Bài Giảng Luật Hôn Nhân Và Gia đình | Hoa_dại

(bài giảng Luật hôn nhân và gia đình – VB 2, ĐH Luật Hà Nội, 2016)

Đại học Luật Hà Nội

Lớp: K14CCQ

BÀI GIẢNG LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Thời lượng: 45 tiết

Ngày 23/02/2016

Giảng viên: cô …

Tài liệu:

  • Luật Hôn nhân và gia đình 2014
  • Nguồn gốc gia đình và Chế độ tư hữu (Enghen 1884)
  • Thông tư liên tịch 01 ngày 06/01/2016 của Tòa án NDTC và VKS NDTC

Chương 1: Khái niệm và nguyên tắc cơ bản của luật Hôn nhân và Gia đình

1. Các hình thái hôn nhân và gia đình trong lịch sử

– Thời nguyên thủy, trong các bộ lạc, đàn ông và đàn bà được tự do quan hệ tính giao, tức là mọi người đàn bà đều thuộc về mọi người đàn ông và ngược lại.

– Sau đó, các hình thái gia đình sau đây đã phát triển (theo Morgan):

a. Gia đình huyết tộc

– Là hình thái gia đình đầu tiên của loài người, trong đó có sự phân chia thế hệ: ông bà, cha mẹ, con cái, cháu chắt, trong đó:

+ những người thuộc thế hệ “ông bà” vẫn quan hệ tính giao tự do với nhau, tương tự trong thế hệ cha mẹ và thế hệ con cái ==> vì thế trong gia đình huyết tộc chỉ có “tổ tiên – con cháu”, “cha mẹ – con cái”, không có quan hệ “vợ – chồng”, những người cùng thế hệ trong gia đình đều là vợ / chồng của nhau.

+ cấm quan hệ tính giao giữa cha mẹ và con cái, giữa ông bà với cháu.

==> Như vậy so với bộ lạc nguyên thủy thì hình thái Gia đình huyết tộc đã tiến thêm 1 bước là xóa bỏ quan hệ tính giao giữa cha mẹ và con cái, giữa ông bà và cháu.

b. Gia đình Punalua

– Là bước tiến thứ 2 của gia đình: xóa bỏ quan hệ tính giao giữa anh chị em với nhau. Ban đầu là cấm anh chị em cùng mẹ quan hệ tính giao với nhau, sau đó mở rộng ra cấm anh chị em cùng bà, rồi cùng cụ quan hệ tính giao với nhau.

– Tuy nhiên, chế độ quần hôn vẫn còn (một phụ nữ có thể có nhiều chồng, và một đàn ông có thể có nhiều vợ, miễn là vợ / chồng đó không phải là anh chị em ruột và anh chị em họ) ==> chế độ mẫu quyền

Tại sao ?

+ vì trong chế độ quần hôn, chỉ có thể xác định được mẹ cho con, bà cho cháu, chứ không thể xác định được cha cho con ==> thừa kế theo bên mẹ

+ của cải trong xã hội thời kỳ này rất ít, chỉ đủ để duy trì sự sống, không có tích lũy, kinh tế chủ yếu là hái lượm ==> vai trò của phụ nữ lớn hơn so với đàn ông

Morgan gọi đó là “gia đình Punalua”, tức là “gia đình bạn thân”

– Nguyên nhân chuyển từ quần hôn sang punalua:

+ nguyên nhân xã hội: việc cấm kết hôn cùng huyết tộc đã khiến các nhóm “anh em trai” và “chị em gái” không thể lấy nhau ngày càng nhiều ==> quần hôn ngày càng không khả thi

+ nguyên nhân chọn lọc tự nhiên (nguyên nhân sinh học): việc cấm kết hôn cùng huyết tộc làm cho bộ lạc có sự  đa dạng sinh học, tạo ra giống nòi mạnh mẽ hơn về thể chất và trí tuệ ==> ưu việt hơn các bộ lạc khác ==> lôi kéo các bộ lạc khác theo hình mẫu của mình

c. Gia đình đối ngẫu (gia đình cặp đôi)

– Mầm mống của gia đình đối ngẫu xuất hiện khi người đàn ông xác định trong số những người quan hệ tính giao với mình có 1 người là “vợ chính”, và ngược lại người phụ nữ cũng xác định 1 người đàn ông là “chồng chính” của mình ==> xuất hiện hôn nhân theo từng cặp. Tuy nhiên vẫn chưa phải là chế độ hôn nhân 1 vợ 1 chồng vì bên cạnh “chồng chính” còn có nhiều “chồng phụ”, và bên cạnh “vợ chính” còn có nhiều “vợ phụ”

– Gia đình đối ngẫu vẫn tồn tại rất lỏng lẻo, vì con sinh ra chưa chắc đã là con của “chồng chính” và “vợ chính”

– Gia đình đối ngẫu là bước đệm để chuyển từ chế độ quần hôn sang chế độ hôn nhân 1 vợ 1 chồng

– Theo Enghen thì thời gian của hình thái gia đình đối ngẫu là rất ngắn.

d. Gia đình 1 vợ 1 chồng (gia đình cá thể)

– Hình thái gia đình 1 vợ 1 chồng xuất hiện là sự đánh dấu thời đại văn minh của loài người đã xuất hiện (thời kỳ trước đó được gọi là thời “mông muội” với chế độ quần hôn)

– Theo Enghen, nguyên nhân xuất hiện gia đình 1 vợ 1 chồng là nguyên nhân kinh tế: khi XH đã bắt đầu phân công lao động ==> xuất hiện một số ngành nghề mới như công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương nghiệp (những ngành nghề này chủ yếu do đàn ông nắm giữ) ==> của cải XH tăng lên, chi dùng không hết ==> từng gia đình đối ngẫu nắm giữ tài sản làm của riêng (tư hữu xuất hiện) ==> muốn thừa kế tài sản cho con mình ==> cần biết đâu chính xác là con mình ==> người đàn ông buộc người vợ chính phải tuyệt đối chung tình, nếu không chung tình sẽ bị trừng phạt rất nặng ==> không gọi là “chồng chính” nữa, mà là chồng duy nhất ==> gia đình 1 vợ 1 chồng ==> chuyển từ mẫu hệ sang phụ hệ

– Quan hệ vợ chồng trong gia đình 1 vợ 1 chồng rất chặt chẽ, hai bên không thể tùy ý bỏ nhau (do tài sản là của chung 2 vợ chồng)

– Theo Enghen thì tư hữu sẽ dẫn đến mâu thuẫn, và Nhà nước ra đời để điều hòa các mâu thuẫn đó. Như vậy Enghen kết luận: Tư hữu, gia đình 1 vợ 1 chồng, và nhà nước xuất hiện cùng 1 ngày

– Các biến thể của gia đình 1 vợ 1 chồng:

+ gia đình trong chế độ nô lệ: 1 người đàn ông có nhiều vợ, trong khi đó người đàn bà chỉ có thể có 1 chồng

+ gia đình phong kiến: điển hình là chế độ đa thê (Tài trai năm bảy vợ / Gái chính chuyên chỉ có một chồng)

+ gia đình tư sản: vẫn theo chế độ hôn nhân 1 vợ 1 chồng, tuy nhiên nạn ngoại tình và mại dâm đã làm mất ý nghĩa của gia đình 1 vợ 1 chồng

+ gia đình 1 vợ 1 chồng dưới chế độ XHCN: dựa trên tình yêu chân chính giữa nam và nữ

2. Khái niệm hôn nhân

– Khái niệm (Điều 3): Hôn nhân là quan hệ vợ chồng sau khi kết hôn.

Hôn nhân là quan hệ nhân thân của mỗi bên nam và nữ với tư cách là vợ chồng. Hôn nhân là sự kiện pháp lý làm phát sinh quyền và nghĩa vụ cho hai bên trong quan hệ vợ chồng.

– Đặc điểm của hôn nhân:

+ là hôn nhân 1 vợ 1 chồng, vợ chồng là 2 người khác giới tính.

Chú ý: trước ngày 13/1/1960 khi Luật Hôn nhân và Gia đình đầu tiên có hiệu lực thì NN và XH vẫn thừa nhận chế độ đa thê từ thời phong kiến

Chú ý: NN không thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính (Điều 8), tuy nhiên không cấm họ sống chung như vợ chồng, không cấm họ làm đám cưới (chỉ là không cho đăng ký kết hôn)

Luật HNGĐ 2000 quy định “Cấm hôn nhân giữa những người cùng giới tính”, còn luật HNGĐ 2014 quy định “NN không thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính”

+ được xây dựng trên nguyên tắc tự nguyện và bình đẳng: tự nguyện kết hôn, và được phép ly hôn nếu 2 bên thuận tình

+ việc xác lập hoặc chấm dứt quan hệ hôn nhân phải tuân thủ các quy định của PL: lý do là để xây dựng gia đình – là tế bào của XH, và quan trọng hơn là bảo vệ con cái

+ mục đích của việc xác lập quan hệ hôn nhân là để các bên chung sống lâu dài và xây dựng gia đình: nếu kết hôn giả tạo sẽ là vi phạm PL, VD kết hôn với mục đích xuất cảnh, nhập cảnh, để hưởng chế độ ưu đãi của NN

3. Khái niệm gia đình

– Khái niệm (Điều 3): Gia đình là tập hợp những người gắn bó với nhau do hôn nhân, quan hệ huyết thống hoặc quan hệ nuôi dưỡng, làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ giữa họ với nhau theo quy định của Luật HN GĐ

– Các chức năng xã hội cơ bản của gia đình (3 chức năng):

+ sinh đẻ: là chức năng tái sản xuất về mặt sinh học, để duy trì nòi giống. Việc khuyến khích hay hạn chế chức năng sinh đẻ của gia đình phụ thuộc vào yếu tố từng quốc gia trong từng thời kỳ.

+ giáo dục: thực hiện giáo dục với con cái từ khi sinh ra cho đến khi trưởng thành, thậm chí cho đến suốt đời. Giáo dục trong gia đình có vai trò quan trọng trong việc hình thành và phát triển nhân cách cá nhân

+ kinh tế: mỗi gia đình phải tự đảm bảo cuộc sống cho mỗi thành viên, thỏa mãn những nhu cầu vật chất và tinh thần của các thành viên đó, NN chỉ có thể trợ cấp khi gia đình quá khó khăn về kinh tế

4. Khái niệm luật Hôn nhân và Gia đình

a. Khái niệm

Luật HN GĐ có 3 ý nghĩa:

– Với ý nghĩa là 1 môn học: là hệ thống khái niệm, quan điểm, nhận thức, đánh giá mang tính lý luận về PL HN GĐ và thực tiễn áp dụng

– Với ý nghĩa là 1 VBPL cụ thể: là VBPL chứa đựng những quy phạm PL về HN GĐ, hiện tại là Luật HN GĐ 2014

– Với ý nghĩa là 1 ngành luật: gồm đối tượng điều chỉnh và phương pháp điều chỉnh riêng

Môn học này sẽ nghiên cứu Luật HNGĐ theo ý nghĩa thứ 3

b. Đối tượng điều chỉnh

– là các quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản phát sinh giữa vợ và chồng, cha mẹ và con cái, người thân thích khác (VD ông bà và cháu chắt, anh chị em với nhau, …)

– Đặc điểm:

+ quan hệ nhân thân là nội dung điều chỉnh chủ yếu. Quan hệ nhân thân quyết định phát sinh, thay đổi và chấm dứt quan hệ tài sản. VD khi 2 người kết hôn, quan hệ nhân thân xác lập, thì tài sản của mỗi bên làm ra trong thời kỳ hôn nhân là tài sản chung, và khi họ ly hôn thì quan hệ nhân thân chấm dứt, và quan hệ tài sản cuang chấm dứt theo

+ quyền và nghĩa vụ quan hệ hôn nhân gia đình gắn với mỗi chủ thể và không thể chuyển giao cho người khác (thực tế có thể chuyển giao nhưng không được PL công nhận)

+ quan hệ tài sản không mang tính đề bù giang giá: VD cha mẹ nuôi dạy con cái thì không thể đòi hỏi con cái phải chăm sóc cha mẹ tương ứng

+ quyền và nghĩa vụ hôn nhân và gia đình tồn tại lâu dài và bền vững

c. Phương pháp điều chỉnh

– Phương pháp điều chỉnh luật HNGĐ mang tính chất linh hoạt và mềm dẻo, chủ yếu mang tính chất giáo dục và thuyết phục, hầu hết không có chế tài. (trong Luật HNGĐ chỉ có 2 quy định có tính chất chế tài: Hủy việc kết hôn trái PL, hạn chế 1 số quyền của cha mẹ khi con chưa thành niên)

Nguyên nhân: vì đặc điểm của các quan hệ HN GĐ là các chủ thể gắn bó với nhau bằng tình cảm, huyết thống hoặc nuôi dưỡng

– Đặc điểm của phương pháp điều chỉnh:

+ quyền và nghĩa vụ của các chủ thể luôn tương ứng với nhau

+ các chủ thể khi thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình phải xuất phát từ lợi ích chung của gia đình

+ các chủ thể không thể tự thỏa thuận để thay đổi các quyền và nghĩa vụ mà luật quy định cho họ (nếu có thỏa thuận bằng văn bản cũng không được PL công nhận),

VD cha và con cùng thỏa thuận lập văn bản rằng từ nay cha không phải nuôi dưỡng con đến 18 tuổi nữa và ngược lại con cũng không phải chăm sóc cha mẹ khi cha mẹ già, thì thỏa thuận này dù có được lập thành văn bản cũng không được PL thừa nhận và các bên vẫn có nghĩa vụ với nhau như PL quy định

VD vợ chồng cùng thỏa thuận lập văn bản cung cho phép vợ và chồng được phép sống chung với bồ, thỏa thuận này sẽ không được PL thừa nhận

==> mục đích là để đảm bảo ổn định trật tự XH

+ các quy phạm PL hôn nhân và gia đình gắn bó mật thiết với các quy tắc đạo đức và phong tục tập quán về hôn nhân và gia đình trong XH

5. Các nguyên tắc về luật Hôn nhân và gia đình (Điều 2)

Gồm 05 nguyên tắc:

– Hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng

– Hôn nhân giữa công dân Việt Nam thuộc các dân tộc, tôn giáo, giữa người theo tôn giáo với người không theo tôn giáo, giữa người có tín ngưỡng với người không có tín ngưỡng, giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ.

– Xây dựng gia đình ấm no, tiến bộ, hạnh phúc; các thành viên gia đình có nghĩa vụ tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; không phân biệt đối xử giữa các con.

– Nhà nước, xã hội và gia đình có trách nhiệm bảo vệ, hỗ trợ trẻ em, người cao tuổi, người khuyết tật thực hiện các quyền về hôn nhân và gia đình; giúp đỡ các bà mẹ thực hiện tốt chức năng cao quý của người mẹ; thực hiện kế hoạch hóa gia đình.

