Bài Thơ: Tỳ Bà Hành - 琵琶行 (Bạch Cư Dị - 白居易) - Thi Viện
- Tên tác giả/dịch giả
- Tên bài thơ @Tên tác giả
- Nội dung bài thơ @Tên tác giả
- Tên nhóm bài thơ @Tên tác giả
- Tên chủ đề diễn đàn
- Tìm với Google
- Tác giả
- Danh sách tác giả
- Tác giả Việt Nam
- Tác giả Trung Quốc
- Tác giả Nga
- Danh sách nước
- Danh sách nhóm bài thơ
- Thêm tác giả...
- Thơ
- Các chuyên mục
- Tìm thơ...
- Thơ Việt Nam
- Cổ thi Việt Nam
- Thơ Việt Nam hiện đại
- Thơ Trung Quốc
- Đường thi
- Thơ Đường luật
- Tống từ
- Thêm bài thơ...
- Tham gia
- Diễn đàn
- Các chủ đề mới
- Các chủ đề có bài mới
- Tìm bài viết...
- Thơ thành viên
- Danh sách nhóm
- Danh sách thơ
- Khác
- Chính sách bảo mật thông tin
- Thống kê
- Danh sách thành viên
- Từ điển Hán Việt trực tuyến
- Đổi mã font tiếng Việt
Đăng nhập
Tên đăng nhập: Mật khẩu: Nhớ đăng nhập Đăng nhập Quên mật khẩu?
Đăng nhập bằng Facebook Đăng ký Bình luận nhanh 14
Bạn đang bình luận với tư cách khách viếng thăm. Để có thể theo dõi và quản lý bình luận của mình, hãy đăng ký tài khoản / đăng nhập trước.
Tên của bạn: Thông tin liên hệ: Xác nhận bạn không phải người máy: Gửi bình luận
Đào Văn Nghi12/10/2025 06:24 ,Diễn Nôm: KHÚC HÁT ĐÀN TỲ BÀ. Tầm Dương tiễn khách lúc tàn canh, Hiu hắt hoa lau động lá cành. Khách xuống thuyền ngồi ta xuống ngựa, Chén nâng chẳng sáo cũng không đàn. Cùng say tạm biệt bao sầu thảm, Sông đượm trăng buồn lúc biệt ly. Chợt tiếng tỳ bà trên mặt nước, Chủ quên về khách cũng quên đi. Lần theo tiếng hỏi, ai đàn vậy? Im bặt đàn, ngần ngại chẳng ra. Thuyền ghé mạn bèn xin gặp mặt, Đèn khêu rượu rót tiệc cùng mâm. Ngàn lần vạn lượt mời ưng lại, Nửa mặt, tỳ bà che khuất đi. Vặn trục so dây dăm bảy tiếng, Chưa chơi khúc nhạc đã hay tình. Dây ngân ấm ức dây ai oán, Bày tỏ tâm tư nỗi bất bình. Hơi nhíu lông mày, đàn mãi gảy, Giãi bày tâm sự cuộc đời mình. Nhẹ nhàng nhấn vuốt cung đàn dạo, Khởi khúc Nghê Thường tiếp Lục Yêu. Rào rạt dây to mưa đổ xuống, Tỉ tê sợi nhỏ nỗi ưu phiền. Nỉ non rào rạt lời xen lẫn, Như những hạt châu rớt ngọc bàn. Lảnh lót trong hoa oanh cất giọng, Ngập ngừng suối thác nước trào tuôn. Lạnh đông mặt nước đàn ngưng bặt, Chẳng thuận cung đàn bỗng lặng câm. U uất sầu riêng thầm lặng trỗi, Không âm mà thấy tuyệt hay hơn . Bống như tiếng nước trong bình vỡ, Thiết mã ầm ầm kiếm giáo vung Khúc dạo đàn dừng tay lướt mạnh, Bốn dây xé lụa tiếng vang lừng. Đông tây thuyền mảng im phăng phắc, Chỉ thấy trăng thu sáng mặt sông. Gỡ phím trầm ngâm cài dây cất, Chỉnh trang xiêm áo đứng lên thưa. “Thiếp đây vốn ở chốn kinh đô, Nhà tận Hà Mô mãi đến giờ. Học thạo tỳ bà, mười ba tuổi, Trong trường cả đám, đứng đầu luôn. Nghe chơi thầy dạy còn kiêng phục, Trang điểm Thu Nương sánh chẳng cùng. Trai trẻ Ngũ Lăng đều mến mộ, Nghe xong liền tặng biết bao tiền. Trâm vàng lược bạc theo lời gãy, Rượu rớt quần hồng loang ố hoen. Năm nọ năm này cười hể hả, Thu xuân trăng gió một đời nhàn. Em trai đi lính rồi dì chết, Ngày tháng qua đi sắc cũng tàn. Trước cổng vắng tanh người chẳng đến, Tuổi cao làm vợ kẻ đi buôn. Lái buôn hám lợi thường khinh vắng, Tháng trước buôn trà tận Phú Lương. Từ đó đầu sông thuyền đơn lẻ, Quanh thuyền lạnh lẽo ánh trăng suông. Đến khuya bỗng mộng thời còn trẻ, Son phấn nhạt nhòa khóc nỉ non”. Ta đã nghe tỳ bà tức tưởi, Giờ nghe thêm thổ lộ từ nàng. Cùng là cảnh cuối trời luân lạc, Biết trước hay không, gặp lẽ thường. Năm ngoái kinh thành ta bái biệt, Bị đày nằm bệnh tại Tầm Dương. Tầm Dương hẻo lánh không âm nhạc, Năm trọn không nghe tiếng sáo đàn. Ở cạnh sông Bồn luôn ẩm ướt, Lau vàng trúc úa mọc quanh nhà. Nơi đây sớm tối nghe chi được, Khắc phoải quyên kêu vượn khóc than. Xuân sáng thu đêm hoa trăng thưởng, Một mình rót rượu cạn mình ta. Phải đâu sáo thổi sơn ca hót, Líu liết líu lo thật khó nghe. Nàng gảy đêm nay tỳ bà khúc, Nghe như tiếng nhạc cõi thần tiên. Xin nàng nán lại đờn thêm nữa, Tôi sẽ vì em chuyển khúc hành. Cảm động lời ta nàng đứng tựa, Rồi ngồi nắn nót rộn âm thanh. Bi ai khác hẳng cung đàn trước, Cả tiệc mặt che tiếng khóc tràn. Trong đó ai người than vãn nhất, Giang châu Tư Mã lệ đầm khăn. Đào Nghi dịch 12/10/025 ,Diễn Nôm: KHÚC HÁT ĐÀN TỲ BÀ. Tầm Dương tiễn khách lúc tàn canh, Hiu hắt hoa lau động lá cành. Khách xuống thuyền ngồi ta xuống ngựa, Chén nâng chẳng sáo cũng không đàn. Cùng say tạm biệt bao sầu thảm, Sông…
Lương Hữu Phước24/03/2025 14:20 Thương Hành Bể hoạn nạn thuyền nan chao đảo, Gió biên cương vần vũ mây giăng. Dặm dài ngựa mỏi gối chân, Nửa đời sương gió phong trần nổi trôi. Thân thương khách lắm hồi suýt chết, Bị cướp vây giữa đất xa xăm. Gươm kề cổ, bạc tiêu tan, Chỉ còn hơi thở muộn màng qua đêm. Bạn thân ta năm nào còn đó, Chuyến đi buôn một độ không về. Máu rơi thấm đất ven đê, Công đường chẳng hỏi, bộn bề ai hay? Nhà còn lại mái tranh tàn tạ, Vợ đoạt rồi, nhân ngã cười khinh. Tình nhân nàng rước vào dinh, Mẹ già nuốt lệ lặng thinh rời nhà. Cõi biên tái cướp già tràn ngõ, Quân triều đình lơ láo nơi đâu? Thảo khấu vây kín đôi bờ, Tư Mã thong thả ngồi chờ tiếng tơ? Ta buôn bán mười phương vạn chợ, Góp tiền lương cho kẻ ngồi cao. Đê làng giữ vững đêm nao, Cũng nhờ thương khách lao đao kéo về. Thương nhân là kẻ đông tây xuôi ngược, Biết xa gần, thừa thiếu rõ phân. Thật – giả, đắt – rẻ tường tận, Không người buôn bán, ai cân vạn hàng? Lụa ta buôn, quan quyền mặc ấm, Gạo ta chở, dân chúng đủ no. Ngọc trai đổi bữa cơm cho, Mà nay chỉ thấy kẻ ngồi than van. Cây đàn đó, nàng ôm than thở, Đổi trăm vàng ta tặng nàng xưa. Chẳng màng cơm áo nắng mưa, Vậy mà chỉ biết trách hờn sầu bi. Ta nuôi sống quan Tư Mã đó, Giang Châu yên bởi có thương nhân. Thương thuyền xuôi ngược bao lần, Tiền thuế nuôi kẻ phê vần thơ văn. Đàn thơ ấy có nuôi ai sống? Lời văn kia chỉ bóng với hình. Mực tàu chẳng chặn quân binh, Câu thơ nào giữ an bình biên cương? Giữa phong trần, ta cười phó mặc, Hỏi người còn trí dũng hay chăng? Một đời xuôi ngược gian truân, Cũng không đổi lấy một lần cảm thông! Thương Hành Bể hoạn nạn thuyền nan chao đảo, Gió biên cương vần vũ mây giăng. Dặm dài ngựa mỏi gối chân, Nửa đời sương gió phong trần nổi trôi. Thân thương khách lắm hồi suýt chết, Bị cướp vây giữa đất…
Trần Như Luận13/12/2024 06:23Tôi tâm đắc với bản dịch của dịch giả Tôn Thất Minh Đạt.
Tôn Thất Minh Đạt12/11/2024 20:37 TỲ BÀ HÀNH Đêm bến Tầm Dương, ta đưa người ra đi Gió thu thổi nhẹ trong đám cỏ xanh rì Chủ vừa xuống ngựa, khách vẫn trên thuyền nan Say mà chẳng vui vì sắp phải xa bạn Cùng nâng chén rượu, lại thấy thiếu tiếng nhạc Sông ngập ánh trăng vàng cảnh biệt ly mênh mang. Bỗng nghe tiếng đàn văng vẳng trên mặt nước Chủ nhân quên về, khách vẫn chưa dời bước. Lần theo tiếng tỳ bà mong gặp người chơi Tiếng đàn ngưng lại, như ngập ngừng không nói Chèo thuyền đến gần xin gặp cho được người Rót rượu, khêu đèn, rồi mở lại tiệc vui. Gọi trăm ngàn lần nàng mới chịu bước ra, Tay vẫn ôm đàn che nửa mặt như hoa Rồi, chỉnh trục dây, nàng mới thử gảy Tuy chưa thành nhạc mà tình ý tràn đầy Như gói tâm tư lên mỗi âm, mỗi dây Như bao ngang trái mong muốn được dãi bày Như bày tỏ hết bao tâm tư trong lòng. Nàng cúi nhẹ đầu, xòe những ngón tay hồng Gảy nhẹ lên đàn như múa trong không trung. Trước khúc Nghê Thường, sau là khúc Lục yêu Dây trầm dồn dập, nghe như tiếng mưa chiều, Dây cao da diết như tiếng lòng thủ thỉ Dây cao dây thấp cùng hòa nhau thành ý Như những viên minh châu cùng rơi xuống mâm ngà. Như tiếng chim oanh vàng ríu rít trong bụi hoa, Có lúc nghẹn ngào như chảy qua ghềnh đá Tiếng suối ngừng chảy, dây đàn bỗng im bặt Dây đàn ngưng rồi, âm thanh tạm vắng lặng Hẳn là nàng đang mang một lòng buồn hận, Lúc này không âm thanh mà hơn cả có âm thanh. Bỗng nhiên nghe như tiếng bình bạc vỡ toang Ầm ầm như đoàn quân, đao thương va loảng xoảng Khúc nhạc đã ngừng, nàng lại vỗ lòng đàn, Bốn dây cùng vang như một tiếng lụa xé. Phía Đông phía Tây đều trở nên quạnh quẽ Chỉ thấy giữa sông một vầng trăng thu sáng Nàng cởi móng gảy rồi cài vào hộp đàn, Thu liễm nét mặt và chỉnh váy gọn gàng. Nàng thổ lộ rằng vốn là gái nhà lành Nhà ở kinh thành dưới gò mả Hà Mô. Mới mười ba tuổi đã học đàn thành thục Tiếng tăm của nàng đứng đầu cả giáo phường. Mỗi khi gảy đàn các nhạc sư đều bái phục, Khi nàng trang điểm Thu Nương cũng nhún nhường Các chàng trai Ngũ Lăng đua nhau đem quà tới Mỗi khúc nhạc hay được thưởng bao lụa mới. Thoa cài đầu, lược bạc gõ nhịp đàn vỡ tan Quần lụa đỏ còn vết ố rượu, hoen vàng Năm này qua năm khác cứ mặc sức vui cười. Bao mùa Xuân Thu vẫn nhàn hạ cuộc đời. Thế rồi, em đi lính, người dì lại đi xa Sớm chiều trôi qua, nhan sắc dần nhạt nhoà, Ngựa xe một thời giờ thưa thớt trước nhà Ngẫm mình đã già bèn lấy một lái buôn. Thương gia trọng lợi, xem nhẹ sự cô đơn Tháng trước theo thuyền mua trà ở Phù Lương. Nàng mãi ngóng trông với một chiếc thuyền không, Bên thuyền chỉ có trăng lạnh cùng nước sông. Đêm khuya bỗng nhớ những chuyện thời tươi trẻ, Khóc thầm trong mộng, mặt phấn son nhoè lệ. Ta nghe tiếng đàn lòng đã buồn vô kể Giờ nghe những lời này càng xót xa ngậm ngùi Cùng là những người lưu lạc nơi chân trời Gặp nhau ở đây hà tất từng quen biết Ta cũng rời kinh thành từ năm ngoái mà thôi Bị biếm về Tầm Dương, nằm bệnh mấy tháng rồi Đất này hẻo lánh, không nghe tiếng nhạc nào Suốt năm vừa qua không nghe tiếng đàn sáo. Nhà gần sông Bồn, ẩm ướt và cách xa Chỉ có lau vàng và trúc xanh quanh nhà. Nơi đó sáng chiều ta chỉ nghe được là Tiếng chim hót ra máu, tiếng vượn hú thê lương. Xuân có hoa nở bên sông, Thu trăng mờ pha sương. Trước đây, ta vẫn thường ngồi uống rượu một mình. Chẳng phải là miền núi không có tiếng ca vui Mà tiếng địa phương thật khó nghe rõ lời Đêm nay được nghe tiếng tỳ bà nàng chơi Như được rửa tai với một khúc nhạc trời Xin đừng vội chia tay hãy đàn thêm chút nữa Ta sẽ vì nàng viết một khúc tỳ bà. Cảm động những lời ta, nàng đứng lặng hồi lâu Rồi ngồi xuống đàn, nhịp phách bỗng dồn mau Tiếng nghe thê lương, không giống khúc nhạc đầu. Những người ngồi nghe đều khóc thầm, che mặt. Trong số đó ai là người khóc nhiều nhất, Áo xanh ướt nhàu là Tư mã Giang Châu. Mạc Đình. 08/2024. TỲ BÀ HÀNH Đêm bến Tầm Dương, ta đưa người ra đi Gió thu thổi nhẹ trong đám cỏ xanh rì Chủ vừa xuống ngựa, khách vẫn trên thuyền nan Say mà chẳng vui vì sắp phải xa bạn Cùng nâng chén rượu, lại thấy thiếu…
Cơm Nguội03/09/2023 18:15 Dịch 1 Đêm thu tiễn bạn Tầm Dương, Cành phong khép gió hoa lau khẽ khàng. Chủ xuống ngựa khách lên thuyền, Chén đầy thủng thẳng thiếu nàng hát ca. Say càng buồn đậm chia xa, Lòng muôn con sóng chan hòa bóng trăng. Chợt nghe réo rắt bên sông, Chủ ngừng lên ngựa khách khoan xuôi thuyền. Lần theo trăng gió tiếng đàn, Tỳ bà lịm tắt hay tràn mưng mưng. Nhẹ thuyền tỏ mặt người dưng, Khêu đèn thêm rượu sai bưng tiệc mời. Khẩn cầu người mới chịu lời, Tỳ bà che nửa mặt người bóng hoa. Thử dây vài tiếng ngân nga, Chưa tròn khúc điệu đá chan chứa tình. Nghẹn ngào tình ý phân minh, Phận mình mình chịu riêng mình biết thôi. Chùng lòng ngón lướt liên hồi, Tình ai giãi mở cả trời hư vô. Khẽ khàng nắn vuốt gảy mau, Lục yêu là khúc tiếp sau Nghê thường. Dây to vần vũ mưa rào, Dây nhỏ thủ thỉ chuyện nào tỉ tê. Ào ào quyện lấy nỉ non, Trong như mâm ngọc bao hòn châu rơi. Líu lo oanh hót hoa cười, Ngập ngừng suối chảy xuống chơi bãi ghềnh. Bỗng sao đông cứng sượt dài, Tiếng đàn im bặt nhịn sai chuyện gì. Sầu nào u uất niềm chi, Không gian chợt nén muôn nghìn nấu nung. Bỗng bình bạc nước vỡ tung, Ào ào thiết kỵ thương xung sáng ngời. Tay tiên sướt bốn dây gày, Nghe như lụa xé khách ngây sững sờ. Đông tây thuyền mảng lặng tờ, Long lanh mặt nước hững hờ trăng soi. Trầm ngâm gỡ phím cài rồi, Sửa xiêm đứng dật thảnh thơi nét ngài. Kinh thành con hát trước đây, Quê nhà ở chốn Hà Mô bên gò. Tỳ bà rành tuổi mười ba, Đứng đầu danh sớm bay xa giáo phường. Thày nghe thán phục khúc đàn, Nét hoa trang điểm Thu nàng phát ghen. Giai tranh tặng biếu Ngũ Lăng, Mỗi bài ca xướng mấy lăm lụa đào. Trâm gài nhịp gãy bạc sao? Lụa quần huyết dụ rượu nào ố hoen. Bấy năm vui sướng như tiên, Trăng thu nhàn nhã gió xuân nhường phần. Dì chết rồi em tòng quân, Chiều qua sớm lại sắc xuân héo tàn. Vắng hoe xe ngựa cửa hàng, Lái buôn duyên chắp muộn màng còn hơn. Hám lợi chồng biệt ly luôn, Phú Lướng tháng trước mối buôn mua trà. Vợ thuyền gửi lại bến xa, Đêm dài sóng tãi sóng va lạnh lùng. Thường mơ ngày ấy trẻ trung, Mà sao nước mắt cũng hồng phấn son. Ta nghe đàn đã héo hon, Giò nghe nàng kể lòng thêm ngậm ngùi. Cũng là luân lạc chân trời, Gặp đây hà tất phải người biết xưa. Năm ngoái từ biệt kinh vua, Tầm Dương thành đó nằm chưa hết buồn. Đất ngường heo hút ca nương, Cả năm chưa được du dương một lần. Ngập thấp chốn ấy sông Bồn, Lau vàng trúc đổ sớm hôm quạnh nhà. Sớm chiều có lúc gần xa, Cuốc kêu nghẹn máu vượn la não nùng. Xuân thu hoa nở trăng tròn, Ta thường uống rượu sắt son với mình. Sơn ca lại tiếng sáo thôn, Líu la líu liếc mỏi mòn khó ta. Đêm nay nghe tiếng tỳ bà, Mà như nghe nhạc tiên sa tỏ tường. Xin ngồi lần nữa khúc đàn, Vì ta náng quyết chuyện nàng đêm nay. Được lời đứng lặng như say, Đàn lên sóng gió sáp vây dập dồn. Khúc buồn giờ lại thảm hơn, Che tay trong tiệc mắt tuôn vắn dài. Sầu đong đầy nhất một ngài, Giang Châu tư mã vệt dài áo xanh 1/2/2021- Nguyễn Đức Tiến Dịch 1 Đêm thu tiễn bạn Tầm Dương, Cành phong khép gió hoa lau khẽ khàng. Chủ xuống ngựa khách lên thuyền, Chén đầy thủng thẳng thiếu nàng hát ca. Say càng buồn đậm chia xa, Lòng muôn con sóng chan hòa…
