Báo Cáo Tình Hình Kinh Tế – Xã Hội Quý I Năm 2022 - Tổng Cục Thống Kê
Có thể bạn quan tâm
1. Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước
Tổng sản phẩm trong nước (GDP) quý I năm 2022 ước tính tăng 5,03% so với cùng kỳ năm trước, cao hơn tốc độ tăng 4,72% của quý I năm 2021 và 3,66% của quý I năm 2020 nhưng vẫn thấp hơn tốc độ tăng 6,85% của quý I năm 2019. Trong đó, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 2,45%, đóng góp 5,76% vào mức tăng trưởng chung; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 6,38%, đóng góp 51,08%; khu vực dịch vụ tăng 4,58%, đóng góp 43,16%.
Trong khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản, năng suất lúa mùa vùng Đồng bằng sông Cửu Long tăng khá (tăng 7,4 tạ/ha) so với vụ mùa năm trước; ngành chăn nuôi đang dần phục hồi, sản lượng thịt hơi xuất chuồng quý I năm 2022 đều tăng so với cùng kỳ năm trước; chế biến và xuất khẩu tiêu thụ gỗ có nhiều tín hiệu tích cực; nuôi trồng thủy sản phát triển ổn định, giá cá tra, tôm nuôi trồng đang ở mức cao do nhu cầu xuất khẩu tăng mạnh. Giá trị tăng thêm ngành nông nghiệp quý I năm 2022 tăng 2,35% so với cùng kỳ năm trước, đóng góp 0,22 điểm phần trăm vào mức tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế; ngành lâm nghiệp tăng 3,86% nhưng chiếm tỷ trọng thấp nên chỉ đóng góp 0,02 điểm phần trăm; ngành thủy sản tăng 2,54%, đóng góp 0,05 điểm phần trăm[1].
Trong khu vực công nghiệp và xây dựng, ngành công nghiệp quý I năm 2022 tăng 7,07% so với cùng kỳ năm trước, cao hơn mức tăng 6,44% của quý I năm 2021, đóng góp 2,42 điểm phần trăm vào tốc độ tăng tổng giá trị tăng thêm toàn nền kinh tế. Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tiếp tục đóng vai trò động lực dẫn dắt tăng trưởng của nền kinh tế với mức tăng 7,79%, đóng góp 2,05 điểm phần trăm. Ngành khai khoáng tăng trưởng dương 1,23% (khai thác than tăng 3,2% và quặng kim loại tăng 5%), làm tăng 0,04 điểm phần trăm mức tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế. Ngành xây dựng tăng 2,57%, thấp hơn tốc độ tăng 6,53% của quý I năm 2021, đóng góp 0,16 điểm phần trăm.
Khu vực dịch vụ trong quý I năm 2022 tăng trưởng khởi sắc khi nhiều hoạt động dịch vụ sôi động trở lại. Đóng góp của một số ngành dịch vụ thị trường có tỷ trọng lớn vào mức tăng tổng giá trị tăng thêm của quý I năm nay như sau: Hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm tăng 9,75% so với cùng kỳ năm trước, đóng góp 0,54 điểm phần trăm; ngành vận tải, kho bãi tăng 7,06%, đóng góp 0,43 điểm phần trăm; ngành bán buôn và bán lẻ tăng 2,98%, đóng góp 0,31 điểm phần trăm; ngành dịch vụ lưu trú và ăn uống giảm 1,79%, làm giảm 0,04 điểm phần trăm.
Về cơ cấu nền kinh tế quý I năm 2022, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỷ trọng 10,94%; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 37,97%; khu vực dịch vụ chiếm 41,70%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 9,39% (Cơ cấu tương ứng của cùng kỳ năm 2021 là 11,61%; 36,61%; 42,38%; 9,40%).
Về sử dụng GDP quý I năm 2022, tiêu dùng cuối cùng tăng 4,28% so với cùng kỳ năm trước; tích lũy tài sản tăng 3,22%; xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ tăng 5,08%; nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ tăng 4,20%.
2. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản
Sản xuất nông nghiệp quý I năm 2022 tuy diễn ra trong điều kiện thời tiết tương đối thuận lợi cho lúa đông xuân sinh trưởng và phát triển nhưng do diễn biến phức tạp của dịch Covid-19 đã ảnh hưởng lớn đến hoạt động sản xuất và tiêu thụ nông sản. Chăn nuôi đang trong đà hồi phục nhưng gặp khó khăn do giá thức ăn chăn nuôi tăng cao. Sản xuất lâm nghiệp phát triển, chế biến và xuất khẩu gỗ những tháng đầu năm 2022 có nhiều tín hiệu tích cực. Hoạt động nuôi trồng, chế biến thủy sản khôi phục mạnh mẽ, giá cá tra tăng cao về mức kỷ lục năm 2018 sau hơn hai năm liên tiếp ở mức thấp, giá tôm cũng có xu hướng tăng. Sản lượng khai thác thủy sản giảm do giá xăng dầu tăng cao, nhiều tàu cá nằm bờ.
a) Nông nghiệp
Tính đến trung tuần tháng Ba, cả nước gieo trồng được 2.959,7 nghìn ha lúa đông xuân, bằng 99,5% cùng kỳ năm trước, trong đó: Các địa phương phía Bắc đạt 1.048,8 nghìn ha, bằng 99,1%; các địa phương phía Nam đạt 1.910,9 nghìn ha, bằng 99,6%, riêng vùng đồng bằng sông Cửu Long đạt 1.507 nghìn ha, bằng 99,2%. Đến nay, vùng Đồng bằng sông Cửu Long thu hoạch được 785 nghìn ha lúa đông xuân, chiếm 52,1% diện tích gieo cấy và bằng 114,8% cùng kỳ năm trước với năng suất ước đạt 71,8 tạ/ha, giảm 0,5 tạ/ha so với vụ đông xuân năm trước; sản lượng ước tính đạt 10,8 triệu tấn, giảm 165,2 nghìn tấn.
