Bà Huyện Thanh Quan – Wikipedia Tiếng Việt
Có thể bạn quan tâm
Nguyễn Thị Hinh阮氏馨 | |
---|---|
Cung Trung Giáo Tập | |
Thường gọi | Bà Huyện Thanh Quan |
Tên húy | Nguyễn Thị Hinh |
Thông tin cá nhân | |
Sinh | |
Tên húy | Nguyễn Thị Hinh |
Ngày sinh | 1805 |
Nơi sinh | Phường Nghi Tàm, huyện Vĩnh Thuận, gần Hồ Tây (nay là phường Quảng An, quận Tây Hồ), Hà Nội |
Rửa tội | |
Mất | 1848 (42–43 tuổi) |
An nghỉ | Bờ Hồ Tây (Hà Nội) |
Giới tính | Nữ |
Gia quyến | |
Thân phụ | Nguyễn Lý |
Phu quân | Lưu Nghị |
Hậu duệ | Lưu TuânLưu CungLưu ChínhLưu Lương |
Học vấn | |
Chức quan | Cung Trung Giáo Tập |
Nghề nghiệp | Nhà thơ |
Dân tộc | Kinh |
Quốc gia | Việt Nam |
Quốc tịch | Việt Nam |
Thời kỳ | Nhà Nguyễn |
Tác phẩm | Qua Đèo Ngang, Chiều hôm nhớ nhà |
Truy phong | |
Thụy hiệu | |
Tước hiệu | |
Tước vị | |
Chức vị | |
Thần vị | |
Nơi thờ tự | |
[sửa trên Wikidata]x • t • s |
Bà Huyện Thanh Quan (chữ Nôm: 婆縣青關, chữ Hán: 青關縣夫人 Thanh Quan huyện phu nhân; 1805 - 1848), tên thật là Nguyễn Thị Hinh (阮氏馨); là một nữ thi sĩ trong thời cận đại của lịch sử văn học Việt Nam.[1]
Tiểu sử
[sửa | sửa mã nguồn]Nguyễn Thị Hinh là người Nghi Tàm, huyện Vĩnh Thuận, gần Hồ Tây (nay là phường Quảng An, quận Tây Hồ), Hà Nội[2]. Một số tài liệu cho biết tên thật của bà là Ngô Thị Hinh.[3] Cha bà là Nguyễn Lý (1755-1837), đỗ thủ khoa năm 1783, đời vua Lê Hiển Tông.
Bà là học trò của danh sĩ Phạm Quý Thích (1760-1825), và là vợ của Lưu Nghi[4](1804-1847), hiệu là Ái Lan, người làng Nguyệt Áng, huyện Thanh Trì, Hà Nội. Bà đỗ cử nhân năm 1821, từng làm tri huyện Thanh Quan (nay là một phần huyện Đông Hưng và huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình), nên người ta thường gọi bà là Bà Huyện Thanh Quan. Sau đó, bà bị giáng chức rồi lại được bổ chức Bát phẩm Thư lại bộ Hình. Chồng bà làm quan trải đến chức Viên ngoại lang bộ Hình, nhưng mất sớm (43 tuổi).
Dưới thời vua Minh Mạng,[5] bà được mời vào kinh giữ chức Cung Trung Giáo Tập để dạy học cho các công chúa và cung phi.
Khoảng một tháng sau khi chồng mất, bà lấy cớ sức yếu xin thôi việc, rồi dẫn 4 con[6] về lại Nghi Tàm và ở vậy cho đến hết đời.
Không biết rõ chính xác về thời gian sống của bà nhưng theo nhiều tư liệu ghi chú là bà sinh năm 1805 và mất năm 1848 ở tuổi 43. Mộ bà được đặt bên bờ Hồ Tây (Hà Nội), nhưng sau này sóng gió đã làm sạt lở không còn tăm tích.[7]
Tác phẩm
[sửa | sửa mã nguồn]Bà Huyện Thanh Quan sáng tác không nhiều, hầu hết viết bằng chữ Nôm, theo thể Hàn luật. Hiện gồm những bài sau:
- Thăng Long thành hoài cổ
- Qua chùa Trấn Bắc
- Qua đèo Ngang
- Chiều hôm nhớ nhà
- Tức cảnh chiều thu
- Cảnh đền Trấn Võ
- Cảnh Hương sơn
Tuy nhiên, theo nhà nghiên cứu Đỗ Lai Thúy thì 4 bài đầu là hoàn toàn chính xác của bà bởi có sự thống nhất từ tư tưởng đến phong cách nghệ thuật [8].
