Bài Vè: Vè Thánh Gióng | Ca Dao Mẹ

  • Vè Thánh Gióng

    Nhớ đời thứ sáu Hùng Vương Ân sai hăm tám tướng cường ngũ nhung Xâm cương cậy thế khỏe hùng Kéo sang đóng chặt một vùng Vũ Ninh Trời cho thánh tướng giáng sinh Giáng về Phù Đổng ẩn hình ai hay Mới lên ba tuổi thơ ngây Thấy vua cầu tướng ngày rày ra quân Gọi sứ phán bảo ân cần Gươm vàng, ngựa sắt đề quân tức thì Thánh vương khi ấy ra uy Nửa ngày sấm sét, tứ bề giặc tan Áo thiêng gửi lại Linh san Thoắt đà thoát nợ trần hoàn lên tiên Miếu đền còn dấu cố viên Sử xanh, bia đá tiếng truyền tự xưa

    Thông tin thêm
    • Chủ đề:
      • Lịch sử
    • Thẻ:
      • Vũ Ninh
      • Hùng Vương
      • truyền thuyết
      • Phù Đổng
      • Thăng Long - Hà Nội
      • Thánh Gióng
      • Sóc Sơn
      • Bắc Ninh
    • Người đăng: Nguiễn Sơn
    • 26 June,2013
  • Bình luận
Cùng thể loại:
  • Vè ông Hường Hiệu

    Kể từ lịch sử nước Nam triều, Thương cho mấy người tài năng học sĩ chết đã nhiều vì Tây qua Quảng Nam có ông Hường Hiệu ở Thanh Hà, Trung thành với nước nên xa chốn triều thần Về nhà sầu thảm với nhân dân, Lâm vô tử trận chín mười phần còn chi Tụi Tây qua đã tới Trung Kỳ, Đế đô co kéo còn gì nước Nam Giận thay cho chú Cần Thân, Cầu tham lam mãi quốc biết ăn làm với ai Nước Nam mình thiếu chi kẻ anh tài, Văn chương đủ hết không dùi mài cho nên Để cho nhà dột khó ngăn, Thơ ông Hường để lại dưới đền đinh ninh Thương thay cho cộng sản hữu tình, Trung thành với Tổ quốc liều mình cho nên khô Nghĩ sự tình thảm biết chừng mô, Kẻ thì bị đày ra bỏ vợ, người bị giải vô bỏ chồng Thù xưa còn hỡi ghi lòng, Gang sơn Tổ quốc khi không mà thành Giậm chân kêu với ông trời xanh, Nhân dân xuất thế giặc Nam thành cũng tan Đánh Anh, Tây, Nhật đầu hàng, Sơn băng thuỷ kiệt mở mang cho nước nhà.

    Thông tin thêm
    • Chủ đề:
      • Lịch sử
    • Thẻ:
      • Cần Vương
      • kháng Pháp
    • Người đăng: Phan An
    • 15 March,2022
  • Giữa năm Đinh Dậu mới rồi

    Giữa năm Đinh Dậu mới rồi Sư ông chùa Lãng là người đảm đang Viết tờ quyên giáo các làng Lãng Đông, Năng Nhượng chuyển sang Trực Tầm Chiều hôm còn ở Đồng Xâm Rạng mai Đắc Chúng, tối tầm Dục Dương Cùng với nghĩa sĩ bốn phương Phất cờ thần tướng mở đường thiên binh Phá dinh công sứ Thái Bình Sa cơ ông đã bỏ mình vì dân.

    Thông tin thêm
    • Chủ đề:
      • Lịch sử
    • Thẻ:
      • thái bình
      • kháng chiến chống Pháp
    • Người đăng: Phan An
    • 11 November,2015
  • Thơ thằng Lía

    Ngàn năm dưới bóng thái dương, Biết bao là sự lạ thường đáng ghi, Noi nghề hàng mặc bấy nay, Một pho dị sự vắn dài chép ra. Trước là giải muộn ngâm nga, Sau nêu gương nọ đặng mà soi chung. Xưa kia có một phú ông, Vợ chồng chuyên một nghề nông nuôi mình, Bấy lâu loan phụng hòa minh, Xóm làng kiêng nể tánh tình thiện lương. Tuy là sành sỏi ruộng nương, Ông bà xấu số gặp đường chẳng may, Thuở trước cũng chẳng thua ai, Tiền dư bạc sẵn tháng ngày thung dung, Ruộng vườn khai khẩn khắp cùng, Thôn lân đều thảy có lòng bợ nâng. Đến nay nhằm buổi lao lung, Ruộng nương thất phát vô cùng thảm thương, Tháng ngày khổ hại trăm đường, Bảy năm chịu sự tai ương nguy nàn, Bấm gan cam chịu gian nan, Vợ chồng đau đớn đoạn tràng thiết tha. Lần hồi ngày lụn tháng qua, Nghèo nàn túng tíu gẫm đà thói quen, Thét rồi cũng chẳng than phiền, Cắn răng mà chịu đảo điên qua hồi. Lão mụ tuổi đã lớn rồi, Vợ bốn mươi chẵn chồng thời bốn ba, Đêm ngày lo tính gần xa, Chẳng con kế tự thật là đáng lo, Choanh ngoảnh chồng vợ đơn cô, Tuổi già sức yếu biết nhờ cậy ai?

    Thông tin thêm
    • Chủ đề:
      • Lịch sử
    • Thẻ:
      • chàng Lía
    • Người đăng: Phan An
    • 4 October,2015
  • Vè bình dân học vụ

    Lẳng lặng mà nghe Cài vè học vụ Đồng bào mù chữ Ở khắp mọi nơi Chiếm chín phần mười Toàn dân đất Việt Muôn bề chịu thiệt Chịu đui, chịu điếc Đời sống vùi dập Trong vòng nô lệ Hơi đâu mà kể Những sự đã qua Chính phủ Cộng hòa Ngày nay khác hẳn Đêm ngày lo lắng Đến việc học hành Mấy triệu dân lành Còn đương tăm tối Bị đời hất hủi Khổ nhục đáng thương Ngơ ngác trên đường Như mù không thấy Những điều như vậy Không thể bỏ qua

    Thông tin thêm
    • Chủ đề:
      • Lịch sử
    • Thẻ:
      • bình dân học vụ
    • Người đăng: Nguiễn Sơn
    • 4 October,2015
  • Vè chàng Lía