Duc Do14/07/2023 05:32 Lời TỰA của Tác giả : Năm Nguyên Hòa thứ mười (815), ta bị biếm làm Tư Mã quận Cửu Giang. Mùa thu năm sau, đưa khách ở cửa sông Bồn, đêm nghe trong thuyền có tiếng tì bà của ai đó gảy, nghe âm điệu có giọng thánh thót của kinh thành. Hỏi ra, thì là một kỹ nữ của đất Trường An, từng học đàn tì bà với hai thiện tài Mục, Tào. Nay vì tuổi lớn nhan sắc tàn phai, nên lấy một thương buôn nương thân. Ta cho thuộc nhân bày tiệc rượu, mời đàn vài bản. Đàn xong, với vẻ âu sầu buồn bã kể lại những hoan lạc của ngày xưa, còn nay thì tiều tụy phiêu bạc giang hồ. Ta bị biếm đã hai năm, cũng đã sống an nhiên bình thản, chợt nghe lời kể lể, đêm nay mới có chút cảm giác của kẻ bị đi đày, nên làm bài thơ trường thiên nầy để tặng lại, gồm 616 chữ (88 câu), đặt tên là "TÌ BÀ HÀNH". 元和十年,予左遷九江郡司馬。明年秋,送客湓浦口,聞舟中夜彈琵琶者,聽其音,錚錚然有京都聲。問其人,本長安倡女,嘗學琵琶於穆、曹二善才,年長色衰,委身為賈人婦。遂命酒,使快彈數曲。曲罷憫然,自敍少小時歡樂事,今漂淪憔悴,轉徙於江湖間。予出官二年,恬然自安,感斯人言,是夕始覺有遷謫意。因為長句,歌以贈之,凡六百一十六言,命曰《琵琶行》。 Diễn Nôm : TÌ BÀ HÀNH Tầm Dương tiễn khách đêm thu, Hắt hiu lao sậy tiếng thu xạc xào. Chủ xuống ngựa, khách thuyền vào, Cất chén toan uống đâu nào trúc tơ ! Chẳng vui say, buồn ngẩn ngơ, Chia tay biền biệt trăng mờ bến sông. Tì bà vẳng tiếng nước trong, Chủ quên trở bước khách không khởi hành. Nào ai đàn giữa đêm thanh, Tì bà dứt tiếng chưa đành lời than. Dời thuyền cầu kiến người đàn, Thắp đèn thêm rượu dọn bàn tiệc hoa. Gọi mời khẩn khoản mới ra, Tì bà che nửa mặt hoa ngại ngần. So dây chuyển trục mấy lần, Chưa thành khúc điệu lâng lâng hàm tình. Mỗi dây mỗi tiếng lòng mình, Như bày tỏ hết bình sinh dạn dày. Nhíu mày tay dạo như bay, Như bày tỏ hết lòng này biết bao... Bấm vuốt móc khảy như sao, Nghê Thường vừa dứt khúc vào Lục Yêu. Dây to sầm sập mưa nhiều, Dây nhỏ thủ thỉ tựa điều riêng tư. Rào rào thỏ thẻ thực hư, Như sâu chuổi đứt tuôn từ mâm son. Tiếng oanh nhẹ hót đầu non, Nghẹn ngào se sắt suối còn lạnh căm. Lạnh căm dây tiếng biệt tăm. Biệt tăm ngưng bặt tiếng cầm lặng yên. Lặng yên như hận triền miên, Đàm im bặt tiếng tuyệt nhiên lúc nầy. Bỗng như bình vỡ nước vây, Giáo gươm vó ngựa tứ vây vang vầy. Cuối đàn tay vuốt bốn dây, Tiếng như xé lụa dứt ngay bản đàn. Lời TỰA của Tác giả : Năm Nguyên Hòa thứ mười (815), ta bị biếm làm Tư Mã quận Cửu Giang. Mùa thu năm sau, đưa khách ở cửa sông Bồn, đêm nghe trong thuyền có tiếng tì bà của ai đó gảy, nghe âm…
Duc Do14/07/2023 05:30 Tiếp theo... Đông tây tĩnh lặng thuyền nan, Lòng sông chỉ ánh trăng vàng lạnh căm. Trầm ngâm thu vén đàn cầm, Chỉnh trang y phục mày tằm thêm xanh. Thưa rằng vốn gái kinh thành, Hà Mô Lăng đó rành rành chẳng sai. Mười ba đã học thành tài, Tiếng tăm đệ nhất không ai sánh bằng. Đàn xong thiện nghệ phục lăn, Đẹp thay trang điểm sánh bằng Thu Nương. Ngũ Lăng trai trẻ vấn vương, Nghìn vàng một khúc lệ thường xá chi ! Trâm vàng gõ nhịp gãy đi, Quần hồng hoen ố mỗi khi rượu tràn. Năm qua năm tới lại càng... Phong hoa tuyết nguyệt an nhàn thảnh thơi. Em tòng quân, dì qua đời, Tháng năm mòn mõi hết thời xuân xanh. Trước thềm xe ngựa vắng tanh, Tàn phai nhan sắc lấy anh lái trà. Thương buôn trọng lợi hay xa, Phù Lương tháng trước buôn trà đến nay. Một mình thuyền vắng không ai, Trăng trong sông lạnh ai hoài một thân. Đêm nằm lòng những bâng khuâng, Mơ thời xưa cũ khôn ngăn lệ trào. Ta nghe đàn đã xuyến xao, Lại nghe lời kể càng nao tấc lòng. Cũng người lưu lạc long đong, Gặp nhau nào phải cầu mong được nào ! Đế kinh từ biệt năm nao, Thân đày ngọa bệnh đường vào Tầm Dương. Tầm Dương đất vắng thê lương, Không tơ không trúc đời thường quanh năm. Sông Bồn đất thấp lặng câm, Sậy lao tre nứa bóng râm quanh nhà. Sáng chiều trong ấy vang ra, Đỗ quyên mửa máu vượn già hú vang. Xuân hoa thu nguyệt không màng, Chuốc rượu nhấm nháp bàn hoàn riêng ta. Sáo làng lẫn tiếng sơn ca, Ngây ngô thô kệch khó mà nguôi ngoai. Nghe nàng đàn khảy đêm nay, Như nghe tiên nhạc giải bày lòng ta. Đừng từ ngồi nán lại mà... Vì nàng ta viết "Tì Bà Hành" đây! Cảm lời ta, nàng đứng ngây... Bèn ngồi nắn phím so dây dạo đàn. Bốn dây như oán như than, Cả thuyền ngơ ngẩn chứa chan lệ đầy. Trong bàn ai khóc nhiều đây ? Giang Châu Tư Mã, nước mắt đầy...áo xanh ! Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm Tiếp theo... Đông tây tĩnh lặng thuyền nan, Lòng sông chỉ ánh trăng vàng lạnh căm. Trầm ngâm thu vén đàn cầm, Chỉnh trang y phục mày…
Cơm Nguội06/08/2022 09:10 1)TỲ BÀ HÀNH. Đêm thu tiễn bạn Tầm Dương. Cành phong khép gió hoa lau khẽ khàng. Chủ xuống ngựa khách lên thuyền, Chén đầy thủng thẳng thiếu nàng hát ca. Say buồn càng đậm chia xa, Lòng muôn con sóng chan hòa bóng trăng. Chợt nghe réo dắt bên sông, Chủ thừ lên ngựa khách trông dừng thuyền. Lần theo trăng gió tiếng đàn, Tì bà lịm tắt hay tràn mưng mưng. Nhẹ thuyền tỏ mặt người dưng, Khêu đèn thêm rượu sai bưng tiệc mời. Khẩn cầu người mới chịu lời, Tì bà che nửa mặt người bóng hoa. Thử dây vài tiếng ngân nga, Chưa tròn khúc điệu đã ra hữu tình. Nghẹn ngào tình ý phân minh Phận mình mình chịu riêng mình biết thôi. Chùng lòng ngón lướt liên hồi, Tình ai giãi mở cả trời hư vô. Khẽ khàng nắn vuốt gảy mau, Lục yêu là khúc tiếp sau Nghê thường. Dây to vần vũ mưa rào, Dây nhỏ thủ thỉ chuyện nào tỉ tê. Ào ào quện lấy nỉ non, Trong như mâm ngọc bao hòn châu rơi. Líu lo oanh hót hoa cười. Ngập ngừng suối chảy xuống chơi bãi ghềnh. Bỗng sao đông cứng sượt dài, Tiếng đàn im bặt nhịn sai chuyện gì. Sầu nào u uất niềm chi, Không gian chợt nén muôn ngàn nấu nung. Bỗng bình bạc nước vỡ tung, Ào ào thiết kỵ xung thương sáng ngời. Tay tiên phẩy bốn dây gày, Nghe như lụa xé khách ngây sững sờ. Đông tây thuyền mảng lặng tờ, Long lanh mặt nước hững hờ trăng soi. Trầm ngâm gỡ phím cài rồi Sửa xiêm đứng dậy thảnh thơi nét ngài. Kinh thành con hát vốn xưa, Quê nhà ở chốn Hà Mô bên gò. Tỳ bà rành tuổi mười ba, Đứng đầu danh sớm bay xa giáo phường. Thày nghe thán phục khúc đàn, Nét hoa trang điểm Thu nàng phát ghen. Giai tranh tặng biếu Ngũ Lăng, Mỗi bài ca xướng bấy lăm lụa đào. Trâm vàng nhịp gãy bạc sao? Lụa quần huyết dụ rượu nào ố hoen. Bấy năm vui sướng như tiên, Trăng thu nhàn nhã gió xuân nhường phần. Dì chết rồi em tòng quân, Chiều qua sớm lại sắc xuân héo tàn. Vắng hoe xe ngựa cửa hàng, Lái buôn duyên chắp muộn màng còn hơn. Hám lợi chồng biệt ly luôn, Phú Lương tháng trước mối buôn mua trà. Đêm dài trăng tãi sóng va lạnh lùng. Thường mơ ngày ấy trẻ trung, Mà sao nước mắt cũng hồng phấn son. Ta nghe đàn đã héo hon, Giờ nghe nàng kể lòng thêm ngậm ngùi. Cũng là luân lạc chân trời, Gặp đây hà tất phải người khi xưa. Năm ngoái từ biệt kinh vua, Tầm Dương thành đó nằm chưa hết buồn. Đất người heo hút ca nương, Cả năm chưa được du dương một lần. Ngập thấp chốn ấy sông Bồn, Lau vàng trúc đổ sớm hôm quạnh nhà. Sớm chiều có lúc gần xa, Cuốc kêu nghẹn máu vượn la não nùng. Xuân thu hoa nở trăng tròn, Ta thường uống rượu sắt son với mình. Sơn ca lại tiếng sáo thôn, Líu la líu liếc mỏi mòn khó ta. Đêm nay nghe tiếng tỳ bà, Mà như nghe nhạc tiên sa tỏ tường. Xin ngồi lần nữa khúc đàn, Vì nàng ta quyết chuyện nàng đêm nay. Được lời đứng lặng như say, Đàn lên sóng gió xáp vây dập dồn. Khúc buồn giờ lại thảm hơn, Che tay trong tiệc mắt tuôn vắn dài. Sầu đong đầy ngất một ngài, Giang Châu tư mã vệt dài áo xanh 1/2/2021.-Nguyễn Đức Tiến. 1)TỲ BÀ HÀNH. Đêm thu tiễn bạn Tầm Dương. Cành phong khép gió hoa lau khẽ khàng. Chủ xuống ngựa khách lên thuyền, Chén đầy thủng thẳng thiếu nàng hát ca. Say buồn càng đậm chia xa, Lòng muôn con sóng chan…
Cơm Nguội06/08/2022 09:08 (2)Tỳ bà hành Bạch Cư Dị Dịch thơ:Nguyễn Đức Tiến Đêm thu tiễn khách bến Tầm Dương, Cành phong nép gió lau khẽ giương. Kẻ bước lên thuyền người xuống ngựa, Nhạt chén nồng cay vắng ca nương. Biệt ly càng uống người buồn lắm, Lòng cứ vơi đầy sông với trăng. Chợt tiếng tỳ bà lăn sóng biếc, Chủ thôi quay bước khách thẫn thờ. Lần theo trăng gió mong tìm được, Tỳ bà chợt lặng...Ai nín thương? Tách bến lẹ thuyền mong gặp mặt, Khêu đèn thêm rượu tiệc mới lên. Khẩn cầu tha thiết...Người rẽ bước, Tỳ bà khuất bóng nửa hoa gương. Vặn trục thăm dây vài giọt thức, Dẫu chưa tròn khúc đã xem tình. Nghẹn ngào thưa thốt bao thầm kín, Nỗi niềm cay đắng kiếp truân chuyên. Buông thấp nét ngài người gảy mãi, Nỗi lòng ai trải đến hư không. Nhẹ nắn chậm thoa rồi gảy tiếp, Đầu khúc Nghê thường sau Lục yêu. Dây lớn ào ào cơn mưa réo, Dây nhỏ thì thầm chuyện tỉ tê. Mưa gió nỉ non giờ thắm lại, Trong vang mâm ngọc vãi châu sa. Líu lo oanh hót hoa diễu nhại, Nhịp suối ngập ngừng thả ghềnh xa. Rồi thoáng lạnh đông lòng cứng lại, Tỳ bà nín bặt, sao sai chăng? U uất niềm riêng nay thầm phát, Câm lặng mà tan nát lung linh. Chợt bình bạc vỡ tung nước bắn, Ào ào thiết kỵ loáng đao thương. Phẩy tay sước bốn dây kết khúc, Lụa xé người nghe thức bàng hoàng. Thuyền mảng đóng đông tây ngủ lặng, Một vầng gương treo sóng thu nhàn. Nàng trầm ngâm gỡ phím càì đàn, Sửa xiêm áo thảnh thơi đứng dậy. Rằng tôi sống kinh thành thuở ấy, Lăng Hà Mô nơi đó quê nhà. Tuổi mười ba rành khúc tỳ bà. Đứng bậc nhất danh trong phường hát. Xong mỗi khúc bậc thày kinh ngạc, Lúc điểm trang ấm ức nàng Thu. Ngũ Lăng trai tranh nhau tặng biếu, Mỗi bài ca bao tấm lụa đào. Lược bạc vàng trâm tan gãy nhịp, Quần hồng huyết dụ rượu ố hoen. Năm nối năm chẳng dứt vui cười, Xuân thu tản nhàn trăng gió đãi. Rồi dì chết em trai vào lính, Chiều qua sớm lại nét xuân phai. Cổng nhà vắng ngắt bóng ngựa xe, Lái buôn chắp nối duyên từ đó, Chồng thì ham lợi nhẹ phân ly. Phú Lương tháng trước mải mua trà, Vợ thuyền mù mịt bến sông xa. Trăng vây sóng lạnh thuyền thêm nóng. Thường mộng thấy mình lúc trẻ trung, Mà sao nước mắt hồng son phấn. Ta nghe đàn mà lòng héo hắt, Giờ lời thêm day dứt ngậm ngùi. Cùng là cảnh chân trời luân lạc, Gặp nhau đây nào kể trước sau. Năm ngoái ta từ biệt kinh vua, Nằm Tầm Dương nay chưa hết ốm. Hẻo lánh buồn hơn không âm nhạc, Chưa một lần đàn sáo suốt năm, Đó là nơi ẩm thấp sông Bồn. Lau vàng trúc ốm đổ quanh nhà. Sớm chiều văng vẳng lúc gần xa, Cuốc kêu ra máu vượn thê lương. Xuân thu hoa nở buổi tròn trăng, Đầy vơi ta uống chỉ với mình. Không thiếu sơn ca vài tiếng sáo, Líu lo líu liếc chẳng nảy tình. Đêm nay nghe được tiếng tỳ bà, Mà ta cứ ngỡ là tiên nhạc. Xin nàng ngồi nán đàn thêm khúc, Ta viết “Tỳ bà hành”... Đêm nay! Được lời nàng đứng lặng rất lâu, Đàn lên như gió thúc mây sầu, Đòi cơn nay lại buồn hơn trước, Che mặt khách ngồi nước mắt rưng, Xem ra một người khóc nhiều nhất, Giang Châu tư mã đầm vạt xanh. 2/2/2021 (2)Tỳ bà hành Bạch Cư Dị Dịch thơ:Nguyễn Đức Tiến Đêm thu tiễn khách bến Tầm Dương, Cành phong nép gió lau khẽ giương. Kẻ bước lên thuyền người xuống ngựa, Nhạt…
Minh Chu20/01/2022 11:05 Tỳ bà hành Tầm Dương đầu sông đêm tiễn khách, Phong lá hoa lau thu gió rít. Chủ nhân xuống ngựa khách ở thuyền, Nâng chén muốn uống không sáo đàn. Say chẳng thành vui buồn ly biệt, Giờ rời mang mang trăng đẫm nước. Bỗng nghe đầu bến tiếng tỳ ngân, Chủ nhân quên về khách chẳng xuất. Lần thanh tìm hỏi người gảy ai, Tiếng tỳ chợt ngưng muốn nói thôi. Dịch thuyền lại sát mong tương kiến, Thêm rượu khơi đèn cùng khai yến Ngàn kêu vạn gọi mới xuất đầu, Đàn bế che già mặt nửa khuôn. Vặn trục thử thôi vài hợp âm, Chưa thành điệu khúc dạo hữu tình. Dây tơ ngào nghẹn âm đầy ý, Bày tỏ cuộc đời bất đắc chí. Nhíu mày tay bật gảy gảy đàn, Giải hết tâm can cùng vũ trụ. Nắn nhẹ, bấm khoan, lại búng tay, Mở đầu Nghê Thường cuối Lục Yêu. Dây lớn ào ào mưa trút đổ, Dây con tha thiết lời tâm sự. Ào ào tha thiết trộn lẫn đàn, Ngọc nhỏ to rơi mâm ngọc ngân. Trong hoa oanh líu lo chuyền hót, Suối nghẹn âm u nước đổ ghềnh. Nước nguồn đông sệt dây ngưng bặt, Ngưng bặt chẳng thông âm dần hết. Có mối sầu riêng thầm nảy sinh, Lúc này lặng không hơn tiếng đàn. Bình vàng chợt vỡ nước keo bắn, Thiết kỵ chợt hiện ngời đao thương. Khúc kết ngang giữa tâm dây phạc, Bốn dây cùng vang như lụa rách. Đông thuyền tây mảng thảy im lìm, Chỉ thấy sông thu trăng ánh bạc. Trầm ngâm gỡ phím giữa dây ken. Sửa lại áo xiêm đứng chỉnh trang, Trải lòng nàng vốn gái kinh kỳ. Nhà tại Lăng Hà Mô phía hạ, Mười ba tuổi học tỳ bà thành. Tên thuộc giáo phường bộ thứ nhất Mỗi tấu từng khiến thầy đàn phục. Điểm trang xong bị Thu Nương tị, Ngũ Lăng tuổi trẻ tranh bo ào. Từng khúc lụa đào thưởng vô số, Trâm vàng lược bạc gõ phách vỡ. Màu huyết quần là hoen rượu đổ, Năm này cười thỏa lại sang năm. Xuân gió thu trăng đời nhàn hạ, Em ruột tòng quân, dì xa thế. Sớm lại chiều qua nhan sắc suy, Cổng nhà vắng lạnh dấu ngựa xe. Lớn tuổi mới làm vợ thương lái, Người buôn tham lợi nhẹ biệt ly. Tháng trước Phù Lương đi mua trà. Đến giờ cửa lạch giữ thuyền không, Quanh thuyền trăng sáng sông lạnh lùng. Đêm khuya chợt mộng thời niên thiếu, Mộng khóc lệ nhòa má tô son. Ta nghe tiếng tỳ đã than thở, Giờ nghe tâm sự càng thổn thức. Cùng kẻ chân trời phận lục bình, Gặp nhau xá kể từng quen biết. Tôi thì năm ngoái từ đế kinh, Biếm đây ngã bệnh thành Tầm Dương. Tầm Dương đất hẻo không âm nhạc, Năm trọn không nghe tiếng sáo đàn. Ở cạnh sông Bồn địa thế thấp, Lau vàng trúc võ loạn đất sinh. Nơi đây sớm tối nghe thê thiết, Đỗ quyên khóc máu vượn kêu buồn. Xuân sông sớm hoa thu đêm trăng, Thường thường thủ rượu uống một mình. Phải đâu không sơn ca sơn địch, Hát tràn líu lo nghe không đẳng. Tối nay nghe đàn tỳ nàng đánh, Như tiếng nhạc tiên tai mới trong. Đừng từ ngồi nán đàn một khúc, Vì nàng ta viết tỳ bà hành. Cảm động lời này nàng đứng chốc, Ngồi lại vê dây đàn chuyển gấp. Thảm thê chả giống tiếng vừa đàn, Cả tiệc ngồi nghe che mặt khóc. Ngồi trong ai khóc thảm nhất ư, Giang Châu Tư Mã vạt xanh ướt. Tỳ bà hành Tầm Dương đầu sông đêm tiễn khách, Phong lá hoa lau thu gió rít. Chủ nhân xuống ngựa khách ở thuyền, Nâng chén muốn uống không sáo đàn. Say chẳng thành vui buồn ly biệt, Giờ rời mang mang trăng… Xem thêm... ☆☆☆☆☆ 614.54Ngôn ngữ: Chữ HánThể thơ: Thất ngôn cổ phongThời kỳ: Trung Đường41 bài trả lời: 22 bản dịch, 17 thảo luận, 2 bình luận66 người thíchTừ khoá: ca nữ (11) kỹ nữ (24) Tầm Dương (6) thơ sách giáo khoa (673) tỳ bà (3) Văn học 10 [1990-2006] (49)Tuyển tập chung
- Đường thi tam bách thủ » Thất ngôn cổ thi- Trả lời
- In bài thơ
- Tài liệu đính kèm 3
Một số bài cùng từ khoá
- Việt Bắc (Tố Hữu)- Vội vàng (Xuân Diệu)- Tây Tiến (Quang Dũng)- Sóng (Xuân Quỳnh)- Bếp lửa (Bằng Việt)Một số bài cùng tác giả
- Trường hận ca- Trường tương tư (Biện thuỷ lưu, Tứ thuỷ lưu)- Hoa phi hoa- Đại Lâm tự đào hoa- Phú đắc cổ nguyên thảo tống biệtĐăng bởi Vanachi vào 08/06/2004 21:41, đã sửa 13 lần, lần cuối bởi Vanachi vào 03/06/2009 10:53
Minh hoạ Đang tải...
