Báo Cáo Lâm Sàng: Sang Thương Dạng Lõi Táo Của Kết Tràng.

Tóm tắt:

* Giới thiệu: Sự hiện diện của sang thương hình lõi táo ở kết tràng có thể gặp trong nhiều bệnh lí.

* Tình huống trình bày: Bệnh nhân nam được chuyển đến viện phẫu thuật với tiêu phân đen và sụt cân, Khám lâm sàng và cận lâm sàng xác nhận một sang thương dạng lõi táo ở kết tràng. Bệnh nhân được phẫu thuật, nhưng không may, qua đời 2 tuần sau đó do nhiễm trùng vùng ngực.

* Kết luận: Tình huống này cho thấy sự hữu ích của CT trong việc mô tả nguyên nhân cơ bản của thiếu máu thiếu sắt, và đồng thời, dàn dựng bệnh lí cho di căn theo vùng khu trú.

 

Tình huống lâm sàng:

Một người đàn ông 86 tuổi, người Anh da trắng, được chuyển đến viện phẫu thuật tháng 9 năm 2007 với tiêu phân đen và sụt cân. Ông có dấu hiệu thiếu máu trên khám lên sàng, ngoài ra không có dấu hiệu nào khác được tìm thấy. Ông có tiền căn cắt phổi trái năm 1985 do carcinoma tế bào biểu mô vảy của phổi, Bệnh phổi tắc nghẽn mạn, phì đại tuyến tiền liệt lành tính và viêm túi thừa. Hb là 6,0 mg/L.

 

CT bụng (Hình 1) cho thấy một chỗ hẹp dạng lõi táo do khối u ở đoạn gần kết tràng ngang và một sang thương 2cm ở lớp đáy của đoạn giữa kết tràng lên. Bệnh nhân đã qua phẫu thuật cắt bỏ triêt để một nửa kết tràng tháng 11 năm 2007. Kiểm tra đại thể mẫu mô cho thấy một khối u chu vi 50mm*45mm ở ruột già, xâm lấn toàn bộ thành đại tràng. Khối u có bề mặt với màng thanh dịch, cách 40mm từ đoạn đoạn xa bờ cắt và 160mm từ đoạn gần bờ cắt. Những phát hiện khác bao gồm khuyết độ dày đầy đủ (có thể phẫi thuật),đường kính tối đa 30mm nằm cách đoạn gần của khối u 80mm và liên hệ 24mm vớii một polyp không cuống (Hình 2). Lớp niêm mạc nền có tổng cộng 6 polyp, giữa 4mm và 25mm, và cái lớn nhất nằm cách đoạn gần bờ cắt 60mm. Đoạn cuối hồi tràng được được cắt qua thành cách khoảng 40mm từ đdầu gần và được nối với phần còn lại của hồi tràng chỉ với một bộ phận của mô hồi tràng. Kiểm tra vi thể cho thấy sự biệt hoá vừa phải của ung thư biểu mô tuyến (Hình 3,4). Khối u có khuôn mẫu phát triển xâm lấn với thâm nhập bạch huyết tối thiểu tại bờ tiến triển. Khối u hiện diện tại màng thanh mạc (pT4). Một vùng nghi ngờ có xâm lấn mạch bạch huyết phía ngoài cũng được tìm thấy. Polyp lớn nhất là một u tuyến với phần nhung mao và ống tuyến loạn sản nghiêm trọng. Các polyp còn lại loạn sản ở mức độ vừa phải phần nhung mao mao và ống tuyến. Một polyp tăng sản khác cũng được phát hiện. 13 hạch lypho được xác định không có bất cứ cái nào cho thấy có di căn. Tất cả các phát hiện đều xác nhận một u biểu mô tuyến, Dukes’ B, pT4N0Mx. KHông may thay, tình trạng bệnh nhân xấu đi sau khi phát triễn một nhiễm trùng ở vùng ngực và bệnh nhân tử vong 2 tuần sau phẫu thuật.

 

clip_image002

Hình 1: CT bụng cho thấy một sang thương hình lõi táo của kết tràng ngang (mũi tên) ở một BN nam 86 tuổi.

 

clip_image004

Hình 2: CT bụng cho thấy một polyp ở kết tràng lên (mũi têm) ở một BN nam 86 tuổi.

 

clip_image006

Hình 3 : Hình nhìn với độ phóng đại thấp của một u biểu mô tuyến biệt hoá vừa ở kết tràng của một BN nam 86 tuổi (*20).

 

clip_image008

Hình 4: Nhìn với độ phóng đại cao một u biểu mô tuyến biệt hoá vừa ở kết tràng một BN nam 86 tuổi (*40).