    Lía ta nổi tiếng anh hào Sơn hà một góc thiếu nào người hay Bạc tiền thừa đủ một hai Chiêu binh mãi mã càng ngày càng đông Làm cho bốn biển anh hùng Mến danh đều tới phục tùng chân tay. Kẻ nào tàn ác lâu nay Lía sai cướp của đoạt tài chẳng dung Nhà giàu mấy tỉnh trong vùng Thảy đều kinh sợ vô cùng lo toan Nhất nhì những bực nhà quan Nghe chàng Lía doạ kinh hoàng như điên Nhà nào nhiều bạc dư tiền Mà vô ân đức, Lía bèn đoạt thâu. Tuy chàng ở chốn non đầu Nhưng mà lương thực vật nào lại không Lâu la ngày một tụ đông Vỡ rừng làm rẫy, vun trồng bắp khoai Mọi người trên dưới trong ngoài Thảy đều no đủ sớm trưa an nhàn Tiếng tăm về đến trào đàng Làm cho văn võ bàng hoàng chẳng an. Nam triều chúa ngự ngai vàng Bá quan chầu chực hai hàng tung hô Có quan ngự sử bày phô Tâu lên vua rõ lai do sự tình Đem việc chàng Lía chiêu binh Trình lên cặn kẽ phân minh mọi đàng Nào khi Lía phá xóm làng Đến khi lên núi dọc ngang thế nào Kể tên những bậc phú hào Từng bị quân Lía đoạt thâu gia tài Vua ngồi nghe rõ một hai, Đập bàn, vỗ án giận rày thét la: – Dè đâu có đứa gian tà Giết người, đoạt của thiệt là khó dung Truyền cho mười vạn binh hùng Dưới cờ đại tướng binh nhung lên đàng Đại quân vâng lệnh Nam hoàng Hành quân tức khắc thẳng đàng ruổi dong Gập ghềnh bao quản núi non Dậy trời sát khí quân bon lên rừng.

    Thông tin thêm
    • Chủ đề:
      • Lịch sử
    • Thẻ:
      • chàng Lía
    • Người đăng: Phan An
    • 3 October,2015
  • Nguyễn đi rồi Nguyễn lại về

    Nguyễn đi rồi Nguyễn lại về Nguyễn về để đóng vai hề tay sai Gái đẹp cùng với rượu Tây Quốc trưởng mê gái liếm giày thực dân Khi nào súng nổ đâu đây Bù nhìn Bảo Đại tan thây có ngày

    Thông tin thêm
    • Chủ đề:
      • Lịch sử
      • Trào phúng, phê phán đả kích
    • Thẻ:
      • Bảo Đại
    • Người đăng: Nguiễn Sơn
    • 24 June,2015
  • Vè mốt áo

    Vè vẻ vè ve Nghe vè mốt áo Bận áo lơ-muya Đi giày cao gót Xách bót tơ phơi Che dù cánh dơi Đi chơi Cụ Ngáo Ăn cháo không tiền Cởi liền lơ-muya!

    Thông tin thêm
    • Chủ đề:
      • Lịch sử
      • Trào phúng, phê phán đả kích
    • Thẻ:
      • Pháp thuộc
      • trang phục
    • Người đăng: Phan An
    • 24 May,2015
  • Vè lính mộ

    Tai nghe nhà nước mộ dân, những lo những sợ chín mười phần em ôi. Anh đi ra mặt biển chưn trời, ơn cha nghĩa mẹ hai nơi chưa đền. Dầu mà ông Tây bắt làm phên, nhất thắng nhì bại, không quên cái nghĩa sinh thành. Xót em vò võ một mình, anh đi ra biển thẳm non xanh tư bề. Vai mang khẩu súng lưng dắt lưỡi lê, thôi thiếp bồng con dại lui về mần ăn. Ví dầu anh có mần răng, nơi mô xứng gió vừa trăng em đành. Phận chàng vạn tử nhứt sanh, trên thời mây đen kịt, dưới nước xanh dờn dờn. Tư bề sóng bể như sơn, đau lòng xót dạ nhiều cơn lắm bớ nàng. Trăm lạy ông trời đặng chữ bình an, đóng lon chức Đội về làng hiển vinh. Làm thịt con heo quy tế tại đình, rượu chè chàng đãi dân tình một diên. Tay bắt tay miệng lại hỏi liền: anh đi ra mấy tháng em có phiền hay không. Bảy giờ mai bước xuống tàu đồng, tối tăm mù mịt như rồng với mây. Hai bên những lính cùng Tây, quân gia kéo tới chở đầy tàu binh…

    Thông tin thêm
    • Chủ đề:
      • Lịch sử
    • Thẻ:
      • chiến tranh
      • lính mộ
    • Người đăng: Nguiễn Sơn
    • 14 January,2015
  • Vè đội Cấn

    Năm Đinh Tỵ mười ba tháng bảy Nước Nam mình phút dậy can qua Thái Nguyên nay có một tòa Khố xanh, khố đỏ được ba trăm người Cũng chí toan chọc trời khuấy nước Ông Đội ra đi trước cầm binh Rủ nhau lập tiểu triều đình Những là cai đội khố xanh bằng lòng Duy phó quản bất tòng quân lệnh Hóa cho nên hủy mệnh xót xa Sai người mở cửa nhà pha Đem tù ra điểm được là bao nhiêu? Truyền tù nhân cứ theo quân lệnh Chớ thị thường uổng mệnh như chơi Rồi ra làm lễ tế trời Cờ đề “Phục Quốc” tài bồi Nam bang

    Thông tin thêm
    • Chủ đề:
      • Lịch sử
    • Thẻ:
      • Pháp thuộc
      • Thái Nguyên
      • đội Cấn
      • Lương Ngọc Quyến
    • Người đăng: Nguiễn Sơn
    • 28 October,2014
  • Vè trách vua Tự Đức hai lòng

    Trách vua Tự Đức hai lòng Đi về bên đạo, bỏ công bên đời Mần quan ra rồi Vượt lòng không cạn Tây sang buôn bán Viện lấy giữ nhà Ai biết sự là Tây sang cướp nước Khi mới sang, đánh được Răng không đánh đi cho

