Bàn Về Oan Sai Và Giải Pháp Phòng Ngừa

Bàn về oan sai và giải pháp phòng ngừa  

 (BNCTW) - Phòng, chống oan sai là một chủ trương quan trọng, nhất quán của Đảng ta đặt ra cho công tác tư pháp. Năm 1993, tại Chỉ thị số 29-CT/TW ngày 08-11-1993 của Đảng về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với các cơ quan bảo vệ pháp luật đã nêu rõ: “Đối với người phạm tội phải xử lý chính xác, nghiêm minh, kịp thời… bắt, giam giữ đúng pháp luật và xét xử đúng người, đúng tội; chấm dứt tình trạng bắt oan người vô tội; không trấn áp tràn lan, đồng thời không để lọt tội phạm…”.

Chỉ thị số 53-CT/TW ngày 21-3-2000 của Bộ Chính trị cũng đã tiếp tục nêu rõ một trong những công việc cấp bách mà các cấp ủy đảng, Ban cán sự, Đảng ủy cơ quan Tư pháp cần phải làm là: “Tăng cường chỉ đạo các cơ quan tư pháp trong hoạt động điều tra, bắt, giam, giữ, truy tố, xét xử các vụ án hình sự, kiên quyết khắc phục tình trạng oan sai”. Trước tình hình tội phạm tiếp tục có diễn biến phức tạp, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02-01-2002 về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới; trong đó nêu rõ những tồn tại của công tác tư pháp trong thời gian qua là: “Chất lượng công tác tư pháp nói chung chưa ngang tầm với yêu cầu và đòi hỏi của nhân dân; còn nhiều trường hợp bỏ lọt tội phạm, làm oan người vô tội, vi phạm các quyền tự do dân chủ của công dân, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và các cơ quan Tư pháp”. Trước tình hình đó, Bộ Chính trị yêu cầu: “Nâng cao chất lượng công tác điều tra… Hoạt động công tố phải thực hiện ngay từ khi khởi tố vụ án và trong suốt quá trình tố tụng nhằm bảo đảm không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. Nâng cao chất lượng công tố của kiểm sát viên tại phiên tòa… Khi xét xử, các Tòa án phải bảo đảm cho mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, thực sự dân chủ, khách quan…

Việc phán quyết của Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa; trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, của người bào chữa, bị cáo, nhân chứng, nguyên đơn, bị đơn, những người có quyền, lợi ích hợp pháp để ra bản án, quyết định đúng pháp luật, có sức thuyết phục”.

Tư tưởng, chủ trương trên của Đảng tiếp tục được khẳng định, nhấn mạnh trong Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02-6-2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020; Chỉ thị số 48-CT/TW ngày 22-10-2010 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tội phạm trong tình hình mới… Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ Chính trị nhấn mạnh: “Các cơ quan Tư pháp phải thật sự là chỗ dựa của nhân dân trong việc bảo vệ công lý, quyền con người; đồng thời, là công cụ hữu hiệu bảo vệ pháp luật và pháp chế xã hội chủ nghĩa”. Chỉ thị 48-CT/TW coi việc “Tiếp tục đẩy mạnh cải cách tư pháp, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác điều tra, truy tố, xét xử… nhằm phát hiện kịp thời và xử lý nghiêm minh mọi hành vi phạm tội, không bỏ lọt tội phạm và không làm oan người vô tội” là một trong những nhiệm vụ chủ yếu trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm.

