BÁO CÁO TÌNH HÌNH KINH TẾ – XÃ HỘI NĂM 2015

Năm 2015 – Năm có ý nghĩa to lớn và quan trọng, năm cuối thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội 5 năm 2011-2015 đã khép lại. Kết quả hoạt động sản xuất, kinh doanh của năm 2015 là cơ sở và động lực cho việc xây dựng và thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội năm 2016, năm đầu của Kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội 5 năm 2016 – 2020.

Kinh tế – xã hội năm 2015 diễn ra trong bối cảnh thị trường toàn cầu có những bất ổn, kinh tế thế giới vẫn đối mặt với nhiều rủi ro lớn với các nhân tố khó lường. Triển vọng kinh tế khu vực Eurozone chưa thật lạc quan. Thương mại toàn cầu sụt giảm do tổng cầu yếu. Kinh tế thế giới chưa lấy lại được đà tăng trưởng và phục hồi chậm. Giá dầu thô giảm mạnh dẫn đến giá cả hàng hóa có xu hướng giảm nhanh, ảnh hưởng đến các nước xuất khẩu. Sự bất ổn của thị trường tài chính toàn cầu với việc giảm giá đồng Nhân dân tệ và tăng trưởng sụt giảm của kinh tế Trung Quốc đã tác động mạnh tới kinh tế thế giới. Ở trong nước, giá cả trên thị trường thế giới biến động, nhất là giá dầu giảm gây áp lực đến cân đối ngân sách Nhà nước, nhưng đồng thời là yếu tố thuận lợi cho việc giảm chi phí đầu vào, phát triển sản xuất và kích thích tiêu dùng.

Trong bối cảnh như vậy, ngay từ đầu năm, Đảng, Quốc hội, Chính phủ đã kịp thời ban hành nhiều Nghị quyết, chính sách cùng các giải pháp và nhiệm vụ cụ thể, trong đó trọng tâm và trực tiếp là Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 03 tháng 01 năm 2015 về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu chỉ đạo điều hành thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2015; Nghị quyết số 19/NQ-CP ngày 12 tháng 3 năm 2015 về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu tiếp tục cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia 2 năm 2015 – 2016, đồng thời tập trung lãnh đạo, chỉ đạo các ngành, các cấp, các địa phương thực hiện nghiêm và đồng bộ các giải pháp, từng bước tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy sản xuất, kinh doanh nhằm thực hiện mục tiêu tổng quát của Kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội năm 2015 là: “Tăng cường ổn định kinh tế vĩ mô, tập trung tháo gỡ khó khăn cho hoạt động sản xuất, kinh doanh. Thực hiện mạnh mẽ các đột phá chiến lược, tái cơ cấu nền kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng, nâng cao hiệu quả và năng lực cạnh tranh, phấn đấu tăng trưởng cao hơn năm 2014. Tiếp tục phát triển các lĩnh vực xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ, bảo vệ môi trường, cải thiện đời sống nhân dân. Đẩy mạnh cải cách hành chính, cải cách tư pháp, phòng, chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. Tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia, bảo đảm an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội. Nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại, hội nhập và hợp tác quốc tế”. Dưới đây là kết quả chi tiết sản xuất kinh doanh của các ngành, lĩnh vực năm 2015:

I. TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ

  1. Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước

Tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2015 ước tính tăng 6,68% so với năm 2014, trong đó quý I tăng 6,12%; quý II tăng 6,47%; quý III tăng 6,87%; quý IV tăng 7,01%. Mức tăng trưởng năm nay cao hơn mục tiêu 6,2% đề ra và cao hơn mức tăng của các năm từ 2011-2014[1], cho thấy nền kinh tế phục hồi rõ nét. Trong mức tăng 6,68% của toàn nền kinh tế, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 2,41%, thấp hơn mức 3,44% của năm 2014, đóng góp 0,4 điểm phần trăm vào mức tăng chung; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 9,64%, cao hơn nhiều mức tăng 6,42% của năm trước, đóng góp 3,2 điểm phần trăm; khu vực dịch vụ tăng 6,33%, đóng góp 2,43 điểm phần trăm.

Trong khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản, ngành lâm nghiệp có mức tăng cao nhất với 7,69%, nhưng do chiếm tỷ trọng thấp nên chỉ đóng góp 0,05 điểm phần trăm vào mức tăng chung; ngành nông nghiệp mặc dù tăng thấp ở mức 2,03% do ảnh hưởng của thiên tai, hạn hán, nhưng quy mô trong khu vực lớn nhất (chiếm khoảng 75%) nên đóng góp 0,26 điểm phần trăm; ngành thủy sản tăng 2,80%, đóng góp 0,09 điểm phần trăm, là mức tăng trưởng thấp nhất của ngành này trong 5 năm qua[2] do đối mặt với nhiều khó khăn về thời tiết, dịch bệnh, giá cả và thị trường tiêu thụ sản phẩm.

Trong khu vực công nghiệp và xây dựng, ngành công nghiệp tăng 9,39% so với năm trước, trong đó công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 10,60%, cao hơn nhiều mức tăng của một số năm trước[3], đóng góp đáng kể vào tốc độ tăng của khu vực II và góp phần quan trọng trong mức tăng trưởng chung. Ngành khai khoáng tăng 6,50%. Ngành xây dựng đạt mức tăng 10,82% so với năm trước, đây là mức tăng cao nhất kể từ năm 2010[4].

Trong khu vực dịch vụ, đóng góp của một số ngành có tỷ trọng lớn vào mức tăng trưởng chung như sau: Bán buôn và bán lẻ chiếm tỷ trọng lớn nhất, đạt mức tăng 9,06% so với năm 2014, đóng góp 0,82 điểm phần trăm vào mức tăng chung; hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm tăng 7,38%, đóng góp 0,41 điểm phần trăm; hoạt động kinh doanh bất động sản được cải thiện hơn với mức tăng 2,96%, cao hơn mức tăng 2,80% của năm trước và chủ yếu tập trung vào mua nhà ở, đóng góp 0,16 điểm phần trăm.

Quy mô nền kinh tế năm nay theo giá hiện hành đạt 4192,9 nghìn tỷ đồng; GDP bình quân đầu người năm 2015 ước tính đạt 45,7 triệu đồng, tương đương 2109 USD, tăng 57 USD so với năm 2014. Cơ cấu nền kinh tế năm nay tiếp tục có sự chuyển dịch nhưng tốc độ chậm, trong đó khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỷ trọng 17,00%; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 33,25%; khu vực dịch vụ chiếm 39,73% (thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm là 10,02%). Cơ cấu tương ứng của năm 2014 là: 17,70%; 33,21%; 39,04% (thuế là 10,05%).

Xét về góc độ sử dụng GDP năm 2015, tiêu dùng cuối cùng tăng 9,12% so với năm 2014, đóng góp 10,66 điểm phần trăm vào mức tăng chung; tích lũy tài sản tăng 9,04%, đóng góp 4,64 điểm phần trăm; chênh lệch xuất, nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ làm giảm 8,62 điểm phần trăm của mức tăng trưởng chung.

Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước

các năm 2013, 2014 và 2015

 

                Tốc độ tăng so với

năm trước (%)

Đóng góp của các khu vực vào tăng trưởng năm 2015 (Điểm phần trăm)
Năm 2013 Năm 2014 Năm 2015
Tổng số 5,42 5,98 6,68 6,68
Nông, lâm nghiệp và thuỷ sản 2,63 3,44 2,41 0,40
Công nghiệp và xây dựng 5,08 6,42 9,64 3,20
Dịch vụ 6,72 6,16 6,33 2,43
Thuế sản phẩm trừ trợ cấp sp 6,42 7,93 5,54 0,65
  1. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản

Giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản năm 2015 theo giá so sánh 2010 ước tính đạt 858,4 nghìn tỷ đồng, tăng 2,6% so với năm 2014, bao gồm: Nông nghiệp đạt 637,4 nghìn tỷ đồng, tăng 2,3%; lâm nghiệp đạt 26,6 nghìn tỷ đồng, tăng 7,9%; thủy sản đạt 194,4 nghìn tỷ đồng, tăng 3,1%.

a. Nông nghiệp

Sản lượng lúa cả năm 2015 ước tính đạt 45,2 triệu tấn, tăng 240,9 nghìn tấn so với năm 2014[5] do diện tích gieo trồng ước tính đạt 7,8 triệu ha, tăng 18,7 nghìn ha; năng suất đạt 57,7 tạ/ha, tăng 0,2 tạ/ha. Nếu tính thêm 5,3 triệu tấn ngô thì tổng sản lượng lương thực có hạt năm nay ước tính đạt 50,5 triệu tấn, tăng 319,8 nghìn tấn so với năm 2014.

Trong sản xuất lúa, diện tích gieo trồng lúa đông xuân đạt 3,1 triệu ha, giảm 4,1 nghìn ha so với vụ đông xuân trước; năng suất đạt 66,5 tạ/ha, giảm 0,4 tạ/ha nên sản lượng đạt 20,7 triệu tấn, giảm 158,8 nghìn tấn, chủ yếu do bị ảnh hưởng của nắng nóng tại hầu hết các địa phương và xâm nhập mặn ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Diện tích gieo trồng lúa hè thu và thu đông đạt gần 2,8 triệu ha, tăng 51 nghìn ha; năng suất đạt 53,8 tạ/ha, tăng 0,8 tạ/ha và sản lượng đạt 15 triệu tấn, tăng 512,5 nghìn tấn.

Diện tích gieo trồng lúa mùa đạt trên 1,9 triệu ha, giảm 28,2 nghìn ha so với vụ mùa năm trước do các địa phương thực hiện việc dồn điền, đổi thửa và chuyển đổi một phần diện tích kém hiệu quả sang trồng cây ăn quả hoặc nuôi trồng thủy sản có thu nhập cao hơn. Năng suất lúa mùa năm nay ước tính đạt 49,2 tạ/ha, tăng 0,1 tạ/ha so với vụ mùa trước; sản lượng ước tính đạt 9,5 triệu tấn, giảm 112,7 nghìn tấn.

Kết quả sản xuất một số cây hàng năm khác đạt thấp: Sản lượng khoai lang đạt 1330,4 nghìn tấn, giảm 70,9 nghìn tấn so với năm trước (diện tích giảm 3,2 nghìn ha); mía đạt 18,3 triệu tấn, giảm 1,5 triệu tấn (diện tích giảm 20,5 nghìn ha); lạc đạt 451,8 nghìn tấn, giảm 1,5 nghìn tấn (diện tích giảm 8,7 nghìn ha); đậu tương đạt 146,4 nghìn tấn, giảm 10,1 nghìn tấn (diện tích giảm 8,6 nghìn ha). Riêng sắn và rau đậu tăng khá, sản lượng sắn ước tính đạt 10,7 triệu tấn, tăng 464 nghìn tấn (diện tích tăng 13,7 nghìn ha); rau, đậu đạt 15,9 triệu tấn, tăng 282,2 nghìn tấn (diện tích tăng 9,5 nghìn ha).

Cây công nghiệp lâu năm tiếp tục phát triển. Diện tích và sản lượng một số cây chủ yếu tăng so với năm 2014, trong đó diện tích chè ước tính đạt 134,7 nghìn ha, tăng 1,6% so với năm trước; sản lượng chè búp đạt 1 triệu tấn, tăng 1,9%; cà phê diện tích đạt 645,2 nghìn ha, tăng 0,6%, sản lượng đạt 1445 nghìn tấn, tăng 2,6%; cao su diện tích đạt 981 nghìn ha, tăng 0,2%, sản lượng đạt 1017 nghìn tấn, tăng 5,2%; hồ tiêu diện tích đạt 97,6 nghìn ha, tăng 14%, sản lượng đạt 168,8 nghìn tấn, tăng 11,3%. Riêng cây điều, mặc dù diện tích cho sản phẩm giảm 1,5% so với năm trước, nhưng do năng suất tăng nên sản lượng đạt xấp xỉ năm 2014.

Một số cây ăn quả có sản lượng đạt khá: Bưởi đạt 457,9 nghìn tấn, tăng 3,4%; xoài đạt 702 nghìn tấn, tăng 3,4%; chuối đạt 1,9 triệu tấn, tăng 3,3%; dứa đạt 598,3 nghìn tấn, tăng 1,1%. Một số cây ăn quả có sản lượng giảm so với năm 2014: Sản lượng quýt đạt 161,6 nghìn tấn, giảm 4,5%; cam đạt 579,5 nghìn tấn, giảm 1,7%; vải đạt 362,2 nghìn tấn, giảm 1,7%; nhãn đạt 512,3 nghìn tấn, giảm 1,3%.

Chăn nuôi gia súc, gia cầm chuyển dịch theo hướng tích cực, từ chăn nuôi nhỏ lẻ, phân tán sang chăn nuôi tập trung theo mô hình trang trại, gia trại, ứng dụng công nghệ khoa học kỹ thuật, tăng hiệu quả kinh tế. Theo kết quả điều tra chăn nuôi tại thời điểm 01/10/2015, đàn trâu cả nước có 2,5 triệu con, tăng 0,1% so với cùng thời điểm năm trước; đàn bò có 5,4 triệu con, tăng 2,5%, riêng đàn bò sữa đạt 275,3 nghìn con, tăng 21%. Đàn lợn có 27,7 triệu con, tăng 3,7%; đàn gia cầm có 341,9 triệu con, tăng 4,3%. Sản lượng thịt hơi các loại năm nay ước tính đạt khá, trong đó sản lượng thịt trâu đạt 85,8 nghìn tấn, tăng 0,1%; sản lượng thịt bò đạt 299,3 nghìn tấn, tăng 2,2%; sản lượng thịt lợn đạt 3,5 triệu tấn, tăng 4,2%; sản lượng thịt gia cầm đạt 908,1 nghìn tấn, tăng 3,8%.

Dịch bệnh trên gia súc, gia cầm trong năm còn xảy ra ở một số địa phương. Tính đến thời điểm 22/12/2015, cả nước không còn dịch tai xanh trên lợn; dịch bệnh chưa qua 21 ngày còn ở các địa phương: Dịch cúm gia cầm ở Quảng Ninh, Quảng Nam, Bà Rịa – Vũng Tàu; dịch lở mồm long móng ở Ninh Thuận, Cao Bằng, Lạng Sơn, Yên Bái, Kon Tum, Bình Định.

b. Lâm nghiệp

Diện tích rừng trồng tập trung năm 2015 ước tính đạt 240,6 nghìn ha, tăng 8,5% so với năm 2014, trong đó một số địa phương có diện tích rừng trồng mới tập trung tăng khá: Hà Giang đạt 11,6 nghìn ha, gấp gần 3 lần năm trước; Yên Bái 15,5 nghìn ha, tăng 25,7%; Nghệ An 19,5 nghìn ha, tăng 21,5%; Phú Thọ 8,2 nghìn ha, tăng 16,4%. Số cây lâm nghiệp trồng phân tán cả năm đạt 161,2 triệu cây, tăng 3,8%.

Sản lượng gỗ khai thác năm 2015 ước tính đạt 8309 nghìn m3, tăng 11,9% so với năm trước; sản lượng củi khai thác đạt 28,4 triệu ste, tăng 0,4%. Một số địa phương có sản lượng gỗ khai thác tăng nhiều so với năm trước: Quảng Ngãi đạt 715 nghìn m3, tăng 36,5%; Quảng Trị 399 nghìn m3, tăng 27,1%; Bình Định 680 nghìn m3, tăng 26%; Tuyên Quang 472 nghìn m3, tăng 20,1%.

Công tác bảo vệ rừng được các cấp, các ngành quan tâm với nhiều biện pháp phòng cháy, chữa cháy rừng được triển khai nên mặc dù tình trạng cháy rừng vẫn xảy ra ở một số địa phương nhưng mức độ thiệt hại đã giảm so với năm trước. Tổng diện tích rừng bị thiệt hại của cả nước năm 2015 là 1889 ha, giảm 53,1%, trong đó diện tích rừng bị cháy là 1076 ha, giảm 65,9%; diện tích rừng bị chặt phá là 813 ha, giảm 6,6%. Một số tỉnh có diện tích rừng bị cháy nhiều: Thanh Hóa 169 ha; Hà Giang 156 ha; Sơn La 120 ha; Bình Định 114 ha. Một số địa phương có diện tích rừng bị chặt phá nhiều: Đắk Nông 282 ha; Điện Biên 174 ha; Lâm Đồng 158 ha.

c. Thủy sản

Sản lượng thuỷ sản năm 2015 ước tính đạt 6549,7 nghìn tấn, tăng 3,4% so với năm trước, trong đó cá đạt 4725,4 nghìn tấn, tăng 3,4%; tôm đạt 797,2 nghìn tấn, tăng 0,9%.

