Bagdad – Wikipedia Tiếng Việt

Baghdadبغداد
Những hình ảnh về BaghdadNhững hình ảnh về Baghdad
Hiệu kỳ của BaghdadHiệu kỳ
Tên hiệu: 'The City of Peace'[1]
Baghdad trên bản đồ IraqBaghdadBaghdadXem bản đồ IraqBaghdad trên bản đồ Châu ÁBaghdadBaghdadXem bản đồ Châu Á
Tọa độ: 33°20′0″B 44°26′0″Đ / 33,33333°B 44,43333°Đ / 33.33333; 44.43333
Quốc gia Iraq
TỉnhTỉnh Bagdad
Người sáng lậpAl-Mansur wasfa sửa dữ liệu
Chính quyền
 • Tỉnh trưởngHussein Al Tahhan
Diện tích
 • Tổng cộng734 km2 (283 mi2)
Độ cao34 m (112 ft)
Dân số (2015)[2][3]
 • Tổng cộng7,222,000
 Số ước tính
Múi giờGMT +3
 • Mùa hè (DST)+4 (UTC)
Mã bưu chính10001–10090 sửa dữ liệu
Thành phố kết nghĩaAmman, Beirut, Cairo, Damas, Sana'a, Tehran, Jeddah, Concord, Rabat, Pavlodar, Bình Nhưỡng, Dubai sửa dữ liệu
Trang webhttp://www.baghdadgov.com
Bản đồ Iraq

Bagdad (tiếng Ả Rập:بغداد Baġdād) hay Baghdad trong tiếng Anh (phiên âm Tiếng Việt thường đọc là "Bát-đa") là thủ đô của đất nước Iraq và là thủ phủ của tỉnh Bagdad.

Dân số năm 2003 là 5.772.000, và năm 2011 vào khoảng 7.216.040. Đến năm 2016, dân số xấp xỉ khoảng 8,765,000, là thành phố lớn nhất Iraq[2][3] và là thành phố lớn thứ 2 vùng Tây Nam Á sau Tehran và cũng là thành phố lớn thứ hai của thế giới Ả Rập, chỉ sau Cairo. Nằm trên bờ sông Tigris tại vị trí 33°20′ độ vĩ Bắc và 44°26′ độ kinh Đông. Đây là một trong những trung tâm của đạo Hồi.

Thành phố đã được thành lập vào thế kỉ thứ 8 và trở thành thủ đô của Abbasid Caliphate. Trong khoảng thời gian ngắn khởi đầu, Baghdad đã phát triển thành một trung tâm văn hoá, thương mại, và trung tâm trí tuệ của thế giới Hồi Giáo. Ngoài ra, việc xây dựng một số cơ sở giáo dục chủ chốt (ví dụ như: House of Wisdom), đã mang lại danh tiếng cho thành phố trên toàn thế giới như một "Trung Tâm của Học Tập".

Suốt thời kỳ Trung kỳ Trung Cổ, Bagdad được xem là thành phố lớn nhất thế giới với dân số ước tính là 1,200,000 người. Phần lớn thành phố đã bị phá huỷ dưới tay của Đế quốc Mông Cổ vào năm 1258, dẫn đến sự suy giảm kéo dài qua nhiều thế kỷ do các bệnh dịch thường gặp và sự cai trị của các đế quốc nối tiếp nhau. Với sự công nhận Iraq là một quốc gia độc lập, Baghdad dần lấy lại được một số điểm nổi bật trước đây như là một trung tâm quan trọng của văn hoá Ả Rập.