Nhận xét
[sửa | sửa mã nguồn]Trích ý kiến của:
- Giáo sư Dương Quảng Hàm:
- Giáo sư Thanh Lãng:
- Giáo sư Phạm Thế Ngũ:
- Giáo sư Nguyễn Lộc:
Hiện nay, tên bà được dùng để đặt tên cho nhiều đường phố và trường học trong khắp nước Việt Nam.
Giai thoại
[sửa | sửa mã nguồn]Có nhiều giai thoại được kể về bà.
Sâm cầm Hồ Tây
[sửa | sửa mã nguồn]Giữa thế kỷ 19, ở Nghi Tàm nổ ra cuộc đấu tranh chống lệ nộp chim sâm cầm, một đặc sản của vùng này, và người dân làm đơn thưa việc xách nhiễu của quan trên, sau đó vua Tự Đức xét đơn đã tha lệnh cống cho vùng.[13] Theo Ngọc phả (ghi nhận công đức của những người có công với dân làng), thì chính Bà Huyện Thanh Quan đã thảo đơn cho dân gửi lên vua, nhưng vì phục tài đức của bà nên quan huyện Hoàn Long đã ỉm đi, dù có lệnh của quan trên, mà không bắt tội và truy xét.[14]
Thời điểm xảy ra việc này, có nơi ghi là năm 1870,[13] có nơi ghi chép là lệ cống chim sâm cầm có từ năm Tự Đức thứ 17 (1857), và đến năm Tự Đức thứ 24 mới được bãi bỏ.[15] Tuy nhiên, nếu theo các thời điểm đó thì giai thoại này không hợp lý, vì bà Huyện đã mất năm 1848, trước đó rất lâu.
Kẻo mai nữa già
[sửa | sửa mã nguồn]Lúc ông huyện Thanh Quan (Lưu Nghi) đi vắng, có một cô gái tên là Nguyễn Thị Đào đã đệ đơn lên trình bày rằng chồng cô đã ruồng bỏ cô để xin được ly dị, lấy chồng khác. Vì thương cảm, Bà Huyện Thanh Quan đã thay chồng phê đơn cho phép ly hôn bằng mấy câu thơ:
Phò cho con Nguyễn Thị Đào Nước trong leo lẻo cắm sào đợi ai? Chữ rằng: Xuân bất tái lai Cho về kiếm chút kẻo mai nữa già!Hay chuyện, chồng cô Đào kiện quan trên. Quan trên ăn của đút, giáng chức bà huyện Thanh Quan.[16]
Làm trâu
[sửa | sửa mã nguồn]Có một ông đỗ hương cống tới xin mổ trâu để giỗ cha. Lúc bấy giờ, triều đình đã ban lệnh hạn chế mổ trâu, để phát triển việc canh nông. Cảm động trước hiếu hạnh của ông này nhưng chồng thì đi vắng, Bà Huyện Thanh Quan đã cầm bút phê vào đơn câu thơ:
Người ta thì chẳng được đâu "Ừ" thì ông Cống làm trâu thì làm.Biết bà huyện dùng chữ nghĩa để lỡm mình, nhưng vì được việc nên ông cũng vui vẻ ra về.[17]
Ngoài ra, trong sách Mười phụ nữ huyền thoại Việt Nam của Thu Hằng còn có thêm vài cuộc đối đáp, đàm luận thi phú giữa bà với vua Minh Mạng.
Tham khảo
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ Trích Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam, tr. 642.
- ^ Ghi theo 'Từ điển Văn học (bộ mới) và Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam (tr. 642). GS. Dương Quảng Hàm ghi là huyện Hoàn Long, tỉnh Hà Đông (nay thuộc Hà Nội (Việt Nam văn học sử yếu, tr. 396).
- ^ BÀ HUYỆN THANH QUAN
- ^ Tên ghi theo Dương Quảng Hàm. GS. Thanh Lãng và Thu Hằng đều ghi tên là Lưu Nghị. Từ điển Văn học (bộ mới) ghi tên Lưu Nguyên Ôn. Còn trong Nam thi hợp tuyển của Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc thì ghi tên Lưu Nguyên Uẩn.