Nuôi trồng thủy sản trong năm gặp nhiều khó khăn do thời tiết thay đổi thất thường, dịch bệnh diễn biến phức tạp; thị trường xuất khẩu giảm mạnh, giá thu mua thấp trong khi chi phí đầu vào tăng cao. Nhiều địa phương đã chuyển đổi phương thức, mô hình nuôi nhằm nâng cao năng suất, hiệu quả và chất lượng. Sản lượng thủy sản nuôi trồng năm 2015 ước tính đạt 3513,4 nghìn tấn, tăng 2,9% so với năm trước, trong đó cá đạt 2522,6 nghìn tấn, tăng 3,0%; tôm đạt 628,2 nghìn tấn, giảm 0,5%.

Nuôi cá tra có sự chuyển dịch từ nuôi nhỏ lẻ sang mô hình nuôi tập trung theo chuỗi liên kết, tập trung áp dụng quy trình theo tiêu chuẩn VietGap, Global GAP, ASC[6]. Tuy nhiên, nuôi cá tra vẫn gặp nhiều khó khăn do giá bán cá tra nguyên liệu vẫn ở mức thấp, xuất khẩu cá tra phải chịu mức thuế cao. Riêng một số doanh nghiệp nuôi quy mô lớn, theo mô hình chuỗi liên kết vẫn duy trì được mức tăng tương đối ổn định nhờ chủ động được con giống và thị trường tiêu thụ sản phẩm. Diện tích nuôi cá tra thâm canh cả năm ước tính đạt 4949 ha, tăng 0,5% so với năm trước; sản lượng cá tra ước tính đạt 1204,3 nghìn tấn, tăng 1,2%, trong đó Đồng Tháp đạt 400 nghìn tấn, tăng 0,9%; An Giang đạt 284,6 nghìn tấn, tăng 4,6%; Bến Tre đạt 170,6 nghìn tấn, tăng 7,7%.

Nuôi tôm gặp nhiều khó khăn do giá cả không ổn định, ảnh hưởng của thời tiết nắng nóng kéo dài và dịch bệnh bùng phát gây thiệt hại cho người sản xuất. Nuôi tôm thẻ chân trắng không còn mang lại hiệu quả cao như những năm trước do khả năng chống chịu dịch bệnh kém cùng với sức ép cạnh tranh cao nên một bộ phận người nuôi tôm thẻ chân trắng chuyển sang nuôi tôm sú. Diện tích nuôi tôm thẻ chân trắng cả năm ước tính đạt 84 nghìn ha, giảm 1,8% so với năm trước; sản lượng đạt 344,6 nghìn tấn, giảm 3,7 %. Diện tích nuôi tôm sú cả năm đạt khoảng 570 nghìn ha, tăng 14,6% so với năm trước; sản lượng đạt 249,2 nghìn tấn, tăng 3,2%.

Thời tiết tương đối thuận lợi cùng với giá xăng dầu giảm đã khuyến khích ngư dân tích cực ra khơi bám biển. Sản lượng thủy sản khai thác năm nay đạt 3036,3 nghìn tấn, tăng 4% so với năm trước, trong đó cá đạt 2202,8 nghìn tấn, tăng 3,8%; tôm đạt 169 nghìn tấn, tăng 6,3%[7]. Khai thác cá ngừ đại dương tiếp tục phát triển nhất là ở vùng biển miền Trung: Sản lượng khai thác cá ngừ đại dương trong năm đạt 16,5 nghìn tấn, tăng 5,5% so với năm trước, trong đó Bình Định đạt 8902 tấn, tăng 2,9%; Phú Yên đạt 4300 tấn, tăng 6,7%; Khánh Hòa đạt 3250 tấn, tăng 10,8%.

  1. Sản xuất công nghiệp

Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tháng Mười Hai ước tính tăng 9% so với cùng kỳ năm trước, trong đó ngành khai khoáng giảm 6,6%; ngành chế biến, chế tạo tăng 13,8%; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 7,7%; ngành cung cấp nước, xử lý rác thải, nước thải tăng 10,5%.

Tính chung cả năm 2015, chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp ước tính tăng 9,8% so với năm 2014 (Quý I tăng 9,3%; quý II tăng 10,2%; quý III tăng 9,3%; quý IV ước tính tăng 10%), cao hơn nhiều mức tăng 5,9% của năm 2013 và 7,6% của năm 2014. Trong mức tăng chung cả năm của toàn ngành công nghiệp, ngành khai khoáng tăng 6,5% (năm 2014 tăng 2,4%), đóng góp 1,4 điểm phần trăm vào mức tăng chung; ngành chế biến, chế tạo tăng 10,6% (năm 2014 tăng 8,7%), đóng góp lớn nhất vào mức tăng chung với 7,5 điểm phần trăm; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 11,4%, đóng góp 0,8 điểm phần trăm; ngành cung cấp nước, xử lý nước thải, rác thải tăng 7,4%, đóng góp 0,1 điểm phần trăm.

Xét theo công dụng của sản phẩm công nghiệp, chỉ số sản xuất của sản phẩm dùng cho quá trình sản xuất tiếp theo năm nay tăng 9,4% so với năm trước (năm 2014 tăng 7,8%); sản phẩm cho tích lũy và tiêu dùng cuối cùng tăng 10,2% (năm 2014 tăng 7,4%); sản phẩm là tư liệu sản xuất tăng 11,8% (công cụ sản xuất tăng 23,4%; nguyên vật liệu xây dựng tăng 9,6%); sản phẩm tiêu dùng của dân cư tăng 9,3%.

Trong các ngành công nghiệp cấp II, một số ngành có chỉ số sản xuất năm 2015 tăng cao so với năm 2014: Sản xuất các sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học tăng 37%; sản xuất xe có động cơ tăng 26,7%; sản xuất da và các sản phẩm có liên quan tăng 17,4%; dệt tăng 13,9%. Một số ngành có mức tăng khá: Sản xuất giấy và các sản phẩm từ giấy tăng 12,6%; sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic tăng 12,3%; sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác tăng 12%; sản xuất kim loại tăng 11,9%; sản xuất và phân phối điện tăng 11,4%; sản xuất giường, tủ, bàn, ghế tăng 10,8%; sản xuất thiết bị điện tăng 10,3%. Một số ngành có mức tăng một con số: Sản xuất chế biến thực phẩm tăng 8,5%; sản xuất đồ uống tăng 7,4%; khai thác, xử lý và cung cấp nước tăng 7,3%; khai thác dầu thô và khí đốt tự nhiên tăng 6,8%; sản xuất trang phục tăng 5,6%; sản xuất hóa chất và các sản phẩm hóa chất tăng 5,4%; khai thác than cứng và than non tăng 5,1%; sản xuất thuốc lá tăng 3,8%; sản xuất thuốc, hóa dược, dược liệu tăng 3,6%.

Một số sản phẩm công nghiệp năm nay đạt mức tăng cao so với năm 2014: Ô tô tăng 54,5%; tivi tăng 51,2%; điện thoại di động tăng 31,6%; sữa tắm, sữa rửa mặt tăng 19,8%; thép thanh, thép góc tăng 18,6%; sữa bột tăng 18,5%; giày, dép da và thép cán cùng tăng 17,8%; thức ăn cho gia súc tăng 16,5%; khí hóa lỏng (LPG) tăng 15,7%; sữa tươi tăng 15,4%. Một số sản phẩm tăng khá: Thức ăn cho thủy sản tăng 14%; điện sản xuất tăng 11,6%; xi măng tăng 10,7%, sơn hóa học tăng 10,4%. Một số sản phẩm tăng thấp hoặc giảm: Dầu mỏ thô khai thác tăng 7,5%; nước máy thương phẩm tăng 6,9%; thuỷ hải sản chế biến tăng 6,4%; than đá tăng 5,1%; đường giảm 0,3%; phân hỗn hợp (NPK) giảm 1,5%; vải dệt từ sợi tổng hợp hoặc sợi nhân tạo giảm 4,3%; xe máy giảm 12,7%.

Chỉ số sản xuất công nghiệp năm 2015 so với năm 2014 của một số địa phương có quy mô sản xuất công nghiệp lớn như sau: Thái Nguyên tăng 97%; Quảng Nam tăng 35,3%; Hải Phòng tăng 16,6%; Phú Thọ tăng 15,4%; Đà Nẵng tăng 12,9%; Bình Dương tăng 10,9%; Hải Dương tăng 10,6%; Bắc Ninh tăng 8,9%; Đồng Nai tăng 8,6%; Quảng Ngãi tăng 8,6%; Hà Nội tăng 8,2%; thành phố Hồ Chí Minh tăng 7,9%; Cần Thơ tăng 7,1%; Quảng Ninh tăng 6,7%; Vĩnh Phúc tăng 1,9%; Bà Rịa-Vũng Tàu tăng 1,4%.

Chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tháng 11/2015 tăng 1,6% so với tháng trước và tăng 10,2% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 11 tháng, chỉ số tiêu thụ ngành này tăng 12,6% so với cùng kỳ năm 2014, cao hơn mức tăng của cùng kỳ hai năm gần đây[8]. Các ngành có chỉ số tiêu thụ 11 tháng tăng cao so với cùng kỳ năm trước: Sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học tăng 49,4%; sản xuất xe có động cơ tăng 26,6%; sản xuất kim loại tăng 22,9%; sản xuất da và các sản phẩm có liên quan tăng 13,1%. Một số ngành có chỉ số tiêu thụ tăng thấp hoặc giảm: Sản xuất sản phẩm từ cao su, plastic tăng 3,6%; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn (trừ máy móc thiết bị) tăng 2,5%; sản xuất sản phẩm thuốc lá tăng 1,7%; dệt tăng 1,3%; sản xuất phương tiện vận tải khác giảm 1,8%.

Chỉ số tồn kho toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tại thời điểm 01/12/2015 tăng 7,4% so với tháng trước và tăng 9,5% so với cùng thời điểm năm 2014 (cùng thời điểm năm 2013 tăng 10,2%; năm 2014 tăng 10%). Một số ngành có chỉ số tồn kho giảm hoặc tăng thấp hơn mức tăng chung: Sản xuất thiết bị điện tăng 7,4%; sản xuất kim loại giảm 4,2%; sản xuất giường tủ, bàn, ghế giảm 9,9%; sản xuất thuốc lá giảm 12,1%; sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy giảm 26,6%. Một số ngành có chỉ số tồn kho tăng cao hơn nhiều so với mức tăng chung: Sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học tăng 104,8%; sản xuất đồ uống tăng 66,8%; sản xuất da và sản phẩm có liên quan tăng 30,3%; sản xuất xe có động cơ tăng 28,4%; sản xuất trang phục tăng 20%; sản xuất sản phẩm từ cao su, plastic tăng 15,8%; sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu tăng 15,6%.

Tỷ lệ tồn kho toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo bình quân 11 tháng năm 2015 là 72,3%, trong đó một số ngành có tỷ lệ tồn kho cao: Sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu 140,4%; sản phẩm từ kim loại đúc sẵn (trừ máy móc, thiết bị) 121%; sản xuất hóa chất và sản phẩm hóa chất 114,3%; sản xuất, chế biến thực phẩm 97,4%.

Số lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp công nghiệp tại thời điểm 01/12/2015 tăng 1,1% so với tháng trước và tăng 6,4% so với cùng thời điểm năm trước, trong đó lao động khu vực doanh nghiệp Nhà nước tăng 1,3%; doanh nghiệp ngoài Nhà nước tăng 4,6%; doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng 8%. Tại thời điểm trên, lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp khai khoáng giảm 1,4% so với cùng thời điểm năm 2014; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 7,3%[9]; ngành sản xuất, phân phối điện tăng 1,1%; ngành cung cấp nước, xử lý rác thải, nước thải tăng 4,3%.

Lao động của các doanh nghiệp công nghiệp tại thời điểm 01/12/2015 so với cùng thời điểm năm trước của một số địa phương có quy mô công nghiệp lớn như sau: Thái Nguyên tăng 39,7%; Vĩnh Phúc tăng 16%; Phú Thọ tăng 15,4%; Quảng Nam tăng 13,5%; Bà Rịa-Vũng Tàu tăng 10,8%; Bình Dương tăng 9,9%; Đà Nẵng tăng 7%; Đồng Nai tăng 6,7%; Long An tăng 4,5%; Bắc Ninh tăng 4,4%; Hải Dương tăng 4,3%; Quảng Ninh tăng 2,3%; Hải Phòng tăng 1,6%; Quảng Ngãi tăng 1,4%; Cần Thơ tăng 1,3%; thành phố Hồ Chí Minh tăng 0,9%; Hà Nội tăng 0,2%.

  1. Tình hình hoạt động của doanh nghiệp

a. Tình hình đăng ký doanh nghiệp[10]

Trong tháng Mười Hai, cả nước có 7901 doanh nghiệp thành lập mới với số vốn đăng ký là 62,8 nghìn tỷ đồng, giảm 15,1% về số doanh nghiệp và tăng 19,5% về số vốn đăng ký so với tháng trước; số vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp thành lập mới trong tháng đạt 8 tỷ đồng, tăng 40,9%. Tổng số lao động đăng ký của các doanh nghiệp thành lập mới trong tháng là 155,3 nghìn người, giảm 2,6% so với tháng trước.

Trong tháng, cả nước có 2860 doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, tăng 16,8% so với tháng trước; có 8615 doanh nghiệp gặp khó khăn phải tạm ngừng hoạt động, tăng 80,6%, bao gồm 1170 doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh có đăng ký và 7445 doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động chờ đóng mã số doanh nghiệp hoặc không đăng ký; có 999 doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể, chấm dứt hoạt động, tăng 20,8%.

Trong năm 2015, cả nước có 94754 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới với tổng vốn đăng ký là 601,5 nghìn tỷ đồng, tăng 26,6% về số doanh nghiệp và tăng 39,1% về số vốn đăng ký so với năm 2014 (Năm 2014, số doanh nghiệp giảm 2,7%; số vốn tăng 8,4% so với năm 2013). Bên cạnh đó, có 851 nghìn tỷ đồng vốn đăng ký tăng thêm của các doanh nghiệp thay đổi tăng vốn trong năm 2015. Như vậy, tổng số vốn đăng ký bổ sung thêm vào nền kinh tế trong năm nay là 1452,5 nghìn tỷ đồng. Số vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp năm 2015 đạt 6,3 tỷ đồng, tăng 9,9% so với năm trước. Số lao động dự kiến được tạo việc làm của các doanh nghiệp thành lập mới trong năm 2015 là 1471,9 nghìn người, tăng 34,9% so với năm 2014.

Trong năm nay, cả nước có 21506 doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, tăng 39,5% so với năm trước. Điều này cho thấy hiệu quả các giải pháp chỉ đạo, điều hành của Chính phủ và Bộ, ngành, địa phương trong việc cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh và hỗ trợ khu vực doanh nghiệp phát triển.

Số doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể, chấm dứt hoạt động sản xuất, kinh doanh trong năm 2015 là 9467 doanh nghiệp, giảm 0,4% so với năm trước, trong đó phần lớn là những doanh nghiệp quy mô nhỏ có vốn đăng ký dưới 10 tỷ đồng (chiếm 93,8%). Nếu phân theo loại hình doanh nghiệp, trong tổng số doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể, chấm dứt hoạt động có 3511 công ty trách nhiệm hữu hạn 1 thành viên (chiếm 37,1%); 2668 công ty trách nhiệm hữu hạn 2 thành viên (chiếm 28,2%); 1907 doanh nghiệp tư nhân (chiếm 20,1%) và 1381 công ty cổ phần (chiếm 14,6%).