– Kế thừa, phát huy truyền thống văn hóa, đạo đức tốt đẹp của dân tộc Việt Nam về hôn nhân và gia đình.

———————–

Ngày 25/02/2016

Giảng viên: thầy Nguyễn Văn Cừ

Chương 2: Quan hệ pháp luật Hôn nhân và Gia đình

1. Khái niệm và các đặc điểm

– Khái niệm: Quan hệ PL hôn nhân và gia đình là những quan hệ XH được luật HN GĐ điều chỉnh

– Đặc điểm:

+ quan hệ PL HNGĐ thường chỉ phát sinh giữa các thành viên trong gia đình với nhau

+ quan hệ PL HNGĐ mang tính tồn tại lâu dài và bền vững, thậm chí còn tồn tại ngay cả khi hôn nhân chấm dứt và gia đình không còn tồn tại

+ luôn có yếu tố tình cảm và huyết thống trong mọi quan hệ PL hôn nhân và gia đình: các chủ thể trong quan hệ PL HNGĐ gắn bó với nhau bởi yếu tố tình cảm hoặc huyết thống, trong phần lớn các trường hợp, yếu tố tình cảm hoặc huyết thống quyết định việc phát sinh, thay đổi, và chấm dứt quan hệ PL HNGĐ

+ nội dung chính của quan hệ PL HNGĐ là các quyền và nghĩa vụ nhân thân: các quyền và nghĩa vụ tài sản luôn gắn liền với quyền và nghĩa vụ nhân thân, không thể chuyển giao cho người khác. Các quyền và nghĩa vụ tài sản phát sinh, thay đổi, chấm dứt phụ thuộc vào quyền và nghĩa vụ của nhân thân.

+ quan hệ tài sản trong quan hệ PL HNGĐ không mang tính đền bù tương đương: khi 1 chủ thể thực hiện nghĩa vụ tài sản thì không phụ thuộc vào việc trước đây họ có được hưởng quyền hay không hoặc được hưởng quyền như thế nào. VD con cái không thể viện dẫn hồi nhỏ mình không được bố mẹ chăm sóc để trốn tránh nghĩa vụ chăm sóc cha mẹ khi về già

+ các chủ thể của quan hệ PL HNGĐ thường tự nguyện thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình. Do đó thông thường các quy phạm PL HNGĐ không quy định chế tài.

+ thời hiệu khởi kiện không áp dụng đối với các quan hệ hôn nhân và gia đình: quyền và nghĩa vụ trong quan hệ HNGĐ có thể được thực hiện bất kỳ lúc nào, VD luật không quy định “kể từ thời điểm xảy ra mâu thuẫn giữa vợ chồng, trong thời hạn 1 năm phải ra tòa xin ly hôn”

Chú ý: các trường hợp được PL công nhận là vợ chồng:

+ nam nữ kết hôn và được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn của cơ quan NN có thẩm quyền

+ nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng trước ngày 3-1-1987 (ngày Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1986 có hiệu lực) nhưng không đăng ký kết hôn thì vẫn được NN coi là vợ chồng (hôn nhân thực tế), tức là vẫn giải quyết việc ly hôn, phân chia tài sản, thừa kế như vợ chồng đã đăng ký kết hôn (theo Điều 3 Nghị quyết 35 năm 2000 của Quốc hội, và Thông tư liên tịch 01 năm 2016 vẫn công nhận điều này)

Chung sống như vợ chồng ở đây được hiểu lả: hai bên thực sự coi nhau là vợ chồng, chung sống một cách công khai, cùng gánh vác công việc gia đình, về mặt khách quan được gia đình và xã hội thừa nhận là vợ chồng

+ trường hợp cán bộ cách mạng miền Nam, đã có vợ có chồng tại miền Nam, năm 1954 tập kết ra miền Bắc, lại lấy vợ lấy chồng khác (theo Thông tư số 60/TATC ngày 22-02-1978 của Tòa án nhân dân tối cao “Hướng dẫn giải quyết các trường hợp cán bộ, bộ đội trong Nam tập kết ra Bắc mà lấy vợ, lấy chồng khác”)

Một số tình huống đặc biệt:

  • Nếu người chồng xin ly hôn với bất kỳ bà vợ nào, với bất kỳ lý do gì, thì tòa án xử kiên quyết bác đơn ly hôn đến cùng (dù có xin ly hôn bao nhiêu lần, nhằm đảm bảo lợi ích cho bà vợ và những đứa con)
  • Nếu người vợ lấy trước ở miền Nam biết chồng mình nặng tình nghĩa với người vợ lấy sau ở miền Bắc không muốn về, muốn tự nguyện xin ly hôn thì tòa xử chấp nhận cho ly hôn
  • Nếu người vợ lấy sau ở miền Bắc thấy chồng mình vẫn nặng tình nghĩa với bà vợ lấy trước ở miền Nam và muốn về miền Nam, muốn tự nguyện xin ly hôn thì tòa xử chấp nhận cho ly hôn
  • Nếu cả 2 bà vợ đều cùng muốn sum họp gia đình thì tòa sẽ sắp xếp sao cho ổn thỏa, tức là cho “chung sống tay ba”, 1 chồng 2 vợ vẫn không phạm luật

Chú ý:

+ Nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng từ ngày 03/01/1987 đến ngày 01/01/2001, mà có đủ điều kiện kết hôn thì có nghĩa vụ đăng ký kết hôn trong thời hạn hai năm, tức là đến ngày 01/01/2003.

Từ sau ngày 01/01/2003 mà họ không đăng ký kết hôn thì PL không công nhận họ là vợ chồng.

+ Về việc xác định cha cho con:

  • Trước luật HNGĐ 1986, quy định: Trong thời kỳ người mẹ có khả năng thụ thai đứa con của mình, mà ăn nằm với nhiều người đàn ông khác nhau, sau này xin truy nhận cha cho con, thì tòa không giải quyết.
  • Kể từ luật HNGĐ 1986, quy định: Một người có quyền yêu cầu xác minh 1 người khác là cha, mẹ, con của mình, kể cả khi người được yêu cầu đã chết

2. Các yếu tố của quan hệ PL HNGĐ

Chủ thể: là cá nhân tham gia vào quan hệ PL HNGĐ, có năng lực PL và năng lực hành vi HNGĐ:

+ năng lực PL HNGĐ: là khả năng cá nhân có quyền và nghĩa vụ HNGĐ, được NN công nhận, VD quyền được nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục, quyền được xác định cha, mẹ, con, quyền được kết hôn, ly hôn, nghĩa vụ chăm sóc con cái, cha mẹ già…

+ năng lực hành vi HNGĐ: là khả năng bằng các hành vi của mình, chủ thể thực hiện các quyền và nghĩa vụ HNGĐ đã được PL quy định. Năng lực hành vi phụ thuộc vào độ tuổi và khả năng nhận thức của chủ thể.

Khách thể: là những lợi ích mà các chủ thể của quan hệ PL HNGĐ hướng đến, gồm:

+ lợi ích nhân thân: là lợi ích về tinh thần và yếu tố tình cảm, đây là lợi ích căn bản nhất của quan hệ PL HNGĐ, VD họ tên, dân tộc, quốc tịch, quyền làm cha mẹ, tình thương yêu, sự quan tâm, chăm sóc, tình cảm thủy chung vợ chồng, tình gắn bó anh em

+ lợi ích về hành vi: là các hành vi do 1 bên chủ thể thực hiện và bên kia hưởng quyền, có thể được thực hiện:

  • bằng hành động: hành vi thể hiện tình yêu thương, sự quan tâm, chăm sóc giữa cha mẹ và con, vợ và chồng, …
  • bằng không hành động: cha mẹ không được hành hạ, ngược đãi con cái, con cái không được bất hiếu với cha mẹ, ông bà, …

+ lợi ích về tài sản: là tài sản chung của vợ chồng, tiền cấp dưỡng giữa cha mẹ và con, …

Câu hỏi: Một cặp vợ chồng hiếm muộn, mong muốn có con, vậy con có phải là khách thể ?

Trả lời: Sai, con cái luôn luôn là chủ chủ thể

Nội dung: quyền và nghĩa vụ của HNGĐ, gồm:

+ quyền và nghĩa vụ về nhân thân: là yếu tố tinh thần, phát sinh giữa các chủ thể. VD con cái có quyền được cha mẹ yêu thương, nuôi dưỡng, chăm sóc, ngược lại cha mẹ có quyền yêu thương, nuôi dưỡng, chăm sóc con cái, … Quyền và nghĩa vụ về nhân thân trong quan hệ PL HNGĐ theo bản chất pháp lý là tương đối, vì chỉ có thể định tính, không thể định lượng (chẳng hạn không thể nêu rõ thế nào là yêu thương chăm sóc)

+ quyền và nghĩa vụ về tài sản: lợi ích vật chất phát sinh giữa các chủ thể. VD quyền sở hữu tài sản chung của vợ chồng, quyền và nghĩa vụ nuôi dưỡng hoặc cấp dưỡng của cha mẹ và con cái, … Quyền và nghĩa vụ về tài sản trong quan hệ PL HNGĐ theo bản chất pháp lý vừa là tương đối, vừa là tuyệt đối (chẳng hạn cha mẹ phải đảm bảo cuộc sống vật chất cho con cái là tương đối, tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn nếu không có thỏa thuận thì sẽ chia đôi cho vợ và chồng là tuyệt đối)

3. Căn cứ làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ PL HNGĐ

– Là các sự kiện pháp lý mà khi xuất hiện thì quan hệ PL HNGĐ có thể phát sinh, thay đổi, chấm dứt. VD kết hôn, ly hôn, sinh con, chết,…

– Sự kiện pháp lý có thể là sự biến pháp lý hoặc hành vi pháp lý:

+ sự biến pháp lý: là những sự kiện có tính chất tự nhiên, xảy ra không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của con người, làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ HNGĐ. VD vợ hoặc chồng chết sẽ làm chấm dứt quan hệ hôn nhân, cha mẹ chết sẽ làm chấm dứt quan hệ nuôi dưỡng với con cái

+ hành vi pháp lý: là sự kiện nảy sinh do ý chí của con người, làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ HNGĐ. Hành vi pháp lý có thể là hành động hoặc không hành động. VD kết hôn,

– Sự kiện pháp lý để làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ PL HNGĐ thì phải được cơ quan NN có thẩm quyền công nhận. VD sinh con phải có đăng ký khai sinh, chết phải có giấy chứng tử, …

– Nhóm căn cứ làm phục hồi quan hệ PL HNGĐ: không làm phát sinh quan hệ PL mới mà chỉ làm phục hồi quan hệ PL đã bị chấm dứt trước đó. VD ly hôn, rồi sau đó tái hôn; cho con đẻ làm con nuôi gia đình khác, sau đó nhận lại

Chương 3: Sự phát triển của luật Hôn nhân và Gia đình

Kể từ khi thành lập nước VN đến nay, đã có 4 luật HNGĐ được ban hành:

– Luật HNGĐ 1959 (hiệu lực từ ngày 13/01/1960)

– Luật HNGĐ 1986 (hiệu lực từ ngày 03/01/1987)

– Luật HNGĐ 2000 (hiệu lực từ ngày 01/01/2001)

– Luật HNGĐ 2014 (hiệu lực từ ngày 01/01/2015)

——————–

Ngày 27/02/2016

Giảng viên: thầy Nguyễn Văn Cừ

Về quan hệ Hôn nhân và Gia đình, bộ luật Hồng Đức (thế kỷ 15, thời Lê) đã có nhiều quy định đáng chú ý:

– Về tài sản:

+ người phụ nữ có tài sản riêng, ngay cả khi lấy chồng thì tài sản riêng đó vẫn thuộc về người phụ nữ + tài sản trong hôn nhân được coi là “của chồng công vợ”, thuộc sở hữu của cả 2 vợ chồng

+ người vợ cũng có quyền bình đẳng như người chồng, khi định đoạt tài sản chung có giá trị thì phải được sự đồng ý của người vợ.

– Về ly hôn: chỉ có người chồng mới có quyền “dẫy vợ” (bỏ vợ), người phụ nữ không có quyền bỏ chồng, luật quy định “thất xuất”, tức là 7 điều cấm mà nếu người vợ phạm phải 1 trong 7 điều này sẽ bị chồng bỏ:

(1) đa ngôn: nói nhiều, lắm lời

(2) vô tử: không sinh được con

(3) ghen tuông: xã hội phong kiến cho phép người đàn ông được lấy nhiều vợ, nhưng người phụ nữ chỉ được phép lấy 1 chồng

(4) trộm cắp: người vợ có tính xấu, lấy trộm đồ hàng xóm ==> làm gia đình chồng bị nhơ nhuốc, xấu hổ với hàng xóm

(5) bất kính đối với cha mẹ chồng

(6) gian dâm với người khác: ngoại tình (lăng loàn)

(7) người vợ bị mắc 1 bệnh hiểm nghèo không thể chữa khỏi (như bệnh tâm thần, …)

Nếu người vợ phạm vào “thất xuất” mà người chồng không bỏ vợ thì sẽ bị phạt vạ 80 trượng

– Tuy nhiên, bộ luật Hồng Đức có nhiều quy định bảo vệ người phụ nữ:

+ nếu người vợ phạm vào “thất xuất” trừ tội ngoại tình, nhưng lại đang ở trong “tam bất khứ” (ba trường hợp) thì sẽ không chịu bị chồng bỏ, tam bất khứ là:

  • đã để tang nhà chồng 3 năm: vợ đã để tang cha mẹ chồng 3 năm
  • khi lấy nhau nghèo mà sau giàu có: nhờ có người vợ góp công mà người chồng từ nghèo khó thành giàu có
  • khi lấy nhau có bà con mà khi bỏ lại không có bà con để trở về: gia đình người vợ không còn ai để người vợ trở về

+ người vợ cũng có quyền bỏ chồng khi:

  • người chồng bỏ lửng vợ con từ 5 tháng trở lên
  • người chồng đánh chửi cha mẹ vợ

Chương 4: Kết hôn

1. Khái niệm

– Kết hôn là việc nam nữ xác lập quan hệ vợ chồng và tuân theo các điều kiện kết hôn và thủ tục kết hôn.

Đám cưới là nghi lễ nhằm mục đích thông báo sự kiện 2 bên nam nữ trở thành vợ chồng của nhau.

– Dưới góc độ pháp lý, kết hôn được hiểu là sự kiện pháp lý làm phát sinh quan hệ vợ chồng, phải thỏa mãn 2 yếu tố:

+ phải thể hiện được ý chí của cả nam và nữ mong muốn được kết hôn với nhau

+ phải được NN thừa nhận

– Nhà nước quản lý việc kết hôn thông qua việc cấp Giấy chứng nhận kết hôn

– Quyền kết hôn là quyền nhân thân, không thể chuyển giao.