Đến trung tuần tháng Ba, vùng đồng bằng sông Cửu Long đã hoàn tất công tác thu hoạch lúa vụ mùa 2021-2022. Diện tích gieo trồng lúa mùa của toàn vùng đạt 171,2 nghìn ha, bằng 113,6% vụ mùa năm trước; năng suất đạt khá ở mức 51,6 tạ/ha, tăng 7,4 tạ/ha so với năng suất vụ mùa năm trước; sản lượng đạt 881,1 nghìn tấn, tăng 215,8 nghìn tấn. Tính đến giữa tháng Ba, các địa phương trên cả nước đã gieo trồng được 336,1 nghìn ha ngô, bằng 99,8% cùng kỳ năm trước; 52,7 nghìn ha khoai lang, bằng 91,6%; 11,0 nghìn ha đậu tương, bằng 88,3%; 109,2 nghìn ha lạc, bằng 96,6%; 583,7 nghìn ha rau đậu, bằng 101,9%.
Trong quý I năm 2022, một số cây công nghiệp lâu năm đã cho thu hoạch, trong đó: Sản lượng chè búp đạt 171,3 nghìn tấn, tăng 2,6% so với cùng kỳ năm trước; hồ tiêu đạt 166,1 nghìn tấn, tăng 3,8%; cao su đạt 127 nghìn tấn, tăng 2,4%; điều đạt 210,7 nghìn tấn, giảm 16,6%. Hầu hết sản lượng cây ăn quả tăng so với cùng kỳ năm trước: Chuối đạt 654,3 nghìn tấn, tăng 3,3%; cam đạt 263 nghìn tấn, tăng 2,1%; dứa đạt 211,2 nghìn tấn, tăng 3,4%; xoài đạt 180,9 nghìn tấn, tăng 2,4%; bưởi đạt 158,2 nghìn tấn, tăng 3,2%; Riêng sản lượng thanh long đạt 349,7 nghìn tấn, giảm 3,2% do gặp khó khăn trong xuất khẩu.
Chăn nuôi trâu, bò trong quý bị ảnh hưởng bởi rét đậm, rét hại xảy ra trong tháng Hai. Ước tính tổng số lợn tính đến thời điểm cuối tháng Ba tăng 4,2% so với cùng thời điểm năm 2021; tổng số bò tăng 1,1%; tổng số trâu giảm 2%; tổng đàn gia cầm tăng 2,4%. Sản lượng thịt trâu hơi xuất chuồng trong quý I/2022 đạt 33,9 nghìn tấn, tăng 1,1% so với cùng kỳ năm 2021; sản lượng thịt bò hơi xuất chuồng đạt 128,9 nghìn tấn, tăng 3,4%; sản lượng thịt lợn hơi xuất chuồng đạt 1.041,1 nghìn tấn, tăng 4,3%; sản lượng thịt gia cầm hơi xuất chuồng đạt 507,3 nghìn tấn, tăng 5,3%; sản lượng sữa bò tươi đạt 304,4 nghìn tấn, tăng 10,5%; sản lượng trứng gia cầm 4,6 tỷ quả, tăng 4,5%.
Tính đến ngày 21/3/2022, cả nước không còn dịch tai xanh và dịch lở mồm long móng; dịch cúm gia cầm còn ở Hà Nội; dịch viêm da nổi cục còn ở Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Khánh Hòa, Đắk Lắk và dịch tả lợn châu Phi còn ở 24 địa phương chưa qua 21 ngày.
b) Lâm nghiệp
Tháng 3/2022, diện tích rừng trồng mới tập trung của cả nước ước đạt 17,4 nghìn ha, tăng 5,3% so với cùng kỳ năm trước. Ước tính quý I năm 2022, diện tích rừng trồng mới tập trung của cả nước đạt 35,4 nghìn ha, tăng 5,1% so với cùng kỳ năm trước; số cây lâm nghiệp trồng phân tán đạt 27 triệu cây, tăng 8,2%; sản lượng gỗ khai thác đạt hơn 3,1 triệu m3, tăng 3,6%; sản lượng củi khai thác đạt 4,7 triệu ste, tăng 0,9%.
Diện tích rừng bị thiệt hại[2] trong tháng Ba là 76,4 ha, giảm 19,7% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm: Diện tích rừng bị cháy là 6,9 ha, giảm 66,1%; diện tích rừng bị chặt phá là 69,5 ha, giảm 7%. Ước tính quý I năm 2022, diện tích rừng bị thiệt hại là 216,5 ha, giảm 40,4% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm: Diện tích rừng bị cháy là 7,8 ha, giảm 93,2% (quý I năm 2021, diện tích rừng bị cháy là 115,1 ha); diện tích rừng bị chặt phá là 208,7 ha, giảm 15,9%.
c) Thủy sản
Sản lượng thủy sản tháng Ba ước tính đạt 694,2 nghìn tấn, tăng 2% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung quý I năm 2022, sản lượng thủy sản ước tính đạt 1.863,6 nghìn tấn, tăng 2% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Sản lượng thủy sản nuôi trồng ước đạt 988 nghìn tấn, tăng 5,1%; sản lượng thủy sản khai thác đạt đạt 875,6 nghìn tấn, giảm 1,2% (sản lượng thủy sản khai thác biển đạt 835,3 nghìn tấn, giảm 1,3%).