Số doanh nghiệp gặp khó khăn buộc phải tạm ngừng hoạt động trong năm là 71391 doanh nghiệp, tăng 22,4% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm 15649 doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng hoạt động có thời hạn và 55742 doanh nghiệp ngừng hoạt động chờ đóng mã số doanh nghiệp hoặc không đăng ký. Trong tổng số doanh nghiệp gặp khó khăn buộc phải tạm ngừng hoạt động, có 26349 công ty trách nhiệm hữu hạn 1 thành viên (chiếm 36,9%); 22889 công ty trách nhiệm hữu hạn 2 thành viên (chiếm 32,1%); 13081 công ty cổ phần (chiếm 18,3%) và 9070 doanh nghiệp tư nhân (chiếm 12,7%) và 2 công ty hợp danh.

b. Xu hướng kinh doanh của doanh nghiệp

Kết quả điều tra về xu hướng kinh doanh của các doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo cho thấy xu hướng sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp những tháng cuối năm khả quan hơn những tháng đầu năm, trong đó có 42,3% số doanh nghiệp đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh quý IV khả quan hơn quý III; 19,5% số doanh nghiệp đánh giá gặp khó khăn và 38,2% số doanh nghiệp cho rằng tình hình sản xuất kinh doanh ổn định. Dự kiến quý I năm 2016 so với quý IV năm nay, có 40,9% số doanh nghiệp đánh giá xu hướng sẽ tốt lên; 17,7% số doanh nghiệp dự báo khó khăn hơn và 41,4% số doanh nghiệp cho rằng tình hình sản xuất kinh doanh sẽ ổn định.

Về khối lượng sản xuất, có 44,8% số doanh nghiệp đánh giá khối lượng sản xuất của doanh nghiệp quý IV năm nay tăng so với quý trước; 20,4% số doanh nghiệp đánh giá khối lượng sản xuất giảm và 34,8% số doanh nghiệp cho rằng ổn định. Về xu hướng quý I năm 2016 so với quý IV năm nay, có 42,2% doanh nghiệp dự báo khối lượng sản xuất tăng lên; 17,6% số doanh nghiệp dự báo giảm và 40,2% số doanh nghiệp dự báo ổn định. Có tới 91,6% doanh nghiệp dự báo năm 2016 có khối lượng sản xuất tăng so với năm 2015.

Về đơn đặt hàng, có 38,6% số doanh nghiệp có số đơn đặt hàng quý IV cao hơn quý III; 20,8% doanh nghiệp có số đơn đặt hàng giảm và 40,6% số doanh nghiệp có số đơn đặt hàng ổn định. Xu hướng quý I năm 2016 so với quý IV năm 2015 tiếp tục khả quan với 38,2% số doanh nghiệp dự kiến có đơn hàng cao hơn; 18,1% số doanh nghiệp dự kiến đơn hàng giảm và 43,7% số doanh nghiệp dự kiến có đơn hàng ổn định. Có tới 91,1% số doanh nghiệp lạc quan về số lượng đơn hàng năm 2016 sẽ tăng và giữ ổn định so với năm 2015.

Về đơn đặt hàng xuất khẩu quý IV so với quý trước, có 30,7% số doanh nghiệp khẳng định số đơn hàng xuất khẩu cao hơn; 21,4% số doanh nghiệp có đơn hàng xuất khẩu giảm và 47,9% số doanh nghiệp có đơn hàng xuất khẩu ổn định. Xu hướng quý I năm sau so với quý IV năm nay, có 33% số doanh nghiệp dự kiến tăng đơn hàng xuất khẩu; 19,2% số doanh nghiệp dự kiến giảm và 47,8% số doanh nghiệp dự kiến ổn định. Đối với năm 2016, có 90,8% số doanh nghiệp dự báo đơn hàng xuất khẩu tăng lên và giữ ổn định.

Về chi phí sản xuất, có 24,4% số doanh nghiệp khẳng định chi phí sản xuất trên một đơn vị sản phẩm quý IV tăng so với quý trước; 10,4% số doanh nghiệp cho biết chi phí giảm và 65,2% số doanh nghiệp cho rằng chi phí ổn định. Xu hướng trong quý I năm 2016, có 22,4% số doanh nghiệp dự kiến chi phí sản xuất sẽ tăng so với quý IV năm 2015; 10,9% cho rằng chi phí giảm và 66,7% số doanh nghiệp dự kiến chi phí sản xuất ổn định.

Về giá bán sản phẩm quý IV so với quý trước, có 15,4% số doanh nghiệp cho biết có giá bán sản phẩm tăng; 13,6% số doanh nghiệp có giá bán thấp hơn và 71% số doanh nghiệp có giá bán sản phẩm ổn định. Dự kiến giá bán sản phẩm quý I năm 2016 so với quý IV năm 2015, có 16,1% số doanh nghiệp dự báo giá bán sản phẩm sẽ cao hơn; 10,5% số doanh nghiệp dự báo giá bán sẽ thấp hơn và 73,4% số doanh nghiệp dự báo giá bán sản phẩm sẽ ổn định.

Về tình hình tồn kho sản phẩm, có 20,4% số doanh nghiệp có lượng tồn kho quý IV năm 2015 tăng so với quý trước; 31,3% số doanh nghiệp có lượng tồn kho giảm và 48,3% số doanh nghiệp giữ ổn định. Xu hướng quý I năm 2016 so với quý IV năm nay, có 16,5% số doanh nghiệp dự báo lượng hàng tồn kho sẽ tăng; 29,5% số doanh nghiệp cho rằng lượng hàng tồn kho sẽ giảm và 54,0% số doanh nghiệp dự báo sẽ giữ ổn định.

Về tồn kho nguyên vật liệu quý IV so với quý III, có 19,4% số doanh nghiệp cho biết lượng tồn kho nguyên vật liệu tăng; 28,6% số doanh nghiệp cho là giảm và 52,0% số doanh nghiệp trả lời giữ nguyên. Dự kiến quý I năm 2016 so với quý IV năm nay, có 15,5% số doanh nghiệp dự báo lượng tồn kho nguyên vật liệu tăng; 28,1% dự báo lượng tồn kho giảm và 56,4% số doanh nghiệp cho rằng sẽ không có biến động về tồn kho nguyên, vật liệu.

Về sử dụng lao động quý IV so với quý III, có 17,3% số doanh nghiệp khẳng định quy mô lao động tăng; 12,7% số doanh nghiệp khẳng định giảm và 70% số doanh nghiệp cho biết giữ ổn định. Xu hướng biến động lao động có chiều hướng tăng lên ở 6 tháng đầu năm 2016 và cả năm 2016 so với năm 2015, với 90,5% số doanh nghiệp dự kiến số lao động 6 tháng đầu năm 2016 tăng và giữ ổn định trong so với 6 tháng cuối năm 2015.

Dự báo cả năm 2016, có 34,3% số doanh nghiệp cho rằng quy mô lao động tăng so với năm 2015 (37,8% doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, 33,9% doanh nghiệp ngoài Nhà nước và 25,9% doanh nghiệp Nhà nước dự báo quy mô lao động tăng); 57,6% số doanh nghiệp dự báo giữ quy mô lao động ổn định; 8,1% số doanh nghiệp dự báo quy mô lao động sẽ giảm.

  1. Hoạt động dịch vụ

a. Bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng

Hoạt động bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng năm nay khá sôi động, nhất là tháng cuối năm. Mạng lưới phân phối hàng hóa được tăng cường và mở rộng về số lượng và đa dạng về ngành nghề kinh doanh với hệ thống các siêu thị, cửa hàng chuyên doanh, cửa hàng tự chọn… tại nhiều địa phương. Bên cạnh đó, nhiều doanh nghiệp chủ động khai thác nguồn hàng, đồng thời tích cực nghiên cứu tìm hiểu thị hiếu của người tiêu dùng để bảo đảm phục vụ nhu cầu tiêu thụ về số lượng và chất lượng sản phẩm. Công tác quản lý và thực hiện chính sách về thị trường thương mại được các cấp, các ngành tập trung chỉ đạo kịp thời, hiệu quả, thị trường giá cả các mặt hàng thiết yếu ổn định, cùng với sản xuất tăng trưởng nhanh đã góp phần đẩy mạnh hoạt động thương mại trong nước, kích thích tiêu dùng trong dân cư.

Tổng mức hàng hóa bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng Mười Hai ước tính đạt 294,7 nghìn tỷ đồng, tăng 3,3% so với tháng trước và tăng 9% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm:

Doanh thu bán lẻ hàng hóa trong tháng đạt 224,8 nghìn tỷ đồng, tăng 2,8% so với tháng trước và tăng 9,7% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Nhóm phương tiện đi lại tăng 5,6% và tăng 10,7%; đồ dùng, dụng cụ, trang thiết bị gia đình tăng 3,4% và tăng 14,7%; hàng may mặc tăng 2,8% và tăng 12,9%; vật phẩm văn hoá, giáo dục tăng 2,8% và tăng 12,2%; lương thực, thực phẩm tăng 2,3% và tăng 10,6%.

Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống tháng Mười Hai đạt 32,9 nghìn tỷ đồng, tăng 5,5% so với tháng trước và tăng 7,6% so với cùng kỳ năm trước; doanh thu du lịch lữ hành trong tháng đạt 2,6 nghìn tỷ đồng, tăng 1,5% so với tháng trước và tăng 13,8% so với cùng kỳ năm trước; doanh thu dịch vụ khác ước tính đạt 34,4 nghìn tỷ đồng, tăng 4,7% so với tháng trước và tăng 5,5% so với cùng kỳ năm trước.

Tính chung cả năm 2015, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng ước tính đạt 3242,9 nghìn tỷ đồng, tăng 9,5% so với năm trước (loại trừ yếu tố giá tăng 8,4%, cao hơn mức tăng 8,1% của năm 2014).

Xét theo ngành kinh doanh, bán lẻ hàng hóa năm nay đạt 2469,9 nghìn tỷ đồng, chiếm 76,2% tổng mức và tăng 10,6% so với cùng kỳ năm 2014, trong đó một số ngành hàng tăng khá: Đồ dùng, dụng cụ, trang thiết bị gia đình tăng 15%; lương thực, thực phẩm tăng 14,8%; hàng may mặc tăng 13,3%; vật phẩm văn hoá, giáo dục tăng 12,4%; phương tiện đi lại tăng 10,4%.

Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống năm 2015 ước tính đạt 372,2 nghìn tỷ đồng, chiếm 11,5% và tăng 5,2% so với cùng kỳ, một số tỉnh, thành phố có doanh thu tăng khá: Thanh Hóa tăng 9,9%; thành phố Hồ Chí Minh tăng 6,9%; Lạng Sơn tăng 5,4%; Hà Nội tăng 4,1%; Quảng Bình tăng 3,8%. Doanh thu du lịch lữ hành đạt 30,4 nghìn tỷ đồng, chiếm 0,9% và tăng 9,5%, trong đó doanh thu du lịch lữ hành của Thanh Hóa tăng 21,4%; thành phố Hồ Chí Minh tăng 12,7%; Bà Rịa – Vũng Tàu tăng 11,1%; Quảng Ninh tăng 11%; Hà Nội tăng 7,4%.

Doanh thu dịch vụ khác năm 2015 ước tính đạt 370,3 nghìn tỷ đồng, chiếm 11,4% và tăng 7%, trong đó một số địa phương có doanh thu dịch vụ tăng khá so với cùng kỳ năm trước: thành phố Hồ Chí Minh tăng 12,2%; Tiền Giang tăng 12,2%; Quảng Trị tăng 12%; Vĩnh Phúc tăng 10,9%; Hà Nội tăng 8,8%; Hưng Yên tăng 8,7%; Tuyên Quang tăng 7,4%.

b. Vận tải hành khách, hàng hóa và hoạt động viễn thông

Vận tải hành khách năm nay ước tính đạt 3283,1 triệu lượt khách, tăng 7,7% và 143 tỷ lượt khách.km, tăng 7,9% so với năm 2014. Vận tải hành khách đường bộ cả năm ước tính đạt 3099,2 triệu lượt khách, tăng 7,9% và 105 tỷ lượt khách.km, tăng 8,5%; đường sông đạt 146,5 triệu lượt khách, tăng 4% và 2,5 tỷ lượt khách.km, tăng 6,5%; đường hàng không đạt 20,7 triệu lượt khách, tăng 7,9% và 31,1 tỷ lượt khách.km, tăng 7,2%; đường biển đạt 5,4 triệu lượt khách, tăng 5,3% và 267,4 triệu lượt khách.km, tăng 4,9%; đường sắt đạt 11,2 triệu lượt khách, giảm 5,3% và 4,2 tỷ lượt khách.km, giảm 0,3%.

Vận tải hàng hóa năm 2015 ước tính đạt 1133,9 triệu tấn, tăng 6% và 226,8 tỷ tấn.km, tăng 3,1% so với năm trước, trong đó vận tải trong nước đạt 1102 triệu tấn, tăng 6,1% và 98,8 tỷ tấn.km, tăng 6,9%; vận tải ngoài nước đạt 31,9 triệu tấn, tăng 3,8% và 128 tỷ tấn.km, tăng 0,3%. Vận tải hàng hoá đường bộ đạt 874 triệu tấn, tăng 6,6% và 50,1 tỷ tấn.km, tăng 6,9%; đường sông đạt 194,6 triệu tấn, tăng 4,5% và 39,9 tỷ tấn.km, tăng 4,9%; đường biển đạt 58,4 triệu tấn, tăng 4% và 132 tỷ tấn.km, tăng 1,4%; đường sắt đạt 6,7 triệu tấn, giảm 7,1% và 4,2 tỷ tấn.km, giảm 2,5%.

Doanh thu hoạt động viễn thông năm 2015 ước tính đạt 335 nghìn tỷ đồng, tăng 2,1% so với năm 2014; lợi nhuận ước tính đạt 56 nghìn tỷ đồng, tăng 51,3%. Tổng số thuê bao điện thoại di động năm nay ước tính đạt 127 triệu thuê bao, giảm 7,3% so với năm 2014; thuê bao điện thoại cố định ước tính 5,9 triệu thuê bao, giảm 7,8%; thuê bao Internet băng rộng ước tính đạt 10,5 triệu thuê bao, tăng 11%.

c. Khách quốc tế đến Việt Nam

Khách quốc tế đến nước ta trong tháng Mười Hai ước tính đạt 760,8 nghìn lượt người, tăng 2,6% so với tháng trước, đây là tháng thứ 6 liên tiếp khách quốc tế đến Việt Nam tăng kể từ tháng 7/2015 (sau 13 tháng giảm liên tiếp). So với cùng kỳ năm 2014, khách quốc tế đến nước ta trong tháng tăng 15%, trong đó đường biển có mức tăng lớn nhất với 145%.

Xét theo châu lục, khách đến từ châu Á tăng 5% so với tháng trước, trong đó các thị trường chính tăng là Hàn Quốc tăng 13,9%, Cam-pu-chia tăng 8,3%, Ma-lai-xi-a tăng 31,3%, Xin-ga-po tăng 46,7%, Thái Lan tăng 24,8%. So với tháng 12/2014, khách đến từ Cam-pu-chia, Ma-lai-xi-a và các nước khác thuộc châu Á giảm; khách đến từ các thị trường chính khác đều tăng.

Đối với thị trường châu Mỹ, khách đến từ Mỹ trong tháng tăng 6% so với tháng trước, khách đến từ Ca-na-đa giảm 5,1%; các nước khác thuộc châu Mỹ giảm 30,2% so với tháng trước. Tuy nhiên so với cùng kỳ năm 2014, khách đến từ châu lục này tăng 17,9%.

Khách đến nước ta trong tháng từ hầu hết các thị trường chính ở châu Âu đều giảm so với tháng trước, riêng thị trường Bắc Âu như Thụy Điển, Đan Mạch, Phần Lan và Nga tăng. So với tháng 12/2014, số lượng khách đến từ châu Âu nhìn chung tăng.

Khách đến từ Úc và Niu-di-lân tháng Mười Hai tăng 28,1% và tăng 5,2% so với tháng trước, trong khi khách đến từ các thị trường khác giảm mạnh. So với tháng 12/2014, khách đến từ Úc giảm 3,8% kéo theo khách đến từ toàn châu Úc giảm 3,8% do khách Úc chiếm trên 90% tổng số khách châu Úc đến Việt Nam trong tháng.

Tính chung cả năm 2015, khách quốc tế đến nước ta ước tính đạt 7943,7 nghìn lượt người, giảm 0,2% so với năm trước và đây là năm đầu tiên khách đến Việt Nam giảm kể từ năm 2009. Khách đến bằng đường hàng không trong năm tăng 0,8% so với năm trước, đường bộ giảm 6,5% chủ yếu do khách từ 03 nước láng giềng giảm: Trung quốc giảm 8,5%, Cam-pu-chia giảm 43,8%, Lào giảm 16,6%. Khách đến bằng đường biển năm nay tăng mạnh với 27,5%.

