Bài Thuyết Minh Về Văn Miếu Quốc Tử Giám Ngắn Gọn - TopLoigiai

Tuyển chọn những bài văn hay Thuyết minh về Văn miếu Quốc Tử Giám. Với những bài văn mẫu đặc sắc, chi tiết dưới đây, các em sẽ có thêm nhiều tài liệu hữu ích phục vụ cho việc học môn văn. Cùng tham khảo nhé! 

Mục lục nội dung Dàn ý thuyết minh về Văn Miếu Quốc Tử Giám Thuyết minh về Văn miếu Quốc Tử Giám - Bài mẫu 1Thuyết minh về Văn miếu Quốc Tử Giám - Bài mẫu 2

Dàn ý thuyết minh về Văn Miếu Quốc Tử Giám 

1. Mở bài

- Văn miếu Quốc Tử Giám là một trong những địa điểm thu hút du khách bậc nhất của Hà Nội.

- Với lối kiến trúc độc đáo và bề dày lịch sử gắn liền với sự hưng thịnh phát triển của nhiều triều đại, Văn Miếu - Quốc Tử Giám đã mang đến trong trái tim nhiều người sự trân trọng và ngưỡng mộ vô cùng.

2. Thân bài

* Lịch sử hình thành:

- Văn Miếu được xây dựng vào năm 1070 dưới thời vua Lê Thánh Tông, còn Quốc Tử Giám được khởi công xây dựng cùng thời sau đó vào năm 1076, ngay bên cạnh Văn Miếu.

- Tọa lạc tại phía Nam kinh thành Thăng Long, thuộc quận Đống Đa, thủ đô Hà Nội.

- Diện tích là 54331 m2.

* Kiến trúc:

- Có kết cấu tường gạch vồ bao quanh toàn bộ diện tích, phía bên trong lại chia làm 5 tầng không gian có kiến trúc khác nhau, mỗi lớp như vậy được ngăn cách bằng một tường gạch dày có 3 cửa thông với nhau.

- Gồm các bộ phận chính là Hồ Văn, khu Văn Miếu thờ Khổng Tử, Vườn Giám và Quốc Tử Giám.

- 4 cổng chính: Cổng Văn Miếu, Đại Trung, Đại Thành, Thái Học

- Các di tích bên trong bao gồm:

+ Tứ trụ và Bia Hạ Mã

+ Khuê Văn Các

+ Giếng Thiên Quang và 82 tấm bia Tiến sĩ.

+ Khu Đại Thành, khu Thái Học,...

* Vai trò, ý nghĩa:

- Nơi thờ cúng các bậc tiên thánh người đã khai sinh ra nho học, đồng thời là trường học hoàng gia đầu tiên của Đại Việt.

- Quốc Tử Giám hoàn thiện thì khu di tích này chính thức trở thành trường đại học đầu tiên của Việt Nam.

Ngày nay Văn Miếu - Quốc Tử Giám đã trở thành khu di tích lịch sử nằm trong danh sách 23 Di tích Quốc gia đặc biệt, là chứng minh cho sự phát triển của nền giáo dục của nước ta dưới chế độ phong kiến.

- Là địa điểm du lịch hấp dẫn đối với nhiều du khách.

- Nơi đây cũng lưu giữ lại những tư liệu lịch sử quý giá, những nét kiến trúc độc đáo, cùng với những dấu vết về một thời thịnh trị của Nho giáo tại Việt Nam.

3. Kết bài

- Quần thể khu di tích Văn Miếu Quốc Tử Giám chính là đại diện cho truyền thống hiếu học, lễ nghĩa, tôn sư trọng đạo, đề cao nhân tài với những giá trị tinh thần, văn hóa vô cùng sâu sắc và quý giá, là biểu tượng của cả đất nước.

- Mỗi chúng ta cần có ý thức giữ gìn, bảo tồn khu di tích để không chỉ hôm nay mà con cháu chúng ta ngày sau có thể ý thức được và kế thừa những giá trị truyền thống tốt đẹp này.