3. Sản xuất công nghiệp
Sản xuất công nghiệp trong quý I năm 2022 tiếp tục khởi sắc với giá trị tăng thêm toàn ngành tăng 7,07% so với cùng kỳ năm trước, trong đó công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 7,79%; sản xuất và phân phối điện tăng trưởng ổn định; ngành khai khoáng tăng trưởng dương chủ yếu do khai thác than và quặng kim loại tăng.
Giá trị tăng thêm toàn ngành công nghiệp quý I năm 2022 ước tính tăng 7,07% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 7,79%, đóng góp 2,05 điểm phần trăm vào mức tăng trưởng chung của toàn nền kinh tế; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 7,42%, đóng góp 0,29 điểm phần trăm; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 6,54%, đóng góp 0,04 điểm phần trăm; ngành khai khoáng tăng 1,23% (do sản lượng khai thác than tăng 3,2%; khai thác quặng kim loại tăng 5%), đóng góp 0,04 điểm phần trăm.
Chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tháng 3/2022 tăng 19,1% so với tháng trước và tăng 7,6% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung quý I năm 2022, chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 6,6% so với cùng kỳ năm 2021 (cùng kỳ năm 2021 tăng 5,8%).
Chỉ số tồn kho toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ước tính tại thời điểm 31/3/2022 tăng 4,8% so với cùng thời điểm tháng trước và tăng 17,7% so với cùng thời điểm năm trước (cùng thời điểm năm trước tăng 22,5%). Tỷ lệ tồn kho toàn ngành chế biến, chế tạo bình quân quý I năm 2022 là 79,9% (bình quân quý I năm 2021 là 75,1%).
4. Hoạt động của doanh nghiệp
Tình hình đăng ký doanh nghiệp quý I năm 2022 có nhiều khởi sắc, số doanh nghiệp thành lập mới và quay trở lại hoạt động trong quý I năm 2022 tăng 36,7% so với cùng kỳ năm trước; tổng vốn đăng ký vào nền kinh tế tăng 21%, trong đó vốn đăng ký tăng thêm của các doanh nghiệp đang hoạt động tăng 34,5%. Bên cạnh đó, kết quả điều tra xu hướng kinh doanh của các doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo cho thấy doanh nghiệp lạc quan về tình hình sản xuất kinh doanh trong quý II năm 2022 với 82,3% doanh nghiệp đánh giá sẽ ổn định và tốt hơn so với quý I năm 2022. Đây là kết quả quyết tâm phục hồi và phát triển kinh tế thời gian qua của Quốc hội và Chính phủ, tạo niềm tin, động lực cho cộng đồng doanh nghiệp phát triển hoạt động sản xuất, kinh doanh.
a) Tình hình đăng ký doanh nghiệp[3]
Trong tháng Ba, cả nước có 14,3 nghìn doanh nghiệp thành lập mới với số vốn đăng ký là 193,6 nghìn tỷ đồng và số lao động đăng ký 93,8 nghìn lao động, tăng 96,3% về số doanh nghiệp, tăng 127,3% về vốn đăng ký và tăng 29,2% về số lao động so với tháng 02/2022. So với cùng kỳ năm trước, tăng 28% về số doanh nghiệp, tăng 71,3% về số vốn đăng ký và tăng 28,8% về số lao động. Vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp thành lập mới trong tháng đạt 13,5 tỷ đồng, tăng 15,8% so với tháng trước và tăng 33,8% so với cùng kỳ năm trước. Bên cạnh đó, cả nước còn có 4,3 nghìn doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, tăng 5,6% so với tháng trước và giảm 5,1% so với cùng kỳ năm 2021.
Tính chung 3 tháng đầu năm 2022, cả nước có gần 34,6 nghìn doanh nghiệp đăng ký thành lập mới với tổng số vốn đăng ký là 471,2 nghìn tỷ đồng và tổng số lao động đăng ký gần 243,5 nghìn lao động, tăng 18,1% về số doanh nghiệp, tăng 5,2% về vốn đăng ký và giảm 0,9% về số lao động so với cùng kỳ năm trước. Vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp thành lập mới trong 3 tháng đầu năm 2022 đạt 13,6 tỷ đồng, giảm 10,9% so với cùng kỳ năm 2021. Nếu tính cả 706,7 nghìn tỷ đồng vốn đăng ký tăng thêm của 11,8 nghìn doanh nghiệp tăng vốn, tổng số vốn đăng ký bổ sung vào nền kinh tế trong 3 tháng đầu năm 2022 là 1.177,9 nghìn tỷ đồng, tăng 21% so với cùng kỳ năm trước. Bên cạnh đó, còn có 25,6 nghìn doanh nghiệp quay trở lại hoạt động (tăng 73,6% so với cùng kỳ năm 2021), nâng tổng số doanh nghiệp thành lập mới và doanh nghiệp quay trở lại hoạt động trong 3 tháng đầu năm 2022 lên 60,2 nghìn doanh nghiệp, tăng 36,7% so với cùng kỳ năm trước. Bình quân một tháng có 20 nghìn doanh nghiệp thành lập mới và quay trở lại hoạt động.
Cũng trong tháng Ba, có 2.976 doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng kinh doanh có thời hạn, giảm 14,1 % so với tháng trước và tăng 34,5% so với cùng kỳ năm 2021; có 2.474 doanh nghiệp ngừng hoạt động chờ làm thủ tục giải thể, tăng 29,1% và giảm 28,5%; có 1.077 doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể, giảm 12,7% và giảm 33%.