Xét theo thị trường, khách đến từ 5 thị trường khu vực Đông Nam Á (Cam-pu-chia, In-đô-nê-xi-a, Lào, Philippin, Thái Lan) và Trung Quốc đều giảm so với cùng kỳ năm trước, trong đó Trung Quốc 1780,9 nghìn lượt người, giảm 8,5%; Cam-pu-chia 227,1 nghìn lượt người, giảm 43,8%; In-đô-nê-xi-a 62,2 nghìn người, giảm 9,3%; Thái Lan 214,6 nghìn lượt người, giảm 13,1%; Lào 114 nghìn lượt người, giảm 16,6%; Phi-li-pin 99,8 nghìn lượt người, giảm 3,5%. Khách đến từ Ma-lai-xi-a 346,6 nghìn lượt người, tăng 4,1%; Xin-ga-po 236,5 nghìn lượt người, tăng 16,9%.

Khách đến từ châu Âu ước tính đạt 1367,9 nghìn lượt người, tăng 0,7% so với năm trước, trong đó một số quốc gia có lượng khách tăng: Anh 212,8 nghìn lượt người, tăng 5,2%; Đức 149,1 nghìn lượt người, tăng 4,7%; Hà Lan 53 nghìn lượt người, tăng 7,8%; Tây Ban Nha 44,9 nghìn người, tăng 10,4%; I-ta-li-a 40,3 nghìn lượt người, tăng 10,6%. Các quốc gia có lượng khách đến nước ta giảm: Nga 338,9 nghìn lượt người, giảm 7,1%; Pháp 211,6 nghìn lượt người, giảm 1%; Thụy Điển 32 nghìn lượt người, giảm 1,4%. Chính sách miễn thị thực cho công dân 5 nước châu Âu được thực hiện là một trong những nguyên nhân làm tăng số khách từ các nước này đến Việt Nam.

Khách đến từ châu Mỹ đạt 647,7 nghìn lượt người, tăng 5% so với cùng kỳ năm 2014, trong đó khách đến từ Hoa Kỳ đạt 491,2 nghìn lượt người, tăng 10,7%. Khách đến từ châu Úc đạt 341,4 nghìn lượt người, giảm 5,1%, trong đó khách đến từ Ôx-trây-li-a đạt 303,7 nghìn lượt người, giảm 5,4%. Khách đến từ châu Phi đạt 27,2 nghìn lượt người, tăng 44,3%.

So với các nước trong khu vực, nhìn chung số lượt khách quốc tế đến Việt Nam thấp hơn khá nhiều: Năm 2014 Ma-lai-xi-a đón 27,4 triệu lượt khách, Thái Lan 24,8 triệu lượt, Xin-ga-po 15,1 triệu lượt, In-đô-nê-xi-a 9,4 triệu lượt trong khi Việt Nam chỉ đạt gần 8 triệu lượt. Nguyên nhân khách quốc tế đến Việt Nam thấp chủ yếu do chưa thu hút được nhiều khách đến vì mục đích du lịch, tham quan và mục đích công việc như các nước đang phát triển đã làm.

II. ỔN ĐỊNH KINH TẾ VĨ MÔ, KIỂM SOÁT LẠM PHÁT

  1. Xây dựng, đầu tư phát triển

a. Xây dựng

Hoạt động xây dựng năm nay tuy còn gặp một số khó khăn trong công tác quy hoạch, năng lực quản lý và công tác giải phóng mặt bằng nhưng cũng có những yếu tố thuận lợi: Chính sách lãi suất ngân hàng điều chỉnh giảm đã giúp cho các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân tiếp cận được vốn vay, giá vật liệu xây dựng tiếp tục ổn định cùng với sự ấm lên của thị trường bất động sản tạo điều kiện thuận lợi cho việc triển khai các dự án, công trình. Nhiều dự án phát triển nhà ở được hoàn thành và bàn giao trong năm cùng với hoạt động xây dựng nhà ở trong dân tăng khá cao đã góp phần nâng cao giá trị sản xuất của ngành.

Giá trị sản xuất xây dựng năm 2015 theo giá hiện hành ước tính đạt 974,4 nghìn tỷ đồng, bao gồm: Khu vực Nhà nước đạt 82,1 nghìn tỷ đồng, chiếm 8,4%; khu vực ngoài Nhà nước 830,5 nghìn tỷ đồng, chiếm 85,2%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài 61,8 nghìn tỷ đồng, chiếm 6,4%. Trong tổng giá trị sản xuất, giá trị sản xuất xây dựng công trình nhà ở đạt 374,2 nghìn tỷ đồng; công trình nhà không để ở đạt 156,7 nghìn tỷ đồng; công trình kỹ thuật dân dụng đạt 318,2 nghìn tỷ đồng; hoạt động xây dựng chuyên dụng đạt 125,3 nghìn tỷ đồng.

Giá trị sản xuất xây dựng năm 2015 theo giá so sánh 2010 ước tính đạt 777,5 nghìn tỷ đồng, tăng 11,2% so với năm 2014, bao gồm: Khu vực Nhà nước đạt 66,9 nghìn tỷ đồng, tăng 6,4%; khu vực ngoài Nhà nước đạt 660,8 nghìn tỷ đồng, tăng 12,1%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 49,8 nghìn tỷ đồng, tăng 7,2%. Trong tổng giá trị sản xuất, giá trị sản xuất xây dựng công trình nhà ở tăng 12,4%; công trình nhà không để ở giảm 5,6%; công trình kỹ thuật dân dụng tăng 20,1%; hoạt động xây dựng chuyên dụng tăng 11,7%.

b. Đầu tư phát triển

Năm 2015 tiếp tục thực hiện đề án tổng thể tái cơ cấu nền kinh tế trong đó có tái cơ cấu đầu tư đi đôi với việc tiếp tục giảm dần đầu tư công, giảm tỷ trọng và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn nhà nước, hoàn thiện thể chế về đầu tư nhằm huy động mạnh mẽ các nguồn lực xã hội cho đầu tư phát triển. Việc triển khai, thực hiện có hiệu quả các văn bản pháp quy quan trọng trong hoạt động đầu tư: Luật đầu tư công, Luật đầu tư (sửa đổi), Luật doanh nghiệp (sửa đổi), Luật đấu thầu, Nghị định về đầu tư theo hình thức đối tác công tư (PPP)… đã góp phần tăng cường quản lý và nâng cao hiệu quả đầu tư.

Bên cạnh đó, các ngành và cơ quan chức năng thực hiện đẩy mạnh huy động các nguồn lực và đa dạng hóa hình thức đầu tư, đồng thời tập trung chỉ đạo tháo gỡ vướng mắc, khó khăn để đẩy nhanh tiến độ giải ngân vốn đầu tư phát triển theo kế hoạch được giao, đặc biệt là các chương trình dự án sử dụng nguồn vốn ODA và vốn vay ưu đãi. Môi trường pháp lý đầu tư được đổi mới và từng bước hoàn thiện góp phần thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI theo hướng nâng cao chất lượng nguồn vốn, khuyến khích các dự án sử dụng công nghệ cao, thân thiện với môi trường, sản xuất các sản phẩm có khả năng cạnh tranh và tham gia chuỗi sản xuất toàn cầu, ưu tiên các dự án phát triển công nghệ phụ trợ, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.

Vốn đầu tư phát triển toàn xã hội thực hiện năm 2015 theo giá hiện hành ước tính đạt 1367,2 nghìn tỷ đồng, tăng 12% so với năm 2014 và bằng 32,6% GDP, bao gồm: Vốn khu vực Nhà nước đạt 519,5 nghìn tỷ đồng, chiếm 38% tổng vốn và tăng 6,7% so với năm trước; vốn khu vực ngoài Nhà nước đạt 529,6 nghìn tỷ đồng, chiếm 38,7% và tăng 13%; vốn khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 318,1 nghìn tỷ đồng, chiếm 23,3% và tăng 19,9%.

Tốc độ phát triển vốn đầu tư phát triển toàn xã hội

các năm 2013, 2014 và 2015 so với năm trước

(Theo giá hiện hành)

Đơn vị tính: %

Năm 2013 Năm 2014 Năm 2015
Tổng số 108,4 111,5 112,0
Khu vực Nhà nước 108,7 110,2 106,7
Khu vực ngoài Nhà nước 107,1 113,6 113,0
Khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 109,9 110,5 119,9

Trong vốn đầu tư của khu vực Nhà nước, vốn từ ngân sách Nhà nước thực hiện năm 2015 ước tính đạt 220,4 nghìn tỷ đồng, bằng 100,6% kế hoạch năm và tăng 6,1% so với năm 2014, gồm có:

– Vốn trung ương quản lý đạt 43 nghìn tỷ đồng, bằng 105,6% kế hoạch năm và tăng 4,5% so với năm trước, trong đó vốn thực hiện của Bộ Giao thông Vận tải là 7299 tỷ đồng, bằng 106,2% và tăng 19%; Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn 3008 tỷ đồng, bằng 105,2% và giảm 7,5%; Bộ Xây dựng 1761 tỷ đồng, bằng 113,7% và giảm 6,3%; Bộ Y tế 1682 tỷ đồng, bằng 106,3% và tăng 63,5%; Bộ Giáo dục và Đào tạo 862 tỷ đồng, bằng 101,3% và tăng 25,1%; Bộ Tài nguyên và Môi trường 700 tỷ đồng, bằng 102% và giảm 1,5%; Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch 584 tỷ đồng, bằng 99,6% và tăng 16,2%; Bộ Công thương 430 tỷ đồng, bằng 99,7% và tăng 21,5%; Bộ Khoa học và Công nghệ 330 tỷ đồng, bằng 111,5% và tăng 15,2%; Bộ Thông tin và Truyền thông 191 tỷ đồng, bằng 105,5% và giảm 9,9%.

– Vốn địa phương quản lý đạt 177,4 nghìn tỷ đồng, bằng 99,5% kế hoạch năm và tăng 6,5% so với năm 2014. Trong đó, vốn ngân sách Nhà nước cấp tỉnh đạt 121,8 nghìn tỷ đồng, bằng 94,5% và tăng 6,1%; vốn ngân sách Nhà nước cấp huyện đạt 45,3 nghìn tỷ đồng, bằng 110% và tăng 9,1%; vốn ngân sách Nhà nước cấp xã đạt 10,3 nghìn tỷ đồng, bằng 124,1% và tăng 0,5%. Một số địa phương có số vốn thực hiện lớn là: Hà Nội đạt 21,7 nghìn tỷ đồng, bằng 107,7% kế hoạch năm và giảm 9,3% so với năm trước; thành phố Hồ Chí Minh 18,8 nghìn tỷ đồng, bằng 86,2% và tăng 8,3%; Quảng Ninh 6,2 nghìn tỷ đồng, bằng 87,3% và tăng 57,2%; Bình Dương 5,2 nghìn tỷ đồng, bằng 104,9% và tăng 16,7%; Vĩnh Phúc 5 nghìn tỷ đồng, bằng 96,2% và tăng 35,1%; Nghệ An 4,9 nghìn tỷ đồng, bằng 103,6% và tăng 7,1%; Hải Phòng 4,4 nghìn tỷ đồng, bằng 183,6% và tăng 25,1%.

Đầu tư trực tiếp của nước ngoài từ đầu năm đến thời điểm 15/12/2015 thu hút 2013 dự án được cấp phép mới với số vốn đăng ký đạt 15,58 tỷ USD, tăng 26,8% về số dự án và giảm 0,4% về số vốn so với cùng kỳ năm 2014. Đồng thời có 814 lượt dự án đã cấp phép từ các năm trước được cấp vốn bổ sung với 7,18 tỷ USD. Như vậy tổng vốn đăng ký của các dự án cấp mới và vốn cấp bổ sung đạt 22,76 tỷ USD, tăng 12,5% so với năm 2014. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện năm 2015 ước tính đạt 14,5 tỷ USD, tăng 17,4% so với năm trước.

Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo thu hút đầu tư nước ngoài lớn nhất với số vốn đăng ký đạt 15,23 tỷ USD, chiếm 66,9% tổng vốn đăng ký; ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí đạt 2809,3 triệu USD, chiếm 12,4%; ngành kinh doanh bất động sản đạt 2394,7 triệu USD, chiếm 10,5%; các ngành còn lại đạt 2320,1 triệu USD, chiếm 10,2%.

Cả nước có 48 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài được cấp phép mới trong năm 2015, trong đó thành phố Hồ Chí Minh dẫn đầu với số vốn đăng ký đạt 2811,7 triệu USD, chiếm 18% tổng vốn đăng ký cấp mới; tiếp đến là Trà Vinh 2526,8 triệu USD, chiếm 16,2%; Bình Dương 2465,8 triệu USD, chiếm 15,8%; Đồng Nai 1471,9 triệu USD, chiếm 9,4%; Hà Nội 910,7 triệu USD, chiếm 5,8%; Hải Phòng 573,1 triệu USD, chiếm 3,7%; Tây Ninh 502,9 triệu USD, chiếm 3,2%; Quảng Ninh 373,9 triệu USD, chiếm 2,4%.

Trong số 58 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư cấp mới tại Việt Nam năm 2015, Hàn Quốc là nhà đầu tư lớn nhất với 2678,5 triệu USD, chiếm 17,2% tổng vốn đăng ký cấp mới; tiếp đến là Ma-lai-xi-a 2447,5 triệu USD, chiếm 15,7%; Xa-moa 1314 triệu USD, chiếm 8,4%; Nhật Bản 1285 triệu USD, chiếm 8,2%; Vương quốc Anh 1265,7 triệu USD, chiếm 8,1%; Xin-ga-po 1035 triệu USD, chiếm 6,6%; Đài Loan 940,4 triệu USD, chiếm 6%; Quần đảo Virgin thuộc Anh 697,8 triệu USD, chiếm 4,5%; Trung Quốc 665,5 triệu USD, chiếm 4,3%.

  1. Thu, chi ngân sách Nhà nước

Tổng thu ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến thời điểm 15/12/2015 ước tính đạt 884,8 nghìn tỷ đồng, bằng 97,1% dự toán năm, trong đó thu nội địa đạt 657 nghìn tỷ đồng, bằng 102,9%; thu từ dầu thô 62,4 nghìn tỷ đồng, bằng 67,1%; thu cân đối ngân sách từ hoạt động xuất, nhập khẩu 160 nghìn tỷ đồng, bằng 91,4%. Trong thu nội địa, nhiều khoản thu đạt khá và vượt dự toán năm: Thu thuế bảo vệ môi trường đạt 24,1 nghìn tỷ đồng, bằng 186,1% dự toán năm; thu tiền sử dụng đất 54,2 nghìn tỷ đồng, bằng 139,1%; lệ phí trước bạ 21 nghìn tỷ đồng, bằng 135,9%; thuế thu nhập cá nhân 53,2 nghìn tỷ đồng, bằng 103,7%; thu thuế công, thương nghiệp và dịch vụ ngoài Nhà nước 119,7 nghìn tỷ đồng, bằng 100,1%. Riêng thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) đạt 128 nghìn tỷ đồng, bằng 89,8% dự toán năm; thu từ khu vực doanh nghiệp Nhà nước 204,2 nghìn tỷ đồng, bằng 92,5%.

Tổng chi ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến thời điểm 15/12/2015 ước tính đạt 1064,5 nghìn tỷ đồng, bằng 92,8% dự toán năm, trong đó chi đầu tư phát triển 162 nghìn tỷ đồng, bằng 83,1% (riêng chi đầu tư xây dựng cơ bản 157,5 nghìn tỷ đồng, bằng 82,7%); chi phát triển sự nghiệp kinh tế – xã hội, quốc phòng, an ninh, quản lý hành chính đạt 745 nghìn tỷ đồng, bằng 97,1%; chi trả nợ và viện trợ 148,3 nghìn tỷ đồng, bằng 98,9%.

  1. Hoạt động ngân hàng, bảo hiểm

Tính đến thời điểm 18/12/2015, tăng trưởng tín dụng đạt 17,02% so với thời điểm cuối năm 2014, là mức tăng cao nhất kể từ năm 2011; huy động vốn của các tổ chức tín dụng tăng 13,49%; tổng phương tiện thanh toán tăng 13,6%. Thanh khoản của hệ thống ngân hàng thương mại tiếp tục được cải thiện, đảm bảo khả năng thanh toán và chi trả của hệ thống, góp phần kiểm soát lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô. Tỷ giá hối đoái bình quân của đồng Việt Nam so với đô la Mỹ giữ ổn định sau khi biến động mạnh vào giữa tháng 8/2015.