2. Điều kiện kết hôn

Các điều kiện kết hôn được quy định tại Điều 8:

– Nữ từ đủ 18, nam từ đủ 20, không quy định tuổi tối đa

– Phải có sự tự nguyện của cả 2 bên, không bên nào được ép buộc hay lừa dối bên nào, không ai được cưỡng ép hay cản trở

+ tự nguyện kết hôn được thể hiện bằng dấu hiệu khách quan: hai bên nam, nữ phải đồng thời có mặt tại cơ quan NN có thẩm quyền để đăng ký kết hôn (không thể ủy quyền cho người khác)

+ cưỡng ép kết hôn: là việc đe dọa, uy hiếp tinh thần, hành hạ, ngược đãi, yêu sách của cải hoặc hành vi khác để buộc người khác kết hôn trái ý muốn của họ, VD cha mẹ cưỡng ép con phải kết hôn với người mà con không mong muốn

+ cản trở kết hôn: là việc đe dọa, uy hiếp tinh thần, hành hạ, ngược đãi, yêu sách của cải hoặc hành vi khác để ngăn cản việc kết hôn, VD cha mẹ không muốn cho con gái lấy chồng nhà nghèo nên cố tình thách cưới thật cao

+ lừa dối kết hôn: là 1 trong 2 bên nói sai sự thật về người đó làm cho người kia lầm tưởng mà kết hôn, VD nói dối chưa có vợ / chồng để kết hôn; hoặc nói dối về tình trạng sức khỏe như bị nhiễm HIV nhưng nói dối là không mắc

Chú ý: nếu lừa dối về điều kiện kinh tế, bằng cấp, địa vị xã hội thì không bị coi là vi phạm điều kiện kết hôn tự nguyện.

– Người kết hôn không phải là người mất năng lực hành vi dân sự: để xác nhận tình trạng mất năng lực hành vi phải có quyết định của Tòa án tuyên bố bị mất năng lực hành vi

==> như vậy, người bị mất năng lực hành vi vẫn có thể kết hôn nếu thời điểm đăng ký kết hôn chưa có quyết định của Tòa án về tình trạng mất năng lực hành vi dân sự

– Hai người phải khác giới tính (Điều 8, khoản 2)

NN không thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính nhưng không cấm họ sống chung

– Việc kết hôn không vi phạm điều cấm (khoản 2 Điều 5)

+ kết hôn giả tạo:  là việc lợi dụng kết hôn để xuất cảnh, nhập cảnh, cư trú, nhập quốc tịch Việt Nam, quốc tịch nước ngoài; hưởng chế độ ưu đãi của Nhà nước hoặc để đạt được mục đích khác mà không nhằm mục đích xây dựng gia đình

+ cấm người đang có vợ / chồng kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác

+ cấm kết hôn giữa những người có cùng dòng máu trực hệ trong phạm vi 3 đời

+ cấm kết hôn giữa cha mẹ nuôi với con nuôi, giữa những người đã từng là cha mẹ nuôi với con nuôi, cha chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, cha dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng

–  Việc kết hôn phải được cơ quan có thẩm quyền công nhận và cấp Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn (Điều 9)

Chú ý: với trường hợp kết hôn với người nước ngoài, có thể xảy ra tình huống vênh nhau về luật, VD ở VN quy định nam phải đủ 20 tuổi mới được kết hôn, trong khi nước khác quy định đủ 18 tuổi ==> các nước phải ký kết với nhau hiệp định tương trợ pháp lý để thỏa thuận với nhau. ==> và khi đó việc kết hôn sẽ tuân theo các quy tắc trong hiệp định của 2 bên.

– Với trường hợp đã ly hôn, muốn quay trở lại với nhau thì phải đăng ký kết hôn, và PL chỉ coi là vợ chồng từ ngày có đăng ký kết hôn lại

– Với người theo đạo, hoặc theo quy định của dân tộc thiểu số, mà có nghi thức kết hôn theo quy định riêng (VD được ghi vào sổ hôn nhân của nhà thờ Thiên chúa) thì nghi thức kết hôn đó không có giá trị trước PL, các bên chỉ được PL coi là vợ chồng khi đăng ký kết hôn tại cơ quan NN có thẩm quyền.

– Điều kiện về hình thức : việc kết hôn phải được cơ quan có thẩm quyền NN cấp Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn

3. Kết hôn trái PL và hủy việc kết hôn trái PL

a. Khái niệm kết hôn trái PL (khoản 6 điều 3)

– Là việc nam, nữ đã đăng ký kết hôn tại cơ quan NN có thẩm quyền nhưng một bên hoặc cả hai bên vi phạm điều kiện kết hôn theo Điều 8 Luật HNGĐ.

– Chú ý: cần phân biệt “kết hôn trái PL” với “chung sống với người khác như vợ chồng trái PL”

+ kết hôn trái PL: đã đăng ký kết hôn nhưng vi phạm điều kiện kết hôn

+ chung sống với người khác như vợ chồng trái PL: người đã có vợ / chồng lại chung sống với người khác như vợ / chồng

– Về hành vi “chung sống với người khác như vợ chồng”, có 3 trường hợp:

+ chung sống như vợ chồng, không đăng ký kết hôn, được công nhận là vợ chồng

+ chung sống như vợ chồng, không đăng ký kết hôn, bị coi là trái PL và bị xử lý

+ chung sống như vợ chồng, không đăng ký kết hôn, không bị coi là trái PL và không bị xử lý

b. Hủy việc kết hôn trái PL

– là việc Tòa án tuyên bố hủy bỏ việc kết hôn do vi phạm các điều kiện kết hôn (giấy Chứng nhận đăng ký kết hôn bị hủy)

– là biện pháp xử lý có ý nghĩa như chế tài của luật HNGĐ áp dụng đối với trường hợp kết hôn trái PL, NN không thừa nhận có quan hệ vợ chồng trong kết hôn trái PL, buộc 2 bên phải chấm dứt hành vi chung sống như vợ chồng trái PL đó

– Căn cứ để hủy việc kết hôn trái PL:

+ do tảo hôn: một trong 2 bên chưa đủ tuổi theo quy định

+ kết hôn do bị cưỡng ép, bị lừa dối

+ kết hôn với người bị mất năng lực hành vi dân sự

+ kết hôn giữa những người cùng giới tính

+ kết hôn giữa những người cùng dòng máu trực hệ, có họ trong phạm vi 3 đời

+ cha mẹ nuôi kết hôn với con nuôi, giữa người đã từng là cha mẹ nuôi với con nuôi, cha chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, cha dượng với con riêng của vợ mẹ, kế với con riêng của chồng

c. Người có quyền yêu cầu Tòa án hủy việc kết hôn trái PL (Điều 10)

– Người bị cưỡng ép, bị lừa dối kết hôn: tức là nạn nhân của việc kết hôn trái PL

– Vợ / chồng của người đang có vợ / chồng mà kết hôn với người khác

– Cha mẹ, con, người giám hộ, người đại diện theo PL khác của người kết hôn trái PL

– Cơ quan quản lý NN về gia đình

– Cơ quan quản lý NN về trẻ em

– Hội liên hiệp phụ nữ VN (từ cấp huyện trở lên)

– Bất kỳ cá nhân, tổ chức nào khi phát hiện việc kết hôn trái PL thì có quyền kiến nghị với người, tổ chức nêu trên để đề nghị họ viết đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án hủy việc kết hôn trái PL

d. Xử lý trường hợp kết hôn trái PL (Điều 11)

– Đường lối xử lý trường hợp kết hôn trái PL là rất thận trọng, nhằm đảm bảo quyền lợi của những người kết hôn và gia đình

– Trường hợp tại thời điểm yêu cầu hủy kết hôn trái PL mà cả hai bên đã đủ điều kiện kết hôn (VD đã đủ tuổi kết hôn, đã ly hôn vợ trước để kết hôn với vợ sau), khi đó nếu hai bên đều yêu cầu công nhận hôn nhân thì Tòa án công nhận quan hệ hôn nhân, và quan hệ hôn nhân được xác lập (lại) từ thời điểm 2 bên đủ điều kiện kết hôn.

– Tòa án sẽ tuyên hủy đăng ký kết hôn trong 2 trường hợp sau:

+ trường hợp tại thời điểm yêu cầu hủy kết hôn trái PL mà một bên hoặc cả hai bên vẫn vi phạm điều kiện kết hôn

+ trường hợp tại thời điểm yêu cầu hủy kết hôn trái PL mà cả hai bên đã đủ điều kiện kết hôn, nhưng một bên hoặc cả 2 bên đều không yêu cầu tòa án công nhận hôn nhân

e. Hậu quả pháp lý của hủy kết hôn trái PL (Điều 12)

– Về quan hệ nhân thân: NN không thừa nhận hai người kết hôn trái PL là vợ chồng, kể từ ngày quyết định của Tòa án về việc hủy kết hôn trái PL có hiệu lực thì hai bên phải chấm dứt quan hệ như vợ chồng

– Về quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng giữa hai bên kết hôn trái PL: được giải quyết như trường hợp nam nữ sống chung với nhau như vợ chồng (tức là giải quyết theo thỏa thuận giữa các bên hoặc theo các quy định trong Bộ luật dân sự và các quy định PL có liên quan)

– Quyền và nghĩa vụ giữa cha, mẹ, con: quyền và nghĩa vụ của cha mẹ với con không phụ thuộc vào tính hợp pháp của quan hệ hôn nhân, do đó khi hủy kết hôn trái PL thì các vấn đề liên quan đến con chung sẽ được giải quyết như khi vợ chồng ly hôn. (như quy định trong Điều 81, 82, 83, 84)

f. Xử lý việc cấp giấy chứng nhận đăng ký kết hôn không đúng thẩm quyền (Điều 13)

– Là việc đăng ký kết hôn không được thực hiện bởi cơ quan có thẩm quyền đăng ký kết hôn, VD UBND phường cấp đăng ký kết hôn cho A và B nhưng cả A và B đều không cư trú tại phường đó; hoặc UBND phường cấp đăng ký kết hôn cho A với người nước ngoài N, trong khi thẩm quyền cấp đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài phải do UBND cấp huyện thực hiện.

– Xử lý: khi có yêu cầu, cơ quan NN có thẩm quyền thu hồi, hủy bỏ giấy chứng nhận kết hôn theo quy định của PL về hộ tịch và yêu cầu hai bên thực hiện lại việc đăng ký kết hôn tại cơ quan NN có thẩm quyền. Trong trường hợp này, quan hệ hôn nhân được xác lập từ ngày đăng ký kết hôn trước.

g. Xử lý trường hợp nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn (Điều 14)

– Nam, nữ có đủ điều kiện kết hôn chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn thì:

+ không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ vợ chồng

+ quyền và nghĩa vụ với con vẫn giữ nguyên như trường hợp cha mẹ có kết hôn

+ quyền và nghĩa vụ với tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng giữa các bên sẽ được giải quyết theo thỏa thuận, nếu không thỏa thuận thì theo quy định của Bộ luật Dân sự và các quy định PL khác liên quan

Chú ý: nam nữ sống chung với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn trước ngày 01/01/2015 (trước ngày luật HNGĐ 2014 có hiệu lực) thì áp dụng luật HNGĐ 2000 và các văn bản hướng dẫn để giải quyết

h. Xử lý theo Bộ luật Hình sự

– Trong một số trường hợp phạm phải điều cấm, hoặc nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng có các hành vi cấu thành tội phạm được quy định trong Bộ luật hình sự thì sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự, cụ thể gồm:

+ Điều 146. Tội cưỡng ép kết hôn hoặc cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ

+ Điều 147. Tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng

+ Điều 148. Tội tổ chức tảo hôn, tội tảo hôn

+ Điều 149. Tội đăng ký kết hôn trái pháp luật

+ Điều 150. Tội loạn luân

– Người bị truy cứu về các tội này (trừ Tội loạn luân) khi đã bị xử phạt hành chính hoặc bị xử lý kỷ luật (đối với Tội đăng ký kết hôn tráu PL do công chức thực hiện) về hành vi đó mà còn vi phạm.

Mức phạt là cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến 3 năm, hoặc phạt tù đến 5 năm (tội loạn luân)

———————

Ngày 01/03/2016

Giảng viên: cô …

Chương 5: Quyền và nghĩa vụ của vợ chồng

I. Quyền và nghĩa vụ về nhân thân của vợ chồng

1. Khái niệm

– Quyền và nghĩa vụ về nhân thân giữa vợ chồng là những chuẩn mực đạo đức, cách ứng xử mang tính tự nhiên và truyền thống giữa vợ và chồng.

– Quyền và nghĩa vụ nhân thân của vợ chồng mang yếu tố tình cảm, là lợi ích về tinh thần giữa vợ và chồng, gắn liền với bản thân vợ chồng trong suốt thời kỳ hôn nhân.

==> khi điều chỉnh phải kết hợp giữa quy định của PL với đạo đức XH

2. Các quyền và nghĩa vụ thể hiện tình cảm vợ chồng

– Về tình nghĩa vợ chồng (Điều 19):

+ vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau

+ vợ chồng có nghĩa vụ cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình

+ vợ chồng có nghĩa vụ sống chung với nhau, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác hoặc do yêu cầu của nghề nghiệp, công tác, học tập, tham gia các hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và lý do chính đáng khác.

Việc sống chung với nhau là nhằm thực hiện tốt nghĩa vụ nêu trên.

– Về quyền bình đẳng, tự do, dân chủ của vợ chồng:

+ vợ, chồng bình đẳng với nhau, có quyền và nghĩa vụ ngang nhau về mọi mặt trong gia đình, trong việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ của công dân (Điều 17)

+ vợ chồng có thể tự do lựa chọn chỗ ở theo nhu cầu và sở thích, không bị ràng buộc bởi phong tục, tập quán, địa giới hành chính (Điều 20)

+ vợ, chồng có nghĩa vụ tôn trọng, giữ gìn và bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín cho nhau. (Điều 21)

+ vợ, chồng có quyền, nghĩa vụ tạo điều kiện, giúp đỡ nhau chọn nghề nghiệp; học tập, nâng cao trình độ văn hóa, chuyên môn, nghiệp vụ; tham gia hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. (Điều 23)

+ vợ, chồng có nghĩa vụ tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhau (Điều 22).

3. Quyền và nghĩa vụ đại diện cho nhau giữa vợ và chồng

– Điều kiện: quan hệ vợ chồng phải được NN công nhận, tức là phải được đăng ký kết hôn tại cơ quan NN có thẩm quyền.