Đào nương: NSND Quách Thị Hồ; Trống chầu: Đinh Thị Nghĩa; Đàn đáy: Đinh Khắc BanĐang tải...
Nghệ nhân Phó Thị Kim Đức; Đàn đáy NSƯT Công Hưng - Nhà hát lớn 2006琵琶行
潯陽江頭夜送客,楓葉荻花秋瑟瑟。主人下馬客在船,舉酒欲飲無管弦。醉不成歡慘將別,別時茫茫江浸月。忽聞水上琵琶聲,主人忘歸客不發。尋聲暗問彈者誰,琵琶聲停欲語遲。移船相近邀相見,添酒回燈重開宴。千呼萬喚始出來,猶抱琵琶半遮面。轉軸撥弦三兩聲,未成曲調先有情。弦弦掩抑聲聲思,似訴生平不得志。低眉信手續續彈,說盡心中無限事。輕攏慢撚抹復挑,初為霓裳後六么。大弦嘈嘈如急雨,小弦切切如私語。嘈嘈切切錯雜彈,大珠小珠落玉盤。閒關鶯語花底滑,幽咽流景水下灘。水泉冷澀弦凝絕,凝絕不通聲漸歇。別有幽愁暗恨生,此時無聲勝有聲。銀瓶乍破水漿迸,鐵騎突出刀鎗鳴。曲終收撥當心畫,四弦一聲如裂帛。東船西舫悄無言,惟見江心秋月白。沈吟放撥插弦中,整頓衣裳起斂容。自言本是京城女,家在蝦蟆陵下住。十三學得琵琶成,名屬教坊第一部。曲罷曾教善才服,妝成每被秋娘妒。五陵年少爭纏頭,一曲紅綃不知數。鈿頭銀篦擊節碎,血色羅裙翻酒污。今年歡笑復明年,秋月春風等閒度。弟走從軍阿姨死,暮去朝來顏色故。門前冷落車馬稀,老大嫁作商人婦。商人重利輕別離,前月浮梁買茶去。去來江口守空船,繞船月明江水寒。夜深忽夢少年事,夢啼妝淚紅闌干。我聞琵琶已歎息,又聞此語重唧唧。同是天涯淪落人,相逢何必曾相識。我從去年辭帝京,謫居臥病潯陽城。潯陽地僻無音樂,終歲不聞絲竹聲。住近湓江地低濕,黃蘆苦竹繞宅生。其間旦暮聞何物,杜鵑啼血猿哀鳴。春江花朝秋月夜,往往取酒還獨傾。豈無山歌與村笛,嘔啞嘲哳難為聽。今夜聞君琵琶語,如聽仙樂耳暫明。莫辭更坐彈一曲,為君翻作琵琶行。感我此言良久立,卻坐促弦弦轉急。淒淒不似向前聲,滿座重聞皆掩泣。座中泣下誰最多,江州司馬青衫濕。
Tỳ bà hành
Tầm Dương giang đầu dạ tống khách,Phong diệp địch hoa thu sắt sắt.Chủ nhân há mã khách tại thuyền,Cử tửu dục ẩm vô quản huyền.Tuý bất thành hoan thảm tương biệt,Biệt thời mang mang giang tẩm nguyệt.Hốt văn thuỷ thượng tỳ bà thanh,Chủ nhân vong quy khách bất phát.Tầm thanh âm vấn đàn giả thuỳ,Tỳ bà thanh đình dục ngữ trì.Di thuyền tương cận yêu tương kiến,Thiêm tửu hồi đăng trùng khai yến.Thiên hô vạn hoán thuỷ xuất lai,Do bão tỳ bà bán già diện.Chuyển trục bát huyền tam lưỡng thanh,Vị thành khúc điệu tiên hữu tình.Huyền huyền yểm ức thanh thanh tứ,Tự tố sinh bình bất đắc chí.Đê mi tín thủ tục tục đàn,Thuyết tận tâm trung vô hạn sự.Khinh lung mạn nhiên mạt phục khiêu,Sơ vi Nghê thường hậu Lục yêu.Đại huyền tào tào như cấp vũ,Tiểu huyền thiết thiết như tư ngữ.Tào tào thiết thiết thác tạp đàn,Đại châu tiểu châu lạc ngọc bàn.Gian quan oanh ngữ hoa để hoạt,U yết lưu cảnh thuỷ hạ than.Thuỷ tuyền lãnh sáp huyền ngưng tuyệt,Ngưng tuyệt bất thông thanh tiệm yết.Biệt hữu u sầu ám hận sinh,Thử thời vô thanh thắng hữu thanh.Ngân bình sạ phá thuỷ tương bính,Thiết kỵ đột xuất đao thương minh.Khúc chung thu bát đương tâm hoạch,Tứ huyền nhất thanh như liệt bạch.Đông thuyền tây phảng tiễu vô ngôn,Duy kiến giang tâm thu nguyệt bạch.Trầm ngâm phóng bát sáp huyền trung,Chỉnh đốn y thường khởi liễm dung.Tự ngôn bản thị kinh thành nữ,Gia tại Hà Mô lăng hạ trú.Thập tam học đắc tỳ bà thành,Danh thuộc giáo phường đệ nhất bộ.Khúc bãi tằng giao thiện tài phục,Trang thành mỗi bị Thu Nương đố.Ngũ Lăng niên thiếu tranh triền đầu,Nhất khúc hồng tiêu bất tri số.Điền đầu ngân tị kích tiết toái,Huyết sắc la quần phiên tửu ố.Kim niên hoan tiếu phục minh niên,Thu nguyệt xuân phong đẳng nhàn độ.Đệ tẩu tòng quân a di tử,Mộ khứ triêu lai nhan sắc cố.Môn tiền lãnh lạc xa mã hy,Lão đại giá tác thương nhân phụ.Thương nhân trọng lợi khinh biệt ly,Tiền nguyệt Phù Lương mãi trà khứ.Khứ lai giang khẩu thủ không thuyền,Nhiễu thuyền nguyệt minh giang thuỷ hàn.Dạ thâm hốt mộng thiếu niên sự,Mộng đề trang lệ hồng lan can.Ngã văn tỳ bà dĩ thán tức,Hựu văn thử ngữ trùng tức tức.Đồng thị thiên nhai luân lạc nhân,Tương phùng hà tất tằng tương thức.Ngã tòng khứ niên từ đế kinh,Trích cư ngoạ bệnh Tầm Dương thành.Tầm Dương địa tích vô âm nhạc,Chung tuế bất văn ty trúc thanh.Trú cận Bồn giang địa đê thấp,Hoàng lô khổ trúc nhiễu trạch sinh.Kỳ gian đán mộ văn hà vật,Đỗ quyên đề huyết viên ai minh.Xuân giang hoa triêu thu nguyệt dạ,Vãng vãng thủ tửu hoàn độc khuynh.Khởi vô sơn ca dữ thôn địch,Âu á trào triết nan vi thính.Kim dạ văn quân tỳ bà ngữ,Như thính tiên nhạc nhĩ tạm minh.Mạc từ cánh toạ đàn nhất khúc,Vị quân phiên tác Tỳ bà hành.Cảm ngã thử ngôn lương cửu lập,Khước toạ xúc huyền huyền chuyển cấp.Thê thê bất tự hướng tiền thanh,Mãn toạ trùng văn giai yểm khấp.Toạ trung khấp hạ thuỳ tối đa,Giang Châu tư mã thanh sam thấp.
Dịch nghĩa
Ban đêm đưa tiễn khách ở đầu sông Tầm DươngGió thu thổi vào lá phong, hoa lau hiu hắtChủ nhân xuống ngựa, khách trong thuyềnNâng chén rượu muốn uông (mà) không có đàn sáoSay mà không vui vẻ gì (vì) biệt ly sầu thảmLúc chia tay lòng mang mang, sông đượm bóng trăngChợt nghe có tiếng tỳ bà trên mặt nướcChủ nhân quyên về, khách cũng không khởi hànhTìm theo tiếng để hỏi người đàn là aiTiếng tỳ bà im bặt, muốn nói mà còn (ngại ngùng) trì hoãnBèn dời thuyền lại xin được gặp mặtRót thêm rượu, khêu đèn lên, trùng tân tiệc rượuGọi đến ngàn lần vạn lần mới bước raTay ôm tỳ bà che khuất nửa gương mặtVặn trục gảy dây hai ba tiếng (để thử)Chưa có khúc điệu gì mà nghe đã hữu tìnhDây nào cũng nghẹn ngào, tiếng nào cũng có ýBày tỏ nỗi bất đắc chí trong cuộc đờiHạ thấp lông mày cứ gảy cứ gảy mãiGiãi bày hết tâm sự vô cùng hạnNhẹ nắn, chậm vuốt, rồi lại gảy tiếpThoạt đầu là khúc Nghê thường, sau đó là khúc Lục yêuDây lớn ào ào như mưa ràoDây nhỏ nỉ non như tỉ tê chuyện riêng(Rồi tiếp đến) tiếng rào rào lẫn tiếng nỉ non(Nghe như) hạt châu lớn hạt châu nhỏ rắc vào trong mân ngọc(Nghe như) tiếng chim oanh giọng (líu lo) qua lại trong hoaNhịp suối ngập ngừng, nước chảy xuống bãiSuối nước bỗng lạnh đông, dây đàn ngưng bặtTiếng đàn ngưng bặt, không thuận, bấy giờ bỗng yên lặngTự có mối sầu u uất riêng, nỗi hận âm thầm phát sinhLúc này không có âm thanh mà nghe con hay hơn có(Bỗng dưng nghe như) tiếng nước bắn tung ra khỏi thành bình bạc vị phá vỡ(Nghe như) đoàn quân thiết kỵ ào ào đến, đao thương sáng ngờiNàng dạo tay vào giữa bốn dây (và) chấm dứt ca khúcBốn dây vang lên một âm thanh như lụa xéThuyền mảng đông tây lặng im, không một tiếng nóiChỉ thấy vầng trăng thu rọi sáng giữa sôngNàng trầm ngâm gỡ phím, cài vào giữa các dây đànSửa gọn xiêm áo lại, đứng dậy chỉnh vẻ mặtTâm sự rằng, nàng nguyên là con gái chốn kinh thànhNhà ở lăng Hà MôMười ba tuổi học được ngón đàn tỳ bàTên thuộc bộ thứ nhất của giáo phườngMỗi gảy hết khúc đàn, từng khiến các nhà dạy đàn phụcMỗi trang điểm xong là đến nàng Thu Nương cũng đố kỵNhững chàng trai trẻ ở Ngũ Lăng tranh nhau tặng biếuMột bài ca, thưởng không biết bao là tấm lụa đàoVành lược bạc, cành trâm vàng đánh nhịp vỡ tanQuần lụa màu huyết dụ để rượu đổ ra hoen ốNăm này vui cười, năm sau cũng như vậyTrăng thu gió xuân, trải một đời nhàn hạEm trai đi lính, rồi dì chếtChiều qua, sớm lại, nhan sắc cũng lão điTrước cổng dần vắng tanh, thưa thớt đi ngựa xeCũng có tuổi rồi mới làm vợ người lái buônNgười lái buôn chỉ tham lợi, coi thường biệt lyTháng trước đi Phù Lương mua tràTừ đó đến giờ ở đầu sông một mình với con thuyền khôngQuanh thuyền trăng sáng, nước sông lạnh lẽoĐến khuya bỗng mộng thấy lại thời trẻ trungTrong mộng thấy khóc nhoè má hồng phấn sonTôi nghe tiếng tỳ bà đã thán tứcGiờ nghe thêm những lời tâm sự lại càng bùi ngùiCùng là kẻ luân lạc ở chốn chân trờiGặp gỡ nhau đây hà tất đã từng quen biếtNăm ngoái tôi từ biệt kinh vuaBị biếm đến thành Tầm Dương cho đến nay nằm bệnhTầm Dương xứ hẻo lánh không có âm nhạcCả năm chưa nghe được tiếng đàn sáoTôi ở gần sông Bồn, chỗ thấp và ẩm ướtLau vàng, trúc võ mọc quanh nhàỞ nơi đây sáng chiều nghe được những gìCó tiếng quốc khóc ra máu và tiếng vượn hú bi aiMùa xuân sáng hoa nở, mùa thu ban đêm có ánh trăngTôi thường thường đem rượu ra uống một mìnhCó phải không có sơn ca thôn địch đâuKhốn nỗi líu lo, líu liết, thật khó ngheĐêm nay nghe được tiếng tỳ bà của nàngNhư nghe được tiếng nhạc tiên, tai tạm nghe rõ ràngXin ngồi lại đàn một khúcTôi sẽ vì nàng làm bài Tỳ Bà hànhCảm động vì lời tôi nói, nàng đứng một lúc lâuRồi ngồi xuống gảy đàn, tiếng bỗng chuyển thành cấp xúcBuồn thảm không giống như tiếng đàn vừa rồiHết những người trong tiệc nghe lại đều che mặt khócTrong những người ấy ai là người khóc nhiều nhấtTư mã Giang Châu ướt đẫm vạt áo xanh
琵琶行 Tỳ bà hành Tỳ bà hành
潯陽江頭夜送客,Tầm Dương giang đầu dạ tống khách,Ban đêm đưa tiễn khách ở đầu sông Tầm Dương
楓葉荻花秋瑟瑟。Phong diệp địch hoa thu sắt sắt.Gió thu thổi vào lá phong, hoa lau hiu hắt
主人下馬客在船,Chủ nhân há mã khách tại thuyền,Chủ nhân xuống ngựa, khách trong thuyền
舉酒欲飲無管弦。Cử tửu dục ẩm vô quản huyền.Nâng chén rượu muốn uông (mà) không có đàn sáo
醉不成歡慘將別,Tuý bất thành hoan thảm tương biệt,Say mà không vui vẻ gì (vì) biệt ly sầu thảm
別時茫茫江浸月。Biệt thời mang mang giang tẩm nguyệt.Lúc chia tay lòng mang mang, sông đượm bóng trăng
忽聞水上琵琶聲,Hốt văn thuỷ thượng tỳ bà thanh,Chợt nghe có tiếng tỳ bà trên mặt nước
主人忘歸客不發。Chủ nhân vong quy khách bất phát.Chủ nhân quyên về, khách cũng không khởi hành
尋聲暗問彈者誰,Tầm thanh âm vấn đàn giả thuỳ,Tìm theo tiếng để hỏi người đàn là ai
琵琶聲停欲語遲。Tỳ bà thanh đình dục ngữ trì.Tiếng tỳ bà im bặt, muốn nói mà còn (ngại ngùng) trì hoãn
移船相近邀相見,Di thuyền tương cận yêu tương kiến,Bèn dời thuyền lại xin được gặp mặt
添酒回燈重開宴。Thiêm tửu hồi đăng trùng khai yến.Rót thêm rượu, khêu đèn lên, trùng tân tiệc rượu
千呼萬喚始出來,Thiên hô vạn hoán thuỷ xuất lai,Gọi đến ngàn lần vạn lần mới bước ra
猶抱琵琶半遮面。Do bão tỳ bà bán già diện.Tay ôm tỳ bà che khuất nửa gương mặt
轉軸撥弦三兩聲,Chuyển trục bát huyền tam lưỡng thanh,Vặn trục gảy dây hai ba tiếng (để thử)
未成曲調先有情。Vị thành khúc điệu tiên hữu tình.Chưa có khúc điệu gì mà nghe đã hữu tình
弦弦掩抑聲聲思,Huyền huyền yểm ức thanh thanh tứ,Dây nào cũng nghẹn ngào, tiếng nào cũng có ý
似訴生平不得志。Tự tố sinh bình bất đắc chí.Bày tỏ nỗi bất đắc chí trong cuộc đời
低眉信手續續彈,Đê mi tín thủ tục tục đàn,Hạ thấp lông mày cứ gảy cứ gảy mãi
說盡心中無限事。Thuyết tận tâm trung vô hạn sự.Giãi bày hết tâm sự vô cùng hạn
輕攏慢撚抹復挑,Khinh lung mạn nhiên mạt phục khiêu,Nhẹ nắn, chậm vuốt, rồi lại gảy tiếp
初為霓裳後六么。Sơ vi Nghê thường hậu Lục yêu.Thoạt đầu là khúc Nghê thường, sau đó là khúc Lục yêu
大弦嘈嘈如急雨,Đại huyền tào tào như cấp vũ,Dây lớn ào ào như mưa rào
小弦切切如私語。Tiểu huyền thiết thiết như tư ngữ.Dây nhỏ nỉ non như tỉ tê chuyện riêng
嘈嘈切切錯雜彈,Tào tào thiết thiết thác tạp đàn,(Rồi tiếp đến) tiếng rào rào lẫn tiếng nỉ non
大珠小珠落玉盤。Đại châu tiểu châu lạc ngọc bàn.(Nghe như) hạt châu lớn hạt châu nhỏ rắc vào trong mân ngọc
閒關鶯語花底滑,Gian quan oanh ngữ hoa để hoạt,(Nghe như) tiếng chim oanh giọng (líu lo) qua lại trong hoa
幽咽流景水下灘。U yết lưu cảnh thuỷ hạ than.Nhịp suối ngập ngừng, nước chảy xuống bãi
水泉冷澀弦凝絕,Thuỷ tuyền lãnh sáp huyền ngưng tuyệt,Suối nước bỗng lạnh đông, dây đàn ngưng bặt
凝絕不通聲漸歇。Ngưng tuyệt bất thông thanh tiệm yết.Tiếng đàn ngưng bặt, không thuận, bấy giờ bỗng yên lặng
別有幽愁暗恨生,Biệt hữu u sầu ám hận sinh,Tự có mối sầu u uất riêng, nỗi hận âm thầm phát sinh
此時無聲勝有聲。Thử thời vô thanh thắng hữu thanh.Lúc này không có âm thanh mà nghe con hay hơn có
銀瓶乍破水漿迸,Ngân bình sạ phá thuỷ tương bính,(Bỗng dưng nghe như) tiếng nước bắn tung ra khỏi thành bình bạc vị phá vỡ
鐵騎突出刀鎗鳴。Thiết kỵ đột xuất đao thương minh.(Nghe như) đoàn quân thiết kỵ ào ào đến, đao thương sáng ngời
曲終收撥當心畫,Khúc chung thu bát đương tâm hoạch,Nàng dạo tay vào giữa bốn dây (và) chấm dứt ca khúc
四弦一聲如裂帛。Tứ huyền nhất thanh như liệt bạch.Bốn dây vang lên một âm thanh như lụa xé
