Bản Chất, Chức Năng, Bộ Máy Và Hình Thức Nhà Nước Chủ Nô

Nhà nước chủ nô là gì?

Nhà nước chủ nô là nhà nước đầu tiên trong lịch sử xã hội loài người, ra đời trên cơ sở sự tan rã của chế độ cộng sản nguyên thuỷ. Là hình thức tổ chức và thực hiện quyền lực thống trị của giai cấp chủ nô.

Các nội dung liên quan:

  • Các kiểu nhà nước trong lịch sử thế giới
  • Quy luật thay thế các kiểu nhà nước theo quan niệm của chủ nghĩa Mác-Lênin
  • Trình bày những vấn đề cơ bản về nhà nước phong kiến
  • Bản chất, chức năng, bộ máy và hình thức nhà nước tư sản
  • Kiểu nhà nước xã hội chủ nghĩa

Kiểu nhà nước chủ nô

Mục lục:

  1. Bản chất của nhà nước chủ nô
  2. Chức năng của nhà nước chủ nô
    1. Các chức năng đối nội cơ bản của nhà nước chủ nô 
    2. Các chức năng đối ngoại cơ bản của nhà nước chủ nô
  3. Bộ máy nhà nước chủ nô
  4. Hình thức nhà nước chủ nô
    1. Hình thức chính thể
    2. Hình thức cấu trúc nhà nước
    3. Chế độ chính trị

Nhà nước chủ nô

1. Bản chất của nhà nước chủ nô

Xem xét bản chất của nhà nước chủ nô phải xuất phát từ cơ sở kinh tế và cơ sở xã hội của xã hội chiếm hữu nô lệ. Cơ sở kinh tế của nhà nước chủ nô là quan hệ sản xuất chiếm hữu nô lệ. Quan hệ này dựa trên cơ sở của sự chiếm hữu tư nhân của chủ nô đối với tư liệu sản xuất và người lao động là nô lệ.

Cơ sở xã hội của xã hội chiếm hữu nô lệ do chính cơ sở kinh tế quy định. Vì thế, kết cấu giai cấp của xã hội gồm có hai giai cấp chính là giai cấp chủ nô và giai cấp nô lệ. Giai cấp chủ nô là giai cấp thống trị mặc dù chỉ là thiểu số trong xã hội nhưng nắm hầu hết tư liệu sản xuất của xã hội và cả bản thân người lao động là nô lệ. Giai cấp nô lệ mặc dù chiếm đại đa số trong xã hội nhưng do không có tư liệu sản xuất trong tay và không làm chủ ngay cả chính bản thân mình nên họ hoàn toàn phụ thuộc vào giai cấp chủ nô cả về thể xác và tinh thần. Nô lệ không được coi là người mà chỉ là “công cụ biết nói” của chủ nô, chủ nô có toàn quyền đối với nô lệ với vai trò là một chủ sở hữu đích thực, họ có thể bán nô lệ, cho, tặng nô lệ… nô lệ thực chất chỉ là một thứ tài sản của chủ nô. Bên cạnh hai giai cấp chính là chủ nô và nô lệ, xã hội chiếm hữu nô lệ còn những giai cấp và tầng lớp xã hội khác như: nông dân tư hữu, những người thợ thủ công, những người buôn bán…Những người này về thân phận địa vị của họ trong xã hội không thấp kém như nô lệ nhưng so với giai cấp chủ nô họ có địa vị rất thấp và cũng chịu sự chi phối của giai cấp chủ nô. Cơ sở kinh tế và kết cấu giai cấp xã hội đã quy định bản chất của nhà nước chủ nô. Dưới góc độ bản chất giai cấp, nhà nước chủ nô là công cụ bạo lực để thực hiện nền chuyên chính của giai cấp chủ nô, duy trì sự thống trị mọi mặt của giai cấp chủ nô đối với nô lệ và các tầng lớp nhân dân lao động trong xã hội, duy trì tình trạng bất bình đẳng giữa chủ nô với nô lệ với các tầng lớp nhân dân lao động khác.