Lịch sử

[sửa | sửa mã nguồn]

Nguồn gốc

[sửa | sửa mã nguồn]

Ngày 30 tháng 7, 762, khalip Al'Mamun xây dựng thành phố. Mansur tin rằng Baghdad là một thành phố lý tưởng để trở thành thủ phủ đế chế Hồi giáo dưới thời Abbasids.[4] Mansur yêu thành phố này đến mức ông đã từng nói: "Đây thực sự là thành phố mà ta phải tìm ra, nơi ta phải sống và nơi mà con cháu ta sẽ ngự trị sau này."[5] Sự phát triển của thành phố được tạo điều kiện bởi vị trí địa lý thuận lợi cả về quân sự lẫn kinh tế (dọc sông Tigris tới biển và đông tây Địa Trung Hải tới phần còn lại của Châu Á. Hội chợ thương mại hàng tháng được tổ chức tại vùng này. Một lý do nữa lý giải vì sao Baghdad lại có địa thế thuận lợi là do sự dồi dào về nguồn nước và khí hậu khô. Nguồn nước, thứ rất khan hiếm trong thời kì này, có mặt ở cả phía bắc và phía nam cổng thành phố, cung cấp đầy đủ nhu cầu của người dân.

Baghdad đã làm lu mờ Ctesiphon, thủ phủ trước đây của đế chế Ba Tư, 30 km về phía Đông Nam. Thành phố này đã được những người Hồi Giáo cai quản từ năm 637 nhưng lại nhanh chóng bị bỏ hoang sau khi Baghdad được tìm ra. Babylon bị bỏ hoang từ thế kỉ thứ 2 trước công nguyên, nằm 90 km về phía Nam.

Xây dựng

[sửa | sửa mã nguồn]

Từ những năm đầu tiên thành phố đã được coi như Thiên đường trong kinh Qu'ran.[6] Bốn năm trước khi Baghdad được xây dựng, vào năm 758, Mansur đã tập hợp những nhà kĩ sư, những người chuyên vẽ bản đồ, những thợ xây dựng từ khắp nơi trên thế giới đến để thiết kế thành phố. Hơn 100.000 thợ xây dựng đã đến thiết kế thành phố; rất nhiều người đã chia sẻ tiền lương của mình để bắt đầu xây dựng thành phố vĩ đại này.[7] Khung thành phố là 2 hình bán nguyệt lớn đường kính khoảng 19 km (12 dặm). Tháng 7 được lựa chọn để bắt đầu thi công vì 2 nhà thiên văn học, Naubakht Ahvaz và Mashallah tin rằng thành phố nên được xây dựng theo cung Sử tử.[8] Cung Sư Tử rất quan trọng vì nó là thành phần của lửa, biểu tưởng cho năng suất, sự kiêu hãnh và sự phát triển. Những viên gạch dùng để xây dựng thành phố đều 18 inches cả bốn mặt.

Những bức tường bao quanh

[sửa | sửa mã nguồn]

Bốn bức tường xung quanh Baghdad được đặt tên Kufa, Basra, Khurasan, và Damascus. Những tên này được đặt theo địa danh mà mỗi cánh cổng hướng về. Khoảng cách giữa mỗi cánh cổng này đều ít hơn 1.5 dặm. Mỗi cổng có 2 cửa làm bằng sắt. Vì những cánh cổng này rất nặng nên cần vài người đế đóng hoặc mở chúng.

Cung điện Cổng vàng

[sửa | sửa mã nguồn]

Ở chính giữa quảng trường trung tâm là cung điện cổng vàng. Cung điện là nơi ở của khalip và gia đình của ông. Ở chính giữa của tòa nhà là một mái vòm xanh cao 39m. Xung quanh cung điện là nơi dạo mát, tòa nhà bên bờ sông nơi chỉ có khalip là có thể cưỡi ngựa tới. Thêm vào đó, cung điện ở gần những lâu đài và dinh thự của những người có quyền thế khác. Gần cổng Syria là nơi ở của những người gác cổng. Tòa nhà đó được xây dựng bởi gạch và cẩm thạch. Quản gia của cung điện sống ở phía sau của tòa nhà còn người chỉ huy lính gác lại sống ở phía trước. Vào năm 813, sau cái chết của khalip Amin, cung điện không còn được dùng làm nơi sống của khalip và gia đình.

Dạng tròn là theo kiểu Ả rập. Hai nhà thiết kế được thuê bởi Al-Mansur là Naubakht, một tín đồ đạo thờ lửa, người đã đặt ngày khởi công thành phố dựa theo thiên văn học, và Mashllah, một người Do thái đến từ Khorasan, Iran.