 

Bàn luận:

Sự hiện diện của sang thương hình lõi táo ở kết tràng có thể gây ra bởi nhiều bệnh lí. Những chẩn đoán khác bao gồm u biểu mô tuyến kết tráng, lyphoma, bệnh Crohn, viêm loét đại tràng mạn, viêm đại tràng do thiếu máu cục bộ, nhiễm Chlamydia, tuberculosis, Helminthoma, Amoebiasis, Cytomegalovirus, u tuyến nhung mao, và xạ phẫu như khi dùng liều cao Cyberknife để điều trị K ổ bụng không thể cắt bỏ, ví dụ như K tuỵ.

 

U biểu mô đại tràng thường được xác định bằng nội soi đại tràng cản quang barium để đánh giá gần đúng các triệu chứng bụng (Hình 5,6). Chỗ hẹp đại tràng thường dài 3-4 cm và hiến khi đạt tới 6cm. Sự không đều của niêm mạc và một lòng ống bất thường với phần vai nhô ra có đặc điểm như một sang thương hình lõi táo được nghi ngờ là ung thư biểu mô, nhưng mô học vẫn giữ vai trò mấu chốt trong xác định chẩn đoán. CHỗ hẹp trong bệnh Crohn có lòng ống trơn và thon nhọn ở đoạn cuối nối vào đoạn ruột bình thường, và hiện diện đến 25% trường hợp ở viêm đại tràng Crohn. Chỗ hẹp cũa viêm loét đại tràng thường ở đại tràng xích-ma (Hình 7) và giống với bệnh Crohn trên Xquang.

 

clip_image010

Hình 5: Sang thương hình lõi táo ở kết tràng ở phim chụp cản quang Barium (mũi tên).

 

clip_image012

Hình 6: Sang thương hình lõi táo ở kết tràng ở phim chụp cản quang Barium (mũi tên).

 

clip_image014

Hình 7: CT bụng cho thấy một chỗ hẹp ở kết tràng xích ma trong viêm loét đai tràng (mũi tên).

 

Lao ruột xảy ra ở vùng hồi-manh tràng trong 90% trường hợp. Chỗ hẹp bao gồm một đoạn ruột dài hơn, và liên quan với nút nhầy hay loét nhầy (Hình 8). Trong hầu hết trường hợp, không có đặc điểm nào xuất hiện. Amip gây ra chỗ hẹp 2-8% trường hợp mạn tính. Chỗ hẹp này đồng tâm với đầu cuối thon, và dài hơn trong ung thư biểu mô, nhưng khi ngắn hơn thì nó thường lệch tâm và có thể giả một ung thư biểu mô. Chlamydia trachomatis gây ra chỗ hẹp và những đường rò trong đại tràng xích mà và trực tràng, và có thể giống như ung thư biểu mô hay bệnh Crohn.

 

clip_image016

Hình 8: CT bụng mô tả một chỗ hẹp của lao ruột tại vùng hồi tràng (mũi tên).

 

Chỗ hẹp của thiếu máu cục bộ có bờ rìa thon dần với chỗ hẹp đồng tâm của lòng ruột và niêm mạc nguyên vẹn (Hình 9). Nó thường bao gồm đoạn xa kết tràng ngang, kết tràng góc lách và manh tràng. U tuyến nhung mao hầu hết định vị dưới chỗ gập của phúc mạng bụng (79% ở trực tràng và kết tràng xích ma hay xa chúng hơn). Hiếm hơn, chúng có thể được tìm thấy ở những vị trí cao như góc gan. Trên phim chụp cản quang barium, chúng hiện diện mềm và tạo ra những chỗ khuyết không cuống được đổ đầy với khung niêm mạc không đều đặn được biết như lưới, dạng hạt, ren hoặc như lông. Hình thể này xuất hiện do sự giữ lại barium trong kẽ hở của u tuyến ‘u dạng hình lá’

 

clip_image018

Hình 9: CT bụng cho thấy một chỗ hẹp do thiếu máu cục bộ của kết tràng (mũi tên).

 

Kết luận:

Trong trường hợp này, chúng tôi mô tả giá trị của CT scan trong phát hiện chỗ hẹp hình lõi tái điển hình cũng như nguyên nhân của thiếu máu thiếu sắt của BN. Sự kiểm tra này cung cấp chẩn đoán xquang xác định và giúp phận đoạn bệnh với xét nghiện đơn độc. Điều này có thể hỗ trợ làm giảm sự trì hoãn giữa triệu chứng và điều trị.

 

Link: http://www.casesjournal.com/content/2/1/7275

Chia sẻ:

  • Twitter
  • Facebook
Thích Đang tải...

Có liên quan

Từ khóa » Hình Lõi Táo