Bản án Về Ly Hôn Số 47/2020/HNGĐ-ST - Thư Viện Pháp Luật

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN HIỆP, TỈNH KIÊN GIANG

BN ÁN 47/2020/HNGĐ-ST NGÀY 21/12/2020 VỀ LY HÔN 

Trong ngày 21 tháng 12 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tân Hiệp, tỉnh Kiên Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 213/2020/TLST- HNGĐ ngày 20 tháng 10 năm 2020 về việc “ Tranh chấp ly hôn” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 49/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 28 tháng 11 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 35/2020 ngày 08 tháng 12 năm 2020 giữa các đương sự:

1/. Nguyên đơn: Chị Lê Thị Như H, sinh năm: 1993 (Có mặt) Thôn Z, xã Q , huyện Nông S, tỉnh Quảng Nam. Tạm trú: ấp Đ, xã T, huyện Hóc Môn, thành phố Hồ Chí Minh.

2/. Bị đơn: Anh Vũ Viết T, sinh năm: 1991 (Vắng mặt) ấp B, thị trấn H, huyện Tân H, tỉnh Kiên Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 21/9/2020 và tại phiên tòa nguyên đơn chị Lê Thị Như H trình bày:

Chị Lê Thị Như H và anh Vũ Viết T chung sống với nhau vào ngày 15 tháng 7 năm 2012, có tổ chức đám cưới và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn H, huyện Tân Hiệp, tỉnh Kiên Giang số 100/2012 quyển số 02/2012 ngày 08/6/2012. Trước khi chung sống vợ chồng có tìm hiểu nhau trước khoảng 12 tháng mới tiến tới hôn nhân, hôn nhân tự nguyện, không bị cưỡng ép.

Quá trình chung sống thời gian đầu hạnh phúc đến năm 2017, thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫnn do vợ chồng bất đồng quan điểm trong cuộc sống, có lối sống không phù hợp, anh T thường xuyên ăn nhậu, chơi ma tý đá không lo làm ăn, có tiền tiêu xài cá nhân, anh không có trách nhiệm với vợ con. Chị H có khuyên nhiều lần nhưng anh T vẫn không thay đổi. Từ đó làm cho vợ chồng luôn bất đồng quan điểm trong cuộc sống, có lối sống không phù họp.

Nay, xét thấy cuộc sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, mâu thuẫn ngày càng trầm trọng vợ chồng ly thân từ năm 2019 cho đến nay.

- Về con chung: Có 01 con chung tên Vũ Ngọc Uyên N, sinh ngày 16/6/2013 cháu đã có giấy khai sanh và đang ở với chị H.

- Veà taøi saûn chung cuûa vôï choàng: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Veà phaàn nôï: Vợ chồng không nợ ai, cũng không ai nợ vợ chồng.

Tại phiên tòa chị Lê Thị Như H yêu cầu Tòa án giải quyết:

- Veà quan heä hoân nhaân: Chị Hoài yêu cầu ly hôn với anh Vũ Viết T.

- Veà con chung: Chị Hoài yêu cầu được nuôi con Vũ Ngọc Uyên N, sinh ngày 16/6/2013 không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con.

- Veà taøi saûn chung và nợ chung cuûa vôï choàng: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Quá trình giải quyết vụ án từ khi thụ lý vụ án, Tòa án tiến hành tống đạt, hợp lệ giấy triệu tập cho anh Vũ Viết T tham gia phiên họp kiểm tra việc, giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải và triệu tập tham gia phiên tòa, nhưng anh T đều không có mặt và không có lời trình bày.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:

[1]Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết vụ án: Đây là tranh chấp ly hôn, bị đơn anh Vũ Viết T đang cư trú tại ấp B, thị trấn H, huyện Tân Hiệp, tỉnh Kiên Giang, nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Tân Hiệp, tỉnh Kiên Giang. Theo quy định tại khoản 1 Điều 28; Điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự .

[2] Về thủ tục tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa anh Vũ Viết T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần hai để tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt không có lý do. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 và Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt anh Vũ Viết Thịnh.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Xét mối quan hệ hôn nhân giữa chị Lê Thị Như H và anh Vũ Viết T được xác lập trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn H, huyện Tân Hiệp, tỉnh Kiên Giang vào ngày 08 tháng 6 năm 2012, số 100, quyển số 02/2012 là phù hợp với quy định tại Điều 9 Luật hôn nhân gia đình năm 2014 đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp được pháp luật thừa nhận và bảo vệ.