Toàn cảnh khu phố cổ Babylon, cách Baghdad 85 km (53 mi) về phía Nam.

Đế quốc Ottoman đô hộ

[sửa | sửa mã nguồn]

Vào thế kỷ 16, Đế chế Ottoman từ Thổ Nhĩ Kỳ thôn tính vùng đất này và Bagdad trở thành một thành phố thương mại quan trọng trong đế chế. Bagdad được giải phóng trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, khi quân Đồng Minh tràn vào Bagdad và Đế chế Ottoman bại trận.

Thế kỷ 20 và 21

[sửa | sửa mã nguồn]

Baghdad và miền nam Iraq vẫn còn dưới quyền cai trị của Ottoman cho đến năm 1917, sau đó bị Anh đánh bại trong Chiến tranh thế giới thứ nhất. Năm 1920, Baghdad trở thành thủ đô của Ủy nhiệm của Anh cho Mesopotamia và sau khi giành được độc lập năm 1932 thì trở thành thủ đô của Iraq. Dân số của thành phố tăng từ 145.000 năm 1900 lên tới 580.000 vào năm 1950. Trong thời gian ủy nhiệm, Baghdad đã có một phần đáng kể cộng đồng người Do Thái của thành phố này, chiếm một phần tư dân số của thành phố.

Ngày 1 tháng 4 năm 1941, các thành viên của "Quảng trường Vàng" và Rashid Ali đã tổ chức một cuộc đảo chính ở Baghdad. Rashid Ali đã xây dựng một chính phủ thân [pro] [[Anh Quốc] Ý] để thay thế chính phủ thân Anh của Nhiếp chính quyền Abd al-Ilah | Abdul Ilah ]]. Vào ngày 31 tháng 5, sau cuộc Chiến tranh Anglo-Iraqi và sau khi Rashid Ali và chính phủ của ông chạy trốn, Thị trưởng Baghdad đầu hàng quân đội Anh và Liên bang.

Vào ngày 14 tháng 7 năm 1958, các thành viên của quân đội Iraq, theo Abd al-Karim Qasim, Cuộc cách mạng ngày 14 tháng 7 đã tiến hành một cuộc đảo chánh để lật đổ Vương quốc Iraq. Vua Faisal II, nguyên Thủ tướng Nuri as-Said, cựu hoàng tử Abd al-Ilah, các thành viên của gia đình hoàng gia, và những người khác bị giết chết tàn bạo trong cuộc đảo chính. Nhiều thi thể của nạn nhân sau đó đã được kéo qua các đường phố của Baghdad.

Tập tin:20160102-Tahrir square Baghdad.jpg
Hình vuông Tahrir ở Khu thương mại Baghdad

Trong những năm 1970, Baghdad trải qua giai đoạn thịnh vượng và tăng trưởng nhờ sự gia tăng mạnh mẽ giá dầu, xuất khẩu chính của Iraq. Cơ sở hạ tầng mới bao gồm hệ thống thoát nước hiện đại, hệ thống nước và đường cao tốc đã được xây dựng trong giai đoạn này. Kế hoạch tổng thể của thành phố (1967, 1973) được cung cấp bởi văn phòng kế hoạch Ba Lan Miastoprojekt-Kraków, trung gian của Polservice. Tuy nhiên, Chiến tranh Iran-Iraq năm 1980 là một thời điểm khó khăn cho thành phố, vì tiền đã bị chuyển bởi Saddam Hussein cho quân đội và hàng ngàn cư dân đã bị giết. Iran đưa ra một loạt các cuộc tấn công tên lửa chống lại Baghdad để trả đũa cho những vụ bắn phá liên tục của Saddam Hussein ở các khu dân cư của Tehran.

Nơi đây được biết đến với cuộc Chiến tranh vùng Vịnh năm 1991 do tổng thống Hoa Kỳ Bush (cha) phát động nhằm lật đổ chế độ độc tài của tổng thống Saddam Hussein nhưng không thành. Năm 2003, một lần nữa lại nổ ra cuộc Chiến tranh Iraq, lần này là do tổng thống Bush (con) phát động và đã lật đổ được Saddam Hussein. Thành phố đã bị tàn phá nặng nề sau hai cuộc chiến trah này.