Bài thuyết minh về Văn miếu Quốc Tử Giám ngắn gọn, hay nhất

Thuyết minh về Văn miếu Quốc Tử Giám - Bài mẫu 1

      Văn Miếu Quốc Tử Giám tọa lạc giữa thủ đô Hà Nội, được xem là trường đại học đầu tiên tại Việt Nam. Từ những năm đầu tiên, ngôi trường này đã tụ họp rất nhiều người tài, đóng góp vào công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Hiện nay Văn Miếu vẫn là điểm đến của nhiều du khách khi ghé thăm Hà Nội bởi kiến trúc độc đáo, ấn tượng.

      Văn Miếu Quốc Tử Giám đã trải qua bao nhiêu biến động, thăng trầm của lịch sử nhưng nó vẫn giữ được nét đẹp truyền thống của con người Hà Nội. Đó là giá trị tinh thần cao đẹp được gìn giữ từ bao nhiêu năm. Văn Miếu nằm ở phía Nam kinh thành Thăng Long thời Lí. Văn Miếu được được vào hoạt động trong khoảng thời gian từ 1076 cho đến 1820, đào tạo ra nhiều nhân tài cho đất nước.

      Văn Miếu bao gồm hai di tích chính là Văn Miếu thờ Khổng Tử, các bậc hiền triết và Tư nghiệp Quốc Tử Giám Chu Văn An, người thầy đầu tiên của trường học. Trải qua bao nhiêu năm nhưng Văn Miếu vẫn giữ được những nét đẹp cổ xưa.

      Văn Miếu – Quốc Tử Giám được nhà Lý xây dựng vào thế kỉ 11, với mục đích chính là dạy học cho các hoàng tử và những người tài trong thiên hạ. Đây còn là nơi thờ các danh nhân có công trong nền giáo dục nước nhà, tổ chức các kì thi của quốc gia, cao nhất là kì thi tiến sĩ.

      Văn Miếu – Quốc Tử Giám nằm ở phía Nam thành Thăng Long xưa. Nay thuộc quận Đống Đa, Hà Nội. Ở vị trí đắc địa, bốn mặt đều là những con phố đông vui, nhưng không vì thế mà Văn Miếu mất đi vẻ yên tĩnh, cổ kính vốn có. Quần thể kiến trúc này nằm trên diện tích 54331 m² bao gồm: hồ Văn, khu Văn Miếu – Quốc Tử Giám và vườn Giám.

      Hồ Văn nằm ở đối diện cổng chính Quốc Tử Giám, đã được trùng tu nhiều năm nay. Đây là một hồ nước trong, quanh bờ cây cối râm mát, giữa hồ có gò Kim Châu. Cảnh trí rất yên bình, nên thơ giúp cho các sĩ tử giải tỏa bớt căng thẳng trước giờ thi.

      Về lịch sử:

      Văn Miếu được xây dựng từ "tháng 8 năm Canh Tuất (1070) tức năm Thần Vũ thứ hai đời Lý Thánh Tông, đắp tượng Chu Công, Khổng Tử và Tứ phối vẽ tranh tượng Thất thập nhị hiền, bốn mùa cúng tế. Hoàng thái tử đến đấy học.".

      Bia tiến sĩ khoa thi nho học năm Nhâm Tuất (1442) Năm 1076, Lý Nhân Tông cho lập trường Quốc Tử giám, có thể coi đây là trường đại học đầu tiên ở Việt Nam. Ban đầu, trường chỉ dành riêng cho con vua và con các bậc đại quyền quý (nên gọi tên là Quốc Tử). Năm 1156, Lý Anh Tông cho sửa lại Văn Miếu và chỉ thờ Khổng Tử.

      Từ năm 1253, vua Trần Thái Tông cho mở rộng Quốc Tử giám và thu nhận cả con cái các nhà thường dân có sức học xuất sắc.

      Đời Trần Minh Tông, Chu Văn An được cử làm quan Quốc Tử giám Tư nghiệp (hiệu trưởng) và thầy dạy trực tiếp của các hoàng tử. Năm 1370 ông mất, được vua Trần Nghệ Tông cho thờ ở Văn Miếu bên cạnh Khổng Tử.