Tính chung 3 tháng đầu năm 2022, số doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh có thời hạn 35,7 nghìn doanh nghiệp, tăng 49,7% so với cùng kỳ năm trước; 11,3 nghìn doanh nghiệp ngừng hoạt động chờ làm thủ tục giải thể, tăng 0,1%; hơn 4,3 nghìn doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể, giảm 16,7%, trong đó có 3,8 nghìn doanh nghiệp có quy mô vốn dưới 10 tỷ đồng, giảm 19,7%; 63 doanh nghiệp có quy mô vốn trên 100 tỷ đồng, tăng 28,6%. Bình quân một tháng có 17,1 nghìn doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường.
b) Xu hướng kinh doanh của doanh nghiệp
Kết quả điều tra xu hướng kinh doanh của các doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo trong quý I năm 2022 cho thấy: Có 28,4% số doanh nghiệp đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh tốt hơn so với quý IV năm 2021; 35,8% số doanh nghiệp cho rằng tình hình sản xuất kinh doanh ổn định và 35,8% số doanh nghiệp đánh giá gặp khó khăn. Dự kiến quý II năm 2022, có 50% số doanh nghiệp đánh giá xu hướng sẽ tốt lên so với quý I năm 2022; 32,3% số doanh nghiệp cho rằng tình hình sản xuất kinh doanh sẽ ổn định và 17,7% số doanh nghiệp dự báo khó khăn hơn. Trong đó, khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài lạc quan nhất với 84,7% số doanh nghiệp dự báo tình hình sản xuất kinh doanh quý II năm 2022 tốt hơn và giữ ổn định so với quý I năm 2022; tỷ lệ này ở khu vực doanh nghiệp Nhà nước và doanh nghiệp ngoài Nhà nước lần lượt là 83,6% và 81,2%.
Về khối lượng sản xuất, có 30,3% số doanh nghiệp đánh giá khối lượng sản xuất của doanh nghiệp quý I năm 2022 tăng so với quý IV năm 2021; 34,7% số doanh nghiệp cho rằng ổn định và 35% số doanh nghiệp đánh giá khối lượng sản xuất giảm. Xu hướng quý II năm 2022 so với quý I năm 2022, có 50,3% số doanh nghiệp dự báo khối lượng sản xuất tăng; 15,6% số doanh nghiệp dự báo giảm và 34,1% số doanh nghiệp dự báo ổn định.
Về đơn đặt hàng, có 26,8% số doanh nghiệp có đơn đặt hàng quý I năm 2022 cao hơn quý IV năm 2021; 39,8% số doanh nghiệp có số đơn đặt hàng ổn định và 33,4% số doanh nghiệp có đơn đặt hàng giảm. Xu hướng quý II năm 2022 so với quý I năm 2022, có 46,6% số doanh nghiệp dự kiến có đơn hàng tăng lên; 16,3% số doanh nghiệp dự kiến đơn hàng giảm và 37,1% số doanh nghiệp dự kiến có đơn hàng ổn định.
Về đơn đặt hàng xuất khẩu, quý I năm 2022 so với quý IV năm 2021, có 24,7% số doanh nghiệp khẳng định số đơn hàng xuất khẩu mới cao hơn; 40,9% số doanh nghiệp có đơn hàng xuất khẩu mới ổn định và 34,4% số doanh nghiệp có đơn hàng xuất khẩu mới giảm. Xu hướng quý II năm 2022 so với quý I năm 2022, có 40,3% số doanh nghiệp dự kiến tăng đơn hàng xuất khẩu mới; 14,6% số doanh nghiệp dự kiến giảm và 45,1% số doanh nghiệp dự kiến ổn định.
5. Hoạt động dịch vụ
Trong quý I năm 2022, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng 4,4% so với cùng kỳ năm trước; vận chuyển hành khách giảm 23,6%; luân chuyển hành khách giảm 15,8% và vận chuyển hàng hóa tăng 8,2%, luân chuyển hàng hóa tăng 8,8%; khách quốc tế đến nước ta đạt gần 91 nghìn lượt người, tăng 89,1%.
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng Ba năm 2022 ước đạt 438 nghìn tỷ đồng, tăng 2,9% so với tháng trước và tăng 9,4% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung quý I năm 2022, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng ước đạt 1.318 nghìn tỷ đồng, tăng 4,4% so với cùng kỳ năm trước, nếu loại trừ yếu tố giá tăng 1,6% (cùng kỳ năm 2021tăng 2%).
Vận tải hành khách tháng 3/2022 ước đạt 241,5 triệu lượt khách vận chuyển, giảm 1,7% so với tháng trước và luân chuyển 12,1 tỷ lượt khách.km, tăng 4,7%. Tính chung quý I năm nay, vận tải hành khách đạt 740,8 triệu lượt khách vận chuyển, giảm 23,6% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2021 giảm 15,5%) và luân chuyển 34,8 tỷ lượt khách.km, giảm 15,8% (cùng kỳ năm trước giảm 22,5%). Vận tải hàng hóa tháng 3/2022 ước đạt 167,5 triệu tấn hàng hóa vận chuyển, tăng 4,8% so với tháng trước và luân chuyển 31,5 tỷ tấn.km, tăng 3,6%. Tính chung quý I năm 2022, vận tải hàng hóa đạt 501,8 triệu tấn hàng hóa vận chuyển, tăng 8,2% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2021 tăng 8,2%) và luân chuyển 94,3 tỷ tấn.km, tăng 8,8% (cùng kỳ năm trước tăng 5,1%).