    Thông tin thêm
    • Chủ đề:
      • Lịch sử
    • Thẻ:
      • Pháp thuộc
      • Vua Tự Đức
      • Quân Cờ Đen
      • Lưu Vĩnh Phúc
    • Người đăng: Mai Huyền Chi
    • 18 August,2014
Có cùng từ khóa:
  • Hỡi cô thắt lưng bao xanh

    Hỡi cô thắt lưng bao xanh Có về làng Mái với anh thì về Làng Mái có lịch có lề Có ao tắm mát có nghề làm tranh

    Thông tin thêm
    • Chủ đề:
      • Tình yêu đôi lứa
      • Quê hương đất nước
    • Thẻ:
      • Thăng Long - Hà Nội
      • nghề truyền thống
      • đồng hồ
    • Người đăng: Kim Khương
    • 24 March,2022
  • Thứ nhất là tội đeo gông

    Thứ nhất là tội đeo gông Thứ nhì đất Gưởi nằm không có màn

    Thông tin thêm
    • Chủ đề:
      • Quê hương đất nước
      • Trào phúng, phê phán đả kích
    • Thẻ:
      • Thăng Long - Hà Nội
    • Người đăng: Phan An
    • 24 March,2022
  • Bài này có từ ngữ và/hoặc nội dung nhạy cảm. Hãy cân nhắc trước khi bấm xem.

    Lồn Hàng Cá, má Hàng Hương

    Lồn Hàng Cá, má Hàng Hương

    Thông tin thêm
    • Chủ đề:
      • Trào phúng, phê phán đả kích
    • Thẻ:
      • Thăng Long - Hà Nội
    • Người đăng: Phan An
    • 25 January,2022
  • Chợ Chì là chợ Chì xa

    Chợ Chì là chợ Chì xa, Chồng mong, con khóc, chém cha chợ Chì

    Thông tin thêm
    • Chủ đề:
      • Tình cảm gia đình, bạn bè
      • Quê hương đất nước
    • Thẻ:
      • chợ búa
      • Bắc Ninh
      • chợ Chì
      • chồng con
    • Người đăng: Phan An
    • 25 August,2019
  • Cậu Ba kẻ Gióng kia ơi

    Cậu Ba kẻ Gióng kia ơi Sao chăng ở lại mà chơi kinh kì?

    Thông tin thêm
    • Chủ đề:
      • Quê hương đất nước
    • Thẻ:
      • Thăng Long - Hà Nội
      • kẻ Gióng
    • Người đăng: Phan An
    • 18 November,2018
  • Chè vối Cầu Tiên, bún sen Tứ Kỳ

    Chè vối Cầu Tiên, Bún sen Tứ Kỳ

    Thông tin thêm
    • Chủ đề:
      • Quê hương đất nước
    • Thẻ:
      • Tử Kỳ
      • ẩm thực
      • đặc sản
      • chè vối
      • Cầu Tiên
      • Thăng Long - Hà Nội
    • Người đăng: Phan An
    • 9 November,2018
  • Làm thân con gái Lại Đà

    Làm thân con gái Lại Đà, Sáng mồng ba Tết đã sà xuống ao

    Thông tin thêm
    • Chủ đề:
      • Quê hương đất nước
    • Thẻ:
      • Thăng Long - Hà Nội
      • nghề truyền thống
      • Lại Đà
    • Người đăng: Phan An
    • 10 April,2017
  • Bún ngon bún mát Tứ Kỳ

    Bún ngon bún mát Tứ Kỳ Pháp Vân cua ốc đồn thì chẳng ngoa

    Thông tin thêm
    • Chủ đề:
      • Quê hương đất nước
    • Thẻ:
      • Thăng Long - Hà Nội
      • sản vật
    • Người đăng: Phan An
    • 7 June,2016
  • Động mây Độc Tôn, vác nồi rang thóc

    Động mây Độc Tôn, vác nồi rang thóc Động gió núi Sóc, đổ thóc ra phơi

    Thông tin thêm
    • Chủ đề:
      • Quan hệ thiên nhiên
    • Thẻ:
      • Độc Tôn
      • Vĩnh Phúc
      • mưa nắng
      • Sóc Sơn
    • Người đăng: Nguiễn Sơn
    • 13 January,2016
  • Giai Ngõ Trạm, gái Tạm Thương

    Giai Ngõ Trạm, gái Tạm Thương

    Thông tin thêm
    • Chủ đề:
      • Trào phúng, phê phán đả kích
    • Thẻ:
      • Thăng Long - Hà Nội
      • Ngõ Trạm
      • Tạm Thương
    • Người đăng: Nguiễn Sơn
    • 3 October,2015
Chú thích
  1. Thương Còn gọi là Ân, hay Ân Thương, một triều đại trong lịch sử Trung Quốc (khoảng 1766-1122 trước Công nguyên), cai trị cả một vùng đồng bằng rộng lớn phía Bắc Trung Quốc thời bấy giờ. Vua thứ 30 của nhà Thương là Trụ Vương khét tiếng tàn bạo, bị bộ tộc Chu nổi dậy giết chết, lập nên nhà Chu. Nhà Chu không tận diệt hậu duệ nhà Thương, thậm chí còn phong đất nhưng nhà Thương từ đó tự suy dần và diệt vong.
  2. Ngũ nhung Năm món đồ binh khí thời xưa: cung, nỏ, giáo, mác, kích.
  3. Xâm cương Xâm lấn biên cương, bờ cõi.
  4. Vũ Ninh Tên một ngọn núi ở tỉnh Bắc Ninh, theo sự tích là quê của Thánh Gióng (Phù Đổng Thiên Vương). Thánh Gióng là một trong bốn vị thánh bất tử trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam (tứ bất tử), là người có công dẹp giặc Ân đem lại thái bình cho đất nước. Truyền thuyết kể rằng: Ông sinh ra thời vua Hùng thứ 6 tại xã Phù Đổng, huyện Gia Lâm, Hà Nội, do mẹ ông ướm chân vào một vết chân lớn trên đất về mang thai. Tuy lên ba nhưng Gióng không biết nói cười, đi đứng. Đến khi giặc Ân kéo đến bờ cõi, Gióng bỗng dưng cất tiếng gọi mẹ nhờ mời sứ giả của vua vào, đưa yêu sách đòi áo giáp, roi và ngựa sắt để đánh giặc. Chỉ trong mấy hôm, Gióng vươn vai thành một tráng sĩ cao lớn, cưỡi ngựa sắt vua ban đánh giặc Ân tan tác. Đuổi đám tàn quân đến chân núi Sóc (Sóc Sơn), Gióng cởi áo giáp, thả dao, cùng ngựa bay về trời.
  5. Phù Đổng Tên một ngôi làng theo truyền thuyết là quê hương của Thánh Gióng, nay thuộc xã Phù Đổng, huyện Gia Lâm, Hà Nội.
  6. Rày Nay, bây giờ (phương ngữ).
  7. Linh san Theo Hoàng Xuân Hãn, đó là Sóc Sơn (còn gọi là Vệ Linh Sơn, núi Mã, núi Đền), một ngọn núi thuộc xã Phù Linh, huyện Sóc Sơn, Hà Nội. Theo truyền thuyết, đây là nơi sau khi đánh tan giặc Ân, Thánh Gióng cởi áo giáp, bỏ lại roi và cùng ngựa sắt bay về trời.
  8. Trần hoàn Trần: bụi bặm, chỉ cõi đời bụi bặm; Hoàn: cõi lớn. Trần hoàn chỉ trần thế nói chung.
  9. Cố viên Vườn cũ, tức làng Phù Đổng, nơi có đền Phù Đổng thờ Thánh Gióng, nay thuộc xã Phù Đổng, huyện Gia Lâm, Hà Nội
  10. Sử xanh Ngày xưa khi chưa có giấy, sử sách được chép lên miếng tre trúc, có vỏ màu xanh, nên được gọi là sử xanh (thanh sử).