Thị trường bảo hiểm năm 2015 có nhiều hoạt động hướng tới nâng cao chất lượng dịch vụ và sản phẩm. Trong năm, các doanh nghiệp bảo hiểm có nhiều cố gắng trong việc cung cấp ra thị trường những gói sản phẩm bảo hiểm mới cùng nhiều quyền lợi hấp dẫn thu hút khách hàng. Các cơ chế, chính sách trong hoạt động bảo hiểm cũng từng bước được hoàn thiện và phù hợp hơn với mọi đối tượng tham gia. Tổng doanh thu phí bảo hiểm đạt mức tăng khá, ước tính tăng 12,6% so với năm 2014, trong đó doanh thu phí bảo hiểm nhân thọ tăng 15%; doanh thu phí bảo hiểm phi nhân thọ tăng 10%. Ngoài ra, tổng số phí bảo hiểm thu xếp qua môi giới ước tính đạt 7000 tỷ đồng, tăng 16,2%.

  1. Xuất, nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ

a. Xuất khẩu hàng hóa

Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu thực hiện tháng Mười Một năm nay đạt 13.894 triệu USD, thấp hơn 406 triệu USD so với số ước tính, trong đó gạo thấp hơn 77 triệu USD; thủy sản và dầu thô cùng thấp hơn 49 triệu USD; gỗ và sản phẩm gỗ thấp hơn 22 triệu USD; điện thoại các loại và linh kiện thấp hơn 16 triệu USD; rau quả thấp hơn 15 triệu USD; hạt điều thấp hơn 12 triệu USD; cà phê thấp hơn 11 triệu USD.

Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu tháng Mười Hai ước tính đạt 14,20 tỷ USD, tăng 2,2% so với tháng trước, do một số mặt hàng xuất khẩu chủ yếu tăng như: Hàng dệt may tăng 17%; giày dép tăng 8,7%; gỗ và sản phẩm gỗ tăng 10,4%; dầu thô tăng 47%, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 4,1 tỷ USD, tăng 5%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 10,1 tỷ USD, tăng 1,1%. So với cùng kỳ năm trước, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu tháng Mười Hai tăng 10,4%, trong đó khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) tăng 18,3%; khu vực kinh tế trong nước giảm 5,2%. Một số mặt hàng có kim ngạch tăng so với cùng kỳ: Điện thoại các loại và linh kiện tăng 35,3%; điện tử, máy tính và linh kiện tăng 39%; máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng khác tăng 15,8%; đáng chú ý là một số mặt hàng nông sản tăng cả về lượng và kim ngạch so với cùng kỳ: Hạt điều tăng 23% về lượng và tăng 32,4% về kim ngạch; hạt tiêu tăng 45% và tăng 67,1%; gạo tăng 146% và tăng 120,7%.

Tính chung cả năm 2015, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu ước đạt 162,4 tỷ USD, tăng 8,1% so với năm 2014 mức tăng thấp nhất trong 5 năm qua[11]. Chỉ số giá xuất khẩu hàng hóa năm nay giảm 3,8% nên loại trừ yếu tố giá, kim ngạch xuất khẩu năm nay tăng 12,4% (Năm 2014 chỉ số giá xuất khẩu tăng 0,79%, loại trừ yếu tố giá kim ngạch xuất khẩu tăng 12,9%). Kim ngạch xuất khẩu khu vực có vốn đầu tư nước ngoài ước tính đạt 115,1 tỷ USD, tăng 13,8% so với năm trước, chiếm tỷ trọng 70,9% tổng kim ngạch hàng hóa xuất khẩu, đóng góp 9,3 điểm phần trăm vào mức tăng trưởng xuất khẩu chung. Nếu không kể dầu thô, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 111,3 tỷ USD, tăng 18,5%. Khu vực trong nước ước tính đạt 47,3 tỷ USD, giảm 3,5% so với năm trước (sau 5 năm tăng trưởng liên tục), làm giảm 1,2 điểm phần trăm của mức tăng trưởng xuất khẩu năm 2015.

Kim ngạch một số mặt hàng chủ lực thuộc nhóm gia công, lắp ráp tăng cao so với cùng kỳ: Điện thoại các loại và linh kiện tăng 29,9%, điện tử máy tính và linh kiện tăng 38,2%; hàng dệt may tăng 8,2%; giày dép tăng 16,2%. Đóng góp chính vào mức tăng chung chủ yếu là nhóm hàng của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài với tỷ trọng cao như: Điện thoại các loại và linh kiện chiếm 99,7%, điện tử máy tính và linh kiện chiếm 98,2%, máy móc thiết bị, dụng cụ, phụ tùng khác chiếm 89,5%, giày dép chiếm 79,7%; hàng dệt may chiếm 60,4%. Ngược lại, các mặt hàng thuộc nhóm nông sản và khoáng sản giảm khá mạnh cả về lượng và giá trị như: Cà phê giảm 24,3% về lượng và giảm 27,8% về giá trị; chè giảm 6% và giảm 7%; dầu thô giảm 0,6% và giảm 47,3%; than đá giảm 76,1% và giảm 66,7%. Kim ngạch xuất khẩu thủy sản giảm 15,6% so với cùng kỳ. Riêng mặt hàng cao su mặc dù lượng xuất khẩu tăng 7,2% so với năm trước nhưng do giá trên thị trường thế giới giảm nên kim ngạch xuất khẩu giảm 13,6%.

Về cơ cấu nhóm hàng xuất khẩu năm 2015, tỷ trọng nhóm hàng công nghiệp nặng và khoáng sản ước tính đạt 74 tỷ USD, tăng 11,9% so với năm 2014, chiếm 45,5% tổng kim ngạch hàng hóa xuất khẩu (tăng 1,5 điểm phần trăm so với năm 2014), trong đó: Điện thoại các loại và linh kiện đạt 30,6 tỷ USD, tăng 29,9% và chiếm 18,9% tổng kim ngạch xuất khẩu (tăng 3,2 điểm phần trăm); nhóm hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp đạt 64,8 tỷ USD, tăng 9,7%, chiếm 39,9% (tăng 0,6 điểm phẩn trăm); hàng nông, lâm sản ước đạt 17 tỷ USD, giảm 1% và chiếm 10,5% (giảm 1 điểm phần trăm); hàng thủy sản ước đạt 6,6 tỷ USD, giảm 15,6% và chiếm 4,1% (giảm 1,1 điểm phần trăm).

Về thị trường hàng hóa xuất khẩu năm 2015, Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch ước tính đạt 33,5 tỷ USD, tăng 17% so với năm 2014 và chiếm tỷ trọng 20,6% tổng kim ngạch xuất khẩu, trong đó kim ngạch một số mặt hàng chủ lực vào thị trường này tăng cao: Hàng dệt may tăng 11,7%; giày dép tăng 23,9%; điện thoại các loại và linh kiện tăng 87,4%; điện tử, máy tính và linh kiện tăng 35,1%. Tiếp theo là thị trường EU với 30,9 tỷ USD, tăng 10,7% và chiếm 19% tổng kim ngạch xuất khẩu, trong đó: Điện thoại các loại và linh kiện tăng 17,7%; hàng dệt may tăng 3,7%; giày dép tăng 12,6%; điện tử, máy tính và linh kiện tăng 36,2%. Thị trường ASEAN ước tính đạt 18,3 tỷ USD, giảm 4,2%; trong đó: Điện thoại các loại và linh kiện giảm 11,6%; dầu thô giảm 23,3%; sắt thép giảm 16%. Thị trường Trung Quốc ước tính đạt 17 tỷ USD, tăng 13,7%, trong đó hàng rau quả tăng 179%; hàng dệt may tăng 41,5%; giày dép tăng 48%. Nhật Bản ước đạt 14,1 tỷ USD, giảm 4%, trong đó thủy sản giảm 14%; dầu thô giảm 58%. Hàn Quốc ước đạt 9 tỷ USD, tăng 25,2%, trong đó điện thoại các loại và linh kiện tăng 348%; điện tử, máy tính và linh kiện tăng 94%.

Xuất khẩu năm 2015 đạt thấp hơn năm trước và thấp hơn kế hoạch đề ra (tăng 10%) chủ yếu do: (i) Chỉ số giá xuất khẩu nhiều mặt hàng chủ lực giảm mạnh so với năm trước, bình quân chung giảm 3,8%, trong đó: Dầu thô giảm 53%, xăng dầu giảm 49,8%, cao su giảm 24,1%, sản phẩm cao su giảm 14%; than đá giảm 10%, gạo giảm 8,1%, cà phê giảm 6,4%, rau quả giảm 3,4%; thủy sản giảm 2,5%, quặng và khoáng sản khác giảm 2,4%…; (ii) Lượng xuất khẩu nhiều mặt hàng nông sản giảm mạnh: Cà phê giảm 24,3%; hạt tiêu giảm 14,7%; chè giảm 6%.

b. Nhập khẩu hàng hóa

Kim ngạch hàng hóa nhập khẩu thực hiện tháng Mười Một năm nay đạt 13631 triệu USD, thấp hơn 869 triệu USD so với số ước tính, trong đó điện tử máy tính và linh kiện thấp hơn 207 triệu USD; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng khác thấp hơn 204 triệu USD; phương tiện vận tải khác và phụ tùng thấp hơn 199 triệu USD; điện thoại các loại và linh kiện thấp hơn 120 triệu USD; sắt thép thấp hơn 36 triệu USD; vải thấp hơn 30 triệu USD.

Kim ngạch hàng hóa nhập khẩu tháng Mười Hai ước tính đạt 14,50 tỷ USD, tăng 6,4% so với tháng trước, trong đó khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 8,5 tỷ USD, tăng 7,5%; khu vực trong nước đạt 6 tỷ USD, tăng 4,8%. Kim ngạch nhập khẩu một số mặt hàng tăng như: Thức ăn gia súc và nguyên phụ liệu tăng 36,9%; máy móc, thiết bị và dụng cụ tăng 13,9%; chất dẻo tăng 9,2%; vải tăng 3,3%. So với cùng kỳ năm trước, kim ngạch hàng hóa nhập khẩu tháng Mười Hai tăng 5,2%, trong đó, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 8,3%; khu vực kinh tế trong nước tăng 1%. Kim ngạch nhập khẩu một số mặt hàng phục vụ hoạt động sản xuất, gia công lắp giáp tăng so với cùng kỳ như: Sản phẩm chất dẻo tăng 21,1%; máy móc thiết bị dụng cụ và phụ tùng tăng 9,1%; vải tăng 11,9%; điện tử máy tính và linh kiện tăng 3,9%.

Tính chung cả năm 2015, kim ngạch hàng hóa nhập khẩu ước tính đạt 165,6 tỷ USD, tăng 12% so với năm trước, trong đó khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 98 tỷ USD, tăng 16,4%; khu vực kinh tế trong nước đạt 67,6 tỷ USD, tăng 6,3%. Nếu loại trừ yếu tố giá (Chỉ số giá nhập khẩu giảm 5,8%), kim ngạch nhập khẩu hàng hóa năm 2015 tăng 18,9%, cao hơn mức tăng 13,2% của năm 2014 khi loại trừ yếu tố giá (Chỉ số giá nhập khẩu năm 2014 giảm 1,02%). Giá nhập khẩu một số mặt hàng giảm mạnh so với năm trước: Xăng dầu giảm 40,4%; sắt thép giảm 15,6%; chất dẻo giảm 13%; phân bón giảm 14,1%.

Kim ngạch nhập khẩu trong năm của một số mặt hàng phục vụ sản xuất tăng cao so với năm trước: Máy móc, thiết bị, dụng cụ phụ tùng khác đạt 27,6 tỷ USD, tăng 23,1%; vải đạt 10,2 tỷ USD, tăng 8,2%; nguyên phụ liệu dệt, may, giày dép đạt 5 tỷ USD, tăng 7,5%; bông đạt 1,6 tỷ USD, tăng 12,4%. Một số mặt hàng có kim ngạch nhập khẩu lớn tăng so với năm trước: Điện tử, máy tính và linh kiện đạt 23,3 tỷ USD, tăng 24,2%; điện thoại các loại và linh kiện đạt 10,6 tỷ USD, tăng 25,4%; ô tô đạt 6 tỷ USD, tăng 59%, trong đó ô tô nguyên chiếc đạt 3 tỷ USD, tăng 87,7%.

Về cơ cấu hàng hóa nhập khẩu, nhóm hàng tư liệu sản xuất ước tính đạt 151,2 tỷ USD, tăng 12,3% so với năm 2014 và chiếm tới 91,3% tổng kim ngạch, tăng 0,2 điểm phần trăm so với năm 2014, trong đó nhóm máy móc, thiết bị, dụng cụ, phương tiện vận tải, phụ tùng đạt 67,5 tỷ USD, tăng 19,9% và chiếm 40,8%, tăng 2,7 điểm phần trăm (do một số nhóm hàng tăng mạnh như điện tử máy tính và linh kiện tăng 24,2%; điện thoại các loại và linh kiện tăng 25,4%; máy móc thiết bị dụng cụ và phụ tùng khác tăng 23,1%); nhóm nguyên nhiên vật liệu ước tính đạt 83,7 tỷ USD, tăng 6,8% và chiếm 50,5%, giảm 2,5 điểm phần trăm. Hàng tiêu dùng ước đạt 14,4 tỷ USD, tăng 10,4% và chiếm 8,7%, giảm 0,2 điểm phần trăm.

Về thị trường nhập khẩu, Trung Quốc vẫn là thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam trong năm 2015 với kim ngạch ước tính đạt 49,3 tỷ USD, tăng 12,9 % so với năm trước và chiếm 28,8% tổng kim ngạch nhập khẩu, trong đó nhập khẩu máy móc thiết bị, dụng cụ, phụ tùng tăng 15,6%; điện thoại các loại và linh kiện tăng 11,5%; điện tử, máy tính và linh kiện tăng 15,2%. Tiếp theo là Hàn Quốc với kim ngạch ước tính đạt 27,7 tỷ USD, tăng 27,4%; chiếm 16,7%, trong đó điện tử, máy tính và linh kiện tăng 35%; máy móc thiết bị, dụng cụ và phụ tùng tăng 64,8%; điện thoại tăng 79,5%. Thị trường ASEAN ước tính đạt 23,8 tỷ USD, tăng 3,8% và chiếm 14,4%, trong đó xăng dầu tăng 5,9%; máy móc thiết bị, dụng cụ, phụ tùng tăng 16,7%. Nhật Bản ước tính đạt 14,4 tỷ USD, tăng 11,6%, trong đó điện tử, máy tính và linh kiện tăng 23,8%; máy móc thiết bị, dụng cụ, phụ tùng khác tăng 26,6%. EU ước tính đạt 10,3 tỷ USD, tăng 16,3%; trong đó máy móc thiết bị dụng cụ và phụ tùng tăng 16,7%; dược phẩm 15,2%; phương tiện vận tải và phụ tùng tăng 133,8%. Nhập khẩu từ thị trường Hoa Kỳ ước tính đạt 8 tỷ USD, tăng 27%, trong đó điện tử, máy tính và linh kiện tăng 73,1%; máy móc thiết bị dụng cụ tăng 10,2%.

Tháng 11 xuất siêu 263 triệu USD (Số ước tính nhập siêu 200 triệu USD). Tháng 12 ước tính nhập siêu 300 triệu USD. Tính chung cả năm 2015 cán cân thương mại (xuất khẩu tính theo giá FOB, nhập khẩu tính theo giá CIF) rơi vào tình trạng thâm hụt với mức nhập siêu ước tính 3,2 tỷ USD (sau 3 năm liên tiếp xuất siêu[12]). Ngoài hai đối tác lớn là Mỹ và EU vẫn giữ được mức xuất siêu tương ứng 25,5 tỷ USD và 20,6 tỷ USD, các thị trường lớn khác đang có xu hương gia tăng mức nhập siêu, trong đó nhập siêu từ Trung Quốc ước tính 32,3 tỷ USD, tăng 12,5% so với năm trước; Hàn Quốc ước tính 18,7 tỷ USD, tăng 28%; ASEAN ước tính 5,5 tỷ USD, tăng 44,7%. Đáng chú ý là thị trường Nhật Bản sau nhiều năm xuất siêu, năm 2015 đã nhập siêu hơn 300 triệu USD. Nhập siêu năm 2015 hoàn toàn thuộc về khu vực kinh tế trong nước với mức nhập siêu của khu vực này là 20,3 tỷ USD, trong khi khu vực có vốn đầu tư nước ngoài xuất siêu 17,1 tỷ USD.