Hoạt động viễn thông quý I năm 2022 nhìn chung ổn định với doanh thu ước đạt 83,8 nghìn tỷ đồng, tăng 5,1% so với cùng kỳ năm trước (nếu loại trừ yếu tố giá tăng 4,6%).
Khách quốc tế đến nước ta trong tháng Ba đạt 41,7 nghìn lượt người, tăng 41,4% so với tháng trước và gấp 2,2 lần cùng kỳ năm trước. Tính chung quý I năm 2022, khách quốc tế đến nước ta ước đạt gần 91 nghìn lượt người, tăng 89,1% so với cùng kỳ năm trước.
6. Hoạt động ngân hàng, bảo hiểm, thị trường chứng khoán
Quý I năm 2022, trong bối cảnh nền kinh tế gặp nhiều khó khăn do ảnh hưởng của dịch Covid-19, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tiếp tục giữ nguyên mức lãi suất điều hành, tạo điều kiện để các tổ chức tín dụng tiếp tục giảm lãi suất cho vay, hỗ trợ nền kinh tế phục hồi. Hoạt động kinh doanh bảo hiểm tăng trưởng ổn định; thị trường chứng khoán có nhiều triển vọng tích cực với mức vốn hóa thị trường cổ phiếu ước tính tăng 28% so với cùng kỳ năm trước.
Tính đến thời điểm 21/3/2022, tổng phương tiện thanh toán tăng 2,49% so với cuối năm 2021 (cùng thời điểm năm 2021 tăng 1,49%); huy động vốn của các tổ chức tín dụng tăng 2,15% (cùng thời điểm năm 2021 tăng 0,54%); tăng trưởng tín dụng của nền kinh tế đạt 4,03% (cùng thời điểm năm 2021 tăng 1,47%).
Những tháng đầu năm 2022, trong bối cảnh dịch Covid-19 tiếp tục diễn biến phức tạp, thị trường bảo hiểm vẫn duy trì tốc độ tăng trưởng ổn định. Doanh thu phí toàn thị trường bảo hiểm quý I năm 2022 ước tính tăng 13% so với cùng kỳ năm trước, trong đó doanh thu phí bảo hiểm lĩnh vực nhân thọ tăng 15%, lĩnh vực bảo hiểm phi nhân thọ tăng 9%.
Các lĩnh vực của nền kinh tế có xu hướng phục hồi và tăng trưởng, tác động tích cực đến hoạt động của thị trường chứng khoán.
Trên thị trường cổ phiếu, giá trị giao dịch bình quân quý I năm 2022 đạt 31.409 tỷ đồng/phiên, tăng 18,1% so với bình quân năm trước.
Trên thị trường trái phiếu, giá trị giao dịch bình quân quý I năm 2022 đạt 13.149 tỷ đồng/phiên, tăng 15,3% so với bình quân năm 2021.
Trên thị trường chứng khoán phái sinh, khối lượng giao dịch bình quân quý I năm 2022 của sản phẩm hợp đồng tương lai trên chỉ số VN30 đạt 139.076 hợp đồng/phiên, giảm 26% so với bình quân năm trước; giá trị giao dịch bình quân sản phẩm chứng quyền có bảo đảm đạt 38,42 tỷ đồng/phiên, giảm 46%.
7. Đầu tư phát triển
Vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội quý I năm 2022 theo giá hiện hành tăng 8,9% so với cùng kỳ năm 2021 cho thấy tín hiệu tích cực trong việc huy động và sử dụng vốn đầu tư, đây là động lực quan trọng đóng góp cho tăng trưởng kinh tế năm 2022.
Vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội quý I năm 2022 theo giá hiện hành ước đạt 562,2 nghìn tỷ đồng, tăng 8,9% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm: Vốn khu vực Nhà nước ước đạt 136,5 nghìn tỷ đồng, chiếm 24,3% tổng vốn đầu tư và tăng 9,3% so với cùng kỳ năm trước; khu vực ngoài Nhà nước đạt 323,1 nghìn tỷ đồng, chiếm 57,5%, tăng 9,1%; khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 102,6 nghìn tỷ đồng, chiếm 18,2% và tăng 7,9%.
Tổng vốn đầu tư nước ngoài đăng ký vào Việt Nam[4] tính đến ngày 20/3/2022 bao gồm vốn đăng ký cấp mới, vốn đăng ký điều chỉnh và giá trị góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài đạt 8,91 tỷ USD, giảm 12,1% so với cùng kỳ năm trước.
– Vốn đăng ký cấp mới có 322 dự án được cấp phép với số vốn đăng ký đạt 3,21 tỷ USD, tăng 37,6% về số dự án và giảm 55,5% về số vốn đăng ký so với cùng kỳ năm trước.
– Vốn đăng ký điều chỉnh của 228 lượt dự án (đã được cấp phép từ các năm trước) với số vốn đầu tư tăng thêm 4,07 tỷ USD, tăng 93,3% so với cùng kỳ năm trước.
– Vốn đăng ký góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài có 734 lượt với tổng giá trị góp vốn 1,63 tỷ USD, tăng 102,6% so cùng kỳ năm trước. Trong đó có 341 lượt góp vốn, mua cổ phần làm tăng vốn điều lệ của doanh nghiệp với giá trị góp vốn là 819,7 triệu USD và 393 lượt nhà đầu tư nước ngoài mua lại cổ phần trong nước mà không làm tăng vốn điều lệ với giá trị 811,4 triệu USD.
Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện tại Việt Nam 3 tháng đầu năm 2022 ước tính đạt 4,42 tỷ USD, tăng 7,8% so với cùng kỳ năm trước. Đây là mức vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài thực hiện cao nhất trong 5 năm qua.
Đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài trong 3 tháng đầu năm 2022 có 24 dự án được cấp mới giấy chứng nhận đầu tư với tổng số vốn của phía Việt Nam là 180,2 triệu USD, tăng 28,5% so với cùng kỳ năm trước; có 03 lượt dự án điều chỉnh vốn tăng 31,2 triệu USD, giảm 92,8%. Tính chung tổng vốn đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài (vốn cấp mới và điều chỉnh) đạt 211,5 triệu USD, giảm 63% so với cùng kỳ năm trước.
8. Thu, chi ngân sách Nhà nước
Thu ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến 15/3/2022 đạt 25,5% dự toán năm. Chi ngân sách Nhà nước đạt 15,6% dự toán năm, đảm bảo các nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội, quốc phòng, an ninh, quản lý nhà nước, thanh toán các khoản nợ đến hạn cũng như chi trả kịp thời cho các đối tượng theo quy định.
Tổng thu ngân sách Nhà nước 15 ngày đầu tháng 3/2022 ước tính đạt 31,9 nghìn tỷ đồng. Lũy kế tổng thu ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến thời điểm 15/3/2022 đạt 359,9 nghìn tỷ đồng, bằng 25,5% dự toán năm. Cụ thể một số khoản thu chính như sau:
– Thu nội địa trong 15 ngày đầu tháng 3/2022 đạt 18,7 nghìn tỷ đồng. Lũy kế đến ngày 15/3/2022 đạt gần 289 nghìn tỷ đồng, bằng 24,6% dự toán năm.
– Thu từ dầu thô trong 15 ngày đầu tháng 3/2022 đạt 1.110 tỷ đồng; lũy kế đến ngày 15/3/2022 đạt 10,7 nghìn tỷ đồng, bằng 37,8% dự toán năm.
– Thu cân đối ngân sách từ hoạt động xuất, nhập khẩu trong 15 ngày đầu tháng 3/2022 đạt 12,1 nghìn tỷ đồng; lũy kế đến ngày 15/3/2022 đạt 60,3 nghìn tỷ đồng, bằng 30,3% dự toán năm.
Tổng chi ngân sách Nhà nước trong 15 ngày đầu tháng 3/2022 ước tính đạt 56,8 nghìn tỷ đồng; lũy kế từ đầu năm đến thời điểm 15/3/2022 đạt 278,8 nghìn tỷ đồng, bằng 15,6% dự toán năm, trong đó: Chi thường xuyên đạt 205 nghìn tỷ đồng, bằng 18,4%; chi đầu tư phát triển 47,4 nghìn tỷ đồng, bằng 9%; chi trả nợ lãi 26,2 nghìn tỷ đồng, bằng 25,3%.
9. Xuất, nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ
Trong tháng 3/2022, hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hóa hồi phục mạnh mẽ với tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa ước đạt 66,73 tỷ USD, tăng 36,8% so với tháng trước và tăng 14,7% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung quí I năm 2022, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa đạt 176,35 tỷ USD, tăng 14,4% so với cùng kỳ năm trước, trong đó xuất khẩu tăng 12,9%; nhập khẩu tăng 15,9%[5].
a) Xuất, nhập khẩu hàng hóa[6]
Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa thực hiện tháng 02/2022 ước đạt 23,42 tỷ USD, cao hơn 470 triệu USD so với số ước tính. Ước tính tháng 3/2022, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa đạt 34,06 tỷ USD, tăng 45,5% so với tháng trước và tăng 14,8% so với cùng kỳ năm trước. Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu quý I/2022 ước đạt 88,58 tỷ USD, tăng 12,9% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, khu vực kinh tế trong nước đạt 23,27 tỷ USD, tăng 22%, chiếm 26,3% tổng kim ngạch xuất khẩu; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 65,31 tỷ USD, tăng 10%, chiếm 73,7%. Trong quí I năm 2022 có 15 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD, chiếm 80% tổng kim ngạch xuất khẩu (có 5 mặt hàng xuất khẩu trên 5 tỷ USD, chiếm 58%).
Về cơ cấu nhóm hàng xuất khẩu quí I năm 2022, nhóm hàng nhiên liệu và khoáng sản chiếm 1,4%, tăng 0,5 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước; nhóm hàng công nghiệp chế biến chiếm 89%, giảm 0,9 điểm phần trăm; nhóm hàng nông sản, lâm sản chiếm 6,9%, giảm 0,1 điểm phần trăm; nhóm hàng thủy sản chiếm 2,7%, tăng 0,5 điểm phần trăm.
Kim ngạch nhập khẩu hàng hóa thực hiện tháng 02/2022 đạt 25,38 tỷ USD, cao hơn 101 triệu USD so với số ước tính. Ước tính tháng 3/2022, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa đạt 32,67 tỷ USD, tăng 28,7% so với tháng trước và tăng 14,6% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung quý I/2022, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa ước đạt 87,77 tỷ USD, tăng 15,9% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 29,43 tỷ USD, tăng 13,7%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 58,34 tỷ USD, tăng 17,1%. Trong quí I năm 2022 có 16 mặt hàng nhập khẩu đạt trị giá trên 1 tỷ USD, chiếm tỷ trọng 76,1% tổng kim ngạch nhập khẩu.