- ^ Theo Dương Quảng Hàm. Cũng có thuyết cho rằng dưới thời Tự Đức (1847-1882), Bà Huyện Thanh Quan mới được mời vào cung dạy học (ghi chú của Thu Hằng, tr. 191)
- ^ 2 trai là Tuân và Cung, 2 gái là Chính và Lương (ghi chú của Thu Hằng, tr. 197)
- ^ Xem chi tiết trong bài "Tìm về nơi an nghỉ cuối cùng của các nữ sĩ Đoàn Thị Điểm, Hồ Xuân Hương và Bà Huyện Thanh Quan" [1]
- ^ Theo [2].
- ^ Dương Quảng Hàm, Việt Nam văn học sử yếu, tr. 396-397.
- ^ Bản lược đồ Văn học Việt Nam, Quyển Thượng, tr. 798
- ^ Việt Nam văn học sử giản ước tân biên (quyển hai), tr. 288, 290 và 294.
- ^ Nguyễn Lộc, Từ điển Văn học (bộ mới). Nhà xuất bản Thế giới, 2004, tr. 75.
- ^ a b “Sâm cầm và Bà Huyện Thanh Quan”. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 3 năm 2014. Truy cập ngày 9 tháng 3 năm 2014.
- ^ Thu Hằng, tr. 201.
- ^ Chim sâm cầm - thuốc bổ của Hồ Tây
- ^ Theo Thu Hằng, tr. 184.
- ^ Lược theo bài viết ở Việt Nam thư quán.
Sách tham khảo
[sửa | sửa mã nguồn]- Dương Quảng Hàm, Việt Nam văn học sử yếu. Trung tâm học liệu Sài Gòn xuất bản năm 1968.
- Thanh Lãng, Bản lược đồ Văn học Việt Nam (Quyển Thượng). Nhà xuất bản Trình bày, không ghi năm xuất bản.
- Phạm Thế Ngũ, Việt Nam văn học sử giản ước tân biên (Quyển Hai). Quốc học tùng thư xuất bản, không ghi năm xuất bản.
- Nguyễn Q. Thắng & Nguyễn Bá Thế, Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam. Nhà xuất bản Khoa học xã hội 1992.
- Nhiều tác giả, Từ điển Văn học (bộ mới). Nhà xuất bản Thế giới, 2004.
- Thu Hằng, Mười phụ nữ huyền thoại Việt Nam. Nhà xuất bản Lao động, 2008.
Liên kết ngoài
[sửa | sửa mã nguồn] Wikisource có các tác phẩm của hoặc nói về:Bà Huyện Thanh Quan- Bà Huyện Thanh Quan, người đi dọc những Đèo Ngang
Từ khóa » Thơ Chữ Nôm Của Bà Huyện Thanh Quan
-
SÁU BÀI THƠ NÔM CỦA BÀ HUYỆN THANH QUAN | HỌC để TU
-
Top 10 Bài Thơ Hay Của Bà Huyện Thanh Quan
-
Trang Thơ Bà Huyện Thanh Quan - Nguyễn Thị Hinh (9 Bài Thơ)
-
[PDF] Thơ Bà Huyện Thanh Quan Trong Tiến Trình Thơ Nôm Đường ... - VNU
-
Bà Huyện Thanh Quan đã Trau Chuốt Lại Bài Thơ "Đèo Ngang ...
-
Những Bài Thơ "để đời" Của Bà Huyện Thanh Quan - GiupBan
-
BA HUYỆN THANH QUAN - SimonHoaDalat
-
Tuyển Tập Thơ Bà Huyện Thanh Quan (Nguyễn Thị Hinh) - Chiều Tà
-
Bà Huyện Thanh Quan Tân Biên Cổ Sự - Phí Ngọc Hùng - Chim Việt
-
QUA ĐÈO NGANG… VẦN THƠ TUYỆT TÁC Của BÀ HUYỆN ...
-
Bà Huyện Thanh Quan: Nữ Sĩ Kiệt Xuất Của Dòng Thơ Nôm - VOVlive
-
Đau Bà Huyện Thanh Quan, Xót Bà Chúa Thơ Nôm - Tiền Phong
-
Tác Giả Bà Huyện Thanh Quan
-
Cuộc đời Và Sự Nghiệp Sáng Tác Của Bà Huyện Thanh Quan - Reader