– Vợ chồng có thể đại diện cho nhau theo PL hoặc theo ủy quyền:

a. Đại diện theo PL

Quan hệ đại diện theo PL giữa vợ và chồng phát sinh khi:

– Khi vợ / chồng mất năng lực hành vi dân sự mà bên kia có đủ điều kiện làm người giám hộ (tức người đại diện), người đại diện có quyền và nghĩa vụ:

+ xác lập, thực hiện mọi giao dịch dân sự vì lợi ích của người được đại diện

+ quản lý tài sản của người được giám hộ

+ bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người được giám hộ

Chú ý: với trường hợp vợ / chồng đại diện cho chồng / vợ bị mất năng lực hành vi mà có yêu cầu ly hôn thì Tòa án sẽ chỉ định người khác đại diện cho người bị mất năng lực hành vi dân sự để giải quyết việc ly hôn

– Khi một bên bị Tòa án tuyên bố hạn chế năng lực hành vi dân sự mà người kia được Tòa án chỉ định làm người đại diện theo PL. Trường hợp này phạm vi đại diện sẽ do Tòa án quyết định.

– Khi vợ, chồng kinh doanh chung hoặc có văn bản thỏa thuận đưa tài sản chung vào kinh doanh thì người trực tiếp tham gia vào tham gia vào quan hệ kinh doanh là người đại diện hợp pháp của vợ / chồng trong quan hệ kinh doanh đó, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác hoặc PL có quy định khác.

– Trong trường hợp cấp thiết để đảm bảo nhu cầu thiết yếu của gia đình, mà 1 bên vợ chồng đi vắng, thì người còn lại có quyền đại diện để vay / mượn tài sản của người khác mà không cần có sự đồng ý của người kia.

VD: người chồng đi công tác nước ngoài, ở nhà đứa con bị ốm nặng, người vợ không có tiền nên vay tiền để chữa bệnh cho con, khi đó nghĩa vụ trả nợ sẽ là nghĩa vụ chung của cả vợ và chồng.

– Khi tài sản chung của vợ chồng mà giấy chứng nhận quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản (với đất đai) chỉ ghi tên 1 người thì việc giao dịch tài sản đó do người đứng tên thực hiện

b. Đại diện theo ủy quyền

– Vợ chồng có thể ủy quyền cho nhau xác lập, thực hiện và chấm dứt giao dịch mà theo PL quy định phải có sự đồng ý của cả 2 vợ chồng, VD giao dịch về quyền sử dụng đất là tài sản chung của cả 2 vợ chồng.

– Hình thức: bằng văn bản, có chữ ký 2 bên, nêu rõ phạm vi ủy quyền

Chú ý: trong cả 2 trường hợp ủy quyền đương nhiên (ủy quyền theo PL) và đại diện theo ủy quyền, nếu người được ủy quyền thực hiện vượt quá phạm vi ủy quyền thì phần vượt quá phạm vi ủy quyền đó sẽ bị Tòa án tuyên vô hiệu.

——————–

Ngày 03/03/2016

Giảng viên: cô Nguyễn Phương Lan

Chương 5: Quyền và nghĩa vụ của vợ chồng (tiếp)

II. Quyền và nghĩa vụ của vợ chồng về tài sản

– Chế độ tài sản của vợ chồng là những quy định về việc xác định tài sản chung, tài sản riêng của vợ chồng, quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản chung, tài sản riêng và việc phân chia tài sản.

– Luật HNGĐ 2014 là đạo luật đầu tiên của VN quy định vợ chồng có quyền lựa chọn áp dụng chế độ tài sản theo luật định hoặc chế độ tài sản theo thỏa thuận.

1. Chế độ tài sản theo luật định

a. Xác định tài sản chung, tài sản riêng của vợ chồng

– Căn cứ để xác định:

+ thời kỳ hôn nhân: từ khi đăng ký kết hôn đến khi chấm dứt hôn nhân bằng ly hôn hoặc vợ / chồng chết. Về nguyên tắc tài sản có trước thời kỳ hôn nhân là tài sản riêng, tài sản có trong thời kỳ hôn nhân có thể là tài chung hoặc tài sản riêng.

+ nguồn gốc tài sản: VD tài sản được tặng cho chung hay tặng cho riêng, thừa kế chung hay thừa kế riêng

==> luật HNGĐ 2014 quy định vợ chồng có:

  • Tài sản chung hợp nhất (Điều 33)
  • Tài sản riêng của vợ / chồng (Điều 43)

Tài sản chung của vợ chồng (Điều 33)

+ là tài sản do vợ, chồng tạo ra trong thời kỳ hôn nhân (chỉ cần 1 bên, hoặc cả 2 bên).

Chú ý: với quyền sở hữu trí tuệ thì luật quy định là tài sản riêng dù phát sinh trong thời kỳ hôn nhân, nhưng hoa lợi hay lợi tức từ quyền sở hữu trí tuệ lại là tài sản chung. VD họa sỹ sáng tác bức tranh thì bức tranh đó là tài sản riêng của ông họa sỹ, nếu bán bức tranh đó hoặc thu được tiền từ triển lãm bức tranh đó thì tiền thu được lại là tài sản chung.

+ thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân

+ hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng nhưng thu được trong thời kỳ hôn nhân. VD nhà là tài sản riêng, nhưng tiền cho thuê nhà lại là tài sản chung; tiền tiết kiệm là tài sản riêng, nhưng lãi tiết kiệm là tài sản chung; gia súc đẻ con thì gia súc mới sinh ra đó là tài sản chung

+ thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng có trong thời kỳ hôn nhân: gồm

  • các khoản tiền thưởng, tiền trợ cấp, tiền trúng thưởng xổ số
  • tài sản mà vợ, chồng được xác lập quyền sở hữu đối với vật vô chủ, vật bị chôn dấu, chìm đắm
  • gia súc, gia cầm bị thất lạc, …

Nếu là thu nhập bất hợp pháp như tiền tham nhũng (nhận hối lộ), do buôn bán ma túy, tiền cờ bạc, tiền do mại dâm, … thì sẽ bị tịch thu vào ngân sách NN (phải chứng minh được là tài sản bất hợp pháp mới được tịch thu, nếu không sẽ buộc phải coi là tài sản hợp pháp).

+ tài sản vợ chồng được tặng cho chung

Câu hỏi: Vợ chồng tặng cho nhau thì là tài sản chung hay riêng ?

Trả lời: Chưa có văn bản quy định, sẽ xem xét từng tình huống

+ tài sản vợ chồng được thừa kế chung trong thời kỳ hôn nhân:

  • nếu là thừa kế theo luật (không có di chúc hợp pháp) từ bố mẹ thì tài sản thừa kế luôn là tài sản riêng, vì con dâu hay con rể không thuộc bất kỳ hàng thừa kế nào
  • thừa kế chung phải là thừa kế theo di chúc, trong đó di chúc ghi rõ để lại (một phần) tài sản cho cả 2 vợ chồng. VD di chúc ghi “Tôi để lại toàn bộ tài sản cho vợ chồng người con trai cả” ==> tài sản thừa kế chung; nếu ghi “Tôi để lại toàn bộ tài sản cho vợ chồng người con trai cả, trong đó con dâu cả được hưởng 10%” thì 90% tài sản sẽ là tài sản riêng của chồng, 10% tài sản là tài sản riêng của vợ.

+ tài sản mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung

Chú ý: trong trường hợp không có căn cứ xác định tài sản mà vợ chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của 1 bên thì tài sản đó được xác định là tài sản chung của vợ chồng.

Với tài sản chung là bất động sản hoặc tài sản phải đăng ký quyền sở hữu thì trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng (đất), quyền sở hữu phải ghi tên của cả vợ và chồng, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác. Tuy nhiên hiện tại chỉ bất động sản mới đăng ký tên cả 2 vợ chồng, còn các tài sản phải đăng ký khác như ô tô, xe máy, tàu thủy, máy bay, … vẫn có thể chỉ đăng ký quyền sở hữu tên 1 người.

 

– Tài sản riêng của vợ chồng, gồm:

+ tài sản có trước khi kết hôn

+ tài sản được tặng cho riêng, thừa kế riêng trong thời kỳ hôn nhân

+ tài sản được chia riêng cho vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân (Điều 38, 39, 40)

+ tài sản phục vụ nhu cầu thiết yếu của vợ, chồng (kể cả khi được mua bằng tài sản chung): là đồ dùng tư trang cá nhân, tuy nhiên thực tế việc xác định loại tài sản này rất khó

+ tài sản được hình thành từ tài sản riêng: VD bán nhà là tài sản riêng lấy tiền, khoản tiền đó là tài sản riêng

+ hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng được chia từ tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân (Điều 40)

Chú ý: Nếu nói “Về nguyên tắc, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng của 1 bên vợ chồng nhưng thu được trong thời kỳ hôn nhân là tài sản chung” ==> Đúng

Nếu nói “Hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng của 1 bên vợ chồng nhưng thu được trong thời kỳ hôn nhân là tài sản chung” ==> Sai, vì có trường hợp đặc biệt sẽ là tài sản riêng, được quy định trong điều 40

+ tài sản khác mà theo quy định của PL thuộc sở hữu riêng của vợ, chồng, gồm:

  • Quyền sở hữu trí tuệ
  • Tài sản mà vợ, chồng xác lập quyền sở hữu riêng theo bản án, quyết định của Tòa án hoặc cơ quan NN có thẩm quyền
  • Các khoản trợ cấp, ưu đãi người có công
  • Quyền tài sản gắn với quyền nhân thân

b. Quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản chung (Điều 35, 36, 37)

– Vợ chồng bình đẳng với nhau trong việc xây dựng, phát triển khối tài sản chung và bình đẳng trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung.

– Việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung do vợ chồng thỏa thuận.

– Việc định đoạt tài sản chung phải có sự thỏa thuận bằng văn bản của vợ chồng trong những trường hợp:

+ Bất động sản: luật đã có quy định chặt chẽ

+ Động sản mà theo quy định của PL phải đăng ký quyền sở hữu: luật không quy định chặt

+ Tài sản đang là nguồn tạo ra thu nhập chủ yếu của gia đình: vấn đề xác định thế nào là nguồn tạo ra thu nhập chủ yếu cho gia đình

– Trường hợp vợ chồng có thỏa thuận về việc một bên đưa tài sản chung vào kinh doanh thì người này có quyền tự mình thực hiện giao dịch liên quan đến tài sản chung đó, tức là không cần phải ủy quyền. Thỏa thuận này phải lập thành văn bản.

– Vợ chồng có các nghĩa vụ chung về tài sản sau đây:

+ Nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do vợ chồng cùng thỏa thuận xác lập, nghĩa vụ bồi thường thiệt hại mà theo quy định của PL vợ chồng cùng phải chịu trách nhiệm

+ Nghĩa vụ do vợ hoặc chồng thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình

+ Nghĩa vụ phát sinh từ việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung

+ Nghĩa vụ phát sinh từ việc sử dụng tài sản riêng để duy trì, phát triển khối tài sản chung hoặc để tạo ra nguồn thu nhập chủ yếu của gia đình

+ Nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do con gây ra mà theo quy định của Bộ luật dân sự thì cha mẹ phải bồi thường

+ Nghĩa vụ khác theo quy định của các luật có liên quan.

c. Quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản riêng (Điều 44, 45)

– Vợ, chồng có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản riêng của mình; nhập hoặc không nhập tài sản riêng vào tài sản chung.

– Trường hợp vợ hoặc chồng không thể tự mình quản lý tài sản riêng và cũng không ủy quyền cho người khác quản lý thì bên kia có quyền quản lý tài sản đó. Việc quản lý tài sản phải bảo đảm lợi ích của người có tài sản.

– Nghĩa vụ riêng về tài sản của mỗi người được thanh toán từ tài sản riêng của người đó.

– Trường hợp vợ, chồng có tài sản riêng mà hoa lợi, lợi tức từ tài sản riêng đó là nguồn sống duy nhất của gia đình thì việc định đoạt tài sản này phải có sự đồng ý của chồng, vợ.

– Vợ, chồng có các nghĩa vụ riêng về tài sản sau đây:

+ Nghĩa vụ của mỗi bên vợ, chồng có trước khi kết hôn

+ Nghĩa vụ phát sinh từ việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản riêng, trừ trường hợp nghĩa vụ phát sinh trong việc bảo quản, duy trì, tu sửa tài sản riêng của vợ, chồng

+ Nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do một bên xác lập, thực hiện không vì nhu cầu của gia đình

+ Nghĩa vụ phát sinh từ hành vi vi phạm PL của vợ, chồng.

——————-

Ngày 05/03/2016

Giảng viên: cô …

(tiếp bài trước)

2. Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận (Điều 47, 48, 49, 50)

– Việc chỉ quy định chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định bó hẹp quyền tự do lựa chọn của vợ chồng, cũng là hạn chế quyền tự do của công dân. Đến khi luật HNGĐ 2014 ra đời, có hiệu lực từ 01/01/2015, NN VN đã công nhận chế độ tài sản vợ chồng theo thỏa thuận, phù hợp với thông lệ quốc tế.

– Điều kiện để vợ chồng xác lập chế độ tài sản theo thỏa thuận (Điều 47):

+ Thời điểm lập thỏa thuận: phải trước khi đăng ký kết hôn

+ Hình thức thỏa thuận: bằng văn bản có công chứng hoặc chứng thực

==> Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận được xác lập kể từ ngày đăng ký kết hôn. Cơ quan chứng nhận đăng ký kết hôn sẽ đính kèm văn bản thỏa thuận chế độ tài sản này vào sổ đăng ký kết hôn (sổ hộ tịch)

– Nội dung của văn bản thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng (Điều 48):

+ Xác định tài sản chung, tài sản riêng của vợ, chồng

+ Quyền, nghĩa vụ của mỗi bên đối với tài sản chung, tài sản riêng, với việc thực hiện các nghĩa vụ với tài sản đó và giao dịch có liên quan, với tài sản để bảo đảm nhu cầu thiết yếu của gia đình

+ Điều kiện, thủ tục và nguyên tắc phân chia tài sản khi chấm dứt chế độ tài sản (khi ly hôn). Chú ý: không được thỏa thuận chế độ tài sản khi 1 bên chết, vì sẽ áp dụng pháp luật về thừa kế.

+ Nội dung khác có liên quan.

– Sau 1 thời gian thực hiện, vợ chồng có quyền sửa đổi, bổ sung nội dung của thỏa thuận về chế độ tài sản. Hình thức sửa đổi, bổ sung phải được lập thành văn bản và có công chứng, chứng thực.

Vợ chồng hoàn toàn có thể từ bỏ chế độ tài sản theo thỏa thuận để chuyển sang chế độ tài sản theo luật định

– Thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng có thể bị Tòa án tuyên bố vô hiệu khi thuộc một trong các trường hợp sau (Điều 50):

+ Không tuân thủ điều kiện có hiệu lực của giao dịch được quy định tại Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan

+ Vi phạm một trong các quy định về nguyên tắc áp dụng chế độ tài sản tại các điều 29, 30, 31 và 32 của Luật này

+ Nội dung của thỏa thuận vi phạm nghiêm trọng quyền được cấp dưỡng, quyền được thừa kế và quyền, lợi ích hợp pháp khác của cha, mẹ, con và thành viên khác của gia đình.