Địa lý

[sửa | sửa mã nguồn]
Baghdad nhìn từ không gian

Thành phố nằm trên đồng bằng rộng lớn hai bên bờ sông Tigris. Tigris chia Baghdad thành hai nửa, nửa phía đông được gọi là 'Risafa' và nửa phía tây được gọi là ' Karkh'. Vùng đất của thành phố hầu hết là bằng phẳng và thấp trên các bồi tích được lấp đầy theo chu kỳ lũ của sông.

Khí hậu

[sửa | sửa mã nguồn] Toàn cảnh sông Tigris chảy qua Baghdad

Baghdad có khí hậu khô hạn cận nhiệt đới (phân loại khí hậu Köppen BWh) và được xem là một trong những thành phố nóng nhất thế giới theo nghĩa nhiệt độ cao nhất. Mùa hè từ tháng 6 đến tháng 8, nhiệt độ cao trung bình 44 °C (111 °F) kèm với nắng rực lửa. Thực tế lượng mưa được ghi nhận là rất ít vào thời điểm này trong năm và không bao giờ vượt quá 1mm.[9]. Độ ẩm thường dưới 50% vào mùa hè do khoảng cách khá xa từ Baghdad đến vùng đầm lầy phía Nam Iraq và bờ biển của Vịnh Ba Tư, và bão bụi từ các sa mạc về phía tây là một sự xuất hiện bình thường trong suốt mùa hè. Dù mùa hè rất nóng, nhiệt độ ở đây có thể xuống dưới 24 °C vào ban đêm. Nhiệt độ cao kỉ lục từng được ghi nhận ở Baghdad là khoảng 51 °C vào tháng 7 năm 2015.

Mùa đông có nhiệt độ điển hình của khí hậu cận nhiệt đới. Từ tháng 12 đến tháng 2, Baghdad có nhiệt độ tối đa trung bình từ 15,5 đến 18,5 °C (59,9 đến 65,3 °F), mặc dù cao không quá 21 °C (70 °F). Mức thấp trung bình tháng Giêng là 3,8 °C (38,8 °F) nhưng thấp dưới mức đóng băng xảy ra trung bình vài lần mỗi năm.

Lượng mưa hàng năm, chủ yếu rơi từ tháng 11 đến tháng 3, trung bình khoảng 150 mm, cao nhất là 338 mm (13,31 in) và thấp nhất là 37 mm (1,46 in).[10] Vào 11 tháng 1 năm 2008, có tuyết rơi nhẹ ở Baghdad lần đầu tiên trong lịch sử.[11]

Dữ liệu khí hậu của Baghdad
Tháng 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 Năm
Cao kỉ lục °C (°F) 24.8(76.6) 27.1(80.8) 30.9(87.6) 38.6(101.5) 43.5(110.3) 48.8(119.8) 51.8(125.2) 49.9(121.8) 47.7(117.9) 40.2(104.4) 35.6(96.1) 25.3(77.5) 51.8(125.2)
Trung bình ngày tối đa °C (°F) 15.5(59.9) 18.5(65.3) 23.6(74.5) 29.9(85.8) 36.5(97.7) 41.3(106.3) 44.0(111.2) 43.5(110.3) 40.2(104.4) 33.4(92.1) 23.7(74.7) 17.2(63.0) 30.6(87.1)
Tối thiểu trung bình ngày °C (°F) 3.8(38.8) 5.5(41.9) 9.6(49.3) 15.2(59.4) 20.1(68.2) 23.3(73.9) 25.5(77.9) 24.5(76.1) 20.7(69.3) 15.9(60.6) 9.2(48.6) 5.1(41.2) 14.9(58.8)
Thấp kỉ lục °C (°F) −11.0(12.2) −10.0(14.0) −5.5(22.1) −0.6(30.9) 8.3(46.9) 14.6(58.3) 22.4(72.3) 20.6(69.1) 15.3(59.5) 6.2(43.2) −1.5(29.3) −8.7(16.3) −11.0(12.2)
Lượng mưa trung bình mm (inches) 27.2(1.07) 19.1(0.75) 22.0(0.87) 15.6(0.61) 3.2(0.13) 0(0) 0(0) 0(0) 0(0) 3.3(0.13) 12.4(0.49) 20.0(0.79) 122.8(4.83)
Số ngày mưa trung bình (≥ 0.001 mm) 8 7 8 6 4 0 0 0 0 4 6 7 50
Độ ẩm tương đối trung bình (%) 71 61 53 43 30 21 22 22 26 34 54 71 42
Số giờ nắng trung bình tháng 192.2 203.3 244.9 255.0 300.7 348.0 347.2 353.4 315.0 272.8 213.0 195.3 3.240,8
Nguồn 1: World Meteorological Organization (UN)[12]
Nguồn 2: Climate & Temperature[13]