Nghiên cứu chế độ nô lệ trên thế giới, C.Mác và Ph. Ăngghen đã căn cứ vào những đặc điểm cụ thể để phân biệt chế độ nô lệ cổ điển và chế độ nô lệ phương đông cổ đại. Chế độ nô lệ cổ điển (hay còn gọi là chế độ nô lệ Hy – La) được đặc trưng bởi tính điển hình của phương thức sản xuất chiếm hữu nô lệ. Trong loại hình xã hội này nô lệ chiếm số lượng đông đảo trong xã hội và là lực lượng lao động chủ yếu của xã hội, mà thực chất là cho chủ nô. Sự bóc lột của chủ nô đối với nô lệ là phổ biến và điển hình. Chế độ nô lệ phương Đông cổ đại hay còn gọi là chế độ nô lệ gia trưởng là loại hình xã hội còn duy trì nhiều tàn dư của chế độ công xã thị tộc. Trong chế độ này, nô lệ không phải là lực lượng lao động chính, sản xuất ra của cải, hàng hoá cho chủ nô mà hầu hết làm công việc trong nhà. Lực lượng lao động chính của xã hội là các thành viên công xã nông thôn (nông nô), về địa vị xã hội, họ tự do hơn so với nô lệ, tuy nhiên họ vẫn chịu sự áp bức, bóc lột của chủ nô.

Tuy nhiên, bên cạnh tính giai cấp, trong một chừng mực nhất định nhà nước chủ nô cũng có một vai trò xã hội nhất định, các nhà nước chủ nô ở các mức độ khác nhau đã tiến hành những hoạt động mang tính xã hội như: hoạt động làm thuỷ lợi ở các quốc gia chiếm hữu nô lệ phương đông, xây dựng và bảo vệ các công trình công cộng, hay hoạt động phát triển kinh tế, thương mại ở Hy lạp…

Các đặc trưng của mỗi loại hình chế độ chiếm hữu nô lệ trên được phản ánh trong chức năng, bộ máy, hình thức của các nhà nước chủ nô tương ứng. Tuy có những nét riêng biệt khác nhau, nhưng ở góc độ chung nhất các nhà nước chiếm hữu nô lệ đều là công cụ chuyên chính của giai cấp chủ nô, bảo đảm sự thống trị của giai cấp chủ nô, đồng thời nó còn là tổ chức để tự vệ, tổ chức các công trình công cộng.

Nhà nước chủ nô cũng có hai bản chất là tính giai cấp và tính xã hội:

– Tính giai cấp

Nhà nước chủ nô là công cụ bạo lực để duy trì sự thống trị mọi mặt của giai cấp chủ nô đối lưu lệ và các tầng lớp nhân dân lao động trong xã hội, duy trì tình trạng bất bình đẳng giữa chủ nô với nô lệ với các tầng lớp nhân dân lao động khác.

C.Mác và Ăng ghen đã căn cứ vào những đặc điểm cụ thể để phân biệt chế độ nô lệ phương tây cổ điển và chế độ nô lệ phương Đông cổ đại.

+ Chế độ nô lệ phương tây cổ điển hay còn gọi là chế độ nô lệ Hy – La Được đặc trưng bởi tính điển hình của phương thức sản xuất chiếm hữu nô lệ. Trong loại hình xã hội này nô lệ chiếm số lượng đông đảo trong xã hội và là lực lượng lao động chủ yếu của xã hội mà thực chất là cho chủ nô. Sự bóc lột của chủ nô đối với nô lệ là phổ biến và điển hình.

+ Chế độ nô lệ phương Đông cổ đại hay còn gọi là chế độ nô lệ gia trưởng là loại hình xã hội còn duy trì nhiều tàn dư của chế độ công xã thị tộc.

Trong chế độ này luôn lệ không phải là lực lượng lao động chính sản xuất ra của cải hàng hóa cho chủ lô mà hầu hết là làm công việc trong nhà. Lực lượng lao động chính của xã hội là các thành viên công xã nông thôn (nông nô) về địa vị xã hội họ tự do hơn so với nô lệ tuy nhiên họ vẫn chịu sự áp bức bóc lột của chủ nô.

– Tính xã hội

Các nhà nước chủ nô ở các mức độ khác nhau đã tiến hành những hoạt động mang tính xã hội như: hoạt động làm thuỷ lợi ở các quốc gia chiếm hữu nô lệ phương Đông, xây dựng và bảo vệ các công trình công cộng, hay hoạt động phát triển kinh tế thương mại ở Hy Lạp.