東船西舫悄無言,Đông thuyền tây phảng tiễu vô ngôn,Thuyền mảng đông tây lặng im, không một tiếng nói
惟見江心秋月白。Duy kiến giang tâm thu nguyệt bạch.Chỉ thấy vầng trăng thu rọi sáng giữa sông
沈吟放撥插弦中,Trầm ngâm phóng bát sáp huyền trung,Nàng trầm ngâm gỡ phím, cài vào giữa các dây đàn
整頓衣裳起斂容。Chỉnh đốn y thường khởi liễm dung.Sửa gọn xiêm áo lại, đứng dậy chỉnh vẻ mặt
自言本是京城女,Tự ngôn bản thị kinh thành nữ,Tâm sự rằng, nàng nguyên là con gái chốn kinh thành
家在蝦蟆陵下住。Gia tại Hà Mô lăng hạ trú.Nhà ở lăng Hà Mô
十三學得琵琶成,Thập tam học đắc tỳ bà thành,Mười ba tuổi học được ngón đàn tỳ bà
名屬教坊第一部。Danh thuộc giáo phường đệ nhất bộ.Tên thuộc bộ thứ nhất của giáo phường
曲罷曾教善才服,Khúc bãi tằng giao thiện tài phục,Mỗi gảy hết khúc đàn, từng khiến các nhà dạy đàn phục
妝成每被秋娘妒。Trang thành mỗi bị Thu Nương đố.Mỗi trang điểm xong là đến nàng Thu Nương cũng đố kỵ
五陵年少爭纏頭,Ngũ Lăng niên thiếu tranh triền đầu,Những chàng trai trẻ ở Ngũ Lăng tranh nhau tặng biếu
一曲紅綃不知數。Nhất khúc hồng tiêu bất tri số.Một bài ca, thưởng không biết bao là tấm lụa đào
鈿頭銀篦擊節碎,Điền đầu ngân tị kích tiết toái,Vành lược bạc, cành trâm vàng đánh nhịp vỡ tan
血色羅裙翻酒污。Huyết sắc la quần phiên tửu ố.Quần lụa màu huyết dụ để rượu đổ ra hoen ố
今年歡笑復明年,Kim niên hoan tiếu phục minh niên,Năm này vui cười, năm sau cũng như vậy
秋月春風等閒度。Thu nguyệt xuân phong đẳng nhàn độ.Trăng thu gió xuân, trải một đời nhàn hạ
弟走從軍阿姨死,Đệ tẩu tòng quân a di tử,Em trai đi lính, rồi dì chết
暮去朝來顏色故。Mộ khứ triêu lai nhan sắc cố.Chiều qua, sớm lại, nhan sắc cũng lão đi
門前冷落車馬稀,Môn tiền lãnh lạc xa mã hy,Trước cổng dần vắng tanh, thưa thớt đi ngựa xe
老大嫁作商人婦。Lão đại giá tác thương nhân phụ.Cũng có tuổi rồi mới làm vợ người lái buôn
商人重利輕別離,Thương nhân trọng lợi khinh biệt ly,Người lái buôn chỉ tham lợi, coi thường biệt ly
前月浮梁買茶去。Tiền nguyệt Phù Lương mãi trà khứ.Tháng trước đi Phù Lương mua trà
去來江口守空船,Khứ lai giang khẩu thủ không thuyền,Từ đó đến giờ ở đầu sông một mình với con thuyền không
繞船月明江水寒。Nhiễu thuyền nguyệt minh giang thuỷ hàn.Quanh thuyền trăng sáng, nước sông lạnh lẽo
夜深忽夢少年事,Dạ thâm hốt mộng thiếu niên sự,Đến khuya bỗng mộng thấy lại thời trẻ trung
夢啼妝淚紅闌干。Mộng đề trang lệ hồng lan can.Trong mộng thấy khóc nhoè má hồng phấn son
我聞琵琶已歎息,Ngã văn tỳ bà dĩ thán tức,Tôi nghe tiếng tỳ bà đã thán tức
又聞此語重唧唧。Hựu văn thử ngữ trùng tức tức.Giờ nghe thêm những lời tâm sự lại càng bùi ngùi
同是天涯淪落人,Đồng thị thiên nhai luân lạc nhân,Cùng là kẻ luân lạc ở chốn chân trời
相逢何必曾相識。Tương phùng hà tất tằng tương thức.Gặp gỡ nhau đây hà tất đã từng quen biết
我從去年辭帝京,Ngã tòng khứ niên từ đế kinh,Năm ngoái tôi từ biệt kinh vua
謫居臥病潯陽城。Trích cư ngoạ bệnh Tầm Dương thành.Bị biếm đến thành Tầm Dương cho đến nay nằm bệnh
潯陽地僻無音樂,Tầm Dương địa tích vô âm nhạc,Tầm Dương xứ hẻo lánh không có âm nhạc
終歲不聞絲竹聲。Chung tuế bất văn ty trúc thanh.Cả năm chưa nghe được tiếng đàn sáo
住近湓江地低濕,Trú cận Bồn giang địa đê thấp,Tôi ở gần sông Bồn, chỗ thấp và ẩm ướt
黃蘆苦竹繞宅生。Hoàng lô khổ trúc nhiễu trạch sinh.Lau vàng, trúc võ mọc quanh nhà
其間旦暮聞何物,Kỳ gian đán mộ văn hà vật,Ở nơi đây sáng chiều nghe được những gì
杜鵑啼血猿哀鳴。Đỗ quyên đề huyết viên ai minh.Có tiếng quốc khóc ra máu và tiếng vượn hú bi ai
春江花朝秋月夜,Xuân giang hoa triêu thu nguyệt dạ,Mùa xuân sáng hoa nở, mùa thu ban đêm có ánh trăng
往往取酒還獨傾。Vãng vãng thủ tửu hoàn độc khuynh.Tôi thường thường đem rượu ra uống một mình
豈無山歌與村笛,Khởi vô sơn ca dữ thôn địch,Có phải không có sơn ca thôn địch đâu
嘔啞嘲哳難為聽。Âu á trào triết nan vi thính.Khốn nỗi líu lo, líu liết, thật khó nghe
今夜聞君琵琶語,Kim dạ văn quân tỳ bà ngữ,Đêm nay nghe được tiếng tỳ bà của nàng
如聽仙樂耳暫明。Như thính tiên nhạc nhĩ tạm minh.Như nghe được tiếng nhạc tiên, tai tạm nghe rõ ràng
莫辭更坐彈一曲,Mạc từ cánh toạ đàn nhất khúc,Xin ngồi lại đàn một khúc
為君翻作琵琶行。Vị quân phiên tác Tỳ bà hành.Tôi sẽ vì nàng làm bài Tỳ Bà hành
感我此言良久立,Cảm ngã thử ngôn lương cửu lập,Cảm động vì lời tôi nói, nàng đứng một lúc lâu
卻坐促弦弦轉急。Khước toạ xúc huyền huyền chuyển cấp.Rồi ngồi xuống gảy đàn, tiếng bỗng chuyển thành cấp xúc
淒淒不似向前聲,Thê thê bất tự hướng tiền thanh,Buồn thảm không giống như tiếng đàn vừa rồi
滿座重聞皆掩泣。Mãn toạ trùng văn giai yểm khấp.Hết những người trong tiệc nghe lại đều che mặt khóc
座中泣下誰最多,Toạ trung khấp hạ thuỳ tối đa,Trong những người ấy ai là người khóc nhiều nhất
江州司馬青衫濕。Giang Châu tư mã thanh sam thấp.Tư mã Giang Châu ướt đẫm vạt áo xanh
Lời tự:Nguyên Hoà thập niên, dư tả thiên Cửu Giang quận tư mã. Minh niên thu, tống khách Bồn phố khẩu, văn thuyền trung dạ đàn tỳ bà giả, thính kỳ âm, tranh tranh nhiên hữu kinh đô thanh; vấn kỳ nhân, bản Trường An xướng nữ, thường học tỳ bà ư Mục, Tào nhị thiện tài. Niên trưởng sắc suy, uỷ thân vi cổ nhân phụ. Toại mệnh tửu, sử khoái đàn sổ khúc, khúc bãi mẫn nhiên. Tự tự thiếu tiểu thời hoan lạc sự, kim phiêu luân tiều tuỵ, chuyển tỷ ư giang hồ gian. Dư xuất quan nhị niên điềm nhiên tự an, cảm tư nhân ngôn, thị tịch, thuỷ giác hữu thiên trích ý, nhân vi trường cú ca dĩ tặng chi, phàm lục bách nhất thập lục ngôn, mệnh viết Tỳ bà hành.元和十年,予左遷九江郡司馬。明年秋,送客湓浦口,聞船中夜彈琵琶者,聽其音,錚錚然有京都聲;問其人,本長安倡女,嘗學琵琶於穆曹二善才。年長色衰,委身為賈人婦。遂命酒,使快彈數曲,曲罷憫然。自敘少小時歡樂事,今漂淪憔悴,轉徙於江湖間。予出官二年 恬然自安,感斯人言,是夕,始覺有遷謫意,因為長句歌以贈之,凡六百一十六言,命曰琵琶行。(Năm Nguyên Hoà thứ 10, ta về giữ chức tư mã ở quận Cửu Giang. Qua mùa thu năm sau, đêm ra tiễn khách bên bến sông Bồn, chợt nghe thuyền ai có tiếng đàn tỳ bà vọng lại. Nghe trong tiến đàn thánh thót, âm vang điệu nhạc ở kinh đô. Bèn hỏi gốc gác. Người đàn bà trả lời rằng “Tôi vốn là con hát, quê ở Trường An, học đàn tỳ bà với hai danh sư Mục và Tào. Nay tuổi đã cao, nhan sắc tàn tạ, lấy chồng làm con buôn (thường theo thuyền buôn đi đây đi đó)”. Nghe vậy, cho dọn rượu ra đãi, xin nàng đàn lại cho nghe. Đàn xong cảm xúc vô vàn, nàng bèn kể lại cuộc đời mình từ lúc còn trẻ, vui sướng, cho tới lúc lưu lạc giang hồ khổ nhọc. Ta về đây làm quan đã được hai năm thanh thản yên ổn. Hôm nay nghe nàng nầy nói chuyện, cảm thương cho số phận lưu đầy! Bèn làm một bài thơ dài tặng nàng ta, gồm 616 chữ, gọi là Tỳ bà hành.)Bài thơ này được sử dụng làm bài đọc thêm trong chương trình SGK Văn học 10 giai đoạn 1990-2006.Các nội dung nhắc tới bài thơ:
- Dạ tranh (Bạch Cư Dị)
- Đằng Châu ca giả Phú Nhi ký hữu sở dư, thư dĩ tặng chi (Cao Bá Quát)
- Đoàn Tính lâm hành bả tửu vi biệt, tẩu bút dữ chi (Cao Bá Quát)
- Đại bắc nhân tặng Phạm ca nương Huệ (Châu Hải Đường)
- Lữ xá thư sự (Cù Hữu)
- Tặng cô đầu Phẩm (Dương Khuê)
- Giai nhân (Đỗ Phủ)
- Minh nguyệt thiên (Hà Cảnh Minh)
- Vịnh bách chu - tức sương nữ (Hồ Xuân Hương)
- Vương Tường bái yết Hán Vương (Khuyết danh Việt Nam)
- Bến Tầm Dương (Ngô Thế Vinh)
- Oan nghiệt (Nguyễn Bính)
- Vịnh tỳ bà (Nguyễn Công Trứ)
- Hồi 05: Kim Trọng về quê hộ tang (Nguyễn Du)
- Hồi 17: Kiều trốn khỏi nhà họ Hoạn (Nguyễn Du)
- Long thành cầm giả ca (Nguyễn Du)
- Thương Ngô tức sự (Nguyễn Du)
- Dữ bản huyện doãn Nguyễn, nguyên doãn Trần đồng ẩm, tức tịch thư tiễn (Nguyễn Khuyến)
- Bính Dần xuân hữu hoài ca cơ Mộng Vị tính phụng chư thi hữu (Nguyễn Phúc Ưng Bình)
- Những câu hát trên sông Hương (Nguyễn Phúc Ưng Bình)
- Tân Tỵ trung thu phiếm nguyệt hữu hoài (Nguyễn Phúc Ưng Bình)
- Bồn Phố Tỳ Bà đình (Nguyễn Trung Ngạn)
- Khi tàu đã cập bến (Nguyễn Tư Giản)
- Hán Xuyên dạ diểu (Phạm Hy Lượng)
- Khúc tỳ bà trong đêm (Phạm Ngọc San)
- Độ Tầm Dương giang vọng Tỳ Bà đình (Phan Huy Ích)
- Để Tầm Châu phủ (Phan Huy Thực)
- Khúc ngâm trên đất tạm dung (Thanh Nam)
- Tỳ Bà đình (Tổ Vô Trạch)
- Hàn thực kỳ 09 (Trần Phu)
- Quan vũ ca (Từ Trinh Khanh)
- Tỳ Bà đình (Viên Mai)
- Ký hữu nhân phó Trúc thành thiết trướng (Vũ Tông Phan)
- Nguyệt cầm (Xuân Diệu)
- Duy tâm (Lương Khải Siêu)
- Long thành cầm giả ca (Nguyễn Du)
- Vị Thành thiếu niên hành (Thôi Hiệu)
Trang 12345 trong tổng số 5 trang (41 bài trả lời)[1] [2] [3] [4] ... ›Trang sau »Trang cuối
Bản dịch của Phan Huy Thực
Gửi bởi Vanachi ngày 08/06/2004 21:41Đã sửa 3 lần, lần cuối bởi Admin vào 07/11/2024 10:47Có 6 người thích
Bài dịch có 2 dị bản, hãy chọn bản muốn xem:
1 Bản quốc ngữ trong Việt Nam thi văn hợp tuyển (1968)
2 Bản Nôm khắc in năm 1881, do Hoàng Thị Ngọ phiên âm
Bến Tầm Dương canh khuya đưa khách,Quạnh hơi thu, lau lách đìu hiu.Người xuống ngựa, khách dừng chèo,Chén quỳnh mong cạn, nhớ chiều trúc ty.Say nhữngcũng luống ngại khi chia rẽhầu bẽ,Nước mênh mông đượmtriêm vẻ gương trong,Đàn aiTỳ bà nghe vẳng bêntrên sông,Chủ khuây khoả lại, khách dùng dằng xuôi.Tìm tiếng sẽ hỏi ai đàn tá?DừngDắng dây tơ, nấn ná làm thinh.Dời thuyền ghéchèo lại thăm tình,Chong đèn, thêmchuốc rượu, còn dành tiệc vui.Mời mọc mãi, thấy người bỡ ngỡ,TayHãy ôm đàn che nửa mặt hoa.Vặn đàn mấyba tiếng dạo qua,Dẫu chưa nênTuy chưa trọn khúc, tình đà thoảng hay.Nghe não nuột mấy dây buồn bựcliệt bực,Dường thanca niềm tấm tức bấy lâu.Mày chauChau mày tay gảylảy khúc sầurầu,GiãiTả bày hết nỗi trước sau muôn vàn.Ngón buông, bắt khoan khoan dìu dặt,Trước Nghê thường, sau thoắt Lục yêuvân vân.Dây to nhường đổ mưanổi trận rào,Nỉ non dây nhỏ khác nào chuyệnthan chiều chuộng riêng.Tiếng cao thấp lựa chentinh lần gảy,MâmBàn ngọc đâu bỗng nảy hạt châu.Trong hoa oanh ríu rít nhau,Nước tuôn róc rách, chảy mau xuốngthâu dưới ghềnh.Nước suối lạnh, dây mành ngừng đứtdứt,Ngừng đứtdứt nên phút bặt tiếng tơ.Ôm sầu, mangÂm thầm đau giận ngẩn ngơ,Tiếng tơ lặng ngắt, bấyVẻ người lặng lẽ thì giờ càng hay.Bình bạc vỡ tuôn đầy dòngmạch nước,Ngựa sắt giong, xô xátsàn sạt tiếng đao.Cung đàn trọn khúchạnh thanh tao,Tiếng buông xé lụa, lựađâm xé cắt, khảm vào bốn dây.Thuyền mấy lá đông tây lặng ngắt,Một vầngbóng trăng trong vắt lòng sông.Ngậm ngùi đàn bátđã xếp xong,Áo xiêm khép nép hầusửa dáng dậy mong giãigiả lời.Rằng: “Xưa vốn là người kẻ chợ,Cồn Hà Mô trú ở lân la.Học đàn từnguyệt thuở mười ba,Giáo phường đệ nhất chỉchỉn đà chép tên.Gã thiện tài sợ phen dừngdắng khúc,Ả Thu Nương ghen lúc điểm tô.Ngũ Lăng, chàng trẻ ganhthưởng đua,Biết bao the thắm chuốc mua tiếngngón đàn.Vành lược bạc gãy tan dịp gõ,Bức quần hồng hoen ố rượu rơi.Năm năm lần lữa vui cười,Mãi trăng hoagió chẳng đoái hoài xuân thu.Buồn em chảytrẩy lại lo dì thác,SầuLần hôm mai đổi khác hình dong.Cửa ngoài xe ngựa vắng khôngthưa dấu ngựa quạnh ngô,Thân già mới kết duyênbạn cùng khách thươngViêm Cao.KháchViêm trọng lời khinh đường ly cách,Mải buônbán chè sớm tếch nguồn khơi.Thuyền không đậungô giữ bến mặc ai,Quanh thuyền trăng dãi, nước trôi lạnh lùng.ĐêmCanh khuya, sựcluống nhớ vòng tuổi trẻ,Chợt mơ màng dòng lệ đỏ hoenLệ trong mơ hoen vẻ phấn son.Nghe đàn ta đã chạnh buồn,Lại rầu nghe nỗi nỉ non mấy lời.