Về cơ cấu nhóm hàng nhập khẩu quí I năm 2022, nhóm hàng tư liệu sản xuất chiếm 93,8%, tăng 0,1 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước, trong đó nhóm hàng máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng chiếm 46,2%, giảm 0,2 điểm phần trăm; nhóm hàng nguyên, nhiên, vật liệu chiếm 47,6%, tăng 0,3 điểm phần trăm. Nhóm hàng vật phẩm tiêu dùng chiếm 6,2%, giảm 0,1 điểm phần trăm.
Về thị trường xuất, nhập khẩu hàng hóa quí I năm 2022, Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch ước đạt 25,2 tỷ USD. Trung Quốc là thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch ước đạt 27,6 tỷ USD. Quí I năm 2022 xuất siêu sang EU ước đạt 7 tỷ USD, tăng 24,5% so với cùng kỳ năm trước; nhập siêu từ Trung Quốc 14,3 tỷ USD, tăng 21%; nhập siêu từ Hàn Quốc 10,4 tỷ USD, tăng 39,1%; nhập siêu từ ASEAN 3,3 tỷ USD, giảm 6,6%; nhập siêu từ Nhật Bản 434 triệu USD, tăng 23,1%.
Cán cân thương mại hàng hóa thực hiện tháng Hai nhập siêu 1,96 tỷ USD[7]; 2 tháng nhập siêu 581 triệu USD; tháng Ba ước tính xuất siêu 1,39 tỷ USD. Tính chung quí I năm 2022, cán cân thương mại hàng hóa ước tính xuất siêu 809 triệu USD (cùng kỳ năm trước xuất siêu 2,76 tỷ USD). Trong đó, khu vực kinh tế trong nước nhập siêu 6,16 tỷ USD; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) xuất siêu 6,97 tỷ USD.
b) Xuất, nhập khẩu dịch vụ
Trong quý I/2022, kim ngạch xuất khẩu dịch vụ ước đạt 1,05 tỷ USD, tăng 19,6% so với cùng kỳ năm trước, trong đó dịch vụ du lịch đạt 77 triệu USD (chiếm 7,3% tổng kim ngạch), tăng 75%; dịch vụ vận tải đạt 140 triệu USD (chiếm 13,4%), tăng 97,2%.
Kim ngạch nhập khẩu dịch vụ quí I năm nay ước đạt 5,18 tỷ USD, tăng 10% so với cùng kỳ năm trước, trong đó dịch vụ vận tải đạt 2,6 tỷ USD (chiếm 49,4% tổng kim ngạch), tăng 11,3%; dịch vụ du lịch đạt 1,1 tỷ USD (chiếm 20,3%), tăng 16,7%.
Nhập siêu dịch vụ quí I năm 2022 là 4,1 tỷ USD (trong đó phí dịch vụ vận tải và bảo hiểm hàng hóa nhập khẩu là 2,1 tỷ USD).
10. Chỉ số giá
Giá xăng dầu, giá gas tăng theo giá nhiên liệu thế giới; giá nhà ở thuê tăng trở lại sau khi dịch Covid-19 được kiểm soát; giá hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng thiết yếu tăng theo giá nguyên liệu đầu vào và giá xăng dầu là nguyên nhân chính làm chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 3/2022 tăng 0,7% so với tháng trước, tăng 1,91% so với tháng 12/2021 và tăng 2,41% so với cùng kỳ năm 2021.
Tính chung quý I/2022, CPI tăng 1,92% so với cùng kỳ năm trước, lạm phát cơ bản tăng 0,81%.
a) Chỉ số giá tiêu dùng, chỉ số giá vàng và đô la Mỹ
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 3/2022 tăng 0,7% so với tháng trước. CPI bình quân quý I/2022 so với cùng kỳ năm 2021 tăng 1,92%; CPI tháng 3/2022 tăng 1,91% so với tháng 12/2021 và tăng 2,41% so với cùng kỳ năm 2021.
Lạm phát cơ bản tháng 3/2022 tăng 0,29% so với tháng trước, tăng 1,09% so với cùng kỳ năm trước. Trong quý I/2022, lạm phát cơ bản bình quân tăng 0,81% so với bình quân cùng kỳ năm 2021, thấp hơn mức CPI bình quân chung (tăng 1,92%), điều này phản ánh biến động giá tiêu dùng chủ yếu do giá lương thực, xăng, dầu và gas tăng.
Giá vàng trong nước biến động theo giá vàng thế giới. Chỉ số giá vàng tháng 3/2022 tăng 4,51% so với tháng trước; tăng 9,36% so với cùng kỳ năm trước; bình quân quý I năm 2022, chỉ số giá vàng trong nước tăng 3,52%. Chỉ số giá đô la Mỹ tháng 3/2022 tăng 0,64% so với tháng trước; giảm 0,43% so với cùng kỳ năm trước; bình quân quý I năm 2022, chỉ số giá đô la Mỹ trong nước giảm 0,67%.
b) Chỉ số giá sản xuất, chỉ số giá xuất, nhập khẩu hàng hóa
Chỉ số giá sản xuất sản phẩm nông, lâm nghiệp và thủy sản quý I năm 2022 tăng 1,89% so với quý trước và tăng 0,58% so với cùng kỳ năm trước; chỉ số giá sản xuất sản phẩm công nghiệp tăng 1,09% và tăng 4,39%; chỉ số giá sản xuất dịch vụ tăng 0,79% và tăng 1,98%; chỉ số giá nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu dùng cho sản xuất tăng 1,49% và tăng 5,7%. Chỉ số giá xuất khẩu hàng hóa quý I năm 2022 tăng 2,47% so với quý trước và tăng 7,51% so với cùng kỳ năm trước; chỉ số giá nhập khẩu hàng hoá tăng 2,7% và tăng 10,98%. Tỷ giá thương mại hàng hóa (TOT)[8] quý I năm 2022 giảm 0,23% so với quý trước và giảm 3,13% so với cùng kỳ năm trước.