2. Chức năng của nhà nước chủ nô

Chức năng của nhà nước chủ nô bao gồm chức năng đối nội và đối ngoại.

a) Các chức năng đối nội cơ bản của nhà nước chủ nô bao gồm:

– Chức năng củng cố và bảo vệ sở hữu của chủ nô đối với tư liệu sản xuất và nô lệ

Đây là một trong những chức năng đặc trưng, cơ bản nhất của nhà nước chủ nô, thể hiện rõ nét bản chất giai cấp của nhà nước chủ nô. Nhà nước chủ nô bằng pháp luật không chỉ quy định giai cấp chủ nô có toàn quyền sở hữu về tư liệu sản xuất, mà đối với người nô lệ giai cấp chủ nô cũng toàn quyền sở hữu. Thông qua pháp luật nhà nước chủ nô hợp pháp hoá quyền lực vô hạn của chủ nô đối với nô lệ, cho pháp chủ nô công khai bóc lột, cưỡng bức lao động tàn nhẫn đối với nô lệ, đồng thời quy định những biện pháp trừng trị nghiêm khắc đối với các hành vi xâm hại đến quyền sở hữu của chủ nô.

– Chức năng đàn áp bằng quân sự đối với sự phản kháng của nô lệ và các tầng lớp nhân dân lao động khác

Trong xã hội chiếm hữu nô lệ, không chỉ giai cấp nô lệ chịu sự áp bức, bóc lột tàn nhẫn của giai cấp chủ nô mà các tầng lớp nhân dân lao động khác cũng chịu sự áp bức và bóc lột không kém phần tàn bạo từ phía giai cấp chủ nô. Ở đâu có áp bức, ở đó có đấu tranh, vì thế, lịch sử tồn tại và phát triển của nhà nước chủ nô gắn liền với các cuộc khởi nghĩa liên tiếp của nô lệ và các tầng lớp nhân dân lao động khác. Để bảo vệ địa vị thống trị cùng với các đặc quyền, đặc lợi của giai cấp chủ nô, nhà nước chủ nô đã ra sức đàn áp các cuộc khởi nghĩa bằng bạo lực quân sự. Đây cũng là một chức năng được nhà nước chủ nô hết sức chú trọng.

– Chức năng đàn áp về mặt tư tưởng

Bên cạnh việc sử dụng bạo lực quân sự để đàn áp giai cấp nô lệ và các tầng lớp nhân dân lao động khác, nhà nước chủ nô còn thực hiện sự nô dịch về mặt tư tưởng đối với nô lệ và nhân dân lao động. Các nhà nước chủ nô đều sử dụng tôn giáo như một công cụ hữu hiệu cho sự nô dịch về mặt tư tư tưởng. Bởi lẽ tôn giáo đã đã giải thích được đặc quyền cũng như địa vị xã hội của giai cấp thống trị. Các hành vi xâm hại tới tôn giáo cũng được nhà nước chủ nô thông qua pháp luật trừng phạt nghiêm khắc.

b) Các chức năng đối ngoại cơ bản của nhà nước chủ nô bao gồm:

– Chức năng tiến hành chiến tranh xâm lược

Đây là một trong những chức năng đối ngoại cơ bản của nhà nước chủ nô. Điều kiện cho sự tồn tại của nhà nước chủ nô gắn liền với chế độ nô lệ, vì thế các nhà nước chủ nô hết sức coi trọng hoạt động tiến hành chiến tranh xâm lược để mở rộng lãnh thổ và tăng cường số nô lệ của quốc gia. Chế độ nô lệ càng phát triển thì chiến tranh càng tàn khốc. Sau khi dành được thắng lợi các nhà nước chủ nô thường tiến hành các hoạt động xây dựnh thành luỹ, bố trí quân đội ở các nước bại trận và thi hành chính sách bóc lột hà khắc với nhân dân các nước thất bại. Lịch sử nhà nước chủ nô đã có những đế quốc hùng mạnh nhờ việc thi hành chính sách mở rộng chiến tranh xâm lược mà tiêu biểu là đế quốc La mã.

– Chức năng phòng thủ chống xâm lược

Cùng với việc thực hiện hoạt động xâm lược, các nhà nước chủ nô cũng hết sức coi trọng hoạt động phòng thủ chống xâm lược. Thực tế cho thấy rằng bất kỳ nhà nước chủ nô nào cũng đứng trước nguy cơ bị nước khác xâm lược. Để thực hiện chức năng này nhà nước chủ nô tiến hành các hoạt động như: tổ chức lực lượng quân đội, xây dựng các thành luỹ, pháo đài, chuẩn bị cơ sở vật chất…, tiến hành hoạt động quân sự khi cần thiết.