Dân số

[sửa | sửa mã nguồn]

Dân số của Baghdad ước tính là 7.222.000 vào năm 2015. Thành phố lịch sử có dân số chủ yếu là người hồi giáo Sunni, vào đầu thế kỷ 21 khoảng 82% dân số của thành phố là hồi giáo Shia. Vào đầu thế kỷ 21, khoảng 1,5 triệu người người di cư đến Baghdad, phần lớn là người Shiite và một vài người Sunnis.

Đầu năm 2003, khoảng 20 phần trăm dân số của thành phố là kết quả của cuộc hôn nhân hỗn hợp giữa Shi'ites và Sunnis: họ thường được gọi là "Sushis". Sau vụ bạo động giáo phái tại Iraq giữa nhóm dân quân Sunni và Shia trong thời kỳ chiếm đóng Iraq của Mỹ, dân số phái Shia của thành phố đã trở nên áp đảo. Mặc dù lời hứa của chính phủ về việc tái định cư người Sunnis bị di dời do bạo lực, rất ít đã được thực hiện để mang lại điều này. Cuộc nội chiến Iraq sau cuộc xâm lược của phiến quân IS vào năm 2014 đã gây ra hàng trăm ngàn người Iraq di tản để trốn khỏi thành phố. Thành phố hiện nay có Sunni, Shia, Assyrian / Chaldean / Syriacs, Armenians và các khu phố hỗn hợp.

Kinh tế

[sửa | sửa mã nguồn]

Baghdad chiếm 22,2% dân số Iraq và 40 phần trăm tổng sản phẩm quốc nội (PPP) của nước này. Iraqi Airways, hãng hàng không quốc gia của Iraq, có trụ sở chính trên sân bay quốc tế Baghdad ở Baghdad. Al-Naser Airlines có trụ sở chính tại Karrada, Baghdad.

Nỗ lực tái thiết

[sửa | sửa mã nguồn]
Một góc thành phố Baghdad, tháng 3 năm 2017
Một con đường ở Baghdad, 2015

Hầu hết các nỗ lực tái thiết Iraq đã được dành cho việc khôi phục và sửa chữa cơ sở hạ tầng đô thị bị hư hỏng nặng. Những nỗ lực rõ ràng hơn trong quá trình tái thiết thông qua phát triển tư nhân, như kiến ​​trúc sư và nhà thiết kế đô thị của Hisham N. Ashkouri ở Baghdad Renaissance Plan và Sindbad Hotel Complex and Conference Center cũng đã được thực hiện. Một kế hoạch đã được đề xuất bởi một cơ quan Chính phủ để xây dựng lại một hòn đảo du lịch năm 2008. Vào cuối năm 2009, một kế hoạch xây dựng đã được đề xuất để xây dựng lại trái tim của Baghdad, nhưng kế hoạch này không bao giờ được thực hiện vì tham nhũng đã được tham gia vào nó.

Mắt Baghdad, một bánh xe Ferris cao 198 m (650 ft) được đề xuất cho Baghdad vào tháng 8 năm 2008. Lúc đó, đã xác định được ba vị trí có thể, nhưng không có ước tính chi phí hoặc ngày hoàn thành được đưa ra. Vào tháng 10 năm 2008, có thông báo rằng Al-Zawraa Park được dự kiến ​​là địa điểm [92] và một bánh xe 55 m (180 ft) được lắp đặt vào tháng 3 năm 2011.