“Cùng một lứa bên trời lận đận,Gặp gỡ nhau lọ sẵn quen nhau.Từ xa kinh khuyết bấy lâu,Tầm Dương đất trích gối sầu hôm mai.Chốn cùng tịch lấy ai vui thíchvới,Tai chẳng nghe đàn địchthổi cả năm.Sông Bồn gần chốn cát lầm,Lau vàng, trúc võ, âm thầmgià, trúc chót trang mầm quanh hiên.Tiếng chi đó nghe liền sớm tối,CuốcChim kêu sầuthan, vượn hótnói véo von.Hoa xuân nở, nguyệt thu tròn,Lần lầnchi tay chuốc chén son ngậpriêng ngừng.Há chẳng có caở rừng, địch nội,Giọng líu lo, buồn nỗi khó nghe.Tỳ bà nghe dạo canh khuyaNghe đàn đàn vẳng canh mai,Dường như tiên nhạc gầnNhạc tiên dường đã bừng kề bên tai.Hãy ngồi lại gảy chơi khúc nữa,Sẽ vì nàng soạn sửa bài calời ưa.Đứng lâu dường cảm lời ta,LạiTới ngồi lựa phímbát ngón đàn đà kíp dây.NgheBậc não nuột khác tay đàn trước,KhắpTrong tiệc hoanghe tuôn nước lệ rơi,Lệ ai chan chứa hơn người,Giang Châu tư mã đượmđẫm mùi áo xanh.Một số tài liệu (trong đó có các cuốn sách được tham khảo nhiều là Việt Nam thi văn hợp tuyển của Dương Quảng Hàm, Văn đàn bảo giám của Trần Trung Viên, Tổng tập văn học Việt Nam, Tinh tuyển văn học Việt Nam) chép người dịch là Phan Huy Vịnh (tức con của Phan Huy Thực) là không chính xác. Nhưng qua một số các tư liệu đáng tin cậy như di cảo thơ văn của Phan Huy Thực, Phan Huy Vịnh còn lưu giữ trong họ tộc và một số sách gia phả thì sự thật Phan Huy Thực mới chính là tác giả của bài dịch. Các bản phả có ghi rõ Phan Huy Thực có:- Phan gia công phả, bản gốc được lưu giữ tại thôn Gia Thiện, xã Thạch Châu, huyện Thạch Hà tỉnh Hà Tĩnh.- Phan tộc công phả do Phan Huy Dũng (1842-1912) biên soạn, văn bản được lưu giữ tại thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu A.2963.- Phan gia thế tự lục do Phan Huy Quýnh biên soạn tại Sài Sơn năm Bính Tuất, Minh Mệnh thời Nguyễn (1826). Văn bản hiện được lưu giữ tại thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu A.2691.Bản dịch của Phan Huy Thực không chỉ được nhuận sắc, chau chuốt cho hay thêm bởi những người sử dụng cho việc hát ca trù qua các bản Nôm chép tay mà còn được nhuận sắc, sửa chữa khi phiên âm, giới thiệu ra quốc ngữ. Lâu nay, người đọc thường biết đến bản dịch hiện hành nổi tiếng qua các bản phiên âmtrong Văn đàn bảo giám của Trần Trung Viên và Việt Nam Văn học sử yếu của Dương Quảng Hàm, bản do nhà thơ Xuân Diệu hiệu đính, bản trong các Tổng tập Văn học Việt Nam, Tinh tuyển văn học Việt Nam... Ở đây, chúng tôi giới thiệu hai bản gồm bản quốc ngữ trong Việt Nam thi văn hợp tuyển của Dương Quảng Hàm, và bản do Hoàng Thị Ngọ phiên khảo từ bản Nôm ký hiệu AB.206 được khắc in năm 1881, được xác định là gần nhất với nguyên tác của Phan Huy Thực để góp phần làm rõ thêm những đóng góp của dịch giả nổi tiếng này.[Thông tin 2 nguồn tham khảo đã được ẩn]Lộ tòng kim dạ bạch,Nguyệt thị cố hương minh.☆☆☆☆☆ 264.69Trả lờiNội dung
Gửi bởi Vanachi ngày 13/06/2004 13:56
Thi nhân ký gởi vào bài thơ nỗi lòng của kẻ luân lạc, không nói đến chữ oán, mà nặng về chữ nghiệp, khóc thương cho hoàn cảnh, mà không trách móc đến gì, đến ai. Người đọc thấy mình cũng như kẻ trên tiệc, nước mắt đầm đìa, thương cho thân phận con người, tuỳ thuộc vào hoàn cảnh như một chiếc thuyền lao đao ngoài biển cho cuộc đời, khi vinh hoa thì vậy, khi luân lạc thì vậy, nếu dứt hết mọi trần duyên, thì không biết kiếp con người sinh ra để làm gì? Để tu chăng? Đối với một kiếp người nghệ sĩ, có lẽ để tận hưởng cái ngọt ngào đắng cay,... thì phải hơn. Nhất là một người nghệ sĩ, dạt dào tình cảm, tinh tế, nhạy cảm như Bạch Cư Dị, thương xót cho đời mà cũng thiết tha vì đời... Bài thơ có nhiều chỗ diễn tả âm nhạc rất hay, có chỗ nói đến lúc tiếng đàn ngừng mà nghe “biệt hữu sầu ám hận sinh”, Bạch Cư Dị là người thưởng thức âm nhạc thật cao diệu.
Lộ tòng kim dạ bạch,Nguyệt thị cố hương minh.☆☆☆☆☆ 134.69Trả lờiTiếng đàn trên sông (Tỳ bà hành)
Gửi bởi Vanachi ngày 25/03/2006 02:21
Bạch Cư Dị, tự Lạc Thiên, hiệu Hương Sơn Cư Sĩ, người Thiểm Tây, có bản chất thông minh từ nhỏ, năm 6 tuổi đã bắt đầu học làm thơ. Ông đã lớn lên trong một bối cảnh lịch sử triền miên khói lửa binh đao, nên ông gần gũi và thông cảm với nỗi khốn khổ, nghèo khó và cảnh cơ hàn cay đắng của tầng lớp lao động do vương triều phong kiến gây ra, cũng như ông đã đồng tình với niềm ước vọng và phẫn uất của người dân lao động. Những sự cảm thụ đó đã ảnh hưởng rất nhiều đến sự nghiệp thi ca của ông. Bạch Cư Dị đỗ tiến sĩ năm 20 tuổi, được bổ làm quan trong triều đình giữ chức Tả thập di. Ông đã sống trong một thời kỳ đen tối, lúc mà xã hội Trung Quốc đang trên con đường suy thoái, những mâu thuẫn của các phe cánh thống trị trong triều đình khó hàn gắn được. Với bản tính trung thực dám nói thẳng (dù với tinh thần tôn quân), ông đã dám phê phán gay gắt và can đảm đấu tranh cho chính nghĩa, nên ông đã làm mất lòng vua và các quan đại thần. Nhiều kẻ nịnh thần căm ghét, dèm pha, và hạch tội ông. Ông bị giáng chức làm tư mã Giang Châu (815-818), là một chức vị nhàn rỗi, không có công việc gì làm, mang một tâm sự buồn bã chán ngán thế thái nhân tình. Trong thời gian nầy ông sống trong một mái nhà tranh bên ngôi chùa, và dành nhiều thì giờ để tu tiên học đạo. Bài thơ nổi tiếng Tỳ bà hành của ông đã được sáng tác trong giai đoạn nầy, được phổ biến rộng rãi trong quần chúng bình dân và được xã hội đón tiếp thưởng thức quí trọng. Đó là bài thơ mang khía cạnh nhân sinh, xã hội, hiện thực đã được truyền tụng trong nhân gian, gắn liền với tên tuổi của nhà thơ. Trên bước đường phiêu bạt, ông đã thấy nhiều khách thập phương yêu thơ ông đã ghi chép lại những bài thơ trên bờ tường của trường làng, chùa chiền, quán trọ, quán rượu, cũng như dán trên mui thuyền và những hội quán thi phú, tập văn của các nho sinh. Ông rất vui sướng, lạc quan tin rằng thơ ông gần gũi với dân chúng và được nhiều người quí trọng và ưa thích. Bạch Cư Dị đại diện cho dòng thơ hiện thực phê phán vì khi ông đã phải sống qua một giai đoạn lịch sử đen tối của chế độ quan liêu phong kiến đồi truỵ, Bạch Cư Dị đã dùng thi ca với những lời lẽ giản dị thành thực để mạnh dạn đấu tranh và tố cáo những hành vi áp bức, những bất công trong xã hội, cũng như sự bóc lột của bọn quan lại quý tộc. Thơ của ông phản ảnh được nỗi lòng uất nghẹn và nỗi trầm luân thống khổ của dân chúng trước thế sự thời cuộc ba chìm bảy nổi..Bạch Cư Dị chủ trương đổi mới thi ca, ông muốn thi ca phải gắn bó với đời sống, phản ảnh hiện thực xã hội, tràn đầy tư tưởng nhân đạo, nhân văn. Bạch Cư Dị đã nói “Làm văn phải vì thời thế mà làm, làm thơ phải vì thực tại mà viết” (Văn chương hợp vi thời nhi trước, thi ca hợp vi sự nhi tác). Thơ Bạch Cư Dị phù hợp chủ nghĩa hiện thực theo con đường “phục cổ để cách tân”, muốn nói lên những thảm cảnh đen tối, xấu xa ngăn cản bước tiến của xã hội và đất nước. Bài Trường hận ca của ông diễn tả mối tình đẹp của Đường Minh Hoàng và Dương Quí Phi, nhưng cũng có những ý tưởng sâu sắc thầm kín mỉa mai.Bài Tỳ bà hành của ông có tình tiết mạch lạc, khúc chiết và sinh động, theo lối “thuật hoài” (miêu tả), cảm ngộ, để gửi gắm tâm sự, nỗi buồn riêng tư thầm kín của tác giả như một người mang số phận hẩm hiu, để mà thông cảm xót thương như người ca nữ trong câu truyện, gặp nhiều cảnh éo le, không may mắn trên đường đời. Bài thơ ngân vang một cảm xúc ngậm ngùi, một nỗi buồn thắm thía… Ông đã nói “sự việc dẫn dắt ở ngoài, tình lý rung động bên trong, theo cảm xúc mà diễn đạt ra lời ngâm vịnh”. Đó là những lời bộc bạch chân tình, nói lên cái tâm huyết của một người trí thức muốn bày tỏ tấm lòng ưu thời mẫn thế, cũng như nỗi bi phẫn của tác giả bị chèn ép, bạc đãi trong một xã hội phong kiến đầy dẫy bất công. Bài thơ giàu chất trí tuệ, sâu sắc cảm động đã gióng lên tiếng chuông cảnh cáo một chế độ phong kiến đã chà đạp lên nhân phẩm, tình cảm, hạnh phúc, và quyền sống của người phụ nữ. Nhà thơ đã tìm thấy một tâm hồn đồng điệu, một tương thức tri âm qua người kỹ nữ gặp trên sông Tầm Dương. Bài thơ có những giao động của nhịp điệu, cái trữ tình của ngữ điệu, và cái xao xuyến của nhạc điệu, tạo nên một phong cách đặc biệt, thể hiện cái phong cốt và thần thái của người nghệ sĩ tài hoa, cũng như quan niệm và thái độ của tác giả về đời sống. Bạch Cư Dị trong một lá thư gửi người bạn đã nói lên những suy nghĩ sâu sắc về thi ca: “Cái cảm hoá được lòng người chẳng gì trọng yếu bằng tình cảm, chẳng gì đi trước được ngôn ngữ, chẳng gì gần gũi bằng âm thanh, chẳng gì sâu sắc bằng ý nghĩa. Với thơ gốc là tình cảm, mầm lá là ngôn ngữ, hoa là âm thanh, quả là ý nghĩa” (Nguyễn Khắc Phi dịch). Bài thơ Tỳ bà hành đã tạo nên một phong cách mỹ thuật, tư duy thâm thuý bằng cách kết hợp đầy đủ các yếu tố: tình cảm, ngôn ngữ, âm thanh và ý nghĩa.Năm Nguyên Hoà thứ 10 (815) Bạch Cư Dị bị giáng chức và đổi đi làm Tư mã Giang Châu, và ông cũng đã trút niềm tâm sự u uẩn nầy qua bài thơ:
Chu trung dạ vũGiang vân ám du duGiang phong lãnh tu tuDạ vũ trích thuyền bốiDạ lãng đả thuyền đầuThuyền trung hữu bệnh kháchTả giáng hướng Giang ChâuTrong thuyền đêm mưa (Hải Đà dịch)Mây đen nghịt, nước sông trôiGió sông lạnh ngắt bồi hồi khách thơMui thuyền thánh thót hạt mưaBập bềnh sóng vỗ đong đưa mái thuyềnTrong khoang khách bệnh nằm yênChẳng may giáng chức về miền Giang ChâuBài Tỳ bà hành được viết vào thời gian nầy (lúc Bạch Cư Dị bị giáng chức làm Tư mã Giang Châu), bài thơ gồm 616 chữ được sáng tác ngay trên thuyền. Giang Châu có núi Khuông Lư, bến Tầm Dương đều là nơi danh lam thắng cảnh. Một bữa xuống thuyền thong dong dạo chơi, trong một đêm trăng thu vằng vặc, sóng nước bập bềnh, ông nghe một tiếng đàn thánh thót văng vẳng, lúc biến hoá lâm ly, lúc dạt dào xúc động xao xuyến, lúc ngưng bặt luyến tiếc từ một chiếc thuyền lơ lửng trôi gần đó. Ông ghé thuyền, và gặp người kỹ nữ đang gảy đàn tỳ bà. Bạch Cư Dị đã cảm thấy mình đồng cảnh ngộ với người kỹ nữ lưu lạc trên bến sông đêm thanh vắng. Cô đào đã gảy cho Bạch Cư Dị nghe những khúc đàn tuyệt hảo, trầm bổng xao động người nghe.Sau đó người kỹ nữ sụt sùi thương tiếc số phận hồng nhan đa truân và đã bộc bạch thổ lộ tâm tình riêng tư của mình cho ông nghe. Cảnh và tình hoà hợp. Âm đàn và tâm trạng chan hoà cảm xúc, cảnh ngộ. Mỗi tiếng đàn ngân lên như nỗi niềm nuối tiếc xốn xang của người ca nữ hoà mình với nhịp đập bồi hồi thổn thức của con tim người thơ. Chợt có mối đồng cảm, đồng tình giữa người thơ long đong trên bước đường sự nghiệp công danh với cuộc đời trôi dạt, bị bỏ rơi quên lãng của người ca nữ đáng thương. Giữa nguồn cảm xúc lai láng tuôn tràn, Bạch Cư Dị đã tài hoa sáng tác một mạch bài Tỳ bà hành đầy những hình ảnh tâm trạng thực và sinh động, và ông ngâm bài thơ luôn cho cô nghe. Xúc động trước chân tình tha thiết của nhà thơ, người nghệ sĩ lại đưa những ngón tay mềm mại lên phím đàn để tạ ơn người viễn khách trên sông. Trăng vẫn sáng trên sao, sóng nước vẫn bập bềnh, sương khói lãng đãng che phủ khoan thuyền. Trời không lất phất những hạt mưa.. nhưng sao mưa vẫn rơi thánh thót gieo vang những âm điệu buồn vời vợi trong lòng ai?