      Sang thời Hậu Lê, Nho giáo rất thịnh hành. Vào năm 1484, Lê Thánh Tông cho dựng bia tiến sĩ của những người thi đỗ tiến sĩ từ khóa thi 1442 trở đi.

      Năm 1762, Lê Hiển Tông cho sửa lại là Quốc Tử Giám – cơ sở đào tạo và giáo dục cao cấp của triều đình. Năm 1785 đổi thành nhà Thái học.

      Đời nhà Nguyễn, Quốc Tử giám lập tại Huế. Năm 1802, vua Gia Long ấn định đây là Văn Miếu – Hà Nội và cho xây thêm Khuê Văn Các. Trường Giám cũ ở phía sau Văn Miếu lấy làm nhà Khải thánh để thờ cha mẹ Khổng Tử. Đầu năm 1947, giặc Pháp nã đạn đại bác làm đổ sập căn nhà, chỉ còn cái nền với hai cột đá và 4 nghiên đá. Ngày nay, ngôi nhà này đã được phục dựng theo kiến trúc cùng thời với quần thể các công trình còn lại.

      Năm 1762, Lê Hiển Tông cho sửa lại là Quốc Tử Giám – cơ sở đào tạo và giáo dục cao cấp của triều đình. Năm 1785 đổi thành nhà Thái học.

      Đời nhà Nguyễn, Quốc Tử giám lập tại Huế. Năm 1802, vua Gia Long ấn định đây là Văn Miếu – Hà Nội và cho xây thêm Khuê Văn Các. Trường Giám cũ ở phía sau Văn Miếu lấy làm nhà Khải thánh để thờ cha mẹ Khổng Tử. Đầu năm 1947, giặc Pháp nã đạn đại bác làm đổ sập căn nhà, chỉ còn cái nền với hai cột đá và 4 nghiên đá. Ngày nay, ngôi nhà này đã được phục dựng theo kiến trúc cùng thời với quần thể các công trình còn lại

      Về kiến trúc:

      Quần thể kiến trúc Văn Miếu – Quốc Tử Giám được bố cục đăng đối từng khu, từng lớp theo trục Bắc Nam, mô phỏng tổng thể quy hoạch khu Văn Miếu thờ Khổng Tử ở quê hương ông tại Khúc Phụ, Sơn Đông, Trung Quốc. Tuy nhiên, quy mô ở đây đơn giản hơn, kiến trúc đơn giản hơn và theo phương thức truyền thống nghệ thuật dân tộc.

      Phía trước Văn Miếu có một hồ lớn gọi là hồ Văn Chương, tên cũ xưa gọi là Thái Hồ. Giữa hồ có gò Kim Châu, trước đây có lầu để ngắm cảnh.

      Ngoài cổng chính có tứ trụ, hai bên tả hữu có bia "Hạ Mã", xung quanh khu vực xây tường cao bao quanh. Cổng Văn Miếu xây kiểu Tam quan, trên có 3 chữ "Văn Miếu Môn" kiểu chữ Hán cổ xưa.

      Trong Văn miếu chia làm 5 khu vực rõ rệt, mỗi khu vực đều có tường ngăn cách và cổng đi lại liên hệ với nhau:

      Khu thứ nhất: bắt đầu với cổng chính Văn Miếu Môn đi đến cổng Đại Trung Môn, hai bên có cửa nhỏ là Thành Đức Môn và Đạt Tài Môn.