Ngoài các chức năng đã nêu ở trên, nhà nước chủ nô trong một chừng mực nhất định, tuỳ vào thời điểm cụ thể đã tiến hành những cong việc chung bắt nguồn từ sự tồn tại của xã hội như: xây dựng các công trình công cộng, đường sá, tổ chức đắp đê chống lụt…, hoặc các hoạt động bang giao hoà bình, tiến hành buôn bán với các nước khác.

3. Bộ máy nhà nước chủ nô

Chủ thể tiến hành các chức năng của nhà nước chủ nô chính là bộ máy của nhà nước chủ nô, vì thế bộ máy nhà nước chủ nô được xây dựng phù hợp cho việc thực hiện các chức năng của nhà nước. Ở các nhà nước chủ nô khác nhau do hình thức chính thể khác nhau, chức năng cụ thể của nhà nước cũng có những biểu hiện khác nhau, do đó bộ máy nhà nước trong từng quốc gia chiếm hữu nô lệ cũng có những điểm khác biệt. Tuy nhiên, việc thiết lập bộ máy nhà nước chủ nô tựu chung lại đều để thực hiện các chức năng đối nội và đối ngoại cơ bản của nhà nước, duy trì sự thống trị và bảo vệ lợi ích của chủ nô, duy trì trật tự xã hội trên cơ sở của chế độ chiếm hữu nô lệ.

Ở giai đoạn đầu, bộ máy nhà nước chủ nô còn đơn giản và mang đậm dấu ấn của của hệ thống cơ quan quản lý xã hội thị tộc – bộ lạc. Giữa các cơ quan chưa có sự phân định rõ về chức năng. Chuyển sang giai đoạn sau, cùng với sự phát triển đa dạng của các chức năng nhà nước nên bộ máy nhà nước chủ nô càng trở nên cồng kềnh, quan liêu. Nhìn chung bộ máy nhà nước chủ nô đều có các cơ quan: quân đội, cảnh sát, toà án phát triển.

Quân đội là lực lượng được các nhà nước chủ nô quan tâm xây dựng. Trong các nhà nước quân đội chiếm lực lượng đông đảo. Trong nhiều quốc gia mọi người dân đều có nghĩa vụ phải phục vụ quân đội (Nhà nước Spác). Quân đội làm nhiệm vụ chủ yếu là chinh phạt và bảo vệ tổ quốc. Ở những quốc gia chưa có lực lượng cảnh sát quân đội còn đảm nhận thêm nhiệm vụ bảo đảm trật tự xã hội, hỗ trợ toà án trong việc điều tra.

Lực lượng cảnh sát là bộ phận được chú ý thứ hai trong nhà nước chủ nô. Ngoài nhiệm vụ chủ yếu là gìn giữ trật tự xã hội, cảnh sát còn đảm nhận nhiệm vụ hỗ trợ toà án trong việc điều tra, thậm chí cảnh sát còn đảm nhiệm chức năng xét xử (ở La mã), hoặc bảo vệ các công trình công cộng, các công trình tôn giáo như : (bảo vệ nhà thờ, các công trình thuỷ lợi ở các nhà nước phương Đông cổ đại).

Toà án cũng được hết sức chú trọng trong nhà nước chủ nô. Tuy nhiên cách tổ chức toà án ở các nhà nước khác nhau là khác nhau. Ở các quốc gia Phương Đông, quyền xét xử tối cao thuộc về người đứng đầu nhà nước (vua), quyền này có thể được uỷ quyền lại cho một tổ chức phụ thuộc trực tiếp vào vua. Ở các quốc gia Phương Tây cổ đại, hệ thống cơ quan xét xử đã được thiết lập để xét xử những công việc khác nhau, đồng thời đảm nhiệm chức năng quản lý (Aten), hoặc có những cơ quan thường trực đảm trách hoạt động xét xử với các thẩm phán được bầu trong một khoảng thời gian nhất định (La Mã thời kỳ cộng hoà).

4. Hình thức nhà nước chủ nô

a) Hình thức chính thể nhà nước chủ nô

Mặc dù các nhà nước chủ nô đều có những chức năng cơ bản giống nhau, nhưng do điều kiện lịch sử cụ thể của mỗi quốc gia là khác nhau nên trong nhà nước chủ nô có nhiều hình thức chính thể khác nhau. Lịch sử phát triển của nhà nước chủ nô gắn với các hình thức chính thể: quân chủ, cộng hoà dân chủ, cộng hoà quý tộc.