Với kim ngạch xuất khẩu và nhập khẩu cùng tính theo giá FOB (Loại trừ 9 tỷ USD phí vận tải và bảo hiểm hàng nhập khẩu được tính vào nhập khẩu dịch vụ) thì cân đối thương mại hàng hóa năm 2015 ước tính xuất siêu 5,8 tỷ USD, giảm 44% so với năm 2014.

c. Xuất, nhập khẩu dịch vụ

Năm 2015 xuất khẩu dịch vụ ước tính đạt 11,2 tỷ USD, tăng 2,1% so với năm 2014, trong đó xuất khẩu dịch vụ du lịch ước tính đạt 7,3 tỷ USD, chiếm 65% tổng kim ngạch và giảm 0,4% so với năm 2014.

Nhập khẩu dịch vụ năm nay ước tính đạt 15,5 tỷ USD, tăng 6,9% so với năm trước, trong đó chủ yếu vẫn là nhập khẩu dịch vụ vận tải và bảo hiểm hàng nhập khẩu với 9 tỷ USD, chiếm 58%.

Nhập siêu dịch vụ năm 2015 ước tính 4,3 tỷ USD, tăng 16% so với năm 2014. Như vậy, cân đối thương mại hàng hóa và dịch vụ năm 2015 ước tính xuất siêu 1,5 tỷ USD, giảm 77% so với năm 2014, trong đó hàng hóa xuất siêu 5,8 tỷ USD, dịch vụ nhập siêu 4,3 tỷ USD.

  1. Chỉ số giá

a. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI)

CPI tháng Mười Hai năm nay tăng 0,02% so với tháng trước, trong đó: Nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 0,5% do giá gas điều chỉnh tăng tại thời điểm 01/12/2015 và nhu cầu sửa chữa nhà ở tăng trong những tháng cuối năm; may mặc, mũ nón, giầy dép tăng 0,32% do nhu cầu mua sắm hàng mùa đông tăng; nhóm đồ uống và thuốc lá, hàng ăn và dịch vụ ăn uống cùng tăng 0,16% (lương thực tăng 0,45% do nhu cầu gạo cho xuất khẩu tăng; thực phẩm tăng 0,13%); thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,14%; giáo dục tăng 0,04%. Các nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá giảm: Giao thông giảm 1,57% chủ yếu do giá xăng, dầu trong nước được điều chỉnh giảm vào thời điểm 18/11/2015 và thời điểm 03/12/2015 (làm chỉ số giá xăng dầu giảm 3,39%); thiết bị và đồ dùng gia đình giảm 0,1%; văn hóa, giải trí và du lịch giảm 0,05%; bưu chính viễn thông giảm 0,03%.

CPI tháng 12/2015 tăng 0,6% so với cùng kỳ năm 2014, bình quân mỗi tháng CPI tăng 0,05%. CPI bình quân năm 2015 tăng 0,63% so với bình quân năm 2014. Mức tăng CPI tháng 12/2015 so với cùng kỳ năm 2014 và mức tăng CPI bình quân năm 2015 so với bình quân năm 2014 đều là mức thấp nhất trong 14 năm trở lại đây[13] và thấp hơn nhiều so với mục tiêu CPI tăng 5%. Chỉ số giá tiêu dùng năm 2015 tăng thấp chủ yếu do một số nguyên nhân sau:

– Nguồn cung về lương thực, thực phẩm trong nước dồi dào; sản lượng lương thực của thế giới tăng cùng sự cạnh tranh của các nước xuất khẩu gạo lớn như Thái Lan, Ấn Độ nên xuất khẩu gạo của Việt Nam càng gặp khó khăn, giá lương thực luôn thấp hơn các nước. Bình quân 11 tháng năm nay, giá gạo xuất khẩu của Việt Nam giảm 30,74 USD/tấn so với cùng kỳ năm trước. Xuất khẩu gạo gặp khó khăn đã tác động đến giá bán buôn, bán lẻ gạo trong nước giảm theo; chỉ số giá nhóm lương thực năm 2015 giảm 1,06% so với năm 2014.

– Giá nhiên liệu trên thị trường thế giới gần đây giảm mạnh[14] dẫn đến giá xăng dầu trong nước được điều chỉnh giảm, kéo theo chỉ số giá của nhóm nhà ở, vật liệu xây dựng và nhóm giao thông năm 2015 so với năm trước lần lượt giảm 1,62% và giảm 11,92%. Giá gas sinh hoạt trong nước bình quân năm 2015 giảm 18,6% so với năm 2014.

– Các Bộ, ngành và địa phương đã triển khai tích cực và có hiệu quả Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 03/01/2015 của Chính phủ về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu chỉ đạo điều hành thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội. Bên cạnh đó, công tác quản lý thị trường, giá cả được các cấp, các ngành quan tâm thực hiện. Mức độ điều chỉnh giá của nhóm hàng do Nhà nước quản lý như dịch vụ giáo dục, dịch vụ y tế cũng thấp hơn các năm trước[15].

Lạm phát cơ bản tháng 12/2015 tăng 0,11% so với tháng trước và tăng 1,69% so với cùng kỳ năm trước. Lạm phát cơ bản bình quân năm 2015 tăng 2,05% so với năm trước.

b. Chỉ số giá vàng và chỉ số giá đô la Mỹ

Chỉ số giá vàng tháng 12/2015 giảm 2,8% so với tháng trước; giảm 4,97% so với cùng kỳ năm 2014; bình quân năm 2015 giảm 4,73% so với năm 2014. Chỉ số giá đô la Mỹ tháng 12/2015 tăng 0,69% so với tháng trước và tăng 5,34% so với cùng kỳ năm 2014; bình quân năm 2015 tăng 3,16% so với năm 2014.

c. Chỉ số giá sản xuất

Chỉ số giá bán sản phẩm của người sản xuất hàng nông, lâm nghiệp và thủy sản năm 2015 giảm 0,28% so với năm trước, trong đó chỉ số giá bán sản phẩm hàng nông nghiệp tăng 0,48%; chỉ số giá bán sản phẩm hàng lâm nghiệp tăng 4,31% và hàng thủy sản giảm 3,39%. Chỉ số giá bán sản phẩm của người sản xuất hàng nông, lâm nghiệp và thủy sản quý IV giảm 0,17% so với kỳ trước và giảm 2,43% so với cùng kỳ năm trước

Chỉ số giá bán sản phẩm của người sản xuất hàng công nghiệp năm nay giảm 0,58% so với năm trước, trong đó chỉ số giá bán sản phẩm khai khoáng giảm 11,24%; chỉ số giá bán sản phẩm công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 0,04%; chỉ số giá bán điện và phân phối điện tăng 5,78%; chỉ số giá bán nước sạch, nước thải, xử lý nước thải, rác thải tăng 2,79%. Chỉ số giá bán sản phẩm của người sản xuất hàng công nghiệp quý IV giảm 0,49% so với kỳ trước và giảm 1,34% so với cùng kỳ năm trước.

Chỉ số giá cước vận tải, kho bãi năm 2015 giảm 3,26% so với năm 2014, chủ yếu do giá cước dịch vụ vận tải đường sắt, đường bộ giảm mạnh ở mức 6,02%. Các dịch vụ vận tải khác có giá tăng hoặc giảm nhẹ: Dịch vụ kho bãi và hỗ trợ vận tải tăng 1,36%; vận tải đường thuỷ giảm 2,93%; riêng giá vận tải đường hàng không ổn định. Chỉ số giá cước vận tải quý IV năm nay giảm 1,34% so với kỳ trước và giảm 4,36% so với cùng kỳ năm trước.

Chỉ số giá sản xuất dịch vụ năm 2015 tăng 1,28% so với năm trước, trong đó chỉ số giá dịch vụ lưu trú và ăn uống tăng 2,97%; thông tin và truyền thông tăng 0,41%; giáo dục và đào tạo tăng 5,84%; y tế và trợ giúp xã hội tăng 1,93%; hoạt động chuyên môn, khoa học, công nghệ tăng 1,7%; hoạt động hành chính và hỗ trợ tăng 1,55%. Chỉ số giá dịch vụ quý IV tăng 0,15% so với kỳ trước và tăng 1,09% so với cùng kỳ năm trước.

d. Chỉ số giá xuất, nhập khẩu hàng hóa

Chỉ số giá xuất khẩu hàng hoá năm 2015 giảm 3,79% so với năm trước, trong đó một số mặt hàng có chỉ số giá giảm mạnh: Dầu thô giảm 52,98%; xăng dầu các loại giảm 49,83%; cao su giảm 24,13%; than đá giảm 10,04%; dây điện và dây cáp điện giảm 8,2%; sắt, thép giảm 7,55%. Chỉ số giá xuất khẩu hàng hóa quý IV giảm 1,47% so với kỳ trước và giảm 3,58% so với cùng kỳ năm trước.

Chỉ số giá nhập khẩu hàng hoá năm 2015 giảm 5,82% so với năm 2014, trong đó một số mặt hàng có chỉ số giá giảm mạnh: Khí đốt hóa lỏng giảm 42,35%; xăng dầu các loại giảm 40,36%; cao su giảm 17,91%; sắt, thép giảm 15,55%; phân bón các loại giảm 14,06%; chất dẻo nguyên liệu giảm 12,99%; thức ăn gia súc và nguyên liệu giảm 10,74%. Chỉ số giá nhập khẩu hàng hóa quý IV giảm 3,11% so với kỳ trước và giảm 9,66% so với cùng kỳ năm trước.

Tỷ giá thương mại hàng hóa[16] năm nay tăng 2,15% so với năm trước, trong đó tỷ giá thương mại của hàng thủy sản tăng 4,32%; hóa chất tăng 13,13%; sắt thép tăng 9,48%; gỗ và sản phẩm gỗ tăng 6,8%. Tỷ giá thương mại hàng hóa quý IV tăng 1,7% so với kỳ trước và tăng 6,73% so với cùng kỳ năm trước.

III. MỘT SỐ VẤN ĐỀ XÃ HỘI

  1. Dân số

Dân số trung bình năm 2015 của cả nước ước tính 91,70 triệu người, tăng 974,9 nghìn người, tương đương tăng 1,07% so với năm 2014, bao gồm dân số thành thị 31,45 triệu người, chiếm 34,30%; dân số nông thôn 60,25 triệu người, chiếm 65,70%; dân số nam 45,25 triệu người, chiếm 49,35%; dân số nữ 46,45 triệu người chiếm 50,65%.

Theo kết quả Điều tra biến động dân số và kế hoạch hóa gia đình năm 2015, tổng tỷ suất sinh năm nay ước tính đạt 2,10 con/phụ nữ, tiếp tục duy trì ở mức sinh thay thế. Tỷ suất sinh thô là 16,20‰; tỷ suất chết thô là 6,81‰. Tỷ suất chết của trẻ em dưới 1 tuổi (số trẻ em dưới 1 tuổi tử vong/1000 trẻ sinh ra sống) là 14,73‰. Tỷ suất chết của trẻ em dưới 5 tuổi (số trẻ em dưới 5 tuổi tử vong/1000 trẻ sinh ra sống) là 22,12‰. Tuổi thọ trung bình của dân số cả nước năm 2015 là 73,3 tuổi, trong đó nam là 70,7 tuổi và nữ là 76,1 tuổi.

  1. Lao động, việc làm

Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên của cả nước tính đến thời điểm 01/01/2016 là 54,61 triệu người, tăng 185 nghìn người so với cùng thời điểm năm 2014, trong đó lao động nam chiếm 51,7%; lao động nữ chiếm 48,3%. Đến thời điểm trên, lực lượng lao động trong độ tuổi lao động ước tính 48,19 triệu người, tăng 506,1 nghìn người so với cùng thời điểm năm trước, trong đó lao động nam chiếm 54%; lao động nữ chiếm 46%.

Lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc trong các ngành kinh tế năm 2015 ước tính 52,9 triệu người, tăng 142 nghìn người so với năm 2014. Trong tổng số lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc năm 2015, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm 44,3% (Năm 2014 là 46,3%); khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 22,9% (Năm 2014 là 21,5%); khu vực dịch vụ chiếm 32,8% (Năm 2014 là 32,2%). Lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc năm 2015 khu vực thành thị chiếm 31,2% (Năm 2014 là 30,4%); khu vực nông thôn chiếm 68,8% (Năm 2014 là 69,6%). Tỷ lệ lao động trong độ tuổi đã qua đào tạo năm 2015 ước tính đạt 21,9%, cao hơn mức 19,6% của năm trước, trong đó lao động qua đào tạo khu vực thành thị đạt 38,3% (Năm 2014 là 35,9); khu vực nông thôn đạt 13,9% (Năm 2014 là 12,0).

Tỷ lệ thất nghiệp của lao động trong độ tuổi năm 2015 là 2,31% (Năm 2013 là 2,18%; năm 2014 là 2,10%), trong đó khu vực thành thị là 3,29% (Năm 2013 là 3,59%; năm 2014 là 3,40%); khu vực nông thôn là 1,83% (Năm 2013 là 1,54%; năm 2014 là 1,49%). Nền kinh tế khởi sắc với sự phát triển mạnh của khu vực công nghiệp và dịch vụ là một trong những nguyên nhân chủ yếu làm giảm tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị. Tỷ lệ thất nghiệp của lao động trong độ tuổi giảm dần theo quý (Quý I là 2,43%; quý II là 2,42%; quý III là 2,35%; quý IV là 2,12%) và giảm chủ yếu ở khu vực thành thị (Quý I là 3,43%; quý II là 3,53%; quý III là 3,38%, quý IV là 2,91%).

Tỷ lệ thất nghiệp của thanh niên (Từ 15-24 tuổi) năm 2015 là 6,85% (Năm 2013 là 6,17%; năm 2014 là 6,26%), trong đó khu vực thành thị là 11,20% (Năm 2013 là 11,12%; năm 2014 là 11,06%); khu vực nông thôn là 5,20% (Năm 2013 là 4,62%; năm 2014 là 4,63%). Tỷ lệ thất nghiệp của lao động từ 25 tuổi trở lên năm 2015 là 1,27% (Năm 2013 là 1,21%; năm 2014 là 1,15%), trong đó khu vực thành thị là 1,83% (Năm 2013 là 2,29%; năm 2014 là 2,08%); khu vực nông thôn là 0,99% (Năm 2013 là 0,72%; năm 2014 là 0,71%).

Tỷ lệ thiếu việc làm của lao động trong độ tuổi lao động năm 2015 là 1,82% (Năm 2013 là 2,75%; năm 2014 là 2,40%), trong đó khu vực thành thị là 0,82% (Năm 2013 là 1,48%; năm 2014 là 1,20%); khu vực nông thôn là 2,32% (Năm 2013 là 3,31%; năm 2014 là 2,96%). Tỷ lệ thiếu việc làm có xu hướng giảm dần vào cuối năm (Quý I là 2,43%; quý II là 1,80%; quý III là 1,62%; quý IV là 1,66%) và giảm chủ yếu ở khu vực nông thôn (Quý I là 3,05%; quý II là 2,23%; quý III là 2,05%; quý IV là 2,11%).

Ước tính trong năm 2015 cả nước có 56% lao động có việc làm phi chính thức ngoài hộ nông, lâm nghiệp, thủy sản có việc làm phi chính thức[17] (Năm 2013 là 59,3%; năm 2014 là 56,6%), trong đó thành thị là 47,1% (Năm 2013 là 49,8%; năm 2014 là 46,7%) và nông thôn là 64,3% (Năm 2013 là 67,9%; năm 2014 là 66,0%).

  1. Năng suất lao động

Năng suất lao động xã hội[18] của toàn nền kinh tế năm 2015 theo giá hiện hành ước tính đạt 79,3 triệu đồng/lao động (Tương đương khoảng 3657 USD/lao động). Tính theo giá so sánh năm 2010, năng suất lao động toàn nền kinh tế năm 2015 ước tính tăng 6,4% so với năm 2014.

Năng suất lao động của Việt Nam thời gian qua đã có sự cải thiện đáng kể theo hướng tăng đều qua các năm, bình quân giai đoạn 2006-2015 tăng 3,9%/năm, trong đó giai đoạn 2006-2010 tăng 3,4%/năm; giai đoạn 2011-2015 tăng 4,2%/năm. Năng suất lao động năm 2015 tăng 23,6% so với năm 2010, tuy thấp hơn so với mục tiêu đề ra là tăng 29%-32%, nhưng tốc độ tăng năng suất lao động thời kỳ này cao hơn thời kỳ 2006-2010 góp phần thu hẹp dần khoảng cách tương đối so với năng suất lao động của các nước ASEAN[19].

Tuy nhiên, năng suất lao động của nước ta hiện nay vẫn còn ở mức thấp so với các nước trong khu vực và không đồng đều giữa các ngành và lĩnh vực. Khoảng cách tương đối về năng suất lao động tuy đã giảm đáng kể, nhưng khoảng cách tuyệt đối (chênh lệch mức năng suất lao động) giữa Việt Nam với các nước ASEAN có trình độ phát triển cao hơn như Xin-ga-po, Ma-lai-xi-a, Thái Lan, In-đô-nê-xi-a lại gia tăng[20].