Khi thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng bị Tòa án tuyên bố vô hiệu toàn bộ thì chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định được áp dụng.

Trường hợp thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng bị tuyên bố vô hiệu một phần thì các nội dung không bị vô hiệu vẫn được áp dụng; đối với phần nội dung bị vô hiệu thì các quy định tương ứng về chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định được áp dụng

Chương 6: Quan hệ pháp luật giữa cha mẹ và con

1. Căn cứ phát sinh quan hệ PL giữa cha mẹ và con

Căn cứ làm phát sinh quan hệ PL giữa cha mẹ và con là 2 trường hợp:

+ sinh con

+ nhận con nuôi

1.1. Sự kiện sinh đẻ

a. Trường hợp sinh con trong thời kỳ hôn nhân

– Khi người phụ nữ sinh con sẽ làm phát sinh quan hệ PL giữa người phụ nữ với đứa trẻ là quan hệ mẹ – con, đồng thời cũng làm phát sinh quan hệ PL giữa 1 người đản ông với đứa trẻ, đó là quan hệ cha – con.

– Người phụ nữ sinh ra đứa trẻ là mẹ của đứa trẻ, trừ trường hợp mang thai hộ hoặc thụ tinh nhân tạo. Tuy nhiên việc xác định cha cho con là vấn đề phức tạp:

+ nếu người mẹ có thai hoặc sinh con trong thời kỳ hôn nhân thì người chồng của mẹ là cha của con: Điều 88 “Con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân hoặc do người vợ có thai trong thời kỳ hôn nhân là con chung của vợ chồng”

VD: người mẹ có thai, sau đó kết hôn và sinh con trong thời kỳ hôn nhân thì đứa con cũng là con chung của vợ chồng

+ Con được sinh ra trong thời hạn 300 ngày kể từ thời điểm chấm dứt hôn nhân được coi là con do người vợ có thai trong thời kỳ hôn nhân.

+ Con sinh ra trước ngày đăng ký kết hôn và được cha mẹ thừa nhận là con chung của vợ chồng: như vậy kể cả trường hợp sinh con trước rồi mới kết hôn thì vẫn được PL thừa nhận là con chung

– Nếu người chồng không thừa nhận đứa trẻ sinh ra là con mình thì có quyền yêu cầu Tòa án xác minh đứa trẻ đó là con mình: phương pháp xác minh là giám định ADN.

– Trường hợp người mẹ có thai ở thời kỳ hôn nhân với người đàn ông này, lại sinh con ở thời kỳ hôn nhân với người đàn ông khác (tức là kết hôn và sinh con vẫn trong thời gian 300 ngày từ khi chấm dứt cuộc hôn nhân trước). Cả 2 người đàn ông đều không yêu cầu Tòa án giám định ADN, do đó Tòa án cũng không thể giám định (vì chi phí giám định phải do bên yêu cầu chi trả, Tòa án không thể bỏ tiền ra để giám định).

==> Tòa án sẽ tuyên đứa trẻ là con của người đàn ông sau. Lý do: để đảm bảo lợi ích cho đứa trẻ thì người mẹ với người đàn ông sau đang là vợ chồng hợp pháp, nên Tòa án suy đoán sẽ nuôi dưỡng và giáo dục đứa trẻ tốt hơn so với việc đứa trẻ vừa sinh ra đã bị tình trạng cha mẹ ly hôn.

Chú ý: việc quyết định người cha ở đây chỉ có ý nghĩa về mặt pháp lý, áp dụng trong trường hợp không thể xác định được người cha về mặt sinh học.

b. Trường hợp sinh con khi cha mẹ không có hôn nhân hợp pháp

– Nếu người vợ không có chồng mà mang thai và sinh con, thì không thể suy đoán người đàn ông nào là cha của đứa trẻ.

==> người mẹ (hoặc người thân thích của người mẹ) vẫn khai sinh cho đứa trẻ, nhưng bỏ trống phần thông tin về người cha, cho đến khi xác định được người cha của đứa trẻ thì sẽ ghi bổ sung vào, có 2 trường hợp:

+ có người đàn ông tự nguyện nhận mình là cha của đứa trẻ và được mẹ đứa trẻ đồng ý

+ người mẹ khởi kiện yêu cầu Tòa án xác minh một người đàn ông là cha của đứa trẻ

– Như vậy việc xác định 1 người đàn ông là cha của đứa trẻ có 2 phương pháp:

+ thủ tục hành chính: 1 người tự nhận là cha của đứa trẻ, thủ tục: đến UBND cấp xã nơi cư trú của mẹ đứa trẻ, làm Tờ khai nhận con, sau đó lấy ý kiến của mẹ đứa trẻ đồng ý công nhận người đàn ông đó là cha của con mình, khi đó UBND cấp xã chỉ việc ghi thông tin người đàn ông vào phần người cha trong Giấy khai sinh của đứa trẻ

+ thủ tục tư pháp: các trường hợp:

  • Người đàn ông khởi kiện yêu cầu Tòa án công nhận mình là cha đứa trẻ: là trường hợp người đàn ông muốn nhận con nhưng người mẹ không đồng ý
  • Người mẹ khởi kiện yêu cầu Tòa án bắt buộc người đàn ông công nhận đứa trẻ là con của người đàn ông đó: là trường hợp người đàn ông trốn tránh nghĩa vụ làm cha
  • Người con đã thành niên khởi kiện yêu cầu Tòa án bắt buộc người đàn ông phải nhận làm cha của mình

Ngoài ra thì người thân thích, hoặc hội liên hiệp phụ nữ, hội bảo trợ trẻ em cũng có quyền yêu cầu Tòa án xác minh cha cho con

Khi khởi kiện phải có chứng cứ, hiện nay chứng cứ được coi là xác thực nhất là kết quả giám định ADN

c. Sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản và mang thai hộ vì mục đích nhân đạo

– Sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản gồm:

+ thụ tinh nhân tạo: là 1 thủ thuật y khoa, lấy tinh trùng của chồng bơm trực tiếp vào tử cung người vợ vào đúng, việc thụ thai (quá trình tạo phôi) diễn ra trong cơ thể người vợ

+ thụ tinh trong ống nghiệm: là việc lấy tinh trùng của chồng và noãn của vợ, áp dụng các biện pháp để thụ tinh trong ống nghiệm, đến khi hình thành phôi thì đưa phôi đó vào tử cung người vợ

– Mang thai hộ vì mục đích nhân đạo: áp dụng trong trường hợp người vợ vì lý do nào đó không thể mang thai (như tử cung bị dị tật, không có tử cung, bị bệnh nặng không thể mang thai, …)

Khi đó sẽ lấy tinh trùng của người chồng và noãn của người vợ thụ tinh trong ống nghiệm, tạo phôi, cấy phôi vào tử cung của 1 người phụ nữ khác

– Thụ tinh trong ống nghiệm còn được áp dụng:

+ khi người chồng không thể thực hiện việc quan hệ tình dục để thụ thai

+ khi người chồng vô sinh, khi đó vợ chồng có thể xin tinh trùng trong ngân hàng tinh trùng, cùng với noãn của vợ để thụ tinh trong ống nghiệm, đến khi thành phôi thì cấy vào tử cung người vợ

+ khi người vợ vô sinh (không có noãn), thì xin noãn trong ngân hàng noãn, kết hợp với tinh trùng của người chồng, thụ tinh trong ống nghiệm, đến khi tạo phôi thì cấy vào tử cung của vợ

+ nếu cả vợ và chồng đều vô sinh thì xin tinh trùng và noãn từ ngân hàng, thụ tinh trong ống nghiệm, đến khi tạo phôi thì cấy vào tử cung của vợ

– Khi mang thai hộ thì người mang thai hộ và chồng của người mang thai hộ không phải là cha mẹ của đứa trẻ, mà cha mẹ đứa trẻ là vợ chồng người nhờ mang thai hộ.

– Kể cả trường hợp vợ chồng vô sinh, phải xin cả tinh trùng và noãn thì khi đứa trẻ sinh ra, họ vẫn là cha mẹ của đứa trẻ.

– Nếu sinh con tự nhiên thì người chồng có thể từ chối đứa trẻ sinh ra là con mình bằng cách chứng minh mình vô sinh. Nhưng với trường hợp sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản thụ tinh trong ống nghiệm thì người chồng dù có vô sinh cũng không được quyền từ chối đứa trẻ không phải là của con mình, vì khi chấp nhận hỗ trợ sinh sản đã thừa nhận đứa trẻ sinh ra là con mình.

– Tương tự, người vợ xin noãn từ ngân hàng noãn, cũng không có quyền chứng mình mình vô sinh để từ chối việc mình là mẹ của đứa trẻ.

Tại sao ? Vì với đứa trẻ sinh tự nhiên, nếu vợ / chồng từ chối là cha / mẹ của đứa trẻ thì còn có người khác nhận là cha / mẹ. Nhưng với đứa trẻ sinh từ ống nghiệm, thì không có người khác để đứa trẻ nhận làm cha / mẹ (do nguyên tắc vô danh của ngân hàng tinh trùng và noãn). Quy định này nhằm đảm bảo quyền lợi cho trẻ em.

– Người phụ nữ độc thân có thể xin tinh trùng từ ngân hàng tinh trùng để có con, đứa trẻ sinh ra sẽ không có cha.

Chú ý: Luật bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em có quy định “Trẻ em có quyền được biết gốc gác của mình”, tức là có quyền được yêu cầu xác định cha mẹ đẻ của mình. Tuy nhiên đây là trường hợp đặc biệt, đứa trẻ sinh ra không có quyền biết cha mình là ai.

d. Điều kiện mang thai hộ (Điều 95)

– Việc mang thai hộ vì mục đích nhân đạo phải được thực hiện trên cơ sở tự nguyện của các bên và được lập thành văn bản.

– Điều kiện được mang thai hộ của cặp vợ chồng:

+ đang không có con chung: như vậy dù vợ chồng có 1 con chung nhưng đứa con bị khuyết tật, và người vợ không còn khả năng mang thai thì cũng không đủ điều kiện. Lý do của nhà làm luật: để không phân biệt đối xử giữa những đứa con

+ người vợ không thể mang thai, được xác nhận bởi cơ sở ý tế có thẩm quyền

– Điều kiện của người được nhờ mang thai hộ:

+ là người thân thích cùng hàng của bên vợ hoặc bên chồng nhờ mang thai hộ: chị ruột, em ruột, chị họ, em họ, chị dâu, em dâu của vợ / chồng

+ đã từng sinh con và chỉ được mang thai hộ một lần

+ ở độ tuổi phù hợp và có xác nhận của tổ chức y tế có thẩm quyền về khả năng mang thai hộ

+ trường hợp người phụ nữ mang thai hộ có chồng thì phải có sự đồng ý bằng văn bản của người chồng

——————–

Ngày 08/03/2016

Giảng viên: thầy Nguyễn Văn Cừ

Thảo luận

——————-

Ngày 10/03/2016

Giảng viên: cô …

(tiếp bài trước)

1.2. Sự kiện nhận con nuôi

– Xem Luật nuôi con nuôi 2010, nghị định 19/2011 hướng dẫn về luật nuôi con nuôi

– PL VN quy định việc nuôi con nuôi từ rất sớm, ngay trong bộ luật Hồng Đức có quy định về việc “nuôi con nuôi lập tự”, hoặc sau này là “nghĩa dưỡng”

– Luật HNGĐ 1959 chỉ quy định “cha mẹ đối xử với con nuôi như đối với con đẻ”

– Luật HNGĐ 1986 quy định các điều kiện để nuôi con nuôi

– Luật HNGĐ 2000, vấn đề nuôi con nuôi được quy định thành 1 chương

– Năm 2010, vấn đề nuôi con nuôi được tách riêng thành 1 luật

a. Khái niệm

– Việc nuôi con nuôi nhằm xác lập quan hệ cha, mẹ và con lâu dài, bền vững, vì lợi ích tốt nhất của người được nhận làm con nuôi, bảo đảm cho con nuôi được nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trong môi trường gia đình (Điều 2 Luật nuôi con nuôi 2010).

b. Điều kiện của việc nuôi con nuôi

– Điều kiện của người được nhận làm con nuôi (Điều 8 luật Nuôi con nuôi):

+ dưới 16 tuổi: để phù hợp với Luật bảo vệ trẻ em quy định trẻ em là người dưới 16 tuổi

+ người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:

  • Được cha dượng, mẹ kế nhận làm con nuôi
  • Được cô, cậu, dì, chú, bác ruột nhận làm con nuôi.

+ chỉ được làm con nuôi của một người độc thân hoặc của cả hai người là vợ chồng (phải được cả 2 vợ chồng cùng đồng ý, tức là không thể có chuyện chỉ vợ hoặc chỉ chồng nhận con nuôi, người kia không đồng ý)

Chú ý: người đã được nhận làm con nuôi của người / vợ chồng này thì sẽ không được nhận làm con nuôi của người / vợ chồng khác. Điều này phù hợp với thực tế: cha mẹ có thể có nhiều con nuôi, nhưng con chỉ có 1 cha mẹ (đẻ + nuôi).

Tuy nhiên, trường hợp vợ chồng nhận 1 đứa trẻ làm con nuôi, sau đó vợ chồng ly hôn, thì vợ chồng kia vẫn là cha nuôi và mẹ nuôi của đứa trẻ, giả sử đứa trẻ sống với người mẹ nuôi, sau đó người mẹ nuôi lấy chồng, và anh chồng mới này nhận đứa trẻ làm con nuôi ==> đứa trẻ có 2 cha nuôi, 1 mẹ nuôi (luật chưa quy định trường hợp này)

– Điều kiện của người nhận con nuôi (Điều 14 luật Nuôi con nuôi):

+ có năng lực hành vi dân sự đầy đủ

+ hơn con nuôi từ 20 tuổi trở lên, chú ý không áp dụng với trường hợp cha dượng nhận con riêng của vợ, mẹ kế nhận con riêng của chồng làm con nuôi hoặc cô, cậu, dì, chú, bác ruột nhận cháu làm con nuôi

+ có điều kiện về kinh tế, sức khỏe, chỗ ở đảm bảo cho việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con nuôi, chú ý không áp dụng với trường hợp cha dượng nhận con riêng của vợ, mẹ kế nhận con riêng của chồng làm con nuôi hoặc cô, cậu, dì, chú, bác ruột nhận cháu làm con nuôi

+ có tư cách đạo đức tốt

+ người nhận con nuôi phải không thuộc 1 trong các trường hợp sau:

  • Đang bị hạn chế một số quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên
  • Đang chấp hành hình phạt tù
  • Đang chấp hành quyết định xử lý hành chính tại cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh (VD gái mại dâm bị bắt buộc phục hồi nhân phẩm, nghiện ma túy bị bắt buộc cai nghiện)
  • Chưa được xóa án tích về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của người khác; ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu, người có công nuôi dưỡng mình; dụ dỗ, ép buộc hoặc chứa chấp người chưa thanh niên vi phạm pháp luật; mua bán, đánh tráo, chiếm đoạt trẻ em.