      Khu thứ hai: từ Đại Trung Môn vào đến khuê Văn Các (do Đức Tiền Quân Tổng trấn Bắc Thành Nguyễn Văn Thành cho xây năm 1805). Khuê Văn Các là công trình kiến trúc tuy không đồ sộ song tỷ lệ hài hòa và đẹp mắt. Kiến trúc gồm 4 trụ gạch vuông (85cm x 85cm) bên dưới đỡ tầng gác phía trên, có những kết cấu gỗ rất đẹp. Tầng trên có 4 cửa hình tròn, hàng lan can con tiện và con sơn đỡ mái bằng gỗ đơn giản, mộc mạc. Mái ngói chồng hai lớp tạo thành công trình 8 mái, gờ mái và mặt mái phẳng. Gác là một lầu vuông tám mái, bốn bên tường gác là cửa sổ tròn hình mặt trời toả tia sáng. Hình tượng Khuê Văn Các mang tất cả những tinh tú của bầu trời tỏa xuống trái đất và trái đất nơi đây được tượng trưng hình vuông của giếng Thiên Quang. Công trình mang vẻ đẹp sao Khuê, ngôi sao sáng tượng trưng cho văn học. Đây là nơi thường được dùng làm nơi thưởng thức các sáng tác văn thơ từ cổ xưa tới nay. Hai bên phải trái Khuê Văn Các là Bi Văn Môn và Súc Văn Môn dẫn vào hai khu nhà bia Tiến sỹ.

      Khu thứ ba: gồm hồ nước Thiên Quang Tỉnh (nghĩa là giếng soi ánh mặt trời), có hình vuông. Hai bên hồ là 2 khu nhà bia tiến sĩ. Mỗi tấm bia được làm bằng đá, khắc tên các vị thi đỗ Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa, Hoàng giáp, Tiến sĩ. Bia đặt trên lưng một con rùa. Hiện còn 82 tấm bia tiến sĩ về các khoa thi từ năm 1442 đến năm 1779, chia đều cho hai khu tả và hữu. Trong đó, 12 bia đầu tiên (cho các khoa thi những năm 1442-1514) được dựng vào thời Lê sơ, 2 bia (cho các khoa 1518, 1529) được dựng vào triều nhà Mạc, còn 68 bia cuối cùng (các khoa thi những năm 1554-1779) được dựng vào thời Lê trung hưng. Mỗi khu nhà bia gồm có 1 Bi đình nằm ở chính giữa và 4 nhà bia (mỗi nhà 10 bia) xếp thành hai hàng, nằm hai bên Bi đình. Bi đình khu bên trái Thiên Quang Tỉnh chứa bia tiến sĩ năm 1442, còn Bi đình khu bên phải chứa bia tiến sĩ năm 1448.

      Khu thứ tư: là khu trung tâm và là kiến trúc chủ yếu của Văn Miếu, gồm hai công trình lớn bố cục song song và nối tiếp nhau. Tòa ngoài nhà là Bái đường, tòa trong là Thượng cung.

      Khu thứ năm: là khu Thái Học, trước kia đã có một thời kỳ đây là khu đền Khải thánh, thờ bố mẹ Khổng Tử, nhưng đã bị phá hủy. Khu nhà Thái Học mới được xây dựng lại năm 2000.

      Trong Văn Miếu có tượng Khổng Tử và Tứ phối (Nhan Tử, Tăng Tử, Tử Tư, Mạnh Tử). Ở điện thờ Khổng Tử có hai cặp hạc cưỡi trên lưng rùa. Đây là hình tượng rất đặc trưng tại các đền, chùa, lăng tẩm, miếu mạo ở Việt nam. Hình ảnh hạc chầu trên lưng rùa trong nhiều ngôi chùa, miếu…, hạc đứng trên lưng rùa biểu hiện của sự hài hòa giữa trời và đất, giữa hai thái cực âm – dương. Hạc là con vật tượng trưng cho sự tinh tuý và thanh cao. Theo truyền thuyết rùa và hạc là đôi bạn rất thân nhau. Rùa tượng trưng cho con vật sống dưới nước, biết bò, hạc tượng trưng cho con vật sống trên cạn, biết bay. Khi trời làm mưa lũ, ngập úng cả một vùng rộng lớn, hạc không thể sống dưới nước nên rùa đã giúp hạc vượt vùng nước ngập úng đến nơi khô ráo. Ngược lại, khi trời hạn hán, rùa đã được hạc giúp đưa đến vùng có nước. Điều này nói lên lòng chung thuỷ và sự tương trợ giúp đỡ nhau trong lúc khó khăn, hoạn nạn giữa những người bạn tốt.

      Ngày nay, Khuê Văn Các ở Văn Miếu-Quốc Tử Giám đã được công nhận là biểu tượng của thành phố Hà Nội.