Nguyên nhân chủ yếu của tình hình trên là do: Cơ cấu kinh tế chậm chuyển dịch, lao động trong nông nghiệp chiếm tỷ lệ cao, trong khi năng suất lao động ngành nông nghiệp ở nước ta còn thấp. Máy móc, thiết bị và quy trình công nghệ còn lạc hậu; chất lượng, cơ cấu và hiệu quả sử dụng lao động chưa đáp ứng yêu cầu. Trình độ tổ chức, quản lý và hiệu quả sử dụng các nguồn lực còn nhiều bất cập, tăng trưởng chủ yếu dựa vào đóng góp của yếu tố vốn và lao động, đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) còn thấp. Ngoài ra, còn một số “điểm nghẽn” và “rào cản” về cải cách thể chế và thủ tục hành chính chưa được khắc phục.

  1. Đời sống dân cư và bảo đảm an sinh xã hội

Đời sống dân cư cả nước năm nay nhìn chung ổn định, tình hình thiếu đói trong nông dân giảm đáng kể so với năm 2014. Theo báo cáo của các địa phương, trong năm 2015, cả nước có 227,5 nghìn lượt hộ thiếu đói, giảm 27,8% so với năm trước, tương ứng với 944 nghìn lượt nhân khẩu thiếu đói, giảm 29,6%. Thiếu đói trong năm tập trung chủ yếu ở một số tỉnh vùng Trung du và miền núi phía Bắc, Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung và Tây Nguyên. Các địa phương có số hộ thiếu đói nhiều là Quảng Bình 22,1 nghìn lượt hộ; Cao Bằng có 18,6 nghìn lượt hộ, Sơn La 17 nghìn lượt hộ; Điện Biên 16,9 nghìn lượt hộ; Đắk Lắk 13 nghìn lượt hộ; Nghệ An 8,3 nghìn lượt hộ; Gia Lai 7,1 nghìn lượt hộ. Để khắc phục tình trạng thiếu đói, từ đầu năm các cấp, các ngành, các tổ chức từ trung ương đến địa phương đã hỗ trợ các hộ thiếu đói 19,7 nghìn tấn lương thực và 8,5 tỷ đồng. Tỷ lệ hộ nghèo năm 2015 ước tính khoảng 7%-7,2%, giảm 1,2-1,4 điểm phần trăm so với năm 2014.

Công tác an sinh xã hội tiếp tục được đẩy mạnh tại các địa phương. Theo báo cáo sơ bộ, tổng kinh phí dành cho hoạt động an sinh xã hội và giảm nghèo trong năm 2015 là 3967 tỷ đồng, bao gồm: 2179 tỷ đồng quà thăm hỏi và hỗ trợ các đối tượng chính sách; 1021 tỷ đồng hỗ trợ các hộ nghèo và 767 tỷ đồng cứu đói, cứu trợ xã hội khác.

Theo Chương trình mục tiêu quốc gia Giảm nghèo nhanh và bền vững giai đoạn 2012 – 2015, tính đến hết năm 2015 ngân sách nhà nước đã chi trên 60 nghìn tỷ đồng hỗ trợ mua thẻ bảo hiểm y tế cho các đối tượng chính sách, trong đó 70 triệu lượt người nghèo, dân tộc thiểu số được cấp phát thẻ bảo hiểm y tế miễn phí, 30% tổng số người thuộc hộ cận nghèo tham gia bảo hiểm y tế. Hàng năm ngân sách trung ương bố trí khoảng 7 nghìn tỷ đồng để thực hiện chính sách miễn giảm học phí cho học sinh nghèo, trợ cấp học bổng cho học sinh dân tộc thiểu số, học sinh bán trú và trường dân tộc bán trú. Trong giai đoạn 2011-2015 đã có trên 10 triệu lượt học sinh được hỗ trợ học phí với tổng kinh phí khoảng 35 nghìn tỷ đồng. Chương trình đã hỗ trợ nước sinh hoạt phân tán cho 15,8 nghìn hộ, xây dựng 910 công trình nước tập trung và bố trí 2,7 nghìn ha đất sản xuất cho hộ đồng bào dân tộc thiểu số với tổng kinh phí giai đoạn 2011-2014 đạt gần 1,3 nghìn tỷ đồng; Ngân sách cũng dành 5 nghìn tỷ đồng hỗ trợ cho 350 nghìn lao động nghèo học nghề miễn phí, 10 nghìn lao động thuộc các huyện nghèo được đào tạo nghề, giáo dục định hướng và đi làm việc ở nước ngoài. Bên cạnh đó có khoảng 100 nghìn lượt người nghèo được trợ giúp pháp lý miễn phí; 11 lượt triệu hộ nghèo được hỗ trợ tiền điện với kinh phí trên 3,5 nghìn tỷ đồng.

  1. Giáo dục, đào tạo

Theo báo cáo sơ bộ, năm học 2014 – 2015 cả nước có 1005,7 nghìn thí sinh tham dự kỳ thi trung học phổ thông quốc gia, trong đó có 816,8 nghìn thí sinh dự thi để lấy kết quả xét tốt nghiệp trung học phổ thông. Tỷ lệ tốt nghiệp trung học phổ thông năm nay đạt 93,4%, giảm 5,6 điểm phần trăm so với năm học trước; tỷ lệ tốt nghiệp hệ bổ túc trung học đạt 70,1%, giảm 18,9 điểm phần trăm.

Tính đến cuối năm 2015, cả nước có 37/63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đạt chuẩn phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi; 63/63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi, trong đó 12 tỉnh, thành phố được công nhận đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi mức độ 2.

Tại thời điểm đầu năm học 2015 – 2016, số giáo viên mẫu giáo là 231 nghìn người; số giáo viên phổ thông trực tiếp giảng dạy 829 nghìn người, bao gồm: 365 nghìn giáo viên tiểu học; 313 nghìn giáo viên trung học cơ sở và 151 nghìn giáo viên trung học phổ thông. Trong năm học này, cả nước có 3,9 triệu trẻ em đi học mẫu giáo; 7,7 triệu học sinh tiểu học; 5,1 triệu học sinh trung học cơ sở và 2,4 triệu học sinh trung học phổ thông.

Công tác đào tạo nghề tiếp tục được các cấp, các ngành và địa phương quan tâm đầu tư. Tính đến thời điểm cuối năm 2015, cả nước có 1467 cơ sở dạy nghề, bao gồm 190 trường cao đẳng nghề; 280 trường trung cấp nghề; 997 trung tâm dạy nghề và hơn 1 nghìn cơ sở có dạy nghề với tổng số giáo viên dạy nghề hơn 40,6 nghìn người. Sau 5 năm thực hiện Chiến lược phát triển dạy nghề thời kỳ 2011 – 2020, đã có gần 7,4 nghìn lượt giáo viên được đào tạo, bồi dưỡng nâng cao kỹ năng dạy nghề; 45 trường nghề trọng điểm được chọn để đầu tư xây dựng thành trường nghề chất lượng cao theo chuẩn các nước tiên tiến trong khu vực và quốc tế; 9,2 triệu lượt người được đào tạo nghề, đạt 95,6% mục tiêu đề ra. Riêng đào tạo sơ cấp nghề và dạy nghề dưới 3 tháng đã thu hút được trên 2,4 triệu lao động nông thôn theo Đề án Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020.

  1. Tình hình dịch bệnh, ngộ độc thực phẩm

Trong tháng 12/2015, cả nước có 8,3 nghìn trường hợp mắc bệnh tay chân miệng; 60 trường hợp mắc bệnh viêm não vi rút (02 trường hợp tử vong); 32 trường hợp mắc bệnh thương hàn; 11 trường hợp mắc bệnh viêm màng não do não mô cầu. Riêng bệnh sốt xuất huyết vẫn tiếp tục diễn biến phức tạp, nhất là ở các tỉnh phía Nam. Trong tháng có gần 20 nghìn trường hợp mắc bệnh sốt xuất huyết, trong đó 11 trường hợp tử vong.

Tính chung năm 2015, cả nước có hơn 57 nghìn trường hợp mắc bệnh tay chân miệng (6 trường hợp tử vong); 81,4 nghìn trường hợp mắc bệnh sốt xuất huyết (52 trường hợp tử vong); 924 trường hợp mắc bệnh viêm não vi rút (26 trường hợp tử vong); 376 trường hợp mắc bệnh thương hàn; 131 trường hợp mắc bệnh viêm màng não do não mô cầu (5 trường hợp tử vong). Từ đầu năm đến nay không ghi nhận trường hợp nào mắc mới bệnh tả và cúm A (H5N1).

Trong tháng đã phát hiện mới 642 trường hợp nhiễm HIV, nâng tổng số người nhiễm HIV của cả nước hiện còn sống tính đến thời điểm 17/12/2015 là 231,3 nghìn người, trong đó 79,7 nghìn trường hợp đã chuyển sang giai đoạn AIDS. Số người tử vong do AIDS của cả nước tính đến thời điểm trên là 80,1 nghìn người.

Trong tháng Mười Hai, trên địa bàn cả nước đã xảy ra 11 vụ ngộ độc thực phẩm làm 373 người bị ngộ độc (2 trường hợp tử vong). Tính từ đầu năm đến nay, trên địa bàn cả nước xảy ra 140 vụ ngộ độc thực phẩm nghiêm trọng, làm 4273 người bị ngộ độc (20 trường hợp tử vong).

  1. Hoạt động văn hóa, thể thao

Trong năm 2015, ngành Văn hóa đã tổ chức thành công nhiều hoạt động kỷ niệm các ngày lễ lớn của đất nước và các hoạt động văn hóa quốc tế khác như: Kỷ niệm 40 năm ngày giải phòng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước; 125 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh; 70 năm cách mạng tháng Tám và Quốc khánh 2-9; Triển lãm ảnh nghệ thuật toàn quốc lần thứ 27 tại Hải Phòng; Liên hoan thơ châu Á Thái Bình Dương lần thứ 2; Liên hoan đờn ca tài tử Nam Bộ lần thứ 21 tại Long An; Triển lãm ảnh di sản thế giới tại Thanh Hóa; Cuộc thi ảnh Nghệ thuật Quốc tế lần thứ 8 tại Việt Nam; Liên hoan Âm nhạc truyền thống các nước ASEAN – 2015; Triển lãm ảnh “ASEAN – 48 năm hòa bình, phát triển và 20 năm Việt Nam gia nhập ASEAN”. Bên cạnh đó các hoạt động văn hóa với chủ đề biển đảo quê hương cũng tiếp tục được tổ chức và thu hút sự quan tâm của đông đảo quần chúng.

Công tác bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa ngày càng được các cấp, các ngành, các tổ chức xã hội và nhân dân quan tâm chăm lo, bảo vệ. Đã có nhiều lễ hội truyền thống tốt đẹp và các loại hình diễn xướng dân gian độc đáo ở các địa phương được phục hồi và được UNESCO vinh danh. Tính đến cuối năm nay, Việt Nam đã được UNESCO công nhận 8 di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới, 10 di sản phi vật thể thế giới và 4 di sản tư liệu thế giới.

Phong trào thể thao quần chúng diễn ra sôi nổi khắp các địa phương với nhiều hoạt động phong phú: Ngày chạy Olympic vì sức khỏe toàn dân; Hội thi thể thao các dân tộc thiểu số khu vực II tại Kon Tum; Giải Vật dân tộc anh tài toàn quốc lần thứ III tại Hà Nội; Cuộc thi Marathon quốc tế Đà Nẵng 2015; Giải đua xe đạp Hà Nội mở rộng năm 2015; Hội thi thể thao gia đình toàn quốc năm 2015; Giải Bóng đá Hội Khỏe Phù Đổng – Cúp Milo lần thứ XIII, Đại hội thể thao sinh viên, học sinh toàn quốc, Đại hội thể thao các dân tộc thiểu số toàn quốc...

Trong hoạt động thể thao thành tích cao, đoàn thể thao Việt Nam giành được 475 huy chương vàng, 355 huy chương bạc và 321 huy chương đồng tại các giải thể thao cấp khu vực và thế giới. Trong đó, tại Đại hội thể thao Đông Nam Á lần thứ 28, Việt Nam xếp vị trí thứ 3/11 quốc gia tham dự với 73 huy chương vàng, 53 huy chương bạc và 60 huy chương đồng, phá 13 kỷ lục SEA Games.

  1. Tai nạn giao thông

Trong tháng Mười Hai (từ 16/11 đến 15/12/2015), trên địa bàn cả nước đã xảy ra 1776 vụ tai nạn giao thông, bao gồm 818 vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên và 958 vụ va chạm giao thông, làm 700 người chết; 524 người bị thương và 1149 người bị thương nhẹ. So với cùng kỳ năm trước, số vụ tai nạn giao thông giảm 14% (Số vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên giảm 10,2%; số vụ va chạm giao thông giảm 17%); số người chết giảm 3,3%; số người bị thương giảm 9,7% và số người bị thương nhẹ giảm 18,1%.

Tính chung cả năm 2015, trên địa bàn cả nước đã xảy ra 22404 vụ tai nạn giao thông, bao gồm 10167 vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên và 12237 vụ va chạm giao thông, làm 8671 người chết; 5984 người bị thương và 14572 người bị thương nhẹ. So với cùng kỳ năm trước, số vụ tai nạn giao thông năm nay giảm 11,5% (Số vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên giảm 4,1%; số vụ va chạm giao thông giảm 16,9%); số người chết giảm 3,6%; số người bị thương giảm 4,5% và số người bị thương nhẹ giảm 19,7%. Bình quân một ngày trong năm 2015, trên địa bàn cả nước xảy ra 61 vụ tai nạn giao thông, gồm 28 vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên và 33 vụ va chạm giao thông, làm 24 người chết, 16 người bị thương và 40 người bị thương nhẹ.

  1. Thiệt hại do thiên tai 

Theo báo cáo sơ bộ của các địa phương, trong năm 2015, thiên tai đã ảnh hưởng đến 52 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trên địa bàn cả nước, làm 157 người chết và mất tích; 199 người bị thương; 1,1 nghìn ngôi nhà bị sập đổ, cuốn trôi và 31 nghìn ngôi nhà bị sạt lở, ngập nước; 6,8 nghìn ha lúa và 6,6 nghìn ha hoa màu bị mất trắng; 57 nghìn ha lúa và 26,7 nghìn ha hoa màu bị ngập, hư hỏng; 200 m đê, 4,5 km kè, 66 km kênh mương và 341 km đường xe cơ giới bị sạt lở, cuốn trôi; 171 công trình phai, đập, cống bị phá hủy và 318 công trình bị hư hỏng, 196 cột điện trung, cao thế và 13 cột điện hạ thế bị gãy, đổ. Các địa phương bị thiệt hại nhiều do thiên tai: Sơn La 20 người chết, mất tích và 21 người bị thương; 2 nghìn ngôi nhà bị sập đổ, tốc mái, ngập nước; 2,7 nghìn ha lúa và hoa màu bị ngập, hư hỏng; Quảng Ninh 19 người chết, mất tích và 32 người bị thương; 9,5 nghìn ngôi nhà bị sập đổ, tốc mái, ngập nước; 8,7 nghìn ha lúa và hoa màu bị hư hỏng; Thanh Hóa 16 người chết, mất tích; 3,7 nghìn ngôi nhà bị sập đổ, tốc mái, ngập nước; 12,4 nghìn ha lúa và hoa màu bị ngập, hư hỏng… Tổng giá trị thiệt hại do thiên tai gây ra trong năm ước tính khoảng 5,4 nghìn tỷ đồng, trong đó Quảng Ninh thiệt hại 2,7 nghìn tỷ đồng; Thanh Hóa 465 tỷ đồng. Theo báo cáo sơ bộ, tổng số tiền mặt cứu trợ các địa phương bị ảnh hưởng thiên tai từ đầu năm là gần 352 tỷ đồng.

  1. Bảo vệ môi trường và phòng chống cháy nổ

Trong tháng 12/2015, các cơ quan chức năng đã phát hiện 815 vụ vi phạm quy định về bảo đảm vệ sinh môi trường, trong đó xử lý 393 vụ với tổng số tiền phạt trên 100 tỷ đồng. Tính chung trong năm 2015, các cơ quan chức năng đã phát hiện 10,9 nghìn vụ vi phạm về bảo vệ môi trường, trong đó 4,6 nghìn vụ bị xử lý với tổng số tiền phạt là 358 tỷ đồng.