Chú ý: trường hợp hai vợ chồng nhận con nuôi thì cả 2 vợ chồng đều phải thỏa mãn các điều kiện trên. VD người chồng đang bị đi tù thì hai vợ chồng không được nhận con nuôi

– Phải được sự đồng ý của cha mẹ đẻ hoặc người giám hộ của người được nhận làm con nuôi và của chính người được nhận làm con nuôi nếu từ đủ 9 tuổi.

Chú ý: việc đứa trẻ 9 tuổi đồng ý là thể hiện sự đồng ý trước mặt cán bộ hộ tịch, được người cán bộ hộ tịch xác nhận (chứ không bắt đứa trẻ 9 tuổi phải ký hay điểm chỉ)

Nếu đứa trẻ là con bị bỏ rơi, chưa xác định được cha mẹ đẻ, được đưa và nuôi dưỡng tại cơ sở chăm sóc trẻ mồ côi thì phải có sự đồng ý của người đứng đầu cơ sở nuôi dưỡng này

Nếu trẻ trong trung tâm trẻ mồ côi lại do chính cha mẹ đẻ mang đến (vì hoàn cảnh quá khó khăn) thì phải có sự đồng ý của cha mẹ đẻ. (thông thường cha mẹ đẻ sẽ viết giấy đồng ý cho nhận cha mẹ nuôi và gửi lại Trung tâm)

– Việc nuôi con nuôi phải được đăng ký tại cơ quan NN có thẩm quyền: cơ quan NN ra Quyết định đồng ý cho việc nhận con nuôi, hai bên làm Biên bản giao nhận con nuôi, quyền và nghĩa vụ của cha mẹ và con nuôi phát sinh từ thời điểm hoàn thành việc giao nhận con nuôi.

c. Hệ quả pháp lý của việc nuôi con nuôi (Điều 24 luật Nuôi con nuôi)

– Kể từ ngày giao nhận con nuôi, giữa cha mẹ nuôi và con nuôi có đầy đủ các quyền, nghĩa vụ của cha mẹ và con; giữa con nuôi và các thành viên khác của gia đình cha mẹ nuôi cũng có các quyền, nghĩa vụ đối với nhau theo quy định của PL về hôn nhân và gia đình, PL dân sự và các quy định khác của PL có liên quan.

– Theo yêu cầu của cha mẹ nuôi, cơ quan NN có thẩm quyền quyết định việc thay đổi họ, tên của con nuôi. Việc thay đổi họ, tên của con nuôi từ đủ 9 tuổi trở lên phải được sự đồng ý của người đó.

– Dân tộc của con nuôi là trẻ em bị bỏ rơi được xác định theo dân tộc của cha nuôi, mẹ nuôi.

– Trừ trường hợp giữa cha mẹ đẻ và cha mẹ nuôi có thỏa thuận khác, kể từ ngày giao nhận con nuôi, cha mẹ đẻ không còn quyền, nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng, cấp dưỡng, đại diện theo PL, bồi thường thiệt hại, quản lý, định đoạt tài sản riêng đối với con đã cho làm con nuôi.

Chú ý: cha mẹ đẻ chỉ chấm dứt một số quyền và nghĩa vụ sau khi cho con nuôi, các quyền và nghĩa vụ khác vẫn giữ nguyên, VD con được cho làm con nuôi vẫn được nhận thừa kế từ bố mẹ đẻ và bố mẹ đẻ vẫn được thừa kế từ con đã làm con nuôi gia đình khác

d. Chấm dứt việc nuôi con nuôi (Điều 25 luật Nuôi con nuôi)

Việc nuôi con nuôi có thể bị chấm dứt trong các trường hợp sau đây:

– Con nuôi đã thành niên và cha mẹ nuôi tự nguyện chấm dứt việc nuôi con nuôi

– Con nuôi bị kết án về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của cha mẹ nuôi; ngược đãi, hành hạ cha mẹ nuôi hoặc con nuôi có hành vi phá tán tài sản của cha mẹ nuôi

– Cha mẹ nuôi bị kết án về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con nuôi; ngược đãi, hành hạ con nuôi

– Thực hiện các hành vi bị cấm (Điều 13 luật Nuôi con nuôi):

+ Lợi dụng việc nuôi con nuôi để trục lợi, bóc lột sức lao động, xâm hại tình dục; bắt cóc, mua bán trẻ em

+ Giả mạo giấy tờ để giải quyết việc nuôi con nuôi.

+ Phân biệt đối xử giữa con đẻ và con nuôi.

+ Lợi dụng việc cho con nuôi để vi phạm pháp luật về dân số (VD gia đình đã sinh 2 con gái, muốn sinh thêm để được con trai, liền cho đi 1 đứa con làm con nuôi)

+ Lợi dụng việc làm con nuôi của thương binh, người có công với cách mạng, người thuộc dân tộc thiểu số để hưởng chế độ, chính sách ưu đãi của Nhà nước. (VD nhận làm con nuôi của thương binh để được cộng điểm thi đại học)

+ Ông, bà nhận cháu làm con nuôi hoặc anh, chị, em nhận nhau làm con nuôi. (vì những người cùng dòng máu trực hệ không thể nhận nhau làm con nuôi; Anh, chị, em là những người có cùng “đời” nên nhằm đảm bảo tôn ti trật tự thì không thể nhận nhau làm con nuôi)

+ Lợi dụng việc nuôi con nuôi để vi phạm PL, phong tục tập quán, đạo đức, truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc

– Việc chấm dứt nuôi con nuôi phải do Tòa án quyết định bằng 1 bản án

e. Hệ quả pháp lý của việc chấm dứt quan hệ nuôi con nuôi (Điều 27)

– Quyền, nghĩa vụ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi chấm dứt kể từ ngày quyết định chấm dứt nuôi con nuôi của Tòa án có hiệu lực PL.

– Trường hợp con nuôi là người chưa thành niên hoặc đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động thì Tòa án quyết định giao cho cha mẹ đẻ hoặc tổ chức, cá nhân khác chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục vì lợi ích tốt nhất của người đó.

– Trường hợp con nuôi được giao cho cha mẹ đẻ thì các quyền, nghĩa vụ của cha mẹ đẻ đã chấm dứt theo quy định tại khoản 4 Điều 24 của Luật nuôi con nuôi được khôi phục (là các quyền, nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng, cấp dưỡng, đại diện theo pháp luật, bồi thường thiệt hại, quản lý, định đoạt tài sản riêng đối với con)

– Trường hợp con nuôi có tài sản riêng thì được nhận lại tài sản đó; nếu con nuôi có công lao đóng góp vào khối tài sản chung của cha mẹ nuôi thì được hưởng phần tài sản tương xứng với công lao đóng góp theo thỏa thuận với cha mẹ nuôi; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết.

– Con nuôi có quyền lấy lại họ, tên của mình như trước khi được cho làm con nuôi.

——————-

Ngày 12/03/2016

Giảng viên: cô Nguyễn Phương Lan

(tiếp bài trước)

2. Quyền và nghĩa vụ của cha mẹ và con

2.1. Quyền và nghĩa vụ nhân thân

– Cha mẹ có quyền và nghĩa vụ nuôi dưỡng, yêu thương, chăm sóc, giáo dục, quan tâm đến con, dù con có hết tuổi vị thành niên.

– Cha mẹ không được phân biệt đối xử giữa:

+ con đẻ và con nuôi

+ con trong giá thú và con ngoài giá thú: con trong giá thú là con có cha mẹ có hôn nhân hợp pháp. Luật quy định khi vợ / chồng có con ngoài giá thú mà nhận con thì người vợ / chồng còn lại không được có ý kiến, tức là không cần hỏi ý kiến của người đó vẫn được nhận con ngoài giá thú, và người vợ / chồng đó vẫn phải nuôi dưỡng, chăm sóc đứa con ngoài giá thú đó như con đẻ của mình.

+ con gái và con trai

+ con chung và con riêng

– Quyền đại diện cho con:

+ cha mẹ có quyền đại diện cho con khi con chưa thành niên (Điều 73).

+ đối với con đã thành niên nhưng bị mất năng lực hành vi dân sự thì cha mẹ đại diện cho con với tư cách là người giám hộ

+ nếu cha mẹ ly hôn thì cha mẹ vẫn có quyền đại diện cho con dù không nuôi con trực tiếp

Câu hỏi: Ai là người giám hộ đầu tiên của người con ?

Trả lời: Nếu con có cha mẹ thì sẽ không bao giờ có người giám hộ mà chính cha, mẹ sẽ là người đại diện đương nhiên theo PL cho con chưa thành niên. Chỉ khi nào con không còn cha mẹ, cha mẹ bị mất năng lực hành vi dân sự, cha mẹ không thể chăm sóc được con (trường hợp cha mẹ ở xa), hoặc không xác định được cha mẹ thì mới cần đến người giám hộ (có thể là ông bà, họ hàng).

Câu hỏi: Người chưa thành niên có cha mẹ thì cha mẹ là người giám hộ của người đó.

Trả lời: Sai, cha mẹ là người đại diện theo PL chứ không phải người giám hộ đối với con chưa thành niên

– Ngược lại, con có quyền và nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ

2.2. Quyền và nghĩa vụ tài sản

– Cha mẹ có quyền và nghĩa vụ nuôi dưỡng, cấp dưỡng cho con chưa thành niên, hoặc con đã thành niên nhưng không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi sống mình.

Ngược lại, con có quyền và nghĩa vụ nuôi dưỡng, cấp dưỡng cho cha mẹ khi cha mẹ về già, mất khả năng lao động, bệnh tật.

Bồi thường thiệt hại do con chưa thành niên, hoặc con đã thành niên nhưng mất năng lực hành vi dân sự gây ra (Điều 7): bố mẹ có trách nhiệm bồi thường, kể cả khi cha mẹ đã ly hôn thì cả người không nuôi con cũng phải có trách nhiệm bồi thường.

+ với con dưới 15 tuổi gây thiệt hại thì cha mẹ phải bồi thường toàn bộ thiệt hại, nếu vẫn không đủ mà con có tài sản riêng thì sẽ lấy tiếp tài sản riêng đó để bồi thường. Chú ý: nếu con gây thiệt hại trong thời gian học tại trường thì sẽ do trường bồi thường.

+ với con chưa thành niên từ đủ 15 đến 18 tuổi gây thiệt hại: bồi thường bằng tài sản của con trước, nếu không đủ sẽ lấy tài sản của cha mẹ để bồi thường tiếp

+ với con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự gây thiệt hại: người giám hộ dùng tài sản của đứa con (người được giám hộ) để bồi thường, nếu không đủ thì dùng tiếp tài sản của người giám hộ để bồi thường. Nếu người giám hộ chứng minh được mình không có lỗi thì không phải bồi thường.

Chú ý: nếu người con thành niên bị mất năng lực hành vi đó gây thiệt hại trong thời gian ở trường học, bệnh viện, tổ chức khác trực tiếp quản lý thì đơn vị trực tiếp quản lý sẽ phải bồi thường toàn bộ thiệt hại.

– Cha mẹ có quyền quản lý tài sản của con chưa thành niên hoặc con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự (Điều 76), ngoại trừ các trường hợp:

+ Nếu người tặng cho con tài sản, người để lại di chúc cho con tài sản đã chỉ định người khác quản lý tài sản của con thì cha mẹ không được quản lý tài sản đó của con.

+ Nếu cha mẹ bị hạn chế quyền của cha mẹ với con (VD cha mẹ bị phạt tù), hoặc con được người khác giám hộ (VD cha mẹ đi làm xa) thì quyền quản lý tài sản của con sẽ được trao cho người giám hộ.

Chú ý: cha mẹ quản lý tài sản của con chưa thành niên chỉ được dùng tài sản đó chi dùng vào nhu cầu của con, không được dùng cho bản thân, cho đứa con khác, hay mục đích khác

– Cha mẹ có quyền định đoạt tài sản của con chưa thành niên hoặc con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự (Điều 77):

+ nếu con dưới 15 tuổi thì cha mẹ hoặc người giám hộ có quyền định đoạt tài sản đó vì lợi ích của con, nếu con từ 9 tuổi trở lên thì phải xem xét cả nguyện vọng của con.

+ con từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi có quyền định đoạt tài sản riêng, trừ trường hợp tài sản là bất động sản, động sản có đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng hoặc dùng tài sản để kinh doanh thì phải có sự đồng ý bằng văn bản của cha mẹ hoặc người giám hộ.

– Cha mẹ và con có quyền thừa kế tài sản của nhau:

+ cha mẹ và con là người thuộc hàng thừa kế thứ nhất của nhau

+ cha mẹ được hưởng tài sản của con không phụ thuộc vào nội dung di chúc

+ con chưa thành niên, hoặc con đã thành niên bị mất năng lực hành vi dân sự được hưởng tài sản của cha mẹ không phụ thuộc vào nội dung của di chúc

– Quyền và nghĩa vụ của con đối với tài sản:

+ con có quyền có tài sản riêng, gồm tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng, thu nhập do lao động của con, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng của con và thu nhập hợp pháp khác. Tài sản được hình thành từ tài sản riêng của con cũng là tài sản riêng của con.

+ con từ đủ 15 tuổi trở lên sống chung với cha mẹ phải có nghĩa vụ chăm lo đời sống chung của gia đình, đóng góp vào việc đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình nếu có thu nhập.

+ con đã thành niên có nghĩa vụ đóng góp thu nhập vào việc đáp ứng nhu cầu của gia đình phù hợp với khả năng của mình.

– Con dâu, con rể sống chung với cha mẹ chồng / vợ có quyền và nghĩa vụ với cha mẹ như con đẻ (Điều 80)

==> nếu không sống chung với cha mẹ chồng / vợ thì luật không quy định

2.3. Hạn chế quyền của cha mẹ đối với con chưa thành niên

– Cha mẹ bị hạn chế quyền đối với con chưa thành niên khi (Điều 85):

+ bị kết án về một trong các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con với lỗi cố ý hoặc có hành vi vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con

+ phá tán tài sản của con

+ có lối sống đồi trụy

+ xúi giục, ép buộc con làm những việc trái PL, trái đạo đức XH

– Tùy vào từng trường hợp cụ thể, Tòa án có thể ra quyết định không cho cha, mẹ trông nom, chăm sóc, giáo dục con, quản lý tài sản riêng của con hoặc đại diện theo PL cho con trong thời hạn từ 01 năm đến 05 năm. Tòa án có thể xem xét việc rút ngắn thời hạn này.