Ban Du lịch Iraq cũng đang tìm kiếm các nhà đầu tư để phát triển một hòn đảo "lãng mạn" trên sông Tigris ở Baghdad mà đã từng là một địa điểm tuần trăng mật phổ biến cho người Iraq mới cưới. Dự án sẽ bao gồm một khách sạn sáu sao, spa, sân gôn 18 lỗ và câu lạc bộ đồng quê. Ngoài ra, việc đi trước đã được thực hiện để xây dựng nhiều tòa nhà chọc trời độc đáo theo kiến ​​trúc Tigris để phát triển trung tâm tài chính của thành phố ở Kadhehemiah.

Vào tháng 10 năm 2008, tuyến tàu điện ngầm Baghdad phục vụ lại. Nó kết nối trung tâm với khu vực phía nam của Dora. Tháng 5 năm 2010, một dự án khu dân cư và thương mại mới mang tên biệt danh Baghdad Gate đã được công bố. Dự án này không chỉ giải quyết nhu cầu khẩn cấp cho các đơn vị ở tại Baghdad mà còn đóng vai trò như một biểu tượng thực sự của sự tiến bộ trong thành phố bị chiến tranh tàn phá vì Baghdad đã không nhìn thấy các dự án có quy mô này trong nhiều thập kỷ qua.

Giáo dục

[sửa | sửa mã nguồn]

Đại học Mustansiriya được Abbasid Caliph al-Mustansir thành lập năm 1227. Tên trường được đổi thành Đại học Al-Mustansiriya năm 1963. Đại học Baghdad là trường đại học lớn nhất Iraq và lớn thứ 2 trong thế giới Ả Rập.

Đại học

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Đại học Mustansiriya
  • Đại học Iraqi
  • Đại học Nahrain
  • Đại học Baghdad
  • Đại học Kỹ thuật, Iraq