Lệ ai chan chứa hơn người?Giang Châu tư mã đượm mùi áo xanhBản dịch Tỳ bà hành của Phan Huy Vịnh được nhiều người công nhận là bản dịch xuất sắc nhất. Bài thơ nguyên tác chữ Hán gồm 88 câu 7 chữ hay 616 chữ. Phan Huy Vịnh dịch Nôm theo thể song thất lục bát (7-7-6-8), thành 22 đoạn, giữ nguyên số lượng (616) chữ. Theo tác giả Trần Thị Băng Thanh (Từ điển văn học, NXB Khoa học xã hội): “cho đến nay, những người yêu thích văn chương biết đến Phan Huy Vịnh là nhờ bản dịch của bài Tỳ bà hành - nguyên tác là của Bạch Cư Dị. Tỳ bà hành miêu tả tâm trạng quan Tư mã Giang Châu họ Bạch trong đêm nghe người ca nữ đã luống tuổi ở bến Tầm Dương, đánh đàn tỳ bà và kể chuyện cuộc đời chìm nổi của mình. Bản dịch gồm 22 khổ thơ song thất lục bát. Đóng góp lớn nhất của Phan Huy Vịnh là sử dụng tiếng Việt. Cũng là những từ ngữ thông thường, những thủ pháp tu từ quen thuộc, nhưng sự chọn lọc tinh tế và sắp đặt sáng tạo, đã làm cho tác phẩm có sức truyền cảm đặc biệt và đạt đến đỉnh cao về nghệ thuật dịch. Từ lâu bản dịch Tỳ bà hành đã được phổ cập rộng rãi và coi là một tác phẩm văn học xuất sắc, có đời sống độc lập với nguyên tác. Nó đã chứng minh khả năng diễn đạt và nhạc tính phong phú của ngôn ngữ Việt Nam” (TTB)Cũng theo tác giả Ngô Văn Phú: “Riêng bản dịch Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị, sau này là một bài rất thịnh hành để hát ca trù, được các nhà nho, các quan viên hát ả đào (kể cả thời Tây học) rất yêu thích. Năm 1986, trong một cuộc tuyển chọn những điệu hát đặc sắc của các quốc gia của UNESCO thuộc Liên hợp quốc, bài Tỳ bà hành (bản dịch), được nghệ sĩ Quách thị Hồ thể hiện bằng thể hát nói, đã được tặng giải thưởng cao. Đó cũng là sự phát triễn, kết hợp tài tình giữa bản dịch thơ (lời) và âm nhạc”.Tỳ bà hành là một bài thơ cổ kính, súc tích, lồng vào một câu chuyện thi vị, tạo ra một âm hưởng nhạc thơ nhẹ nhàng, tha thiết làm xao động lòng người. Cái thân phận bèo bọt của người thiếu phụ đã dùng tiếng đàn để bộc lộ nỗi than oán và uất hận của mình. Bạch Cư Dị là nhà thơ đã mạnh dạn đề cập đến giá trị của người phụ nữ, cái bất công của xã hội phong kiến đối với vai trò của người phụ nữ. Những âm thanh của tiếng đàn được diễn tả rất tài hoa, những uẩn khúc thầm kín riêng tư của nỗi lòng, những ưu tư dằn vặt thăm thẳm đáy lòng như đã tuôn trào ra để hoà nhịp cùng với những âm thanh của tiếng mưa rào rạt, tiếng oanh ríu rít, tiếng nước tuôn róc rách, tiếng dao xô xát, tiếng lụa xé kêu vang.. lúc trầm lúc bổng, những giây phút ngừng lại im bật, thì lại bỗng rung lên những tiếng tơ lạnh ngắt run rẫy, lối diễn tả thật tuyệt vời. Những đợt sóng cảm xúc cứ dạt dào tuôn trào ra, tạo nên những chấn động dư ba, làm nao lòng, ủ rũ người nghe. Những tiếng rung luyến láy chuyển nhịp theo từng ngón tay mềm mại nõn nà của người thiếu nữ, như muốn níu kéo lại âm vang của một thời niên thiếu ngây thơ, như muốn thở ra những tiếng não nuột của một tâm trạng chán chường, như buồn thương nuối tiếc một dĩ vãng vàng son đã mất hút tự hôm nào. Bỗng tiếng đàn tắt lịm, hụt hẫng như tiếng khóc khô không lệ, buồn tủi tiếc thương cho một thiên đàn ước vọng đã xụp đổ tan tành. Người thơ đã dùng những ước lệ, ẩn dụ, những cái đẹp trữ tình lãng mạn của thi ảnh qua những ngôn từ chắt lọc tinh tế tạo thành những hình tượng tinh tuý khơi động cảm xúc lòng người, làm trái tim rung động bần thần, làm tâm hồn xao xuyến, man mác bâng khuâng. Đó là thanh âm rung vang của tiếng đàn tỳ bà.
Em bước xuống từ trong tranhCây tỳ bà nức nởNgón đàn em trăn trởVần thơ em buông lửng lơBỏ lại vầng trăng quạnh hiuBỏ lại sau lưng khoảng không nham nhởEm bước xuống vẫn ôm cây tỳ bà nức nởLang thang cuối đất cùng trờiTiếng tỳ bà gõ cửaTiếng tỳ bà đòi nợ cho nàng KiềuKiếp đoạn trường muôn thuởĐàn trăn trở thơ buông lửng lơ(Hồn tỳ bà, nhạc sĩ Ngọc Khuê)Câu chuyện trong bài thơ Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị đã thầm nói lên một triết lý nhân sinh, cái chua xót ngậm ngùi của cảnh đời dâu bể, ba chìm bảy nổi, cảnh đoạn trường hưng phế của tạo hoá, mà con người chỉ là một sinh vật nhỏ nhoi, bất lực trước cuộc đời hư ảo như bóng câu bên cửa sổ, như thoáng mây bay cuối trời. Chung cái tâm sự hận sầu ray rức được diễn đạt qua cung điệu đàn, lời ca, tiếng hát đó là bài Long Thành cầm giả ca của Nguyễn Du. Nguyễn Du trong một bài ca về người gãy đàn đất Long Thành (Long Thành cầm giả ca), có kể rằng vào tuổi thiếu niên, ông đến kinh đô để thăm người anh, và có dịp được dự một hội nữ nhạc, trong đó có một thiếu nữ đất Long Thành, gảy đàn Nguyễn (tức là đàn Nguyệt, do Nguyễn Hàm, một trong thất hiền vườn Trúc đời Tấn sáng chế), rất điêu luyện, đã gảy những khúc đàn hay nhất trời đất (tự thị thiên thượng nhân gian đệ nhất thanh) tài danh lừng lẫy, lại hát hay và ăn nói duyên dáng quyến rũ vô cùng. Sau đó Nguyễn Du trở vào Nam, mãi một thời gian sau ông phụng mệnh đi sứ Trung Quốc, tạt ngang Long Thành, bạn bè mở tiệc, khoản đãi ông và có gọi đoàn nữ nhạc đến giúp vui, mà ông không quen mặt biết tên, và bất chợt gặp lại người kỹ nữ đó. Sau đây trích một đoạn trong lời tiểu dẫn của Nguyễn Du (Quách Tấn dịch): “Tiệc khởi múa hát. Kế tiếng đàn trổi lên, nghe trong trẻo khác thường không chút giống thời khúc. Lòng tôi kinh dị. Nhìn người gảy đàn, thì thấy thân gầy, thần khô, mặt đen, sắc trong như quỷ, áo quần toàn vải thô, bạc màu lại vá nhiều mảnh trắng, ngồi lầm lì ở cuối chiếu, không nói cũng không cười, hình trạng thật khó coi. Tôi không biết là ai, nhưng nghe tiếng đàn thì dường như có quen, nên động lòng trắc ẩn. Tiệc tan, hỏi thăm thì ra là người trước kia đã gặp. Than ôi! Người ấy sao đến nỗi thế nầy! Cuối ngửa bồi hồi, nghĩ đến cảnh cổ kim, lòng tôi cảm kích vô hạn. Đời người trăm năm, những cảnh vinh nhục buồn vui thật không sao lường được! Sau khi từ biệt, trên đường đi, cảm thương khôn nén, nên soạn bài ca để gởi hứng: Người đẹp đất Long Thành – Long Thành giai nhân” (Nguyễn Du)Xin trích dịch một đoạn cuối của bài ca lúc Nguyễn Du gặp lại người ca kỹ này trong bữa tiệc do bạn bè đãi ông ở dinh Tuyên Phủ):
Trong yến tiệc các nàng đều son trẻDuy một người ca kỹ tóc hoa râmSắc thần khô gầy guộc đứng âm thầmChẳng điểm phấn tô son nhìn hốc hácAi biết nàng một thời danh tiếng nhấtKhúc đàn ngân, ta mắt lệ tuôn trànLắng tai nghe mà đau đớn vô vànHai mươi năm vẫn hoài thương nhớ tiếcHồ Gươm xưa tưng bừng đêm yến tiệcĐời phế hưng thành quách đã thay dờiBãi nương dâu hoá biển sóng trùng khơiCả cơ nghiệp Tây Sơn đều suy thoáiLàng ca múa một người còn sót lạiĐời trăm năm một nháy mắt trôi quaNhớ chuyện xưa mà áo thấm lệ nhoàTừ Nam về đầu ta đầy tóc bạcTrách chi nàng đã tàn phai nhan sắcKể chuyện xưa hai mắt xót thương sầuGiáp mặt nhau mà chẳng nhận ra nhau.(Trích Long Thành cầm giải ca của Nguyễn Du - Hải Đà phỏng dịch)Đời Đường âm nhạc đã được phát triển rõ rệt, nhờ hấp thu nhiều giai điệu của ngoại quốc nhập vào. Ngoài những dụng cụ nhạc cũ tạo âm thanh bằng cách thổi như tiêu, sáo, kèn, còi v.v... hoặc gãy như huyền cầm, thập lục, thất huyền.. hoặc bằng cách gõ như chiêng, trống, phách, ngọc thạch, mã não. Để làm phong phú cho dàn nhạc cũ này thì có những nhạc cụ khác Tì bà, Hồ già, Giốc lật, Khương địch. Bát âm của âm nhạc thời Đường là dựa trên chất liệu của nhạc khí làm tiêu biểu như: Ti (đàn), Thạch (khánh), Kim (chuông), Trúc (sáo), Mộc (mõ gỗ), Thô (trống đất), Bào (vỏ bầu), Cách (trống da).. Ngũ âm của họ là Cung (như vua), Thương, Giốc, Chuỷ (như việc), Vũ (như vật)… Trong những loại đàn cổ xưa của Trung Quốc phải kể đến đàn sắt và đàn cầm gồm 50 dây (ngũ thập huyền).Theo truyền thuyết, theo lệnh vua Phục Hy, Tố Nữ gẩy đàn sắt (gồm 50 dây) tế trời. Nhưng Phục Hy không bằng lòng và ngăn cấm xử dụng vì nghe tiếng đàn quá tê tái, não nuột bi ai thảm thiết. Vì thấy dân chúng vẫn lén lút xử dụng nên Phục Hy đành phải ra lệnh sửa đổi đàn sắt chỉ còn lại 25 dây. Đàn tranh của âm nhạc truyền thống Việt Nam, nhiều người cho rằng xuất xứ từ cây đàn sắt của Trung Quốc nhưng chỉ gồm có 16 dây thôi (còn gọi là đàn Thập Lục), giống như 16 tiếng chim nhạn, âm nhạc Việt Nam là ngũ cung (mỗi âm giai có tên Cung, Thương, Giốc, Chuỷ, Vũ, so sánh với Hò, Xự, Xàng, Xê, Cống. 15 nốt chính tạo từ 3 âm giai (mỗi 5 giai là 5 tiếng đàn Hò Xự xàng Xê Cống), cọng thêm một nốt chúa đàn, nên có tất cả là 16 dây.Đàn tỳ bà (pipa) là loại đàn “luýt” (lute), nhạc cụ dây, thân có hình trái lê, chơi bằng cách gảy ngón tay, và gồm có 4 dây (four-stringed lute), được gảy bằng 2 ngón tay. Đời nhà Hán (206-220), đàn tỳ bà có 4 dây và 12 phím đàn. Tuyên Phủ (đời Tấn) đã viết “Đàn tỳ bà xuất hiện, được dùng nhiều vào cuối đời Tần (222-207), khi dân chúng bị triều đại phong kiến bắt đi lao động khổ sai để xây dựng Vạn Lý Trường Thành và họ đã gảy đàn tỳ bà để dùng tiếng đàn thê lương ảo não nói lên sự than oán uất nghẹn trong lòng mà họ không được quyền nói ra bằng lời”.Cái kỹ thuật của đàn tỳ bà được diễn tả đòi hỏi khéo léo bằng những ngón tay và trình độ điêu luyện của người nghệ sĩ. Những âm thanh rung lên kéo dài tạo tiếng vang rền, hoà lẫn với các đoạn nhạc bật (pizzicato), tiếng vỗ nhịp bằng tay, thêm vào phần hoà âm rung động, với những tiếng động hoặc âm thanh chát chúa của vũ khí thêm vào âm điệu của bài thơ diễn tả những cảnh chiến trường như những trận đánh nổi tiếng trong thế kỷ thứ hai BC giữa Sở (Hạng Võ) và Hán (Lưu Bang) như bài Thập diện mai phục.Tiếng đàn tỳ bà đó cũng thấy trong những bài thơ tả cảnh biên tái, chiến trường thê lương, diễn tả những cảm xúc hùng tráng hiên ngang của người chiến binh lên đường, cũng như những tư duy ngậm ngùi thầm kín chấp nhận cho số phận an bài trước cảnh chia ly não nùng:
Bồ đào mỹ tửu dạ quang bôiDục ẩm tỳ bà mã thượng thôiTuý ngoạ sa trường quân mạc tiếuCổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi(Lương Châu từ - Vương Hàn)Rượu ngon thơm ngát chén ngàLy chưa cạn, tiếng tỳ bà giục điSa trường say, mỉa làm chiXưa nay chinh chiến mấy khi trở về(Hải Đà phỏng dịch)
Hãn hải lan can bách trượng băngSầu vân thảm đạm vạn lý ngưngTrung quân trí tửu ấm quy kháchHồ cầm tì bà dữ Khương địch(Trích Bạch tuyết – Sầm Tham)Biển cát làn băng trắng vạn phươngMây sầu muôn hướng phủ thê lươngTrại quân bày rượu nâng ly tiễnTiếng nhạc Hồ, Tì quyện sáo Khương(Hải Đà phỏng dịch)Tỳ bà cũng là một nhạc cụ được dùng trong âm nhạc cổ truyền Việt Nam, thuộc loại “họ dây” (chordophone). Những loại đàn cùng họ này như: đàn nguyệt, đàn tranh, đàn nhị, đàn bầu, đàn đáy, đàn hồ v.v..http://www.vnst..._Dan_TyBa.html:
Tỳ bà tên gọi một nhạc cụ dây gẩy của người Việt. Nhiều tài liệu đã cho biết, tỳ bà xuất hiện rất sớm ở Trung Quốc với tên gọi PiPa, rồi ở Nhật Bản với tên gọi BiWa. Người ta chế tác tỳ bà bằng gỗ ngô đồng. Cần đàn và thùng đàn liền nhau có dáng như hình quả lê bổ đôi. Mặt đàn bằng gỗ nhẹ, xốp, để mộc. Phía mặt cuối thân đàn có một bộ phận để mắc dây gọi là ngựa đàn. Đầu đàn (hoặc thủ đàn) cong có chạm khắc rất cầu kỳ, khi là hình chữ thọ, khi là hình con dơi. Nơi đầu đàn gắn bốn trục gỗ để lên dây.Toàn bộ chiều dài của thân đàn có số đo từ 94 - 100 cm. Phần cần đàn có gắn 4 miếng ngà voi cong vòm lên gọi là Tứ Thiên Vương. Tám phím chính làm bằng tre hoặc gỗ gắn ở phần mặt đàn cho các cao độ khác nhau. Thuở xưa dây đàn se bằng tơ tằm rồi đem vuốt sáp ong cho mịn, ngày nay người ta thay dây tơ bằng dây nilon. Đàn có 4 dây lên theo 2 quãng 4, mỗi quãng 4 cách nhau một quãng 2: Đồ - Fa - Sol - Đô1 hoặc Sol - Đô1 - Rê1 - Sol1. Khi chơi đàn nghệ nhân gẩy đàn bằng miếng đồi mồi hoặc miếng nhựa. Ở Việt Nam đàn tỳ bà có mặt trong các dàn nhạc: Nhã nhạc, Thi nhạc của cung đình, Thiền nhạc của phật giáo, ban Nhạc tài tử, Phường bát âm, Dàn nhạc dân tộc tổng hợp. Mặc dù đàn tỳ bà có xuất xứ từ các nước khác, nhưng qua thời gian dài sử dụng nó đã được bản địa hoá và trở thành cây đàn của Việt Nam, thể hiện sâu sắc, đậm đà những bản nhạc mang phong cách của dân tộc Việt Nam trong lĩnh vực khí nhạc.Hải ĐàLộ tòng kim dạ bạch,Nguyệt thị cố hương minh.☆☆☆☆☆ 84.25Trả lời
Bản dịch của Lam Nguyên
Ngôn ngữ: Chưa xác địnhGửi bởi Vanachi ngày 03/06/2006 06:05Có 1 người thích
Lá thu động bông lau xào xạcĐêm tiễn người hiu hắt Tầm Dương.Thuyền neo bến, ngựa dừng cươngRượu mời muốn uống sáo đàn vắng tanh.Cùng nâng chén rồi đành ly biệt,Sông nước in bóng nguyệt u sầu.Tỳ bà chợt vẳng đêm thâu,Chủ quên trở gót, khách đâu muốn về.Theo tiếng nhạc hỏi kìa ai đó?Đàn vụt im muốn tỏ còn e.Cập thuyền đến hỏi mọi bề,Đèn khêu rượu chuốc đề huề tiệc vui.Cạn lời mời gót hài lưỡng lự,Đàn nâng cao che nửa mặt hoa.So dây vặn trục thử qua,Chưa thành khúc điệu thiết tha tâm tình.Lựa cung bậc âm thanh diễn tả,Nỗi bất bình lã chã nhặt thưa.Lặng thinh cúi mặt đón đưa,Đắn đo nắn nót đường tơ gợi sầu.Tiếng dìu dặt cung cao cung thấp,Dứt Nghê Thường tiếp gấp Lục Yêu.Đại huyền tựa tiếng mưa rào,Tiểu huyền như tiếng thì thào mông lung.Khi thánh thót rơi trong dạ yến,Lúc dập dồn dường quyện không gian.Giữa hoa oanh hót rộn ràng,Bên ghềnh suối vắng nước mang mang buồn!Tiếng đàn vọng suối nguồn lạnh ngắt,Nước ngừng trôi u uất lời than.Lắng nghe lòng những bàng hoàng,Phút giây yên lặng lại càng tuyệt hay.Tựa nguồn đổ bình bay lọ vỡ,Tựa gươm va pháo nổ chiến trường.Thôi dài dứt cuối một chương,Bốn dây âm hưởng tựa đương xé là.Đông Tây ngạn thuyền đà yên lặng.Giữa dòng sông nguyệt rạng trời thu.Trầm ngâm ngón tựa đường tơ,Dung y chỉnh đốn bước ra ngỏ lời.Rằng thơ ấu sống nơi thành thị,Lăng Hà Mô vốn dĩ quê nhà,Rành đàn từ thuở mười ba,Giáo phường đệ nhất tiếng đà dội vang.Thiện Tài phục tay đàn độ ấy,Thu Nương ghen lúc thấy điểm trang.Tranh đua lớp trẻ Ngũ Lăng,Khăn điều tặng thưởng khi ngưng mỗi bài.Lược theo nhịp chiếc rơi chiếc gãy,Vết rượu hoen đầy dẫy quần là.Cuộc vui suốt những năm qua,Xuân thu trăng gió la cà ăn chơi.Dì quá vãng em nơi biên thú,Sắc phai theo tháng cũ năm tàn.Ngựa xe vắng vẻ trước sân,Về già chọn một thương nhân bạn đường.Người ham lợi tháng trường đi biệt,Buôn bán trà ở miệt Phù Lương.Thuyền nan sóng nước bẽ bàng,Dòng sông lạnh lẽo trăng vàng ngẩn ngơ!Đêm qua mộng chuyện xưa ngày cũ,Lệ đầm đìa mặt ủ mày chau.Tiếng tỳ giục khách nao nao,Giờ nghe nàng kể dạt dào thương tâm.Cùng cảnh ngộ, cảm thân lưu lạc,Lọ phải là quen trước hay sao?Đế kinh từ biệt năm nào,Tầm Dương đất trích yếu đau tháng ngày.Ca hát vắng cõi ngoài hoang dã,Tiếng trúc tơ im đã một năm.Bồn Trì bến thấp kề gần,Lau già trúc cỗi mấy tầng bao quanh.Sớm chiều những âm thanh gì nhỉ?Chỉ chuốc sầu vượn nỉ non than.Xuân thu hoa nguyệt quen dần,Một mình say tít đâu cần thế nhân.Chẳng nghe cả trùng than, sáo trổi,Tiếng chim ca gió thổi ngàn cây.Tỳ bà chợt vẳng đêm nay,Nghe như tiên nhạc khoan thai rõ ràng.Xin tiếp nối cung đàn dang dở,Tỳ bà hành tác tự vì ai?Một hồi đứng lặng câm lời,Lại ngồi nắn nót chơi vơi tiếng đàn.Giờ khác trước, cung than dây oán,Khiến người nghe tâm trạng ngẩn ngơ.Khóc nhiều hơn cả bấy giờ,Giang Châu Tư Mã đậm tà áo xanh!