Câu hỏi: trường hợp có nhiều con, nếu cha mẹ xâm phạm đến 1 đứa, thì sẽ bị hạn chế quyền đối với đứa con bị xâm phạm hay sẽ bị hạn chế quyền đối với tất cả các đứa con; hoặc vi phạm 1 quyền thì chỉ bị hạn chế 1 quyền đó hay hạn chế tất cả các quyền ?

Trả lời: luật không quy định ===> tùy từng trường hợp cụ thể, có thể áp dụng theo cách vi phạm với đứa con nào thì bị bạn chế quyền với đứa con đó, vi phạm quyền nào thì bị hạn ches về quyền đó

– Người có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên (Điều 86):

+ cha, mẹ, người giám hộ của con chưa thành niên

+ người thân thích

+ cơ quan quản lý NN về gia đình

+ cơ quan quản lý NN về trẻ em

+ hội liên hiệp phụ nữ

– Khi cha / mẹ bị Tòa án hạn chế quyền đối với con chưa thành niên thì người kia thực hiện quyền trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con, quản lý tài sản riêng của con và đại diện theo PL cho con.

– Việc trông nom, chăm sóc, giáo dục con và quản lý tài sản riêng của con chưa thành niên được giao cho người giám hộ khi:

+ cha và mẹ đều bị Tòa án hạn chế quyền đối với con chưa thành niên

+ một bên cha, mẹ không bị hạn chế quyền đối với con chưa thành niên nhưng không đủ điều kiện để thực hiện quyền, nghĩa vụ đối với con

+ một bên cha, mẹ bị hạn chế quyền đối với con chưa thành niên và chưa xác định được bên cha, mẹ còn lại của con chưa thành niên.

– Cha, mẹ đã bị Tòa án hạn chế quyền đối với con chưa thành niên vẫn phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng cho con.

Chương 7: Cấp dưỡng cho các thành viên trong gia đình

1. Khái niệm

– Điều 3: Cấp dưỡng là việc một người có nghĩa vụ đóng góp tiền hoặc tài sản khác để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của người không sống chung với mình mà có quan hệ hôn nhân, huyết thống hoặc nuôi dưỡng trong trường hợp người đó là người chưa thành niên, người đã thành niên mà không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình hoặc người gặp khó khăn, túng thiếu theo quy định của Luật NHGĐ.

– Cấp dưỡng  ><  Nuôi dưỡng

+ cấp dưỡng:

  • không sống cùng nhau,
  • có 1 mức cấp dưỡng (quy ra tiền) và 1 phương thức cấp dưỡng cụ thể,
  • thường chỉ cấp tiền, tài sản, rất ít khi kèm theo những nghĩa vụ khác như chăm sóc, giáo dục (do không sống chung nên rất khó để thực hiện những nghĩa vụ này)

+ nuôi dưỡng:

  • sống cùng nhau,
  • không có mức và phương thức nuôi dưỡng cụ thể (tức là theo khả năng),
  • luôn kèm theo nghĩa vụ chăm sóc, giáo dục

– Đặc điểm của cấp dưỡng:

+ cấp dưỡng là 1 quan hệ PL về tài sản, trong đó quyền và nghĩa vụ cấp dưỡng gắn liền với nhân thân của chủ thể, không thể thay thế bằng 1 nghĩa vụ khác, và không thể chuyển giao cho người khác

Chú ý phân biệt với việc bồi thường thiệt hại do xâm phạm tính mạng, sức khỏe, trong khoản tiền bồi thường có thể có 1 khoản cấp dưỡng. VD anh A đang phải cấp dưỡng cho con là B, anh C gây ra cái chết cho anh A, khi đó anh C có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do xâm phạm tính mạng cho A, ngoài ra C còn phải chịu trách nhiệm thay anh A cấp dưỡng cho cháu B cho đến khi B đủ 18 tuổi ==> trong trường hợp này, không thể coi C là người thay A cấp dưỡng cho cháu B, vì C và cháu B không có quuan hệ hôn nhân, huyết thống, hay nuôi dưỡng, mà ở đây sẽ coi khoản tiền cấp dưỡng cho B là khoản tiền nằm trong khoản mà C phải bồi thường thiệt hại, tức là gọi đó là khoản tiền bồi thường thiệt hại (không gọi là chuyển giao nghĩa vụ cấp dưỡng).

+ cấp dưỡng chỉ phát sinh trong các mối quan hệ hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng

Câu hỏi: người vợ không đi làm mà ở nhà nội trợ, có được coi là được chồng nuôi dưỡng?

Trả lời: vì tài sản của chồng làm ra cũng là tài sản chung của  vợ chồng, nên không thể coi là người vợ được người chồng nuôi dưỡng

Trong luật HNGĐ, trong thời kỳ hôn nhân thì không đặt ra vấn đề nuôi dưỡng giữa 2 vợ chồng, chỉ đặt ra vấn đề cấp dưỡng khi vợ chồng ly hôn

+ quyền và nghĩa vụ tương ứng giữa các chủ thể, có đi có lại, nhưng không mang tính đền bù ngang giá

2. Điều kiện phát sinh nghĩa vụ cấp dưỡng

– Người cấp dưỡng và người được cấp dưỡng phải có quan hệ hôn nhân, huyết thống, hoặc nuôi dưỡng

– Người cấp dưỡng và người được cấp dưỡng không sống chung với nhau, hoặc người có nghĩa vụ nuôi dưỡng trốn tránh thực hiện nghĩa vụ thì buộc phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng

Chú ý: trường hợp 1 người đi lao động nước ngoài thì vẫn được coi là sống chung với nhau

Chú ý: trường hợp bố mẹ già có lương hưu, con cái vẫn hàng tháng gửi tiền về biếu ông bà, thì không được coi là cấp dưỡng, mà có thể gọi là phụng dưỡng (là chăm sóc + nuôi dưỡng)

– Người cấp dưỡng phải có khả năng cấp dưỡng: căn cứ vào thu nhập của người có nghĩa vụ

– Người được cấp dưỡng phải là:

+ người chưa thành niên,

+ người đã thành niên không có khả năng lao động, và không có tài sản để tự nuôi mình (tức là có tài sản nhưng chỉ để ở, không có khả năng thu được lợi nhuận đủ nuôi sống mình từ tài sản)

+ người quá khó khăn túng thiếu theo quy định của PL: luật không quy định cụ thể thế nào là quá khó khăn túng thiểu, thông thường tòa khi xét xử sẽ xem xét thu nhập của người yêu cầu cấp dưỡng với mức sống trung bình tại địa phương

– Người có nghĩa vụ cấp dưỡng là người đã thành niên, có tài sản để thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng

3. Mức cấp dưỡng và phương thức cấp dưỡng

a. Mức cấp dưỡng (Điều 116)

– Mức cấp dưỡng là 1 khoản tiền, lương thực hoặc tài sản khác mà bên phải cấp dưỡng đóng góp cho bên được cấp dưỡng để đảm bảo nhu cầu thiết yếu của bên được cấp dưỡng.

– Việc xác định mức cấp dưỡng: do thỏa thuận, hoặc do tòa án giải quyết, căn cứ vào :

+ thu nhập, khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng

+ nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng

– Mức cấp dưỡng có thể thay đổi theo thời gian do nhu cầu của con thay đổi (do lứa tuổi, do bệnh tật) hoặc do điều kiện sống của con thay đổi (do trượt giá, …)

b. Phương thức cấp dưỡng (Điều 117)

– Có 2 phương thức:

+ cấp dưỡng định kỳ: theo tháng, quý, 1/2 năm, 1 năm

+ cấp dưỡng 1 lần

– Các bên có thể thỏa thuận thay đổi phương thức cấp dưỡng, tạm ngừng cấp dưỡng trong trường hợp người có nghĩa vụ cấp dưỡng lâm vào tình trạng khó khăn về kinh tế mà không có khả năng thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết

4. Các trường hợp cấp dưỡng cụ thể

– Một người cấp dưỡng cho nhiều người (Điều 108):

+ người cấp dưỡng và những người được cấp dưỡng thỏa thuận với nhau về phương thức và mức cấp dưỡng phù hợp với thu nhập, khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng và nhu cầu thiết yếu của những người được cấp dưỡng;

+ nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết.

VD: bố cấp dưỡng cho nhiều con

– Nhiều người cấp dưỡng cho 1 người (Điều 109):

+ những người này thỏa thuận với nhau về phương thức và mức đóng góp phù hợp với thu nhập, khả năng thực tế của mỗi người và nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng;

+ nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết.

   VD: các con cấp dưỡng cho cha mẹ

a. Cấp dưỡng giữa cha mẹ và con (Điều 110, Điều 111)

– Cha, mẹ có nghĩa vụ cấp dưỡng cho:

+ con chưa thành niên,

+ con đã thành niên không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình

trong các trường hợp:

  • không sống chung với con (VD ly hôn, con sống với 1 người, người kia có trách nhiệm cấp dưỡng; hoặc có con chung nhưng hôn nhân không hợp pháp), hoặc
  • sống chung với con nhưng vi phạm nghĩa vụ nuôi dưỡng con

– Con có nghĩa vụ cấp dưỡng cho cha mẹ khi có đủ các điều kiện:

+ con đã thành niên

+ không sống chung với cha, mẹ

+ cha, mẹ không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.

Chú ý:

+ trường hợp con chưa thành niên nhưng đã đi làm hoặc có tài sản lớn (ví dụ các ca sỹ, người mẫu trẻ có thu nhập rất cao) trong khi cha mẹ thiếu thốn thì có nghĩa vụ cấp dưỡng cho cha mẹ không ? ==> luật chưa quy định trường hợp này

+ trường hợp bố mẹ đều chưa thành niên (tảo hôn), chưa đi làm, chưa có tài sản ==> luật chưa quy định, có thể suy đoán là ông bà sẽ cấp dưỡng

b. Cấp dưỡng giữa anh chị em với nhau (Điều 112)

– Anh, chị có nghĩa vụ cấp dưỡng cho em khi:

+ không còn cha mẹ, hoặc cha mẹ không có khả năng lao động và không có tài sản để cấp dưỡng cho con

+ anh, chị đã thành niên

+ anh, chị không sống chung với em

+ em chưa thành niên và không có tài sản để tự nuôi mình, hoặc em đã thành niên không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình

– Em có nghĩa vụ cấp dưỡng cho anh, chị khi:

+ không còn cha mẹ, hoặc cha mẹ không có khả năng lao động và không có tài sản để cấp dưỡng cho con

+ em đã thành niên

+ em không sống chung với anh, chị

+ anh, chị không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.

c. Cấp dưỡng giữa ông bà nội ngoại với cháu (Điều 113)

– Ông bà nội ngoại có nghĩa vụ cấp dưỡng cho cháu khi:

+ cháu không còn người cấp dưỡng (không còn cha mẹ, anh chị em hoặc anh chị em đều còn nhỏ)

+ ông bà nội, ông bà ngoại không sống chung với cháu

+ cháu chưa thành niên hoặc cháu đã thành niên không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình

– Cháu có nghĩa vụ cấp dưỡng cho ông bà nội ngoại khi:

+ cháu đã thành niên

+ cháu không sống chung với ông bà nội, ông bà ngoại

+ ông bà không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình và không có người khác cấp dưỡng

d. Cấp dưỡng giữa cô, dì, chú, bác với cháu ruột (Điều 114)

– Cô, dì, chú, cậu, bác ruột không sống chung với cháu ruột có nghĩa vụ cấp dưỡng cho cháu trong trường hợp cháu chưa thành niên hoặc cháu đã thành niên không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình mà không có người khác cấp dưỡng theo quy định của Luật này.

– Cháu đã thành niên không sống chung với cô, dì, chú, cậu, bác ruột có nghĩa vụ cấp dưỡng cho cô, dì, chú, cậu, bác ruột trong trường hợp người cần được cấp dưỡng không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình mà không có người khác cấp dưỡng theo quy định của Luật này.

e. Cấp dưỡng giữa vợ chồng khi ly hôn (Điều 115)

– Vợ / chồng sau khi ly hôn có nghĩa vụ cấp dưỡng cho người kia khi:

+ có yêu cầu cấp dưỡng,

+ có lý do chính đáng

thì bên kia có nghĩa vụ cấp dưỡng theo khả năng của mình.

5. Chấm dứt nghĩa vụ cấp dưỡng (Điều 118)

– Khi người được cấp dưỡng đã thành niên và có khả năng lao động hoặc có tài sản để tự nuôi mình

– Người được cấp dưỡng được nhận làm con nuôi

– Người cấp dưỡng đã trực tiếp nuôi dưỡng người được cấp dưỡng

– Người cấp dưỡng hoặc người được cấp dưỡng chết

– Bên được cấp dưỡng sau khi ly hôn đã kết hôn: chú ý bên cấp dưỡng kết hôn sẽ không chấm dứt nghĩa vụ cấp dưỡng

– Trường hợp khác theo quy định của luật.

——————–

Ngày 15/03/2016

Giảng viên: cô Nguyễn Phương Lan

Chương 8: Chấm dứt hôn nhân

I. Chấm dứt hôn nhân do ly hôn

1. Quyền yêu cầu ly hôn (Điều 51)

– Ly hôn không phải là nguyên nhân dẫn đến quan hệ vợ chồng tan vỡ, mà ly hôn là ghi nhận sự tan vỡ bên trong của cuộc hôn nhân, chỉ là một biên bản chứng minh cuộc hôn nhân đã chấm dứt.

– Nếu 2 vợ chồng cùng yêu cầu ly hôn thì là trường hợp thuận tình ly hôn, Tòa án gọi là việc ly hôn.

– Nếu chỉ 1 bên đề nghị ly hôn thì là trường hợp ly hôn do 1 bên yêu cầu, Tòa án gọi là vụ án ly hôn

– Ly hôn phải do vợ hoặc chồng hoặc cả 2 yêu cầu, trừ trường hợp có thể do cha, mẹ, người thân thích khác yêu cầu thay khi xảy ra đồng thời 3 điều kiện:

+ bị mất năng lực hành vi dân sự

+ nạn nhân của bạo lực gia đình do chính người chồng / vợ của mình gây ra

+ làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần

– Hạn chế quyền ly hôn của người chồng trong trường hợp vợ đang có thai, sinh con hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi.

Như vậy nếu đứa con sinh ra bị chết  khi dưới 12 tháng tuổi thì người chồng vẫn bị hạn chế quyền ly hôn cho đến khi đủ 12 tháng kể từ ngày người vợ sinh.

Vấn đề bất cập: ngay cả trường hợp người vợ mang thai với người khác (ngoại tình), sinh con không phải của người chồng thì người chồng vẫn bị hạn chế quyền ly hôn. Lý do của nhà làm luật: để bảo vệ quyền lợi của đứa trẻ.

Chú ý: người vợ không bị hạn chế quyền ly hôn trong bất kỳ trường hợp nào.