    Một bản sách chép lên mảnh trúc

    Một bản sách chép lên mảnh trúc

  11. Năm câu cuối của bài ca dao này gần giống với năm câu cuối của tiết Phù Đổng thiên vương trong Đại Nam Quốc sử diễn ca:

    Trận mây theo ngọn cờ đào, Ra uy sấm sét, nửa chiều giặc tan. Áo nhung cởi lại Linh san, Thoắt đà thoát nợ trần hoàn lên tiên. Miếu đình còn dấu cố viên, Chẳng hay chuyện cũ lưu truyền có không?

  12. Quảng Nam Tên một tỉnh ở vùng duyên hải Nam Trung Bộ, trước đây bao gồm cả thành phố Đà Nẵng, gọi chung là tỉnh Quảng Nam-Đà Nẵng. Quảng Nam có nghĩa là "mở rộng về phương Nam." Tỉnh Quảng Nam giàu truyền thống, độc đáo về bản sắc văn hóa với những danh tích như thánh địa Mỹ Sơn, phố cổ Hội An...

    Vẻ đẹp Hội An

    Vẻ đẹp Hội An

  13. Nguyễn Duy Hiệu Có sách ghi là Nguyễn Hiệu, tục gọi là Hường Hiệu, một chí sĩ và lãnh tụ thuộc phong trào Cần Vương. Ông sinh năm Đinh Mùi (1847) tại làng Thanh Hà, huyện Duyên Phúc (nay là xã Cẩm Hà, thành phố Hội An), tỉnh Quảng Nam. Năm 1885, hưởng ứng chiếu Cần Vương, ông cùng Trần Văn Dư (1839-1885), Phan Bá Phiến (còn gọi là Phan Thanh Phiến, 1839-1887), Nguyễn Tiểu La (tức Nguyễn Hàm, 1863-1911), thành lập Nghĩa hội Quảng Nam, rồi ra bản cáo thị kêu gọi toàn dân trong tỉnh cùng đứng lên đáp nghĩa. Đến năm 1887, cuộc khởi nghĩa thất bại, ông tự trói mình nạp cho giặc để cứu nghĩa quân. Ông bị chém ngày 15/10/1887, hưởng dương 40 tuổi, để lại hai bài thơ tuyệt mệnh bằng chữ Hán. Sau đây là một bài được Huỳnh Thúc Kháng dịch:

    Cần vương Nam Bắc kết tơ đồng Cứu giúp đường kia khổ chẳng thông Muôn thuở cương thường ai Ngụy Tháo? Trăm năm tâm sự có Quan Công Non sông phần tự thơ trời định Cây cỏ buồn trông thấy đất cùng Nhắn bảo nổi chìm ai đó tá? Chớ đem thành bại luận anh hùng.

  14. Thanh Hà Tên một ngôi làng ở Quảng Nam, nằm ngay bên bờ sông Thu Bồn, cách phố cổ Hội An chừng 3 km về hướng Tây. Làng có nghề làm gốm truyền thống từ đầu thế kỉ 16.

    Gốm Thanh Hà

    Gốm Thanh Hà

  15. Chi Gì (phương ngữ Trung và Nam Bộ).
  16. Ba kỳ Tức Tam Kỳ, tên gọi chung cho ba vùng đất do thực dân Pháp và triều đình bù nhìn nhà Nguyễn phân chia nước ta vào thế kỉ 19. Ba kỳ gồm có: Bắc Kỳ (Tonkin, từ phía Nam tỉnh Ninh Bình trở ra), Trung Kỳ (Annam, từ phía bắc tỉnh Bình Thuận đến Đèo Ngang) và Nam Kỳ (Cochinchine).

    Bản đồ Việt Nam thời Pháp thuộc

    Bản đồ Việt Nam thời Pháp thuộc

  17. Nguyễn Thân (1854 - 1914) Võ quan nhà Nguyễn dưới triều vua Đồng Khánh, là cộng sự đắc lực của thực dân Pháp trong việc đàn áp các cuộc khởi nghĩa trong phong trào Cần Vương.
  18. Mãi quốc Bán nước (từ Hán Việt).
  19. Chừng mô Chừng nào (phương ngữ Trung Bộ).
  20. Sơn băng thủy kiệt Núi lở, sông cạn (thành ngữ Hán Việt). Tiếng Việt ta có thành ngữ tương tự là sông cạn đá mòn, thường dùng để thề nguyền. Ở một số ngữ cảnh, đây được coi là điềm báo đất nước sắp gặp họa lớn, dân chúng phải lầm than khổ sở.
  21. Tức năm 1897.
  22. Chùa Lãng Đông Tên một ngôi chùa ở thôn Lãng Đông, nay thuộc địa phận xã Trà Giang, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình. Chùa được xây dựng vào khoảng cuối thế kỉ 19, đầu thế kỉ 20. Tại chùa này vào năm 1897 đã nổ ra cuộc khởi nghĩa chống Pháp do trụ trì là thiền sư Thích Thanh Thụ khởi xướng.