Quán triệt và thực hiện nghiêm túc chủ trương của Đảng về đấu tranh phòng, chống tội phạm, khắc phục tình trạng bỏ lọt tội phạm, đồng thời, phải đáp ứng yêu cầu không làm oan người vô tội, các cơ quan Tư pháp trong những năm qua đã có nhiều cố gắng. Tuy nhiên, điều đáng tiếc là vẫn còn để xảy ra một số vụ án oan, xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân; làm ảnh hưởng đến lòng tin của nhân dân đối với các cơ quan Tư pháp. Đơn cử vụ Nhiên - Tỏ ở Hậu Giang, vụ Nguyễn Sỹ Lý ở Nghệ An… và gần đây là vụ án Nguyễn Thanh Chấn ở Bắc Giang (đã bị Viện kiểm sát nhân dân tối cao kháng nghị tái thẩm, Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hủy án để điều tra lại). Ngoài ra, còn một số vụ án mặc dù đã xét xử và bản án đã có hiệu lực nhưng người bị kết án đang có nhiều đơn thư khiếu nại, kêu oan như vụ Hàn Đức Long (Bắc Giang) v.v… Việc xác định người bị kết án bị oan chỉ xảy ra sau một thời gian dài kể từ khi bản án có hiệu lực pháp luật. Vấn đề đặt ra là tại sao trong các vụ án đã phải trải qua nhiều trình tự, thủ tục tố tụng; nhiều cơ quan tiến hành tố tụng điều tra, truy tố, xét xử; giữa các cơ quan này đều có quyền hạn thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ và kiểm tra lẫn nhau; việc xét xử các bị cáo này diễn ra công khai, có người bào chữa tham gia… nhưng vẫn bị oan? Việc người vô tội bị oan phải được nhìn nhận là một hiện tượng xã hội - pháp lý, do đó để xảy ra việc người vô tội bị oan đều có nguyên nhân khách quan và chủ quan. Nếu xét từ góc độ nguyên nhân khách quan, trước hết và quan trọng là ở phương diện quy định của pháp luật. Nếu xét theo nguyên nhân chủ quan, cần xem xét ở góc độ người tiến hành tố tụng và bản thân người bị oan cũng như người tham gia tố tụng khác. Trong mối quan hệ với nhau, dù cân đong đo đếm như thế nào thì nguyên nhân chủ quan vẫn là nguyên nhân trực tiếp, quyết định tới việc làm oan người vô tội.

Xét về nguyên nhân khách quan, trước hết cần nhìn nhận có một thực trạng hiện nay là trên phương diện quy định của pháp luật và thực thi pháp luật, có nhiều quy định của pháp luật đã không được thi hành nghiêm túc. Mặc dù có quy định về thời hạn tố tụng cho mỗi giai đoạn nhưng vẫn có nhiều vụ án kéo dài, vi phạm thời hạn; mặc dù đã có quy định về thẩm quyền điều tra, truy tố, xét xử nhưng vẫn có nhiều vụ án điều tra không đúng thẩm quyền (nhất là trong trường hợp Cơ quan điều tra cấp trên lấy các vụ án thuộc thẩm quyền của cấp dưới lên để điều tra nhưng thực chất không phải là lấy lên mà tự điều tra các vụ án này); có nhiều vụ án khi Viện kiểm sát đã đưa ra các yêu cầu điều tra nhưng một số cơ quan điều tra không thực hiện; nhiều vụ án chỉ có lời nhận tội của bị can, bị cáo mà không có chứng cứ khác để đối chứng nhưng cơ quan tiến hành tố tụng vẫn sử dụng để buộc tội vì cho rằng “bản thân bị cáo thừa nhận kia mà” v.v… Để xảy ra tình trạng này trước hết vì pháp luật khi quy định như trên nhưng không kèm theo các chế tài của các vi phạm này đối với việc giải quyết vụ án. Chúng tôi cho rằng, cần có các quy định pháp luật nêu rõ hậu quả pháp lý trong việc giải quyết vụ án đối với những vi phạm, nhất là vi phạm về thủ tục tố tụng, vi phạm trong quá trình điều tra, thu thập chứng cứ. Quá trình giải quyết vụ án “oan” cũng như bất kể vụ án nào, điều quan trọng đầu tiên là các cơ quan tố tụng phải thu thập được đầy đủ chứng cứ để xác định có sự việc phạm tội xảy ra, có người thực hiện hành vi phạm tội, diễn biến của quá trình phạm tội, hậu quả của tội phạm v.v… Việc thu thập chứng cứ phải đúng theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định. Những chứng cứ nào thu thập được bằng các biện pháp, thủ tục trái pháp luật thì phải bị coi là không có giá trị pháp lý. Chính vì hiện nay pháp luật không có quy định những loại chứng cứ nào thì không có giá trị pháp lý, không được sử dụng để chứng minh về tội phạm nên dẫn đến tình  trạng việc sử dụng, đánh giá chứng cứ không nhất quán, không nghiêm. Đây là một trong những nguyên nhân khách quan có thể dẫn đến việc làm oan. Để khắc phục nguyên nhân này, chúng tôi đề nghị pháp luật tố tụng hình sự cần khẳng định mạnh mẽ hơn giá trị chứng minh của chứng cứ, coi chứng cứ là phương tiện duy nhất để chứng minh; nếu không đầy đủ chứng cứ để chứng minh thì phải coi là chưa có đủ cơ sở buộc tội. Mặt khác, phải có quy định loại trừ những chứng cứ mà việc thu thập, kiểm tra, bảo quản chứng cứ có vi phạm pháp luật. Trước hết, những quy định về việc loại trừ chứng cứ cần được bổ sung trong Bộ luật tố tụng hình sự sửa đổi sắp tới, dần dần tiến đến việc xây dựng riêng một đạo luật về chứng cứ.