Trong tháng 12/2015, trên địa bàn cả nước xảy ra 172 vụ cháy, nổ làm 8 người chết và 11 người bị thương, thiệt hại ước tính 28,7 tỷ đồng. Tổng hợp 12 tháng năm 2015, trên cả nước xảy ra 2866 vụ cháy, nổ nghiêm trọng, làm 94 người chết và 294 người bị thương. Tổng giá trị thiệt hại do cháy, nổ ước tính gần 905 tỷ đồng.

Khái quát lại: Trong bối cảnh kinh tế thế giới có những diễn biến phức tạp, sản xuất kinh doanh trong nước phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức nhưng kinh tế nước ta năm 2015 tiếp tục có những chuyển biến tích cực và phục hồi rõ nét ở nhiều lĩnh vực, đạt kết quả tăng trưởng khá cao so với mục tiêu đề ra và so với mức tăng của những năm trước trong giai đoạn 2011-2015. Những điểm sáng trong bức tranh kinh tế nước ta năm 2015 được thể hiện qua các chỉ số vĩ mô tương đối ổn định: Lạm phát được kiểm soát tốt và luôn giữ ở mức thấp; chính sách tiền tệ, tài khóa được điều hành linh hoạt, hiệu quả và phù hợp với diễn biến của thị trường; hệ thống tài chính, ngân hàng đạt được một số thành công ban đầu nhờ thực hiện nhiều biện pháp quan trọng để nâng cao tính ổn định và hiệu quả trong hoạt động; dự trữ ngoại tệ đạt mức cao; tín dụng tăng trưởng khá; môi trường thể chế đang dần được cải thiện; xu hướng kinh doanh của khu vực doanh nghiệp có nhiều tín hiệu khả quan, phản ánh niềm tin của các nhà đầu tư được củng cố và tăng lên; tái cấu trúc kinh tế bước đầu có chuyển biến; xuất khẩu duy trì mức tăng khá; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng cao; tổng cầu nội địa mạnh hơn. Công tác an sinh xã hội được tăng cường, việc làm của người lao động tăng lên, nhờ đó thu nhập và đời sống dân cư được cải thiện hơn.

Sản xuất, kinh doanh của nhiều ngành, lĩnh vực năm 2015 tăng khá dẫn đến tăng trưởng ở mức cao góp phần quan trọng vào việc thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội 5 năm 2011-2015. Tuy nhiên do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính và suy thoái toàn cầu từ năm 2008 nên bên cạnh một số chỉ tiêu đạt còn một số chỉ tiêu chưa đạt mục tiêu đề ra: Tăng trưởng kinh tế không đạt; tỷ trọng vốn đầu tư/GDP không đạt; nhập siêu đạt; năng suất lao động không đạt; CPI đạt; tỷ lệ thất nghiệp đạt; tốc độ tăng dân số không đạt; tỷ lệ che phủ rừng không đạt…

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, kinh tế nước ta vẫn còn phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức khi bước qua cánh cửa hội nhập đang mở ra ngày càng sâu rộng: Kinh tế thế giới vẫn tiềm ẩn nhiều rủi ro gây ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển kinh tế các nước, trong đó có Việt Nam vốn đang phụ thuộc rất nhiều vào bên ngoài. Giá dầu vẫn có xu hướng giảm và được dự báo giữ ở mức thấp trong trung hạn. Lạm phát tuy được kiềm chế và giữ ổn định ở mức thấp nhưng vẫn tiềm ẩn nguy cơ tăng trở lại do ảnh hưởng từ biến động khó lường của thị trường thế giới hoặc việc điều chỉnh tăng giá trong nước đối với một số mặt hàng, dịch vụ. Trong bối cảnh hiện tại, khu vực đầu tư nước ngoài tăng nhanh đang đồng nghĩa với sự phát triển yếu của khu vực trong nước, trong đó khu vực Nhà nước vẫn tồn tại nhiều bất cập, lãng phí và kém hiệu quả; vai trò của khu vực tư nhân chưa đủ mạnh do sự trì trệ và thiếu tính chủ động, năng động và sáng tạo. Việc xử lý nợ xấu những năm qua tuy đạt được kết quả nhất định nhưng còn nhiều vướng mắc. Tiến trình tái cơ cấu chậm làm cho chất lượng tăng trưởng thấp là nguy cơ gây ra rủi ro cho nền kinh tế trong thời gian tới. Xuất, nhập khẩu hàng hóa tăng nhưng chưa bảo đảm chất lượng và thiếu tính bền vững dẫn đến cán cân thương mại chậm được cải thiện, không ổn định với tình trạng nhập siêu trở lại, nhất là nhập siêu của khu vực kinh tế trong nước hiện đang ở mức cao. Chất lượng nguồn nhân lực vẫn là điều lo ngại dẫn đến năng suất lao động thấp làm cho hiệu quả và sức cạnh tranh của toàn nền kinh tế bị hạn chế.

Mặc dù còn nhiều khó khăn, thách thức nhưng sự nghiệp phát triển kinh tế-xã hội nước ta có thuận lợi cơ bản là niềm tin của người dân, của cộng đồng doanh nghiệp vào sự lãnh đạo, chỉ đạo kiên quyết, đúng đắn và kịp thời của Đảng, Quốc hội và Chính phủ; đồng thời chúng ta có những cơ hội phía trước cần nắm bắt và tận dụng tối đa: Niềm tin của các nhà đầu tư quốc tế vào Việt Nam đang tăng lên cùng với việc tham gia Hiệp định Đối tác Kinh tế xuyên Thái Bình Dương (TPP) cũng như Cộng đồng kinh tế ASEAN đang giúp cho Việt Nam trở thành một trong những điểm đến hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài, tạo cơ hội cho các doanh nghiệp trong nước phát triển nhanh, hướng tới tham gia vào chuỗi cung ứng mang tính toàn cầu đối với một số sản phẩm công nghệ cao.

Nhìn chung, triển vọng của kinh tế nước ta trong những năm tới có nhiều yếu tố tích cực nhưng các ngành, các cấp và các địa phương phải nhận thức đúng và đủ những khó khăn, thách thức trên chặng đường phía trước để kịp thời có giải pháp khắc phục vượt qua, đồng thời chủ động tận dụng cơ hội nhằm thực hiện tốt nhất mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội năm 2016, tạo đà phát triển mạnh cho những năm tiếp theo, tập trung vào những công việc trọng tâm sau đây:

Một là, tiếp tục kiểm soát lạm phát để chủ động phòng ngừa và hạn chế những bất ổn của thị trường thế giới tác động tiêu cực đến thị trường trong nước, đồng thời tránh không để xảy ra tình trạng điều chỉnh tăng giá một số mặt hàng, dịch vụ gây cú sốc lên lạm phát. Thực hiện rà soát, hoàn thiện thể chế, chính sách để chủ động hội nhập và hội nhập có hiệu quả với nền kinh tế thế giới. Kịp thời tuyên truyền, hướng dẫn doanh nghiệp tiếp cận thông tin đầy đủ về Hiệp định TPP. Khẩn trương chuẩn bị các điều kiện cần thiết, xây dựng cơ chế, chính sách phù hợp để sẵn sàng tham gia thị trường cạnh tranh toàn cầu trên mọi mặt: Trình độ quản lý, chất lượng nguồn nhân lực, chất lượng và tiêu chuẩn kỹ thuật hàng hóa xuất nhập khẩu, thương hiệu sản phẩm… Phát triển mạnh thị trường nội địa với nhiều loại sản phẩm được sản xuất trong nước đi đôi với đa dạng hóa thị trường xuất khẩu. Nhanh chóng phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ, gồm cả ngành sản xuất sản phẩm phải nhập khẩu hiện nay và ngành sản xuất sản phẩm xuất khẩu có giá trị gia tăng cao để giảm áp lực nhập khẩu yếu tố đầu vào, góp phần kiểm soát tình trạng nhập siêu, tiến tới giữ và ổn định cán cân thương mại ở mức hợp lý.

Hai là, các doanh nghiệp trong nước, gồm cả doanh nghiệp lớn và doanh nghiệp nhỏ và vừa cần xác định rõ việc Việt Nam tham gia TPP không chỉ đối mặt với thách thức mà còn là cơ hội lớn để giới thiệu, quảng bá và khẳng định sản phẩm của mình ra thị trường thế giới. Trong thời gian tới, xu hướng dòng vốn nước ngoài đổ vào thị trường Việt Nam sẽ tăng mạnh, vì vậy các doanh nghiệp trong nước phải chủ động và tích cực khai thác thông tin và tìm kiếm đối tác để có cơ hội tham gia vào chuỗi cung ứng, sản xuất, kinh doanh toàn cầu; đồng thời trang bị kiến thức cần thiết trong bối cảnh hội nhập ngày càng sâu rộng và gay gắt hiện nay. Bên cạnh đó, cộng đồng doanh nghiệp cần tập trung nghiên cứu hướng tới hình thành mối liên kết chặt chẽ giữa các doanh nghiệp để nâng cao trình độ chuyên môn hóa trong quy trình sản xuất sản phẩm cùng ngành nhằm tiết kiệm chi phí, tăng năng suất lao động, bảo đảm cạnh tranh bền vững.

Ba là, một trong những yếu tố quan trọng bảo đảm cho sản xuất nông nghiệp đứng vững khi tham gia cạnh tranh với các nước trong giai đoạn hội nhập là xây dựng định hướng cụ thể về thị trường đầu ra trên cơ sở đẩy mạnh mô hình sản xuất theo hướng liên kết chặt chẽ giữa kinh tế hộ gia đình và doanh nghiệp, tạo ra sản phẩm nông sản sạch theo các hợp đồng bao tiêu ổn định và có tính pháp lý cao. Đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn phải theo hướng tập trung có kế hoạch, quy hoạnh cụ thể và đồng bộ mang tính chiến lược về tài chính, đất đai và công nghệ, tránh tình trạng dàn trải, manh mún, bột phát theo phong trào. Để cải thiện việc tiêu thụ nông sản, bên cạnh việc làm tốt công tác xây dựng chiến lược từ khâu lựa chọn cây, con đến khâu sản xuất thì cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền thông tin về thị hiếu thị trường, giá cả sản phẩm cũng như thông tin về các chính sách đến tận người nông dân để sản phẩm được tiêu thụ hiệu quả hơn, tránh tình trạng ứ đọng như hiện nay. Tăng cường xuất khẩu nông sản đã qua chế biến, áp dụng và đổi mới công nghệ trong nuôi trồng, chế biến để tăng năng suất và nâng cao chất lượng, tăng tính cạnh tranh đối với những mặt hàng nông sản xuất khẩu./.

[1]Mức tăng GDP so với năm trước của một số năm: Năm 2011 tăng 6,24%; năm 2012 tăng 5,25%; năm 2013 tăng 5,42%; năm 2014 tăng 5,98%.

[2]Mức tăng so với năm trước của ngành thủy sản một số năm: Năm 2011 tăng 4,34%; năm 2012 tăng 3,75%; năm 2013 tăng 3,82%; năm 2014 tăng 6,53%.

[3]Mức tăng so với năm trước của ngành công nghiệp chế biến, chế tạo một số năm: Năm 2013 tăng 7,22%; năm 2014 tăng 7,41%.

[4]Mức tăng/giảm so với năm trước của ngành xây dựng một số năm: Năm 2011 giảm 0,26%; năm 2012 tăng 3,66%; năm 2013 tăng 5,84%; năm 2014 tăng 6,93%.

[5] Sản lượng lúa cả năm năm 2014 đạt 44,98 triệu tấn, tăng 935,9 nghìn tấn so với năm 2013.

[6] Aquaculture Stewardship Council (Hội đồng Quản lý Nuôi trồng thủy sản ).

[7] Khai thác biển đạt 2840,8 nghìn tấn, tăng 4,8%, trong đó cá đạt 2066,2 nghìn tấn, tăng 4,6%; tôm đạt 155,5 nghìn tấn, tăng 5,0%.

[8]Chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo 11 tháng năm 2013 tăng 9,2% so cùng kỳ năm trước; 11 tháng năm 2014 tăng 11,1%.

[9] Trong đó một số ngành công nghiệp cấp II sử dụng nhiều lao động có chỉ số sử dụng lao động tăng cao: Sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học tăng 24,1%; sản xuất sản phẩm thuốc lá tăng 23,8%; sản xuất trang phục tăng 9,6%; sản xuất da và các sản phẩm từ da tăng 7,2%; dệt tăng 6,7%.

[10] Nguồn: Hệ thống thông tin đăng ký doanh nghiệp quốc gia, Bộ Kế hoạch và Đầu tư.

[11] Năm 2010 tăng 26,5%; năm 2011 tăng 34,2%; năm 2012 tăng 18,2%; năm 2013 tăng 15,3%; năm 2014 tăng 13,8%.

[12] Năm 2012 xuất siêu 748,8 triệu USD; năm 2013 xuất siêu 0,3 triệu USD; năm 2014 xuất siêu gần 2,4 tỷ USD.

[13] CPI tháng 12 so với cùng kỳ năm trước: Năm 2002 tăng 4%; năm 2003 tăng 3%; năm 2004 tăng 9,5%; năm 2005 tăng 8,4%; năm 2006 tăng 6,6%; năm 2007 tăng 12,63%; năm 2008 tăng 19,89%; năm 2009 tăng 6,52%; năm 2010 tăng 11,75%; năm 2011 tăng 18,13%; năm 2012 tăng 6,81%; năm 2013 tăng 6,04%; năm 2014 tăng 1,84%.

CPI bình quân các năm so với năm trước: Năm 2002 tăng 3,9%; năm 2003 tăng 3,18%; năm 2004 tăng 7,7%;  năm 2005 tăng 8,3%; năm 2006 tăng 7,5%; năm 2007 tăng 8,3%; năm 2008 tăng 22,97%; năm 2009 tăng 6,88%; năm 2010 tăng 9,19%; năm 2011 tăng 18,58%; năm 2012 tăng 9,21%; năm 2013 tăng 6,6%; năm 2014 tăng 4,09%.

[14] Giá dầu Brent xuống mức thấp nhất trong vòng 5 năm qua, bình quân giá dầu Brent năm 2015 giảm 45,6% so với năm 2014.

[15] Giá dịch vụ y tế điều chỉnh năm 2015 đóng góp mức tăng CPI chung 0,1%;  giá dịch vụ giáo dục đóng góp CPI chung 0,4%. Giá điện điều chỉnh tăng 7,5% (Thời điểm 16/3/2015) đóng góp vào mức tăng chung 0,14%.

[16] Chỉ số giá xuất khẩu hàng hóa/chỉ số giá nhập khẩu hàng hóa.

[17] Lao động có việc làm phi chính thức ngoài hộ nông, lâm nghiệp, thủy sản bao gồm những người không làm việc trong khu vực hộ nông nghiệp và thuộc một trong ba nhóm sau: (i) lao động gia đình không được hưởng công hưởng hương; (ii) người chủ hoặc xã viên hợp tác xã của cơ sở chưa có đăng ký kinh doanh và (iii) người làm công ăn lương không được ký hợp đồng lao động hoặc được ký hợp đồng hợp đồng có thời hạn nhưng không được cơ sở tuyển dụng đóng bảo hiểm xã hội theo hình thức bắt buộc.

[18] GDP bình quân 1 lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc.

[19] Tính theo sức mua tương đương 2005 (PPP): Năng suất lao động của Xin-ga-po năm 1994 gấp 29,2 lần năng suất lao động của Việt Nam thì đến năm 2013, khoảng cách này chỉ còn gấp 18 lần; tương tự, khoảng cách giữa năng suất lao động của Ma-lai-xi-a và Việt Nam giảm từ 10,6 lần xuống 6,6 lần; Thái Lan từ 4,6 lần xuống 2,7 lần; Phi-li-pin từ 3,1 lần xuống 1,8 lần; In-đô-nê-xi-a từ 2,9 lần xuống còn 1,8 lần.

[20] Chênh lệch giữa năng suất lao động của Xin-ga-po và Việt Nam (theo PPP 2005) tăng từ 62.052 USD năm 1994 lên 92.632 USD năm 2013; tương tự, Ma-lai-xi-a tăng từ 21.142 USD lên 30.311 USD; Thái Lan từ 7.922 USD lên 9.314 USD; In-đô-nê-xi-a từ 4.104 USD lên 4.408 USD.

Bieu 2015

Từ khóa » Chỉ Số Giảm Phát 2015