– Chính thể quân chủ chuyên chế phổ biến trọng các nhà nước phương đông cổ đại. Đặc trưng của hình thức này là quyền lực nhà nước tập trung toàn bộ vào trong tay người đứng đầu nhà nước (hoàng đế, vua) với một bộ máy quân sự, quan liêu khá phức tạp (Ai Cập, Babilon, Trung Quốc, Ấn Độ…). Người đứng đầu nhà nước có toàn quyền quyết định vận mệnh quốc gia, cũng như vận mệnh của từng thành viên trong quốc gia đó, chức vụ này được truyền lại theo nguyên tắc cha truyền con nối.

– Chính thể cộng hoà dân chủ tồn tại ở nhà nước chủ nô Aten vào thế kỷ thứ V – IV trước công nguyên. Ở Aten mọi nam công dân trưởng thành đều được tham gia Hội nghị nhân dân. Hội nghị sẽ bầu ra các cơ quan nhà nước và các cá nhân thực thi quyền lực nhà nước theo những nhiệm kỳ nhất định. Nô lệ, kiều dân, phụ nữ, nô lệ đã được giải phóng không được tham gia bầu cử, thực chất của hình thức dân chủ này là dân chủ chủ nô.

– Chính thể cộng hoà quý tộc chủ nô tồn tại ở nhà nước Spác và La Mã. Quyền lực nhà nước (chủ yếu quyền lập pháp) nằm trong tay một hội đồng mà thành viên được bầu ra từ các quý tộc giàu có nhất và họ nắm giữ chức vụ suốt đời. Bên cạnh đó có các cơ quan thực hiện quyền hành pháp và quyền tư pháp cũng được hình thành thông qua con đường bầu cử. Đại hội nhân dân vẫn tồn tại nhưng không chiếm vị trí quan trọng. Đại hội nhân dân chỉ tiến hành bầu những người tham gia vào các chức vụ trong bộ máy nhà nước, thông qua về mặt hình thức các dự luật do Hội đồng trưởng lão đưa ra.

b) Hình thức cấu trúc nhà nước chủ nô

Tất cả các nhà nước chủ nô đều có cấu trúc nhà nước đơn nhất.

>>> Xem thêm: So sánh (phân biệt) nhà nước đơn nhất với nhà nước liên bang

c) Về chế độ chính trị của nhà nước chủ nô

Ở các nước phương Đông chủ yếu tồn tại chế độ độc tài chuyên chế. Ở các nước phương Tây, chế độ chính trị đã mang tính dân chủ, tuy nhiên về bản chất đó chỉ là chế độ dân chủ chủ nô. Về cơ bả, nền dân chủ được thiết lập ở những quốc gia này vẫn là chế độ quân phiệt, độc tài với đại đa số nhân dân lao động.

5/5 - (28203 bình chọn)
  • Bộ máy nhà nước
  • Chế độ chính trị
  • Hình thức nhà nước
  • Kiểu nhà nước
  • Nhà nước
  • Nhà nước chủ nô

Bài viết liên quan

  • Bản chất, chức năng, bộ máy và hình thức nhà nước tư sảnBản chất, chức năng, bộ máy và hình thức nhà nước tư sản
  • Bản chất, chức năng, bộ máy và hình thức nhà nước phong kiếnBản chất, chức năng, bộ máy và hình thức nhà nước phong kiến
  • Bản chất, chức năng, bộ máy và hình thức nhà nước xã hội chủ nghĩaBản chất, chức năng, bộ máy và hình thức nhà nước xã hội chủ nghĩa
  • Các kiểu nhà nước trong lịch sử thế giớiCác kiểu nhà nước trong lịch sử thế giới
  • Hình thức nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt NamHình thức nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
  • Khái niệm, các yếu tố cấu thành hình thức nhà nướcKhái niệm, các yếu tố cấu thành hình thức nhà nước
  • Các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước theo Hiến pháp 2013Các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước theo Hiến pháp 2013
  • Các bộ phận cấu thành của bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩaCác bộ phận cấu thành của bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa

Từ khóa » Các đặc Trưng Của Nhà Nước Chủ Nô