Về nguyên nhân khách quan của việc “làm oan người vô tội” xét trên phương diện quy định của pháp luật, chúng tôi cho rằng cần tăng cường hơn nữa vai trò của người bào chữa ngay từ những giai đoạn đầu, những thủ tục tố tụng đầu tiên. Trong cơ chế pháp luật hiện hành, việc điều tra tội phạm được kiểm soát bởi cơ quan Viện kiểm sát. Bên cạnh đó, còn có sự tham gia của người bào chữa. Theo logic thông thường, bất cứ hoạt động tố tụng nào mà có sự tham gia của nhiều “bên” với chức năng giám sát lẫn nhau sẽ có khả năng mang tính khách quan cao hơn. Như nhận xét ở đầu bài viết này, việc “bị oan” xảy ra lâu nay chủ yếu trong quá trình giải quyết các vụ án về tội phạm xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm con người. Trong các vụ án “bị oan”, vai trò của người bào chữa chưa được khẳng định đúng mức. Người bào chữa chưa được tham gia đầy đủ ngay từ đầu quá trình tố tụng. Các ý kiến bào chữa chưa được các cơ quan tiến hành tố tụng quan tâm đúng mức. Điều này có nguyên nhân từ quy định của pháp luật tố tụng hình sự. Bộ luật tố tụng hình sự 2003 quy định việc tham gia của người bào chữa là do bị can, bị cáo hoặc người đại diện hợp pháp của họ mời, ngoại trừ một số trường hợp các cơ quan tiến hành tố tụng phải mời người bào chữa (quy định tại Điều 57 Bộ luật tố tụng hình sự). Tuy nhiên, ngay cả trong các trường hợp cơ quan tố tụng phải mời bào chữa thì quy định này cũng chưa thể hiện rõ vai trò của người bào chữa. Khoản 2 Điều 57 Bộ luật tố tụng hình sự quy định có 3 trường hợp cơ quan tố tụng phải mời người bào chữa (bị can, bị cáo là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất và người phạm tội theo khung hình phạt có mức cao nhất là tử hình). Có một thực tế là khi khởi tố, điều tra có nhiều trường hợp chưa thể xác định ngay bị can phạm tội theo khung khoản nào, có mức hình phạt cao nhất là tử hình hay không, do vậy, chưa xác định được ngay đây có phải là trường hợp bắt buộc phải mời người bào chữa hay không? Hơn nữa, quy định tại khoản 2 Điều 57 Bộ luật tố tụng hình sự không đồng nghĩa với việc người bào chữa được tham gia (bắt buộc phải tham gia) ngay từ đầu quá trình giải quyết vụ án. Cả về phương diện lý luận cũng như thực tiễn, việc người bào chữa được quyền, có nghĩa vụ cũng như việc cơ quan tiến hành tố tụng có trách nhiệm bảo đảm sự có mặt của người bào chữa ngay từ những hoạt động tố tụng đầu tiên của việc giải quyết các vụ án, nhất là các vụ án về tội phạm “giết người” là rất cần thiết. Để khắc phục tình trạng “án oan”, chúng tôi cho rằng cần quy định bảo đảm sự tham gia của người bào chữa ngay từ những hoạt động tố tụng đầu tiên của quá trình giải quyết vụ án (ngoại trừ một số vụ án về các tội phạm xâm phạm an ninh quốc gia đòi hỏi có những yêu cầu đặc thù riêng)… Trong những biên bản, tài liệu phản ánh về vụ án do Cơ quan điều tra thu thập ngay từ thời điểm đầu tiên của quá trình tố tụng, bắt buộc phải có mặt và có ký xác nhận của người bào chữa. Nếu những văn bản, tài liệu này không có sự tham gia và ký xác nhận của người bào chữa thì không có giá trị pháp lý, không có giá trị chứng minh về tội phạm.

Nguyễn Nông (Viện trưởng Viện Thực hành quyền công tố và Kiểm sát xét xử phúc thẩm tại Hà Nội)

 

Từ khóa » Giải Pháp Phòng Chống Oan Sai