Lộ tòng kim dạ bạch,Nguyệt thị cố hương minh.☆☆☆☆☆ 64.83Trả lờiBản dịch của Trần Trọng Kim
Gửi bởi Vanachi ngày 19/04/2007 20:15
Đêm đưa khách bến Tầm Dương,Gió thu sàn sạt lá vàng bông lau.Người xuống ngựa, khách đón chào,Rượu kèo mời uống, có đâu sáo đàn.Chén suông ngán nỗi hợp tan,Trăng sông man mác, chứa chan nỗi lòng.Tiếng tì chợt vẳng trên sông,Chủ quên trở lại, khách không vội về.Lần tìm sẽ hỏi ai kia,Tiếng đàn nín bặt, người e ngỏ lời.Ghé thuyền đến cạnh chào mời,Khêu đèn thêm rượu, lại bày tiệc hoa.Nằn nì mời mãi mới ra,Ôm đàn che nửa, mặt hoa thẫn thờ.Ướm dây vặn trục dạo qua,Chưa thành khúc điệu, thiết tha hữu tình.Đắn đo, nắn nót, rõ rànhDường như tố cáo bình sinh nỗi buồn.Dang tay cúi mặt gảy luôn,Xiết bao tâm sự như tuôn mạch sầu.Tiếng đàn đi tựa thấp cao,Nghê Thường vừa dứt, lại vào Lục yêu.Dây to sầm sập mưa dào,Nỉ non dây nhỏ, thì thào nỗi tây.Nhặt thưa réo rắt mấy dây,Hạt châu to nhỏ rơi đầy trên mâm.Trong hoa ríu rít oanh ngâm,Cuối ghềnh nước suối réo ngầm bãi khơi.Tiếng đàn, suối lạnh không trôi,Không trôi ngập ngừng, tạm thôi nhịp nhàng.Lắng nghe sầu oán ngổn ngang,Bấy giờ lặng lẽ, lại càng hay hơn.Nước tuôn bình bạc vỡ tan,Giáo gươm thiết kỵ tiếng ran rợn người.Khúc xong gảy một tiếng dài,Bốn dây một tiếng như ai xé là.Đông tây thuyền lặng như tờ,Giữa sông bóng sáng thẫn thờ gương nga.Trên dây cày móng ngẩn ngơ,Dung y chỉnh đốn, đứng xa phân trình.Kể rằng xưa ở kinh thành,Hà Mô lăng ấy gần quanh là nhà.Học đàn từ thửa mười ba,Giáo phường đệ nhất, tiếng đà đồn xa.Thiện tài phục ngón tỳ bà,Thu nương tấm tức, khi đà giồi trau.Ngũ lăng tuổi trẻ đua nhau,Đàn xong một khúc biết bao khăn điều.Lược trăm gõ nhịp gãy nhiều,Chén mời, giọt rượu quần điều ố hoen.Năm qua năm lại bao phen,Xuân thu trăng gió đã quen vui vầy.Nỗi buồn dì chết em đày,Sớm chiều thấm thoắt, mặt mày kém xuân.Ngựa xe lẻ tẻ trước sân,Về già lấy một thương nhân bạn bè.Trọng tài lợi, nhẹ biệt ly,Phu lương tháng trước chồng đi buôn chè.Một mình nấp bóng chiếc ghe,Quanh thuyền nước lạnh trăng kề vẩn vơ.Đêm qua mộng thấy chuyện xưa,Lệ rơi tầm tã, mắt mờ đỏ hoen.Tiếng tì đã gợi nỗi phiền,Lại nghe mụ nói, chẳng yên nỗi lòng.Cùng nhau góc bể long đong,Gặp nhau lọ phải đã cùng quen nhauĐế kinh từ biệt bấy lâu,Tầm Dương bị chích lại đau bấy chầy.Có đâu âm nhạc chốn này,Suốt năm tơ trúc chẳng ngày nào nghe.Bến Bồn đất thấp ở kề,Lau vàng trúc cỗi bao vi bốn bề.Sớm chiều nghe tiếng vật gì,Cuốc kêu vượn hú, ùa bi đêm ngày.Xuân thu hoa nguyệt khoả khuây,Thường thường chuốc chén lại say một mình.Ca rừng sáo nội đã đành,Liu lo ríu rít nào mình có hay.Tì bà giọng ấy đêm nay,Nghe như tiên nhạc bên tai rach ròi.Gảy thêm khúc nữa hãy ngồi,Tì bà hành sẽ vì ai đặt thành.Cảm lời, đứng lúc lặng thinh,Lại ngồi lựa ngón, lanh lanh gảy bài.Véo von khác trước một hồi,Những người ngồi đó lệ rơi ngắn dài.Khóc nhiều hơn cả là ai,Giang Châu tư mã đẫm mùi áo xanh.
[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]Lộ tòng kim dạ bạch,Nguyệt thị cố hương minh.☆☆☆☆☆ 24.00Trả lờiBản dịch của Trần Nhất Lang @www.hoasontrang.us
Ngôn ngữ: Chưa xác địnhGửi bởi Vanachi ngày 19/04/2007 20:16
Tầm Dương bến đêm khuya tiễn kháchLá phong bay, hiu hắt bờ lauXuống yên, thuyền khách đón chàoChén hoa mong cạn, tìm đâu sáo đàn.Say ngán nỗi hợp tan chia cáchTrăng soi dòng man mác, mênh môngTỳ Bà tiếng vẳng trên sôngChủ vui vẻ lại, khách không nỡ rời.Lần theo tiếng, hỏi ai đàn đóBặt dây tơ, chẳng ngỏ lời quaGhé thuyền hỏi chuyện lân laĐèn khêu, rượu rót tiệc hoa lại bầy.Mời mấy lượt, đàn tay ôm đếnKhuôn mặt nàng tơ phím nửa cheLên dây, đàn dạo thoảng ngheChưa thành khúc điệu, có bề thiết tha.Những ngao ngán cùng là buồn bựcNhư than niềm uẩn ức từ lâuKhúc buồn tay gẩy, mày chauNỗi lòng u ẩn trước sau giãi bầy.Nắn nhẹ gẩy, đường dây buông bắtTrước Nghê Thường, bỗng thoắt Lục YêuDây to như đổ mưa ràoVéo von dây nhỏ thì thào niềm tây.Cung cao thấp, lựa dây nhấn phímMâm ngọc đâu như tiếng châu rơiDưới hoa oanh ríu rít cườiRì rào suối chẩy về xuôi cuối bờ.Đàn ngừng, đứt dây tơ suối lạnhNgưng cung đàn, im hẳn tiếng ngânU tình, nỗi hận chan chanBây giờ lặng ngắt lại càng hay hơn.Như bình bạc vỡ tuôn nước chẩyQuân kỵ xông, tiếng gẫy thương đaoPhím đàn dứt khúc thanh taoTiếng ngân xé lụa phổ vào bốn dây.Thuyền thấp thoáng đông tây yên lặngVầng trăng thu chiếu sáng trên sôngNgậm ngùi đàn phím xếp xongÁo xiêm chỉnh đốn những mong tỏ lời."Ngày xưa vốn là người kinh khuyếtNhà bên cồn ở miệt Hà MôTỳ Bà học tuổi còn thơGiáo phường đệ nhất bấy giờ có tên.Thiện tài cũng nhiều phen thán phụcẢ Thu Nương ghen tức điểm trangGanh đua chàng trẻ Ngũ LăngBiết bao gấm lụa, tiếng đàn đuổi đeo.Thoa vàng, lược gẫy theo nhịp gõQuần lụa hồng rượu ố giọt rơiBao năm đàn hát, vui cườiXuân thu trăng gió qua trôi đã nhiều.Em lính thú, lo điều dì thácTháng ngày qua nhan sắc tàn phaiTrước sân xe, ngựa đâu ai?Đến khi luống tuổi duyên hài khách thương.Khách tham lợi, nhẹ đường ly biệtĐi buôn trà mải miết Phù LươngBên sông đậu chiếc thuyền suôngDưới bầu trăng dãi, nước tuôn lạnh lùng.Canh khuya chợt nhớ nhung thời trẻPhai phấn son, dòng lệ mơ tràn"Đã buồn vì nỗi nghe đànLại rầu thêm nỗi thở than đôi lời."Cũng là kẻ chân trời tang hảiGặp gỡ nhau lọ phải từng quenĐế kinh từ giã mấy niênGiáng ra, nằm bệnh ở miền Tầm Dương.Chốn hẻo lánh chẳng thường tiếng nhạcSuốt năm không nghe được trúc tơSông Bồn gần bãi cát nhơTrúc gầy, lau úa phất phơ quanh nhà.Sáng lại tối tiếng đà như húVượn khóc than, cuốc rũ kêu sầuXuân hoa nở, đêm trăng thâuRiêng mình nâng chén, ai đâu bạn cùng.Há chẳng có sáo đồng, ca núiTiếng khó nghe, giọng nói líu loTỳ Bà nàng lướt trên tơNghe như tiên nhạc, thẫn thờ lòng ai!Gượm ngồi lại, đàn vài ba khúcTa vì nàng sáng tác bài ca"Ngập ngừng, nàng cảm lời taLựa dây, nắn phím tay ngà gẩy mau.Sao ai oán, giống đâu khúc trước?Khách tiệc hoa lệ rớt từng hàngAi người nước mắt chứa chan?Giang Châu Tư Mã lệ tràn áo xanh.
Lộ tòng kim dạ bạch,Nguyệt thị cố hương minh.☆☆☆☆☆ 24.50Trả lờiBản dịch của Nguyễn Phước Hậu
Gửi bởi Vanachi ngày 19/04/2007 20:16
Tầm Dương tiễn khách lúc canh tànXào xạc lau thu động lá vàng.Khách xuống thuyền rồi người xuống ngựaChén đưa không sáo cũng không đàn.Từ biệt cùng say, chẳng cuộc vuiTrăng dầm sông nước lững lờ trôiChợt nghe văng vẳng tỳ bà vọngChủ khách bâng khuâng chẳng muốn rời.Đến nơi sẽ hỏi: "ai đàn tá?"Ngừng bặt muốn thưa, ngại chẳng ra.Thuyền đến gần bên xin gặp mặtGiong đèn thêm rượu tiệc vui mà.Hết lời mời mọc thuận tình raÔm chiếc tỳ bà khuất mặt hoaVặn trục dạo dây đôi ba tiếngDẫu chưa thành điệu, ý tình xa.Dây ngân ấm ức bấy nhiêu tìnhDường kể cho vơi nỗi bất bìnhKhẻ nhíu đôi mày tay gãy nhẹNỗi niềm tâm sự cả đời mình.Nắn nhẹ bắt khoan rồi lại dạoLục Yêu nối tiếp khúc Nghê thườngDây to rào rạt mưa sầm sậpDây nhỏ tỉ tê nỗi khổ riêng.Rào rạt tỉ tê xen lẫn nhịpNhư bao châu ngọc đỗ mâm vàngDưới hoa oanh líu lo trơn giọngNhịp suối ngập ngừng thác nước tuônDây đàn ngưng bặt suối ngừng reoCả một trời thu vắng lặng theoThầm kín hiện ra niềm hận tủiLặng nghe tình tứ hơn đàn nhiều.Bỗng như bình vỡ, nước rơi tungĐao kiếm gầm gừ, thiết kỵ xung.Ngưng khóc, mặt đàn tay phất mạnhBốn dây xé lụa tiếng tưng bừng.Thuyền mảng đông tây lặng gió đùaTrăng thu trắng xóa nước sông đưaGài que gẫy giữa dây cầm sắtXốc áo dịu dàng đứng dậy thưa:"Em vốn là người chốn đế đô"Nhà xa làng tận ở Hà Mô"Mười ba tuổi học tỳ bà thạo"Hạng nhất trong bao đám hát trò."Thiện tài phải phục tiếng đàn em"Trang điểm Thu nương lại ghét ghen"Bao lụa đào trao không đếm xuể"Ngủ Lăng bọn trẻ kháo nhau khen."Lược bạc, hoa vàng gãy nhịp xong"Rượu rơi hoen ố đốm quần hồng"Gió xuân trăng tỏ thờ ơ ngắm"Năm lại sang năm cuộc lạc hoan."Mất dì, em lại phải tòng quân"Sớm lại chiều qua kém mỹ quan"Trước cửa lặng tanh xe ngựa vắng"Về già gá nghĩa với người buôn."Lái buôn tham lợi biệt ly thường"Tháng trước buôn trà tận phủ Lương"Từ đấy một mình trên thuyền vắng"Trăng dọi quanh thuyền, nước lạnh băng."Đêm sâu mơ lại tuổi xuân xưa"Mơ mộng ngổn ngang rớt lệ thừa"...Nghe tiếng tỳ bà ta cảm độngLại nghe câu chuyện mắt đầy mưa.Chân trời lưu lạc khách tha hươngBiết trước hay không, gặp chuyện thườngNăm ngoái giả từ Kinh tráng lệGiáng quan nằm ốm ở Tầm Dương.Tầm Dương hẻo lánh đâu âm nhạcNăm tháng không nghe tiếng sáo đànNhà lại gần sông Bồn ẩm ướtQuanh nhà lau trúc gió mênh mang.Sớm tối ở đây thấy được gì ?Quyên kêu khắc khoải vượn sầu biCảnh sông, hoa sớm, trăng thu tỏTa rót chén về nốc chen đi.Há phải sáo đồng câu hát núiLíu lo đến nổi khó nghe thêmĐêm nay nàng gãy tỳ bà khúcKhoan khoái dường như bản nhạc tiên.Vui lòng ngồi lại đàn thêm nữaTa sẽ vì nàng chuyển khúc hànhCả nể bồi hồi nàng đứng lựaRồi ngồi nắn nót nhộn âm thanh.Rầu rầu khác hẳn tiếng đàn quaCả tiệc đều bưng mặt khóc òa.Trong đó khóc nhiều hơn hết thảy:Tư mã áo xanh đẫm lệ nhoà.
Lộ tòng kim dạ bạch,Nguyệt thị cố hương minh.☆☆☆☆☆ 34.67Trả lờiBản dịch của Nguyễn Tâm Hàn @www.hoasontrang.us
Ngôn ngữ: Chưa xác địnhGửi bởi Vanachi ngày 19/04/2007 20:16
Tiễn người đêm bến Tầm DươngLau, phong xào xạc, thu vương dịu hiềnChủ xuống ngựa, khách lên thuyềnKhông đàn chẳng sáo chén buồn vân vêSay nào vui lúc phân lyTrăng chìm đáy nước, sông chia đôi tìnhChợt nghe tiếng nhạc lênh đênhKhách ngơ, chủ ngẩn chẳng đành bước điRằng sao âm quá não nề ?Đàn ngưng ngỡ đáp, nào dè kín môiGhé thuyền gạn hỏi đôi lờiChong đèn, rượu tiếp, tiệc vui đậm đàCạn lời nàng mới bước raNửa phần má phấn tì bà khuất cheChỉnh đàn tay ngọc vân vêDạo qua vài tiếng đã nghe tài tìnhĐàn rung nghèn nghẹn, bồng bềnhXót xa như tả nỗi mình đắng cayTay đàn, cúi nhẹ, chau màyÂm nghe kể lể dãi bày tâm tưBắt khoan, nắn nhẹ, dạo, vêHết Nghê Thường lại tiếp về Lục YêuDây to rào rạt mưa gàoDây con ngỡ tiếng lời nào oán thanTiếng trầm tiếng bổng tràn lanTựa trên mâm ngọc rớt ngàn hạt châuLời oanh trơn giọng nhuốm sầuNgập ngừng tiếng suối, thác sâu nước gầmSuối đông lạnh, đàn lặng câmNét sầu phảng phất, vẻ trầm bi aiBâng khuâng lòng khách ngậm ngùiBỗng âm oà vỡ tả tơi ngọc bìnhVó câu dồn dập đao binhGiữa đàn tay ngọc thình lình phất lênÂm như xé lụa giữa đêmĐông, tây tĩnh lặng... khắp thuyền ngẩn ngơTrên sông trăng bạc dật dờNhẹ cài que gẩy vào khe dây đànĐứng lên khép nép dịu dàngNguồn cơn nàng kể rõ ràng đầu đuôi:"Chốn thành đô thiếp ra đời"Chính quê xưa vốn là người Hà-Mô"Thạo tỳ bà thuở mười ba"Nhất danh đào hát chẳng là thua ai"Ngón đàn át cả Thiện tài"Thu còn ghen nét trang đài thắm xinh"Ngũ Lăng tài tử nặng tình"Lụa đào trao tặng quanh mình biết bao"Hoa vàng, vành lược cài đầu"Gẫy theo nhịp gõ, rượu mầu vương y"Vui triền miên tuổi xuân thì"Thu trong, xuân mát qua đi chẳng cần"Bỗng người em phải tòng quân"Người dì vắn số, muôn phần xót xa"Xuân tàn, sớm lại, chiều qua"Ngựa xe thưa thớt, cửa nhà vắng tanh"Về chiều kết nghĩa tơ mành"Chồng người buôn bán, nhẹ tình biệt ly"Phù Lương tháng trước chàng đi"Thuyền không lẻ bóng sầu bi não nùng"Nhìn trăng lạnh lẽo trên sông"Tơ vương lại thuở má hồng xa xưa"Xót thương thân phận đong đưa"Nhạt nhòa má phấn hoen mờ lệ sa"Đã buồn theo tiếng tỳ bàCàng thêm se sắt nghe qua chuyện nàngCùng thân lưu lạc trên đườngChả cần quen biết cũng vương nặng tình"Tròn năm ta đã rời kinh"Tủi buồn nằm bệnh nơi thành Tầm Dương"Chốn này hẻo lánh nhiễu nhương"Quanh năm đàn nhạc chả thường được nghe"Cạnh sông Bồn ẩm, trũng kia"Trúc gầy, lau úm còn gì nữa đâu"Sớm khuya nghe mãi thêm rầu"Quyên kêu, vượn hú nỗi sầu khó vơi"Sông xuân, hoa sớm, trăng ngời"Một thân quạnh quẽ đầy vơi chén nồng"Giá đừng hát núi, sáo đồng"Líu lo thì hẳn bớt không bực mình"Đêm nay nghe khúc nhạc tình"Tưởng như từ chốn thiên đình vọng ra"Xin nàng hãy niệm tình ta"Đàn thêm khúc nữa gọi là tri âm"Bài Tỳ Bà tạ tình thâm"Cảm lời nàng đứng lặng câm tần ngầnTrầm ngâm tay vuốt dây đànÂm nghe ray rứt chứa chan giọt sầuKhách nghe mắt lệ rầu rầuÁo xanh Tư Mã Giang Châu ướt dầm.