– Với trường hợp mang thai hộ:

+ khi mang thai thì chồng của người mang thai hộ không được ly hôn, chồng của người nhờ mang thai hộ không bị hạn chế quyền ly hôn

+ khi đứa trẻ được sinh ra thì cả 2 ông chồng đều bị hạn chế quyền ly hôn cho đến sau 12 tháng kể từ ngày đứa trẻ được sinh ra:

  • ông chồng của người nhận mang thai hộ gặp sự kiện người vợ của mình sinh con (dù không phải con của mình nhưng vẫn là sinh con)
  • ông chồng của người được mang thai hộ gặp sự kiện người vợ của mình nuôi con dưới 12 tháng tuổi

Chú ý: trong thời gian người chồng bị hạn chế quyền ly hôn nêu trên, kể cả khi 2 vợ chồng thuận tình ly hôn thì cũng không được Tòa chấp thuận. Lý do: nếu Tòa chấp nhận thì tức là đáp ứng yêu cầu ly hôn của người chồng, vi phạm quy định hạn chế lý hôn đối với người chồng ==> chỉ có thể ly hôn đơn phương từ khía người vợ

Chú ý: trường hợp Tòa bác đơn ly hôn thì phải đủ 12 tháng sau mới được đệ đơn xin ly hôn.

Chú ý: trường hợp Tòa sơ thẩm đã đồng ý cho ly hôn, trong thời gian chờ Tòa phúc thẩm thì người vợ mang thai, hoặc trong lúc xử sơ thẩm thì thai nhi quá nhỏ, chưa thể phát hiện. Theo Luật tố tụng thì Tòa phúc thẩm không thể bác đơn của Tòa sơ thẩm ==> vấn đề này chưa có văn bản quy định.

Chú ý: luật HNGĐ 2014 không quy định về ly thân (gọi là ly hôn trên thực tế). Như vậy khi ly thân nếu có con thì đứa con vẫn được PL coi là con chung của 2 vợ chồng.

2. Các trường hợp ly hôn và căn cứ lý hôn

a. Thuận tình ly hôn (Điều 55)

– Là 2 bên cùng yêu cầu ly hôn

– Căn cứ của ly hôn thuận tình:

+ 2 bên thực sự tự nguyện ly hôn

+ đã thỏa thuận về việc chia tài sản, việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con cái trên cơ sở bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ và con. (lý do: để đảm bảo quyền lợi cho phụ nữ và trẻ em)

– Nếu phát hiện thuận tình ly hôn giả tạo thì Tòa sẽ không cho ly hôn: là trường hợp ly hôn để trốn tránh nghĩa vụ tài sản, hoặc để vi phạm chính sách về dân số hay vì mục đích khác không nhằm chấm dứt quan hệ hôn nhân thực tế.

– Thủ tục ly hôn thuận tình:

+ vợ chồng nộp đơn xin thuận tình ly hôn đến tòa án cấp huyện

+ hòa giải cơ sở (nếu yêu cầu)

+ hòa giải tại tòa

+ thời hạn 7 ngày để các bên có quyền thay đổi quyết định

+ công nhận thuận tình ly hôn, và quyết định công nhận thuận tình ly hôn sẽ có hiệu lực PL ngay lập tức, các bên không được quyền kháng cáo

b. Ly hôn do 1 bên yêu cầu (Điều 56)

– Căn cứ ly hôn do 1 bên yêu cầu:

+ vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được

==> quy định này thực tế gây khó khăn cho việc xin ly hôn trên thực tế, vì rất khó xác định mức độ bạo lực gia đình và xác định “tình trạng trầm trọng”

+ vợ hoặc chồng bị Tòa án tuyên bố mất tích, khi đó người còn lại xin ly hôn thì Tòa sẽ giải quyết cho ly hôn

Một người sẽ bị Tòa án tuyên là mất tích nếu trong 02 năm mà không liên lạc được.

Chú ý: nếu Tòa tuyên bố đã chết thì sẽ chấm dứt hôn nhân ngay, không cần phải ly hôn

+ cha, mẹ, người thân thích yêu cầu ly hôn nếu có căn cứ về việc chồng, vợ có hành vi bạo lực gia đình làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của người kia.

3. Hậu quả pháp lý của ly hôn

– Về quan hệ nhân thân giữa vợ và chồng:

+ quan hệ hôn nhân chấm dứt kể từ ngày bản án, quyết định ly hôn của Tòa án có hiệu lực.

+ vợ chồng chấm dứt các quyền và nghĩa vụ về nhân thân theo luật HNGĐ

+ vợ / chồng có quyền kết hôn với người khác

+ trường hợp 1 bên khó khăn, túng thiếu, có yêu cầu cấp dưỡng mà có lý do chính đáng thì bên kia phải cấp dưỡng theo khả năng.

– Về quan hệ đối với con chung:

+ vợ chồng ly hôn vẫn có quyền và nghĩa vụ với con chung

+ nếu con chung chưa thành niên hoặc đã thành niên nhưng mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi sống mình thì vợ chồng phải thỏa thuận người trực tiếp nuôi con.

+ người không trực tiếp nuôi con phải có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con và có quyền thăm nom con.

+ về nguyên tắc, con dưới 36 tháng tuổi được giao cho người mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp nuôi con hoặc các bên có thỏa thuận khác

+ nếu con đủ 7 tuổi thì việc ở với cha hay mẹ phải xem xét nguyện vọng của con

– Về tài sản riêng của vợ, chồng:

+ khi ly hôn, tài sản riêng của ai vẫn thuộc quyền sở hữu của người đó

+ trường hợp có sự sáp nhập, trộn lẫn giữa tài sản riêng với tài sản chung thì 1 bên sẽ được thanh toán phần giá trị tài sản của mình đóng góp vào khối tài sản đó, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác

+ nếu không đủ căn cứ để chứng minh tài sản riêng của vợ / chồng thì tài sản đó là tài sản chung

+ trường hợp nhà ở thuộc sở hữu riêng, đã đưa vào sử dụng chung thì khi ly hôn, nếu có khóa khăn về chỗ ở thì được quyền lưu cư (ở nhờ) trong thời gian 6 tháng kể từ ngày có quyết định ly hôn, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác.

——————-

Ngày 17/03/2016

Giảng viên: thầy Nguyễn Văn Cừ

(tiếp bài trước)

Trường hợp kết thúc hôn nhân khi vợ / chồng bị tuyên bố chết (Điều 66)

– Khi 1 bên vợ chồng chết thì tất cả những quyền và nghĩa vụ phát sinh từ khi kết hôn sẽ kết thúc

– Người có vợ / chồng chết được coi là người độc thân và có quyền kết hôn với người khác

– Khi 1 bên vợ chồng chết thì tài sản chung của vợ chồng sẽ được chia đôi, không phụ thuộc vào công sức đóng góp vào tài sản chung (khác với trường hợp ly hôn khi cả 2 còn sống thì sẽ chia tài sản có tính đến công sức đóng góp của mỗi bên).

Lý do của nhà làm luật: vì tài sản phát sinh trong thời kỳ hôn nhân được PL thừa nhận là tài sản chung hợp nhất của vợ chồng, và tỷ lệ hưởng luôn được PL quy định là bằng nhau giữa vợ và chồng. Khác với trường hợp sở hữu chung theo phần khi quan hệ hợp tác kinh doanh, hoặc trường hợp nam nữ sống với nhau như vợ chồng nhưng không đăng ký kết hôn.

– Khi 1 người bị tuyên bố mất tích thì chưa chấm dứt hôn nhân. Khi đó nếu người vợ / chồng yêu cầu ly hôn thì Tòa án sẽ đồng ý cho ly hôn.

– Khi 1 người bị tuyên bố chết thì đương nhiên chấm dứt hôn nhân (không phải xin ly hôn)

Trường hợp vợ / chồng bị tuyên bố chết sau đó trở về (Điều 67)

– Về quan hệ nhân thân:

+ nếu vợ hoặc chồng của người đó chưa kết hôn với người khác thì quan hệ hôn nhân được khôi phục kể từ thời điểm kết hôn

+ nếu đã có quyết định cho ly hôn của Tòa án (trường hợp không có tin tức sau 2 năm thì bị Tòa án tuyên bố mất tích, người ở nhà xin ly hôn và được tòa chấp thuận, sau đó 3 năm tiếp theo (tức là đủ 5 năm không có tin túc) thì Tòa tuyên bố chết) thì quyết định cho ly hôn vẫn có hiệu lực PL.

+ nếu vợ, chồng của người đó đã kết hôn với người khác thì quan hệ hôn nhân được xác lập sau có hiệu lực PL

– Về quan hệ tài sản:

+ nếu hôn nhân được khôi phục thì quan hệ tài sản được khôi phục kể từ thời điểm quyết định của Tòa án hủy bỏ tuyên bố chết có hiệu lực. Tài sản do vợ, chồng có được kể từ thời điểm quyết định của Tòa án về việc tuyên bố chồng, vợ là đã chết có hiệu lực đến khi quyết định hủy bỏ tuyên bố chồng, vợ đã chết có hiệu lực là tài sản riêng của người đó.

+ nếu hôn nhân không được khôi phục thì tài sản có được trước khi quyết định của Tòa án về việc tuyên bố vợ, chồng là đã chết có hiệu lực mà chưa chia được giải quyết như chia tài sản khi ly hôn.

——————–

Ngày 19/03/2016

Giảng viên: cô Nguyễn Phương Lan

Chương 9: Quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài

1. Khái niệm và đặc điểm

– Khái niệm: quan hệ HNGĐ có yếu tố nước ngoài gồm quan hệ HNGĐ:

+ giữa công dân VN và người nước ngoài: công dân VN là người có quốc tịch VN, người nước ngoài là công dân nước ngoài và người không quốc tịch

+ giữa người nước ngoài với nhau thường trú tại VN: người nước ngoài cư trú, làm ăn, sinh sống lâu dài ở VN

+ giữa người VN với nhau mà có ít nhất 1 bên định cư ở nước ngoài

+ giữa công dân VN với nhau mà căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó theo PL nước ngoài, phát sinh tại nước ngoài hoặc tài sản liên quan đến quan hệ đó ở nước ngoài.

Chú ý: trường hợp 2 người VN đang sinh sống tại nước ngoài mà kết hôn với nhau thì vẫn tuân theo PL của VN (sẽ đăng ký kết hôn tại Cơ quan đại diện của VN tại nước ngoài)

– Đặc điểm:

+ phải kết hợp PL nhiều nước để xử lý

+ chủ thể pháp lý rất đa dạng: do các quy định luật pháp, phong tục tập quán của các nước khác nhau

2. Nguyên tắc áp dụng luật và thẩm quyền giải quyết

– Nguyên tắc áp dụng luật theo thứ tự sau:

+ luôn ưu tiên áp dụng điều ước quốc tế (song phương hoặc đa phương), dù cho nếu áp dụng sẽ không giống hoặc trái với luật pháp VN: vì điều ước quốc tế là sự thỏa thuận của các quốc gia về vấn đề nào đó

VD điển hình là Hiệp định tương trợ tư pháp, Hiệp định song phương về Nuôi con nuôi với Pháp, Ý, Canada, … để xử lý vấn đề nuôi con nuôi của VN với công dân nước đó (thực tế các nước phương Tây rất thích nhận trẻ em VN làm con nuôi)

+ PL nước ngoài, hoặc PL của nước thứ 3 khi có điều ước quốc tế hoặc luật quốc gia viện dẫn mà không trái với nguyên tắc cơ bản của PL VN

VD: VN quy định “khi kết hôn thì phải tuân theo yêu cầu của nước mình về điều kiện đăng ký kết hôn”, tức là luật pháp VN đã viện dẫn đến luật pháp của nước có công dân kết hôn với công dân VN. Như vậy chàng trai VN 20 tuổi có thể kết hôn với cô gái Nga 16 tuổi (vì PL Nga quy định độ tuổi kết hôn là đủ 16 tuổi)

VD: VN quy định “khi ly hôn, việc giải quyết bất động sản sẽ được giải quyết theo luật của nơi có bất động sản. Như vậy nếu chàng trai VN lấy cô gái Nga, và có bất động sản chung tại Pháp thì khi ly hôn, giải quyết bất động sản chung đó sẽ áp dụng theo luật của Pháp

+ Áp dụng PL VN

– Thẩm quyền giải quyết việc quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài:

+ do UBND cấp huyện giải quyết

+ với các xã có đường biên giới đất liền giáp ranh với nước ngoài thì sẽ do UBND cấp xã giải quyết

+ riêng đối với quan hệ nuôi con nuôi, sẽ áp dụng Luật Nuôi con nuôi ===> cơ quan có thẩm quyền giải quyết là Sở Tư pháp

Câu hỏi: Trong những trường hợp nhất định, UBND cấp xã vẫn là cơ quan có thẩm quyền đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài.

Trả lời: Đúng. Vì với trường hợp xã có đường biên giới đất liền giáp ranh với nước ngoài thì quan hệ hôn nhân và gia đình sẽ do UBND cấp xã giải quyết

3. Các quan hệ hôn nhân gia đình có yếu tố nước ngoài cụ thể

a. Kết hôn có yếu tố nước ngoài (Điều 126)

– Áp dụng 2 luật:

+ luật quốc tịch: luật mà người đó có quốc tịch

+ luật nơi tiến hành kết hôn

VD công dân VN kết hôn với công dân Nga, thì mỗi bên phải tuân theo PL của nước mình về điều kiện kết hôn, nếu kết hôn tại VN thì công dân Nga đó phải chịu tuân theo PL của cả VN và Nga

VD 1 cô gái VN muốn kết hôn với 1 người đàn ông Iran đã có 2 vợ (người Hồi giáo được lấy 4 vợ), nếu đăng ký kết hôn tại VN thì sẽ không được chấp nhận vì luật phấp VN nghiêm cấm người chưa có vợ có chồng kết hôn với người đang có vợ có chồng. Tuy nhiên nếu cô gái VN đó sang Iran thì có thể đăng ký kết hôn vì khi sang đó sẽ tuân theo luật pháp Iran.

Chú ý: với cán bộ trong lực lượng vũ trang, cán bộ một số cơ quan đặc biệt có liên quan đến an ninh quốc gia như Ban Cơ yếu, … thì ngoài việc tuân theo luật HNGĐ còn phải tuân theo quy chế ngành.

b. Ly hôn có yếu tố nước ngoài (Điều 127)

– Nguyên tắc: áp dụng luật nơi thường trú chung của vợ chồng, trường hợp không có nơi thường trú chung thì giải quyết theo PL VN

– Với bất động sản: khi ly hôn sẽ tuân theo luật ở nơi có bất động sản

Chia sẻ:

  • Facebook
  • Twitter
Thích Đang tải...

Có liên quan

Từ khóa » Slide Luật Hôn Nhân Và Gia đình