Thuyết minh về Văn miếu Quốc Tử Giám - Bài mẫu 2

      Đất nước thân yêu của chúng ta đã trải qua hàng triệu năm đấu tranh dựng nước và giữ nước. Để rồi, giờ đây, khi chiến tranh đã lùi xa nhưng những dấu ấn của lịch sử, của những chiến công hào hùng, của nền văn hóa truyền thống dường như vẫn còn mãi in dấu nơi những di tích lịch sử ở khắp cả nước. Và về với Hà Nội – thủ đô của cả nước, chúng ta sẽ nhớ ngay tới Văn Miếu Quốc Tử Giám – một trong số những di tích lịch sử nổi tiếng ở nước ta.

      Như chúng ta đã biết, Văn Miếu Quốc Tử Giám là một di tích lịch sử, môt danh lam thắng cảnh nổi tiếng, nằm ở phía nam của thành Thăng Long. Bốn mặt của di tích Văn Miếu Quốc Tử Giám đều là phố – phía nam – cổng chính của Văn Miếu chính là phố Quốc Tử Giám, phía bắc là phố Nguyễn Thái Học, phía đông là phố Văn Miếu và cuối cùng, phía tây là phố Tôn Đức Thắng. Nhìn lại chặng đường lịch sử trong quá trình ra đời của Văn Miếu Quốc Tử Giám chúng ta sẽ thấy có nhiều nét độc đáo. Văn Miếu được xây dựng từ năm 1070, vào thời vua Lí Thánh Tông. Vào thời kì này, Văn Miếu không chỉ là nơi thờ cúng các bậc tiên thánh, tiên sư của đạo Nho mà nơi đây còn là một trường học hoàng gia. Đến năm 1253, vua Trần Nhân Tông đã mở rộng phạm vi, từ đó, nơi đây không còn chỉ là trường học hoàng gia mà còn có cả con cái trong các gia đình thường dân nhưng thông minh và có thành tích học tập xuất sắc. Dưới thời vua Lê Thánh Tông, tức vào những năm 1484, mỗi khoa thi Tiến sĩ sẽ có một tấm bia được dựng trên lưng rùa để ghi danh những người xuất sắc. Trải qua thời gian, đặc biệt là trong thời gian thực dân Pháp xâm lược nước ta, đã làm hư hại một số công trình trong khu Văn Miếu Quốc Tử Giám và về sau, một số công trình đã được xây dựng, tu bổ, mô phỏng lại theo lối kiến trúc của truyền thống trên chính nền đất xưa của Văn Miếu Quốc Tử Giám.