    Tam quan chùa Lãng Đông

    Tam quan chùa Lãng Đông

  23. Quyên giáo Kêu gọi quyên góp về tiền của và công sức để làm những công việc liên quan đến đạo Phật.
  24. Năng Nhượng Tên một xã trước đây thuộc tổng Đồng Xâm, phủ Kiến Xương, tỉnh Thái Bình, nay thuộc xã Trà Giang, huyện Kiến Xương.
  25. Trực Tầm Một xã trước đây thuộc tổng Đồng Xâm, phủ Kiến Xương, tỉnh Thái Bình, nay thuộc xã Trà Giang, huyện Kiến Xương.
  26. Đồng Xâm Một làng nằm ở phía Bắc của huyện Kiến Xương, thuộc xã Hồng Thái, tỉnh Thái Bình. Làng có nghề chạm bạc truyền thống. Hằng năm làng tổ chức lễ hội vào các ngày 1-5 tháng 4 âm lịch.

    Chạm bạc ở Đồng Xâm

    Chạm bạc ở Đồng Xâm

  27. Đắc Chúng Tên một làng trước đây thuộc tổng Đồng Xâm, phủ Kiến Xương, tỉnh Thái Bình, nay thuộc xã Quốc Tuấn, huyện Kiến Xương.
  28. Dục Dương Một làng trước đây thuộc tổng Đồng Xâm, phủ Kiến Xương, tỉnh Thái Bình, nay thuộc xã Trà Giang, huyện Kiến Xương.
  29. Nghĩa sĩ Người anh dũng dấn thân vì việc nghĩa.
  30. Thiên binh, thần tướng Binh lính (của) trời, tướng (là) thần. Chỉ quân đội mạnh mẽ, anh dũng.
  31. Công sứ Chức danh cai trị của người Pháp trong thời kì Pháp thuộc, đứng đầu một tỉnh.
  32. Thái Bình Địa danh nay là một tỉnh ven biển ở đồng bằng Bắc Bộ, cách thủ đô Hà Nội khoảng 110 km. Phần đất thuộc tỉnh Thái Bình ngày nay trước đây thuộc về trấn Sơn Nam. Tới năm Thành Thái thứ hai (1890) tỉnh Thái Bình được thành lập. Tỉnh có nhiều khu du lịch và danh lam thắng cảnh nổi tiếng như bãi biển Đồng Châu, cồn Vành, chùa Keo... Các ngành nghề truyền thống như chạm bạc, làm chiếu ở đây cũng khá phát triển. Ngoài ra, Thái Bình còn được mệnh danh là Quê Lúa.

    Bãi biển Đồng Châu

    Bãi biển Đồng Châu

  33. Sa cơ Lâm vào tình thế rủi ro, khốn đốn.
  34. Bài vè này nói về cuộc nổi dậy chống Pháp tại chùa Lãng Đông, tỉnh Thái Bình. Tháng 11 âm lịch năm Đinh Dậu (1897), hưởng ứng phong trào Cần Vương, trụ trì chùa là nhà sư Thích Thanh Thụ đã lãnh đạo số binh sĩ lên đến trên 200 người từ các xã Trà Giang, Hồng Thái, Quốc Tuấn thuộc vùng tổng Đồng Xâm, theo bờ sông Trà Lý tiến về thị xã Thái Bình đánh thẳng vào dinh công sứ. Tuy nhiên, do lực lượng quá chênh lệch, cuộc bạo động mau chóng thất bại. Thiền sư cùng 21 nghĩa binh bị giặc Pháp bắt đưa về gò Mống chặt đầu, sau đó thủ cấp bị treo lên để thị chúng.
  35. Dị sự Chuyện lạ thường (từ Hán Việt).
  36. Vắn Ngắn (từ cổ).

    Tự biệt nhiều lời so vắn giấy Tương tư nặng gánh chứa đầy thuyền (Bỏ vợ lẽ cảm tác - Nguyễn Công Trứ)

  37. Đặng Được, để, nhằm (từ cũ, phương ngữ).
  38. Loan phụng hòa minh Chim loan, chim phượng cùng hót. Chỉ vợ chồng hòa thuận, thương yêu nhau.
  39. Thung dung Thong dong.
  40. Thôn lân Làng xóm láng giềng (từ Hán Việt).
  41. Lao lung Khổ cực (từ cổ).
  42. Thất phát Cũng như thất bát – mất mùa.
  43. Nàn Nạn (từ cũ).
  44. Đoạn trường Đau đớn như đứt từng khúc ruột (đoạn: chặt đứt, trường: ruột). Theo Sưu thần kí, có người bắt được hai con vượn con, thường đem ra hiên đùa giỡn. Vượn mẹ ngày nào cũng đến ở trên cây gần đầu nhà, kêu thảm thiết. Ít lâu sau thì vượn mẹ chết, xác rơi xuống gốc cây. Người ta đem mổ thì thấy ruột đứt thành từng đoạn.
  45. Túng tíu Túng thiếu (từ cũ).
  46. Thét Chịu đựng lâu thành quen (phương ngữ).
  47. Kế tự Nối dõi (từ Hán Việt).
  48. Bình dân học vụ Tên một phong trào do chủ tịch Hồ Chí Minh phát động sau cách mạng tháng Tám để xóa nạn mù chữ (diệt giặc dốt), có sử dụng các câu văn vần mô tả bảng chữ cái cho dễ thuộc: I, tờ (t), có móc cả hai. I ngắn có chấm, tờ dài có ngang

    Từ "i tờ" về sau chỉ trình độ học vấn vỡ lòng.

    Bình dân học vụ

    Bình dân học vụ

  49. Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Tên một nhà nước được Hồ Chí Minh tuyên bố thành lập năm 1945, tồn tại cho đến sau 1976 thì sáp nhập với nhà nước Cộng hòa miền Nam Việt Nam thành nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam hiện nay. Xem thêm.

