người con, tiếc là không nuôi được một người nào. Người con riêng của bà thì theo kháng chiến mất liên lạc, ông Cả Khiêm thì về quê. Bà một mình ở lại Phú Lễ vò võ chờ chồng, trông con đến năm 1960 thì bà qua đời.

Cuộc gặp gỡ giữa hai anh em chủ tịch Hồ Chí Minh

Cuối năm 1946 sau khi chị gái là bà Nguyễn Thị Thanh ra Hà Nội thăm em về, ông Cả Khiêm lặn lội ra Hà Nội thăm chủ tịch nước Hồ Chí Minh. Đi cùng ông có Hà Hữu Thừa là con trai của vợ ông và Nguyễn Hữu Tạo là cháu ông Ấm Hoàng.

Gần 40 năm xa cách, nay hai anh em ruột Nguyễn Sinh Khiêm và Nguyễn Sinh Cung mới lại được gặp mặt.

Vừa thấy anh trai, Bác Hồ chạy đến ôm lấy anh khẽ kêu lên: “Anh Cả!”. Tiếng gọi tên anh Cả đầu tiên sau 37 năm trời xa cách biền biệt. Ông Nguyễn Sinh Khiêm cũng ôm lấy Bác Hồ rồi nghẹn ngào thốt lên: “Chú râu đã dài thế này à?”. Rồi hai anh em ôm nhau khóc.

Sau chuyến thăm viếng Bác Hồ ở Hà Nội, ông Cả Khiêm cho hai thanh niên trở lại Huế ăn tết Bính Tuất và tham gia cách mạng, còn ông thì trở lại quê nhà.

Ông Nguyễn Sinh Khiêm, người anh trai của Chủ tịch Hồ Chí Minh là một người thông minh, có cuộc sống giản dị, phóng khoáng, giàu lòng thương yêu người nghèo khổ. Ông từ trần ngày 15/10/1950 (tức 23/8 Canh Dần) tại làng Kim Liên, hưởng thọ 62 tuổi. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận được tin anh Cả qua đời trong lúc đang bận công tác xa, không thể về được nên đã điện cho Ủy ban Kháng chiến hành chính Liên khu IV bức điện số 1229 nhờ chuyển cho họ Nguyễn Sinh làng Kim Liên, nội dung như sau:

“Nghe tin anh Cả mất, lòng tôi rất buồn rầu. Vì việc nước nặng nhiều, đường sá xa cách, lúc anh đau yếu tôi không thể trông nom, lúc anh tạ thế tôi không thể lo liệu.

Tôi xin chịu tội bất đễ trước linh hồn anh và xin bà con nguyên lượng cho một người đã hy sinh tình nhà vì phải lo việc nước.

                   9/11/1950″

Tìm hiểu thêm về những người thân trong gia đình Bác Hồ Tại đây.

5/5 - (4 bình chọn)

Từ khóa » Cả Khiêm