     Là một trong số những di tích lịch sử độc đáo của nước ta, Văn Miếu Quốc Tử Giám có những nét độc đáo, đặc sắc riêng. Văn Miếu Quốc Tử Giám tọa lạc trên một khu đất hình chữ nhật với tổng diện tích hơn 54000 mét vuông. Xung quanh Văn Miếu Quốc Tử Giám được bao bọc bởi những tường rêu cổ kính đã tồn tại hàng nghìn năm nay. Đi sâu khám phá Văn Miếu Quốc Tử Giám, chúng ta sẽ thấy rằng, Văn Miếu gồm có ba khu vực chính là Hồ Văn, vườn Giám và khu nội tự Văn Miếu – Quốc Tử Giám. Trước hết, Hồ Văn nằm ở phía nam, ngay trước mặt của Văn Miếu, diện tích của nó là hơn 12000 mét vuông. Hồ Văn là một hồ nước trong, quanh năm cây cối tươi tốt, um tùm và giữa hồ có một gò đất nổi lên, ấn mình dưới những tán cây, càng làm tăng lên vẻ đẹp cho hồ. Đây là nơi thường diễn ra hoạt động chơi chữ, đặc biệt là hội chữ mùa xuân và các hội bình thơ. Khu nội tự chính là khu vực chính, khu vực chủ thể của quần thể kiến trúc Văn Miếu Quốc Tử Giám và được chia làm năm khu vực chính. Đầu tiên đó chính là Văn Miếu Môn, đây chính là cổng tam quan phía ngoài. Để đi vào được Văn Miếu Môn phải đi qua tứ trụ và hai tấm bia Hạ Mã. Cũng giống như nhiều cổng tam quan theo lối kiến trúc xưa, Văn Miếu Môn cũng có ba cửa, hai cửa hai bên nhỏ và cửa chính giữa to hơn, được xây hai tầng. Đặc biệt, trước Văn Miếu Môn có hai con rồng đá thời Lê và bên trong là đôi rồng đá dưới triều Nguyễn, đồng thời, hai bên công ở mặt ngoài còn có các câu đối bằng chữ Hán. Qua Văn Miếu Môn, theo con đường thẳng tắp sẽ tới Đại Trung Môn. Cửa Đại Trung môn cũng được xây dựng theo kết cấu ba gian, trên một nền gạch cao và dược lợp bằng mái ngói. Dọc theo con đường thẳng tắp ấy sẽ dẫn chúng ta tới với Khuê Văn Các. Khuê Văn Các chính là một lầu vuông gồm với tám mái – bốn mái thượng và bốn mái hạ – một biểu tượng đẹp, độc đáo của nền văn hóa Việt Nam. Qua lầu Khuê Văn Các, chúng ta sẽ tới với giếng Thiên Quang và bia Tiến sĩ. Nếu như những giếng khác có hình tròn thì giếng Thiên Quang lại có hình vuông. Đúng như tên gọi của nó, giếng Thiên Quang được xây dựng với ý muốn con người sẽ nhận được những tinh túy của vũ trụ, của trời đất để phát triển trí tuệ và nhân phẩm. Đặc biệt, khi nhắc đến Văn Miếu, mọi người sẽ nghĩ ngay đến bia Tiến sĩ. Nhà bia Tiến sĩ với 82 tấm bia đá nhằm vinh danh những người đỗ đạt. Đặc biệt, những tấm bia này được đặt trên lưng rùa, điều đó càng làm tăng thêm giá trị của các bia Tiến sĩ. Và cuối cùng trong quần thể kiến trúc của Văn Miếu Quốc Tử Giám đó chính là khu Thái học – nơi rèn đúc, đào tạo nhân tài cho nhiều triều đại trong lịch sử phong kiến Việt Nam.

      Là một quần thể kiến trúc từ lâu đời của nước ta, Văn Miếu Quốc Tử Giám có giá trị, ý nghĩa to lớn về lịch sử và văn hóa. Khi đến với Văn Miếu Quốc Tử Giám, các nhà nghiên cứu lịch sử có thể tìm thấy những thông tin hữu ích về lịch sử, về giáo dục của đất nước ta qua các giai đoạn lịch sử. Đồng thời, từ nơi đây, cũng cung cấp những vấn đề liên quan đến Nho giáo như sự hình thành, phát triển Nho giáo ở nước ta. Với những giá trị to lớn về lịch sử, văn hóa, Văn Miếu Quốc Tử Giám thường được lựa chọn là nơi để vinh danh thủ khoa xuất sắc. Đồng thời, nó là một trong số những địa danh thu hút khách du lịch trong và ngoài nước về tham quan, du lịch. Với những giá trị, đóng góp to lớn ấy của mình, vào tháng 12 năm 2005, quần thể kiến trúc Văn Miếu Quốc Tử Giám vinh dự được công nhận là Di tích đặc biệt cấp quốc gia.

      Tóm lại, Văn Miếu Quốc Tử Giám là một công trình kiến trúc, một di tích lịch sử đặc biệt của nước ta. Nó là địa danh thu hút, hấp dẫn khách du lịch, đồng thời, mang lại giá trị, ý nghĩa to lớn về văn hóa, lịch sử, giáo dục cho đất nước ta.

---/---

Trên đây là các bài văn mẫu thuyết minh về Văn miếu Quốc Tử Giám do Top lời giải sưu tầm và tổng hợp được, mong rằng với nội dung tham khảo này thì các em sẽ có thể hoàn thiện bài văn của mình tốt nhất!

Từ khóa » Thuyết Minh Tổng Quan Về Văn Miếu Quốc Tử Giám