Xét yêu cầu xin được ly hôn của chị H thấy rằng sau khi kết hôn, chị H và anh T chung sống hạnh phúc, đến năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyªn nh©n m©u thuÉn do anh chị bất đồng quan điểm trong cuộc sống, anh T thường xuyên ăn nhậu và chơi ma tý đá, anh T không lo làm ăn có tiền tiêu xài cá nhân, anh không có trách nhiệm với vợ con. Chị H có khuyên nhiều lần nhưng anh T vẫn không thay đổi từ đó làm cho mâu thuẫn vợ chồng ngày càng thêm trầm trọng, cuộc sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Chị H và anh T đã ly thân từ năm 2019 cho đến nay. Trong thời gian ly thân không ai quan tâm đến ai, không chăm sóc, giúp đỡ nhau điều này chứng tỏa tình trạng hôn nhân không đạt được mâu thuẫn ngày càng trầm trọng, không thể hiện được tình nghiã vợ chồng được quy định tại Điều 19 Luật hôn nhân gia đình “ Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau;…. Vợ chồng có nghĩa vụ sống chung với nhau,….”.

Quá trình giải quyết vụ án Tòa án tiến hành tống đạt hợp lệ cho anh T tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải để Tòa án động viên anh chị quay về đoàn tụ tiếp tục cuộc sống hôn nhân và nuôi dạy con chung nhưng anh T điều vắng mặt không có lý do. Đều này chứng tỏa anh T bỏ mặc không quan tâm đến mối quan hệ hôn nhân giữa anh và chị H nữa.

Khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “ Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được”.

Từ những căn cứ nêu trên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Hoài.

[4] Về con chung: Chị H xác nhận vợ chồng có 01 con chung tên Vũ Ngọc Uyên N, sinh ngày 16/6/2013 hiện cháu N đang ở với chị H. Chị H yêu cầu được nuôi con không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con.

Xét yêu cầu xin được nuôi con của chị Hoài Hội đồng xét xử xét thấy từ khi ly thân từ năm 2019 cho đến nay cháu Vũ Ngọc Uyên N ở chung với chị H, chị H chăm sóc và nuôi dưỡng cháu N tâm sinh lý phát triển bình thường, chị H có thu nhập ổn định một tháng trên 12.000.000đ từ nhân viên của công ty may.

Hiện nay cháu N còn nhỏ cần sự chăm sóc của người mẹ. Theo nguyện vọng của cháu N thì cháu có nguyện vọng ở với chị H.

Khoản 2 Điều 81 luật hôn nhân gia đình năm 2014 quy định: “ Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con”.

Từ những Điều luật quy định Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin được nuôi con của chị Lê Thị Như H và nguyện vọng của cháu N. Tiếp tục giao cháu Vũ Ngọc Uyên N, sinh ngày 16/6/2013 cho chị H trực tiếp, trông nom, chăm sóc giáo dục, nuôi dưỡng cho đến khi cháu N đủ 18 tuổi. Anh T không cấp dưỡng nuôi con.

Sau khi ly hôn anh T có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở, đồng thời anh T không được lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

Các đương sự có quyền khởi kiện bằng một vụ án khác về việc thay đổi người trực tiếp nuôi con chung và mức cấp dưỡng nuôi con chung theo quy định của pháp luật.

[5] Về tài sản chung, nợ chung: Không có, không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Lê Thị Như H phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân sơ thẩm.

[7] Quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 khoản 4 Điều 147 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự.

Căn cứ vào Điều 56,81,82,83 và Điều 84 Luật hôn nhân gia đình năm 2014; Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Lê Thị Như H.

2.Về quan hệ hôn nhân: Chị Lê Thị Như H được ly hôn với anh Vũ Viết T.

3. Về con chung: Tiếp tục giao cháu Vũ Ngọc Uyên N, sinh ngày 16/6/2013 cho chị H trực tiếp, trông nom, chăm sóc giáo dục, nuôi dưỡng cho đến khi cháu N đủ 18 tuổi. Anh T không cấp dưỡng nuôi con.

Sau khi ly hôn anh T có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở, đồng thời anh T không được lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

Các đương sự có quyền khởi kiện bằng một vụ án khác về việc thay đổi người trực tiếp nuôi con chung và mức cấp dưỡng nuôi con chung theo quy định của pháp luật.

4.Về tài sản chung và nợ chung: không có, không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

5.Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Lê Thị Như H phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) được trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số: 0008024 ngày 16/10/2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Tân Hiệp, tỉnh Kiên Giang. Chị Hoài đã nộp đủ.

6. Quyền kháng cáo: Chị Lê Thị Như H có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh Vũ Viết T có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

7. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

Từ khóa » Việc Anh T Tham Gia