    Hồ Chí Minh tuyên bố thành lập Việt Nam Dân chủ Cộng hòa

    Hồ Chí Minh tuyên bố thành lập Việt Nam Dân chủ Cộng hòa

  50. Lía Dân gian còn gọi là chàng Lía, chú Lía, người lãnh đạo cuộc khởi nghĩa nông dân chống ách thống trị của nhà Nguyễn vào thế kỉ 18 nổ ra tại Truông Mây, Bình Định. Có giả thuyết cho rằng ông tên thật là Võ Văn Doan, quê nội huyện Phù Ly (huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định ngày nay), quê ngoại làng Phú Lạc, tổng Thời Hòa, huyện Tuy Viễn (nay là huyện Tây Sơn). Lía tập hợp dân nghèo nổi dậy, chọn Truông Mây (Hoài Ân, Bình Định) làm căn cứ, lấy của người giàu chia cho người nghèo. Tương truyền sau khi cuộc khởi nghĩa thất bại, ông uất ức bỏ lên núi và tự sát.
  51. Anh hào Anh hùng hào kiệt, người có tài năng, chí khí. Hội anh hào là dịp để anh hào gặp và thi thố lẫn nhau để lập nên những công trạng hiển hách.

    Đường đường một đấng anh hào, Côn quyền hơn sức, lược thao gồm tài. (Truyện Kiều)

  52. Sơn hà Núi sông (từ Hán Việt). Từ cũ, nghĩa rộng dùng để chỉ đất nước.

    Nam quốc sơn hà Nam Đế cư Tiệt nhiên phận định tại thiên thư Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư (Lý Thường Kiệt)

    Dịch thơ:

    Sông núi nước Nam vua Nam ở Rành rành định phận tại sách trời Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời.

  53. Chiêu binh mãi mã Chiêu mộ binh lính và mua ngựa chiến (để chuẩn bị cho chiến tranh). Hiểu rộng ra là tập hợp lực lượng, vây cánh.
  54. Dung Biết là việc xấu, sai nhưng vẫn để tồn tại.
  55. Lâu la Từ chữ Hán 嘍囉, chỉ quân lính, tay chân của giặc cướp.
  56. Trào đàng Triều đình (cách nói cũ của Trung và Nam Bộ).

    Trạng nguyên tâu trước trào đàng, Thái sư trữ dưỡng tôi gian trong nhà. (Lục Vân Tiên - Nguyễn Đình Chiểu)

  57. Bá quan Từ chữ Hán Việt bá 百 (trăm), và quan 官 (quan lại), chỉ tất cả các quan lại trong triều đình. Cũng nói là bá quan văn võ.
  58. Ngự sử Tên chung của một số chức quan có nhiệm vụ giám sát từ cấp cao nhất (vua) đến các cấp quan lại.
  59. Lai do Nguyên do sự việc.
  60. Đàng Đường, hướng (phương ngữ Trung và Nam Bộ).
  61. Phú hào Những người giàu và có thế lực ở nông thôn thời phong kiến (từ Hán Việt).
  62. Dè Ngờ (phương ngữ Nam Bộ).
  63. Binh nhung Binh 兵 (binh lính) và nhung 戎 (vũ khí, binh lính). Chỉ binh khí, quân đội, hoặc hiểu rộng ra là việc quân.
  64. Nam hoàng Vua nước Nam.
  65. Quản E ngại (từ cổ).
  66. Bảo Đại (1913-1997) Hoàng đế thứ mười ba và cuối cùng của triều Nguyễn, triều đại phong kiến cuối cùng ở nước ta, đồng thời cũng là quốc trưởng đầu tiên của Đế quốc Việt Nam (3/1945) và Quốc gia Việt Nam (7/1949). Ông sinh tại Huế, là con vua Khải Định, có tên huý là Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy. Ông có một câu nói nổi tiếng khi chính thức thoái vị và trao ấn tín, quốc bảo của hoàng triều cho cách mạng vào ngày 23 tháng 8 năm 1945: Trẫm muốn được làm Dân một nước tự do, hơn làm Vua một nước bị trị. Cuối đời ông sống lưu vong tại Pháp và qua đời trong lặng lẽ vào ngày 31 tháng 7 năm 1997, thọ 85 tuổi.

    Vua Bảo Đại

    Vua Bảo Đại

  67. Le Mur Pháp âm là "lơ-muya," một kiểu áo dài cách tân do họa sĩ Cát Tường (nghệ danh là Le Mur Cát Tường) tung ra vào những năm 1930. Áo Le Mur lấy cảm hứng từ chiếc váy của phương Tây với nối vai, tay phồng, cổ lá sen..., đặc biệt những màu thâm, nâu, đen của áo dài truyền thống được thay bằng màu sắc sặc sỡ, tương sáng mặc kết hợp với quần trắng. Sau khi thịnh hành một vài năm, đến năm 1934, họa sĩ Lê Phổ cải tiến kiểu áo theo cách dung hòa giữa váy phương Tây với áo tứ thân truyền thống (gọi là áo "Lê Phổ"), áo Le Mur bớt phổ biến dần.

    Đám cưới họa sĩ Cát Tường, Bắc Ninh 1936. Chú rể đứng phía trái, đang giang hai tay. Cô dâu Nguyễn Thị Nội mặc áo trắng, đi bên cạnh phù dâu, đều mặc áo Le Mur.

    Đám cưới họa sĩ Cát Tường, Bắc Ninh 1936. Chú rể đứng phía trái, đang giang hai tay. Cô dâu Nguyễn Thị Nội mặc áo trắng, đi bên cạnh phù dâu, đều mặc áo Le Mur.

  68. Bóp phơi Cũng đọc trại thành bóp (bót) tơ phơi, từ chữ tiếng Pháp portefeuille, nghĩa là cái ví tiền. Đây cũng là gốc của từ "bóp," được dùng nhiều ở miền Nam.
  69. Ô cánh dơi Ô (dù) hình khum, những múi ô khi mở ra trông giống cánh con dơi căng ra, xưa kia nam giới thường dùng.
  70. Hồi đó, ngay tại thủ đô Huế, nơi có triều đình Việt Nam và Toà Khâm Sứ Pháp, một số các cô tân thời hay mặc "mốt" áo Le Mur. Dân Huế do đó mà có bài vè này.
  71. Lính mộ Lính được chiêu mộ. Từ này thường dùng để chỉ những người bị thực dân Pháp gọi (mộ) đi lính trước đây.

    Lính khố đỏ.