Lộ tòng kim dạ bạch,Nguyệt thị cố hương minh.☆☆☆☆☆ 15.00Trả lờiLại thêm một tư liệu về người dịch “Tỳ bà hành” của Bạch Cư Dị
Gửi bởi Nguyên Thánh ngày 07/12/2007 09:48
Gần đây do một sự tình cờ chúng tôi phát hiện được một bài viết có nhan đề Tỳ bà hành bạt chép chung trong cuốn Nam phong giải trào ở Thư viện Quốc gia (R1674). Bài dài khoảng 450 chữ. Sau lời bạt là nguyên văn chữ Hán bài Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị và lời dịch ra quốc âm. Đáng chú ý là bài viết có ghi cụ thể dòng lạc khoản “Minh Mệnh thập nhị niên ngô nguyệt trung hoán. (Hà ái) Nhâm Ngọ Hội nguyên Tiến sĩ Hình bộ Thị lang sung biện Nội các sự vụ Phương Trạch Hà Tốn Phủ cẩn bạt”. Hà Tốn Phủ chính là Hà Tông Quyền bạn đồng liêu với dịch giả bài Tỳ bà hành mà ở đoạn đầu lời bạt ông đã giới thiệu dịch giả là “Cựu Bộ trưởng Xuân Khanh” (Tên hiệu Phan Huy Thực).Hà Tông Quyền (1789-1893) quê huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Tây, đỗ Hội nguyên năm Minh Mệnh thứ 3 (1822), lúc nhỏ đi học nổi tiếng thông minh, làm quan đến chức Lại bộ Tham tri, Sung đại thần Viện cơ luật, khi mất được truy tặng Thượng thư bộ Lại. Ông là một nhà khoa bảng nổi tiếng văn chương, được các sĩ phu đương thời ca ngợi. Ngoài thơ chữ Hán ông còn để lại 30 bài vịnh Kiều bằng chữ Nôm hưởng ứng cuộc thi vịnh Kiều do Minh Mệnh đề xướng năm 1830. Ông được Minh Mệnh tin dùng và thường xuyên được vào bái kiến nhà vua.Trong lời bạt ông ca ngợi và đánh giá cao bài dịch Tỳ bà hành của họ Phan, đồng thời ông cũng nêu lên quan điểm về dịch thuật của mình là không nên quá chú trọng về mặt kỹ xảo mà làm sai lạc nội dung của nguyên tác. Qua lời bạt chúng ta còn được biết thêm về thời điểm ra đời của bản dịch (trước năm 1831).Thực ra từ trước tới nay đã có nhiều người đề cập đến dịch giả bài Tỳ bà hành nổi tiếng của Bạch Cư Dị. Ngay từ năm 1926, Đông Châu Nguyễn Hữu Tiến cũng đã thông báo trên tạp chí Nam Phong dịch giả Tỳ bà hành là Phan Huy Thực. Tiếp đó Hoàng Xuân Hãn, Hoàng Ly, Trương Linh Tử và sau này Phạm Văn Diêu, Tạ Ngọc Diễn, Hoàng Thị Ngọ cũng khẳng định như vậy. Khi viết về dòng họ Phan Huy ở Sài Sơn, GS. Phan Huy Lê cho biết gia phả họ Phan ở Thạch Châu và Sài Sơn đều chép thống nhất người dịch Tỳ bà hành là Phan Huy Thực. Chúng tôi cũng đã được đọc cuốn Phan tộc công phả hiện đang lưu giữ ở Thư viện Quốc gia (A2963) do Phan Huy Dũng - cháu nội Phan Huy Thực biên tập, trong đó có ghi tóm tắt tiểu sử 6 người con của Phan Huy ích. Trong đoạn nói về Phan Huy Thực, gia phả có ghi rõ các trước tác của ông như: Hoa thiều tạp vịnh, Tỳ bà hành diễn âm khúc, Nhân ảnh vấn đáp... Riêng đối với Phan Huy Vịnh thì gia phả không hề nói đến việc ông dịch Tỳ bà hành.Như vậy gia phả họ Phan Huy là nguồn tư liệu duy nhất đáng tin cậy để xác định người dịch Tỳ bà hành và đồng thời cũng để đính chính những ngộ nhận lâu nay được gán ghép cho Phan Huy Vịnh. Sở dĩ có sự nhầm lẫn kéo dài có lẽ là do nguồn tư liệu của Trần Trung Viên trong cuốn Văn đàn bảo giám (soạn năm 1926) và nhất là cuốn Thi văn hợp tuyển dùng trong các trường trung học trước năm 1945 đã có ảnh hưởng sâu rộng trong giới học sinh lúc bấy giờ. Hai cuốn sách này gần đây đã được in lại vài ba lần nhưng vẫn không được đính chính, ngay cả bộ Từ điển văn học 2 tập in năm 1983-1984 cũng ghi Phan Huy Vịnh là người dịch Tỳ bà hành và Phan Huy Thực không có tên trong bộ Từ điển này (Cuốn Từ điển văn học bộ mới in năm 2004 đã có đính chính và bổ sung). Vì đã thành thói quen nên những cuốn sách mới gần đây như Thơ Đường trong nhà trường dùng cho học sinh Trung học, sinh viên và người yêu thích thơ Đường hoặc cuốn Bạch Cư Dị - Tỳ bà hành của Hồ Sỹ Hiệp tập hợp những bài viết của nhiều nhà nghiên cứu và cuốn Thơ Bạch Cư Dị của NXB Hội Nhà văn vừa mới in xong trong quí IV-2006, vẫn để tên người dịch là Phan Huy Vịnh.Để góp thêm một minh chứng cho vấn đề này, chúng tôi xin giới thiệu toàn văn lời bạt của Hà Tông Quyền cho bài dịch Tỳ bà hành của Phan Huy Thực.*Lời bạt cho bài dịch Tỳ bà hànhTỳ bà hành là tác phẩm của Bạch Lạc Thiên, các sĩ phu nước ta rất hâm mộ và đã diễn ra quốc âm, nhưng vì lời văn dài mà ngôn ngữ lại có phần mới nên đôi khi vẫn gặp những chỗ khó dịch và người dịch thường giữ lấy ý chính mà lại bỏ qua nhiều chi tiết trong nguyên bản. Khi dịch một bài văn nếu chỉ chú ý về mặt kỹ xảo (cầu công) mà không bám sát nội dung của nguyên tác thì có khác gì “gãi không đúng chỗ ngứa” và thử hỏi như vậy đã phải là người hiểu được thi sĩ họ Bạch chưa?Khi tôi tiếp xúc với bài diễn âm của cựu Bộ trưởng Xuân Khanh họ Phan, tiên sinh bảo: Đó là bài tôi dịch ra đấy. Khi xem tôi thấy lời dịch bám sát nội dung, từng chữ từng câu răm rắp không sai mà âm vận thì lại vừa khoan thai vừa hùng tráng. Tôi đã ngâm nga, đọc đi đọc lại nhiều lần và rất lấy làm tâm đắc tưởng như đang được tiếp xúc với thi nhân cự phách đời Đường - người đang bị biếm trích ở đất Giang Châu trước cảnh thê lương của hơi thu và lau lách đìu hiu để tạo nên một thiên tuyệt bút, như đang được chứng kiến cảnh:
Bình bạc vỡ tuôn đầy mặt nướcNgựa sắt dong sàn sạt tiếng đao (1)Tiên sinh đã diễn ra quốc âm trong lúc chưa gặp vận còn đang phải ẩn náu nơi sơn dã, chẳng khác cảnh sông Bồn và đã mượn chén rượu của người khác để giải nỗi sầu riêng, nếu không phải là người có thiên tư và chịu ảnh hưởng truyền thống học vấn của gia đình thì làm sao mà có được? Tiên sinh vốn sở trường về văn chương, thanh luật, nên âm vận trong câu dịch hài hoà toát lên cảnh phong lưu tao nhã, xứng đáng cùng với Lạc Thiên là những bậc hào hoa một thủa. Có những chỗ Lạc Thiên chưa diễn đạt hết thì tiên sinh lại dùng thanh âm mà giãi bày một cách tường tận.Tôi thô vụng và quê mùa, không biết được nhiều, nhưng bề trên đã bảo, tôi không dám từ nan, bèn mạo muội viết ra lời bạt này và nếu như tác phẩm của tiên sinh nổi tiếng thì tôi cũng được thơm lây và cũng coi như được dự buổi tiễn đưa trong đêm trăng trên bến Tầm Dương để được cùng chia sẻ nỗi niềm u hoài của kẻ cô thần khoáng phụ, như thế còn gì sung sướng cho hơn, chắc tiên sinh cũng không cười tôi là kẻ ngông cuồng và Bạch Lạc Thiên cũng sẽ thông cảm cho tôi.Trung tuần tháng 3 năm Minh Mệnh thứ 12 (Hà ái) Nhâm Ngọ Hội nguyên Tiến sĩ Hình bộ Thị lang sung biện Nội các sự vụ Phương Trạch Hà Tốn Phủ cẩn bạt.*Qua lời bạt ta thấy Hà Tông Quyền đánh giá rất cao bài dịch của Phan Huy Thực. Trước Phan Huy Thực cũng đã có người dịch Tỳ bà hành. Trên tạp chí Văn học số 4/1975, Trần Thị Băng Thanh cho biết đã tìm được một bản dịch chép trong cuốn Thạch Động tiên sinh thi tập. Sau Phan Huy Thực, Phan Văn Ái cũng dịch Tỳ bà hành thành hai bài: một bài theo thể thất ngôn trường thiên, một bài theo thể thất ngôn bát cú. Trên tạp chí Nam Phong thỉnh thoảng cũng có sưu tầm được một vài bài dịch không đề tên người dịch. Tuy nhiên những bài xuất hiện trước và sau bản dịch của Phan Huy Thực đều không có mấy tiếng vang và đã nhanh chóng bị quên lãng. Tỳ bà hành được phổ biến rộng rãi và xem như một di sản văn học quí giá của Việt Nam chủ yếu là thông qua bản dịch của Phan Huy Thực. Nghệ thuật hát ca trù tồn tại đã lâu đời và từ khi có bài dịch Tỳ bà hành của Phan Huy Thực thì nó đã lan nhanh và đã trở thành một điệu hát trữ tình, giàu chất thơ, nhạc điệu, làm phong phú và bổ sung thêm cho hàng chục làn điệu ca trù khác trong các ca quán thời xưa. Những người mê ca trù trước đây thường thuê thuyền đón ả đào hát Tỳ bà hành trong những đêm trăng huyền ảo để thưởng thức và làm sống lại nguồn cảm xúc của nhà thơ với người ca nữ trên bến nước Tầm Dương.Tỳ bà hành không những là nguồn cảm hứng cho những nhà Nho tài tử và các bậc tao nhân mặc khách trước đây như Nguyễn Công Trứ, Chu Mạnh Trinh… mà cả những thi nhân hiện đại cũng mượn trăng nước Tầm Dương đưa vào tác phẩm của mình. Nhà thơ tình Xuân Diệu thì “Trăng nhớ Tầm Dương, nhạc nhớ người” hoặc “Mắt run mờ kỹ nữ thấy sông trôi”, Vũ Hoàng Chương cũng than “Niềm giang hồ tan tác lệ Giang Châu”, nữ sĩ Ngân Giang thì “Bến Tầm Dương trăng nước một con thuyền, ngán tình ca nữ” và nhà thơ chân quê Nguyễn Bính thì dành Cây đàn tỳ bà cho một chuyện thơ dài.Bài dịch Tỳ bà hành của Phan Huy Thực là một kiệt tác đã có những câu thần bút làm say đắm bao thế hệ các nhà thơ. Xuân Diệu cũng đã phải thốt lên: “Ai đã đọc bản dịch Tỳ bà hành quên những đoạn nào thì quên, thậm chí nếu quên cả bài, thì bốn câu mở đầu cũng không quên được”.Bốn câu mở đầu đó là:
Bến Tầm Dương canh khuya đưa kháchQuạnh hơi thu lau lách đìu hiuNgười xuống ngựa khách dừng chèoChén quỳnh mong cạn nhớ chiều trúc tiNguyễn Hiến Lê cũng có nhận xét như sau khi ông so sánh mấy câu trên đây với câu thơ của Bạch Cư Dị:
Mới đầu chúng ta thấy có cái gì khác nhau, mặc dù cũng bảy chữ và bản dịch rất sát nguyên bản: “Tầm Dương giang đầu dạ tống khách” không buồn, không vắng vẻ, không mông lung bằng “Bến Tầm Dương canh khuya đưa khách”. Tôi có cảm tưởng như vậy, có lẽ do chữ “dạ” dịch ra là “canh khuya”. “Dạ” (đêm) không gợi ý nhiều bằng “canh khuya”. Tài năng của họ Phan, tinh thần của tiếng Việt ở chỗ đó.Đọc câu thơ thứ hai: “Phong diệp địch hoa thu sắt sắt” và câu dịch “Quạnh hơi thu lau lách đìu hiu” thì câu của họ Phan làm tôi rung động hơn nhiều nhờ những chữ “lau lách đìu hiu”, cả chữ “quạnh”, chữ “hơi” nữa, vì tôi thấy “lau lách” buồn hơn “địch hoa”; “hơi thu, đìu hiu” gợi cảm hơn là “thu sắt sắt”.Bài dịch Tỳ bà hành của Phan Huy Thực là một tác phẩm toàn bích, và có lẽ cũng vì thế mà Tản Đà tài hoa cũng không dịch lại bài này và nhà thơ đã chọn một bài trường thiên nổi tiếng khác của Bạch Cư Dị là bài Trường hận ca và ông cũng đã thành công.(1) Lấy hai câu dịch của Phan Huy Thực để diễn đạt ý “ngân bình thiết kỵ”.Thế Anh - Hội Ngôn ngữ học Việt Nam[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]Văn phi sơn thuỷ vô kỳ khí, Nhân bất phong sương vị lão tài.☆☆☆☆☆ 44.75Trả lời
Dị bản
Gửi bởi Vanachi ngày 30/01/2009 20:12
Xin cảm ơn tiên sinh đã xem xét.Về 2 câu đầu, tại hạ cũng tìm thấy có các dị bản và đính chính cho phù hợp. Tuy nhiên ở câu thứ 3, tại hạ không tìm được nguồn nào đủ tin cậy chép bằng chữ "tiệm", nếu tiên sinh có xin chỉ giúp, tại hạ sẽ đính chính.
Lộ tòng kim dạ bạch,Nguyệt thị cố hương minh.☆☆☆☆☆ Chưa có đánh giá nàoTrả lờiTrang 12345 trong tổng số 5 trang (41 bài trả lời)[1] [2] [3] [4] ... ›Trang sau »Trang cuối
© 2004-2025 VanachiRSS
Ở phía bắc huyện Cửu Giang, tỉnh Giang Tây. Vũ y khúc. Ca khúc. Câu này có một số dị bản: “U yết tuyền lưu thuỷ hạ than” 幽咽泉流水下灘, “U yết tuyền lưu băng hạ than” 幽咽泉流冰下灘, “U yết tuyền lưu băng hạ nan” 幽咽泉流冰下難, “U yết tuyền lưu thuỷ hạ nan” 幽咽泉流水下難. Có bản chép là chữ “tạm” 暫. Phía nam thành Trường An, nổi tiếng vì có nhiều ca nữ. Cơ quan huấn luyện ca nữ đời Đường. Có bản chép là “thường” 常 hoặc “năng” 能. Tên gọi nhạc sư đời Đường. Có lẽ chỉ nàng Đỗ Thu Nương 杜秋娘, một kỹ nữ nổi tiếng đương thời, tác giả của bài Kim lỹ y. Ở phía bắc thành Trường An (nay thuộc huyện Trường An, tỉnh Thiểm Tây), do có 5 cái gò để mộ các vua nhà Tây Hán nên gọi là Ngũ Lăng. Đời sau những nhà giàu sang và hào hiệp ham phong cảnh đẹp ở đây kéo nhau đến làm nhà ở, trở thành một nơi đông đúc. Tiền hoặc vật tặng ca nữ. Theo Quách Tử Nghi truyện (Cựu Đường thư), tháng hai năm Đại Lịch thứ 2, Tử Nghi nhập triều, tể tướng Nguyên Tái, Vương Tấn, bộc xạ Bùi Miện, Kinh Triệu doãn Lê Cán, nội thị Ngư Triều Ân xuất tổng cộng 30 vạn thiết yến tại nhà Tử Nghi, vua Đại Tông ban hai trăm tấm gấm lụa để dùng làm khăn vấn (triền đầu phí). Tên huyện ở tỉnh Giang Tây. Tức Tầm Dương giang. Có bản chép là 嘲晰. Nay là huyện Cửu Giang, tỉnh Giang Tây. Chức quan giúp việc cho thứ sử một châu. Tức là “liệt bậc”, thể hiện nhiều cung bậc. Bản AB.206 in là “vân vân”, nhưng không hợp vần. “Chỉn đà” chữ cổ là vốn đã. Cất tiếng lên. Có bản chép “chảy” là đi lính, có bản chép “trẩy” là chết. Trúc ở thời kỳ cuối cùng. Gảy đàn. Tức là màu. Tiếng cổ thường dùng lẫn lộn “mùi” và “màu”. Thông tin đúng là Phan Huy Thực.Từ khóa » Tì Bà Phiêu Bạt Phiên âm
-
Hợp âm Tỳ Bà Phiêu Bạt - 浪人琵琶 - Hồ 66 (Hợp âm Cơ Bản)
-
[Phiên Âm Tiếng Việt] Tì Bà Phiêu Bạt_Hồ 66_lyric - YouTube
-
Tì Bà Phiêu Bạt / 浪人琵琶 - Hồ 66 - NhacCuaTui
-
Lời Bài Hát 浪人琵琶 Tì Bà Phiêu Bạt
-
[Lyrics + Vietsub] Lãng Nhân Tỳ Bà - Hồ 66 - Việt Nam Overnight
-
Tỳ Bà Phiêu Bạt - 浪人琵琶 - Hop Am Chuan
-
浪人琵琶 - Tỳ Bà Phiêu Bạt - 雪子 - Wattpad
-
Tì Bà Phiêu Bạt / 浪人琵琶 - Hồ 66 - Mocha Video
-
Tỳ Bà Phiêu Bạt - 浪人琵琶 - Hồ 66 - Cảm âm - Lời Bài Hát - p
-
Tì Bà Phiêu Bạt (Remix) - Tải Nhạc Miễn Phí Mp3
-
八三夭 831《想見你想見你想見你 Miss You 3000》 - OST Muốn Gặp ...
-
Tỳ Bà Truyện – Wikisource Tiếng Việt
-
Cảm Nhận "Tì Bà Hành" - Học Tại Nhà - Văn - Hỏi đáp