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Petersen, Andrew (ngày 13 tháng 9 năm 2011). “Baghdad (Madinat al-Salam)”. Islamic Arts & Architecture. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 9 năm 2016. Truy cập ngày 10 tháng 3 năm 2018.
  2. ^ a b Estimates of total population differ substantially. The Encyclopædia Britannica gives a 2001 population of 4,950,000, the 2006 Lancet Report states a population of 7,216,050 in 2011.
    • "Baghdad" Encyclopædia Britannica. 2006. Encyclopædia Britannica Online. ngày 13 tháng 11 năm 2006.
    • "Mortality after the 2003 invasion of Iraq: a cross-sectional cluster sample survey"[liên kết hỏng]PDF (242 KB). By Gilbert Burnham, Riyadh Lafta, Shannon Doocy, and Les Roberts. The Lancet, ngày 11 tháng 10 năm 2006
    • Baghdad from GlobalSecurity.org
  3. ^ a b "Cities and urban areas in Iraq with population over 100.000", Mongabay.com
  4. ^ Corzine, Phyllis (2005). The Islamic Empire. Thomson Gale. tr. 68–69.
  5. ^ Wiet, Gastron (1971). Baghdad: Metropolis of the Abbasid Caliphate. Univ. of Oklahoma Press.
  6. ^ Wiet, pg. 13
  7. ^ Corzine, Phyllis (2005). The Islamic Empire. Thomson Gale. tr. 69.
  8. ^ Wiet, pg. 12
  9. ^ “Monthly rainfall for Baghdad (WMO #40650)”. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 25 tháng 12 năm 2013.
  10. ^ “Annual Rainfall Statistics for Baghdad (WMO #40650)”. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 25 tháng 12 năm 2013.
  11. ^ (AFP) – Jan 11, 2008 (ngày 11 tháng 1 năm 2008). “Afp.google.com, First snow for 100 years falls on Baghdad”. Afp.google.com. Lưu trữ bản gốc Tháng 6 9, 2007. Truy cập ngày 27 tháng 4 năm 2010. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |ngày lưu trữ= (trợ giúp)
  12. ^ “World Weather Information Service - Baghdad”. World Meteorological Organization. Truy cập ngày 20 tháng 6 năm 2013.
  13. ^ “Baghdad Climate Guide to the Average Weather & Temperatures, with Graphs Elucidating Sunshine and Rainfall Data & Information about Wind Speeds & Humidity:”. Climate & Temperature. Truy cập ngày 25 tháng 12 năm 2011.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn] Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Bagdad. Wikivoyage có cẩm nang du lịch về Baghdad. Tra Baghdad trong từ điển mở tiếng Việt Wiktionary
  • Bản đồ Baghdad Lưu trữ 2009-09-30 tại Wayback Machine
  • Ảnh Iraq - Ảnh vệ tinh về Baghdad Lưu trữ 2007-09-11 tại Wayback Machine
  • x
  • t
  • s
Thủ đô các quốc gia châu Á
Đông ÁBắc Kinh, Trung Quốc · Tokyo, Nhật Bản · Bình Nhưỡng, CHDCND Triều Tiên · Seoul, Hàn Quốc · Đài Bắc, Đài Loan · Ulaanbaatar, Mông Cổ
Đông Nam ÁBandar Seri Begawan, Brunei · Phnôm Pênh, Campuchia · Dili, Đông Timor · Jakarta, Indonesia · Viêng Chăn, Lào · Kuala Lumpur (chính thức) và Putrajaya (hành chính), Malaysia · Naypyidaw, Myanmar · Manila, Philippines · Singapore, Singapore · Băng Cốc, Thái Lan  · Hà Nội, Việt Nam
Nam ÁDhaka, Bangladesh · Thimphu, Bhutan · New Delhi, Ấn Độ · Malé, Maldives · Kathmandu, Nepal · Islamabad, Pakistan · Kotte, Sri Lanka
Trung ÁAstana, Kazakhstan · Bishkek, Kyrgyzstan · Dushanbe, Tajikistan · Ashgabat, Turkmenistan · Tashkent, Uzbekistan
Tây ÁKabul, Afghanistan† · Yerevan, Armenia · Baku, Azerbaijan · Manama, Bahrain · Nicosia, Síp · Tbilisi, Gruzia · Tehran, Iran · Bagdad, Iraq · Jerusalem, Israel‡ · Amman, Jordan · Thành phố Kuwait, Kuwait · Beirut, Liban · Muscat, Oman · Doha, Qatar · Riyadh, Ả Rập Xê Út · Damascus, Syria · Ankara, Thổ Nhĩ Kỳ · Abu Dhabi, Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất · Sana'a, Yemen
†Afghanistan đôi khi được coi thuộc Trung Á hoặc Nam Á · ‡Jerusalem được quy định là thủ đô của Israel theo hiến pháp
  • x
  • t
  • s
50 vùng đô thị đông dân nhất thế giới
   
  1. Tokyo
  2. Jakarta
  3. Delhi
  4. Manila
  5. Seoul
  6. Mumbai
  7. Thượng Hải
  8. New York
  9. São Paulo
  10. Thành phố México
  1. Quảng Châu–Phật Sơn
  2. Thâm Quyến
  3. Bắc Kinh
  4. Dhaka
  5. Osaka–Kobe–Kyōto
  6. Cairo
  7. Moskva
  8. Băng Cốc
  9. Los Angeles
  10. Kolkata
  1. Lagos
  2. Buenos Aires
  3. Karachi
  4. Istanbul
  5. Tehran
  6. Thiên Tân
  7. Kinshasa–Brazzaville
  8. Thành Đô
  9. Rio de Janeiro
  10. Lahore
  1. Lima
  2. Bengaluru
  3. Paris
  4. Thành phố Hồ Chí Minh
  5. Luân Đôn
  6. Bogotá
  7. Chennai
  8. Nagoya
  9. Hyderabad
  10. Johannesburg
  1. Chicago
  2. Đài Bắc
  3. Vũ Hán
  4. Đông Hoản
  5. Hà Nội
  6. Trùng Khánh
  7. Onitsha
  8. Kuala Lumpur
  9. Ahmedabad
  10. Luanda

Từ khóa » D/a Của Nước Nào