    Lính khố đỏ.

  72. Phên Đồ đan bằng tre, nứa, cứng và dày, dùng để che chắn. Một số vùng ở Bắc Trung Bộ gọi là phên thưng, bức thưng.

    Tấm phên

    Tấm phên

  73. Mần răng Làm sao (phương ngữ Trung Bộ).
  74. Mô Đâu, nào (phương ngữ Trung Bộ).
  75. Vạn tử nhất sinh Vạn phần chết, một phần sống (thành ngữ Hán Việt).
  76. Bể Biển (từ cũ).
  77. Đội Một chức vụ trong quân đội thời thực dân Pháp, tương đương với tiểu đội trưởng hiện nay (Đội Cung, Đội Cấn...).
  78. Quy tế Chú thích này đang để ngỏ. Nếu bạn có thông tin về Quy tế, hãy đóng góp cho chúng tôi.
  79. Diên Tiệc rượu (từ Hán Việt).
  80. Tức 30/8/1917 dương lịch, ngày nổ ra cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên do đội Cấn chỉ huy.
  81. Can qua Can 干 chữ Hán nghĩa là cái mộc để đỡ. Qua 戈 là cây mác, một loại binh khí ngày xưa. Can qua chỉ việc chiến tranh.
  82. Thái Nguyên Một tỉnh ở miền Bắc nước ta, nổi tiếng với nghề trồng và chế biến chè (trà).

    Đồi chè Thái Nguyên

    Đồi chè Thái Nguyên

  83. Lính tập Một lực lượng vũ trang của chính quyền thuộc địa Pháp ở Đông Dương, theo chính sách dùng người bản xứ làm quân đội chính quy trong việc đánh dẹp. Lính tập gồm lính khố đỏ, lính khố xanh, lính khố vàng, lính khố lục, những tên gọi xuất phát từ màu dải thắt lưng họ quấn quanh quân phục.

    Lính tập (Tập binh 習兵)

    Lính tập (Tập binh 習兵)

  84. Có bản chép: Rủ nhau.
  85. Đội Cấn Tên thật là Trịnh Văn Cấn (1881 - 1918), người làng Yên Nhiên, phủ Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Yên, nay thuộc xã Vũ Di, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc. Ông còn có tên khác là Trịnh Văn Đạt, là viên đội lính khố xanh trong cơ binh Pháp ở Thái Nguyên. Ông cùng Lương Ngọc Quyến - một chí sĩ yêu nước bị giam tại nhà tù ở Thái Nguyên - lãnh đạo binh lính người Việt đứng lên chống Pháp vào đêm 30/8/1917. Từ đó đến ngày 5/9, các cuộc tấn công của địch liên tiếp nổ ra. Do không chống nổi lực lượng của địch, nghĩa quân phải rút lui. Ngày 10/1/1918, trong trận chiến đấu với quân Pháp tại núi Pháo, Đội Cấn bị thương nặng và tự sát.

    Di ảnh Đội Cấn

    Di ảnh Đội Cấn

  86. Cai Từ gọi tắt của cai vệ, chức danh chỉ huy một tốp lính dưới thời thực dân Pháp.

    Lính lệ

    Lính lệ

  87. Theo lệnh của Đội Cấn, Đội Trường đã tiêu diệt Giám binh Noen, Ba Chén giết tên Phó quản Lạp và 7-8 binh sĩ chống đối.
  88. Nhà pha Nhà tù (từ cũ). Có ý kiến cho rằng từ này có gốc từ tiếng Pháp bagne, nghĩa là giam cầm.
  89. Thị thường Xem thường.
  90. Tài bồi Vun đắp, vun trồng (từ Hán Việt).
  91. Nam bang Bờ cõi nước Nam.
  92. Nghĩa quân sử dụng quân kì màu vàng đề bốn chữ "Nam binh phục quốc."
  93. Tự Đức (1829 – 1883) Vị hoàng đế thứ tư của nhà Nguyễn, vương triều cuối cùng trong lịch sử phong kiến nước ta. Thời gian ông ở ngôi đánh dấu nhiều sự kiện trong lịch sử nước ta, trong đó quan trọng nhất là tháng 8/1858, quân Pháp nổ phát súng đầu tiên tấn công Đà Nẵng, mở đầu cho thời kì thống trị của người Pháp ở Việt Nam.

    Vua Tự Đức

    Vua Tự Đức

  94. Chú thích này đang để ngỏ. Nếu bạn có thông tin về , hãy đóng góp cho chúng tôi.
  95. Mần Làm (phương ngữ Trung và Nam Bộ). Như mần ăn, mần việc, đi mần...
  96. Răng Sao (phương ngữ Trung Bộ).
  97. Đông Hồ Tên Nôm là làng Mái, một làng nay thuộc xã Song Hồ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh, nổi tiếng với nghề làm tranh in truyền thống trên giấy điệp. Để làm giấy điệp in tranh, người làng Đông Hồ giã nát lớp vỏ mỏng của một loại sò biển tên là điệp, trộn với hồ nấu từ bột gạo tẻ, gạo nếp hoặc bột sắn rồi dùng chổi lá thông quét lên mặt giấy dó. Màu sắc sử dụng trong tranh là màu tự nhiên từ cây cỏ như đen (than xoan hay than lá tre), xanh (gỉ đồng, lá chàm), vàng (hoa hòe), đỏ (sỏi son, gỗ vang)... Đây là những màu khá cơ bản, không pha trộn và vì số lượng màu tương ứng với số bản khắc gỗ, nên thường tranh Đông Hồ chỉ dùng nhiều nhất 4 màu.

    Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp (Bên kia sông Đuống - Hoàng Cầm)

    Đám cưới chuột - tranh Đông Hồ

    Đám cưới chuột - tranh Đông Hồ

  98. Gưởi Chú thích này đang để ngỏ. Nếu bạn có thông tin về Gưởi, hãy đóng góp cho chúng tôi.
  99. Hàng Cá Tên một con phố thuộc hệ thống phố cổ Hà Nội, đi từ Hàng Đường, cắt ngang phố Chả Cá, đến phố Thuốc Bắc. Xưa kia, khi còn chưa lấp sông Tô Lịch, nơi đây gần cửa sông nên là nơi tập trung bán cá, gọi tên là trại Tiền Ngư (cá tươi).
  100. Hàng Hương Nay là phố Hàng Cháo, trước đây chuyên sản xuất loại hương đen cổ truyền. Từ vài chục năm nay còn có một phố Hoàng Hương khác do một số người có nghề làm hương trầm quê ở làng Đông Lỗ, huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên di cư sang sinh sống lập ra. Phố Hoàng Hương này chỉ dài dài 65m, rộng 6m, nối giữa phố Phùng Hưng và phố Lý Nam Đế.
  101. Lồn Hàng Cá, má Hàng Hương Câu đùa về hai loại mùi hôi và thơm nhất Hà Nội.
  102. Chợ Chì Ngôi chợ ở làng Chì, nay thuộc địa phận xã Bồng Lai, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh.
  103. Kẻ Gióng Tên Nôm của làng Gióng Mốt, nay thuộc địa phận xã Đặng Xá, huyện Gia Lâm, Hà Nội.
  104. Chăng Chẳng.
  105. Thăng Long Tên cũ của Hà Nội từ năm 1010 - 1788. Tương truyền Lý Thái Tổ khi rời kinh đô từ Hoa Lư đến đất Đại La thì thấy rồng bay lên nên mới gọi kinh đô mới là Thăng Long (rồng bay lên). Ngày nay, tên Thăng Long vẫn được dùng nhiều trong văn chương và là niềm tự hào của người dân Hà Nội.

    Ai về xứ Bắc ta đi với Thăm lại non sông giống Lạc Hồng Từ độ mang gươm đi mở cõi Trời Nam thương nhớ đất Thăng Long (Huỳnh Văn Nghệ)

    Trong thơ văn cổ, Thăng Long cũng được gọi là Long Thành (kinh thành Thăng Long), ví dụ tác phẩm Long Thành cầm giả ca (Bài ca về người gảy đàn ở Thăng Long) của Nguyễn Du.

    Thăng Long - Kẻ Chợ qua nét vẽ của thương nhân người Hà Lan Samuel Baron (1865)

    Thăng Long - Kẻ Chợ qua nét vẽ của thương nhân người Hà Lan Samuel Baron (1865)

  106. Vối Loại cây được trồng rất nhiều ở miền Bắc. Gỗ dùng làm nông cụ và trong xây dựng. Vỏ chát dùng nhuộm đen. Đặc biệt, lá và nụ vối dùng để đun thành nước vối, một loại đồ uống hằng ngày rất thông dụng, tương tự như nước chè xanh.

    Nụ vối

    Nụ vối

  107. Cầu Tiên Địa danh nay thuộc huyện Thanh Trì, Hà Nội, gần quốc lộ 1.
  108. Tứ Kỳ Một làng cổ, nằm ở phía Nam kinh thành Thăng Long, nay là hai tổ dân phố 14 và 15 thuộc phường Hoàng Liệt, quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội. Làng có nghề làm bún truyền thống nổi tiếng từ xưa. Hàng năm, cứ vào rằm tháng hai âm lịch, làng lại mở lễ hội thờ ông tổ nghề bún.
  109. Lại Đà Một làng nay thuộc xã Đông Hội, huyện Đông Anh, Hà Nội. Xưa làng có tên là trang Cối Giang, thuộc tổng Cối Giang (sau đổi thành Hội Phụ vì kị húy tên chúa Trịnh Cối) nên tục cũng gọi là làng Cối (Cói). Làng xưa có nghề làm bỏng gạo và trồng rau cần, nên lại cũng được gọi là Cói Bỏng hay Cói Cần.
  110. Pháp Vân Tên một làng cổ thuộc huyện Thanh Trì, nay thuộc phường Hoàng Liệt, quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội. Xưa kia làng có nghề làm và bán bún ốc.
  111. Độc Tôn Một dãy núi gồm khoảng 8-9 đỉnh núi, thuộc địa phận huyện Sóc Sơn, Hà Nội. Ngoài đỉnh cao nhất là Hàm Lợn (còn có tên là Chân Chim, cao 500m, được mệnh danh là "mái nhà của Hà Nội"), dãy Độc Tôn còn có các đỉnh Thanh Lanh, Bà Tượng, Lục Dinh... đều là những đỉnh núi cao và hiểm trở.

    Hồ Hàm Lợn trên núi Hàm Lợn, thuộc dãy Độc Tôn

    Hồ Hàm Lợn trên núi Hàm Lợn, thuộc dãy Độc Tôn

  112. Sóc Sơn Tên một huyện và cũng là tên một ngọn núi (còn gọi là núi Sóc, núi Mã, núi Dền hay núi Vệ Linh) ở phía Bắc thành phố Hà Nội. Theo truyền thuyết, đây là nơi sau khi đánh tan giặc Ân, Thánh Gióng cởi áo giáp, bỏ lại roi và cùng ngựa sắt bay về trời. Núi Sóc trước kia thuộc địa phận Vĩnh Phúc, từ 1976 thuộc Hà Nội.
  113. Theo Địa chí Vĩnh Phúc (Nhà xuất bản Khoa học xã hội, 2012): Vùng Kim Anh, Đa Phúc (hai huyện cũ của tỉnh Vĩnh Phúc, nay thuộc tỉnh Vĩnh Phú) thấy mây đen đỉnh núi Độc Tôn là sẽ có mưa, thấy gió núi Sóc thì trời sẽ nắng.
  114. Giai Ngõ Trạm, gái Tạm Thương Hai thành phần côn đồ, đáo để ở Hà Nội thời Nguyễn. Nguyên Ngõ Trạm xưa là nơi đặt nhà trạm nhận công văn chuyển đi các tỉnh. Nhà trạm có một viên thừa dịch trông coi, dưới quyền là những lính trạm. Lính này phần lớn là những thành phần táo tợn, hung bạo, khi rỗi việc thường tụ tập bài bạc, hút xách, dần dà thành một hạng người được đặt tên là "trai Ngõ Trạm." Tạm Thương trước là một kho tạm để thu thóc lúa thuế của dân. Ở đó có hạng phụ nữ chuyên nhận việc xúc thóc, đổ thóc, hay bày trò lường đong tráo đấu mưu lợi riêng. Do đó, đối địch được với "trai Ngõ Trạm" có lẽ chỉ có "gái Tạm Thương" vậy.

Từ khóa » Bài Thơ ông Thánh Gióng