11. Một số tình hình xã hội
a) Lao động, việc làm
Chính sách thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch Covid-19 giúp cho thị trường lao động quý I năm 2022 có nhiều tín hiệu khởi sắc. Lực lượng lao động, số người có việc làm và thu nhập bình quân tháng của người lao động tăng so với quý trước và so với cùng kỳ năm trước. Tỷ lệ thất nghiệp và tỷ lệ thiếu việc làm trong độ tuổi lao động đều giảm so với quý trước, tuy vẫn cao hơn so với cùng kỳ năm trước nhưng mức độ giảm dần.
Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên của cả nước quý I/2022 ước tính là 51,2 triệu người, tăng 441,1 nghìn người so với quý trước và tăng 158,9 nghìn người so với cùng kỳ năm 2021. Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động quý I năm 2022 là 68,1%, tăng 0,4 điểm phần trăm so với quý trước và giảm 0,6 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước.
Lao động 15 tuổi trở lên có việc làm trong quý I năm 2022 ước tính là 50 triệu người, tăng 132,2 nghìn người so với cùng kỳ năm trước, bao gồm 13,9 triệu người đang làm việc ở khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản, chiếm 27,8% tổng số; khu vực công nghiệp và xây dựng 16,7 triệu người, chiếm 33,5%; khu vực dịch vụ 19,4 triệu người, chiếm 38,7%.
Tỷ lệ thất nghiệp chung cả nước quý I/2022 ước tính là 2,24%, trong đó tỷ lệ thất nghiệp khu vực thành thị là 2,69%; khu vực nông thôn là 1,97%. Tỷ lệ thất nghiệp của lao động trong độ tuổi quý I/2022 là 2,46%, trong đó khu vực thành thị là 2,88%; khu vực nông thôn là 2,19%. Tỷ lệ thất nghiệp của thanh niên (từ 15-24 tuổi) quý I/2022 ước tính là 7,93%, trong đó khu vực thành thị là 9,30%; khu vực nông thôn là 7,20%. Tỷ lệ thiếu việc làm của lao động trong độ tuổi quý I/2022 ước tính là 3,01%, trong đó tỷ lệ thiếu việc làm khu vực thành thị là 2,39%; khu vực nông thôn là 3,40%.
b) Đời sống dân cư và bảo đảm an sinh xã hội
Trong quý I năm nay, đời sống của người dân còn gặp nhiều khó khăn do ảnh hưởng của dịch Covid-19 bùng phát mạnh. Công tác an sinh xã hội được các cấp từ Trung ương đến địa phương quan tâm thực hiện. Theo báo cáo từ địa phương, giá trị quà tặng cho các đối tượng bảo trợ xã hội từ nguồn ngân sách và xã hội hóa là gần 1 nghìn tỷ đồng; trị giá tiền, quà thăm hỏi và các hỗ trợ cho hộ nghèo, hộ cận nghèo là gần 1,3 nghìn tỷ đồng; trị giá tiền và quà cho các đối tượng ưu đãi là người có công, thân nhân người có công với cách mạng là gần 2,1 nghìn tỷ đồng; hỗ trợ tình hình đột biến, bất thường (thiên tai, bão lũ,…) phát sinh tại địa phương gần 1,9 nghìn tỷ đồng. Ngoài ra, có hơn 25,5 triệu thẻ BHYT/sổ/thẻ khám chữa bệnh miễn phí được phát, tặng cho các đối tượng chính sách trên đại bàn cả nước.
Bên cạnh đó, các gói hỗ trợ do ảnh hưởng dịch Covid-19 tiếp tục được thực hiện. Tính đến ngày 22/3/2022, gói hỗ trợ theo Nghị quyết số 68/NQ-CP ngày 01/7/2021 và Nghị quyết số 126/NQ-CP ngày 8/10/2021 của Chính phủ đạt gần 40,6 nghìn tỷ đồng hỗ trợ cho 35,6 triệu lượt người lao động và 378,9 nghìn đơn vị sử dụng lao động/hộ kinh doanh; gói hỗ trợ theo Nghị quyết số 116/NQ-CP ngày 24/9/2021 của Chính phủ đạt gần 38,6 nghìn tỷ đồng hỗ trợ cho trên 13 triệu lượt lao động và 363,6 nghìn đơn vị/hộ kinh doanh sử dụng lao động. Ngoài ra, để đảm bảo người dân không bị ảnh hưởng do thiếu đói giáp hạt, ngày 15/3/2022 Chính phủ ra Quyết định số 340/QĐ-TTg cấp xuất 1.006,6 tấn gạo từ nguồn dự trữ quốc gia cho tỉnh Sơn La và Điện Biên.
c) Tình hình dịch bệnh
Dịch Covid-19 trên thế giới vẫn diễn biến phức tạp[9]. Tại Việt Nam, số ca mắc tiếp tục tăng nhanh tại hầu hết các tỉnh, thành phố chủ yếu do biến thể BA.2 của biến chủng Omicron làm lây lan nhanh hơn, tuy nhiên với tỷ lệ bao phủ vắc xin cao trên phạm vi toàn quốc, đặc biệt quan tâm chăm sóc đối tượng nguy cơ cao nên số ca chuyển nặng giảm và tỷ lệ tử vong trên số ca mắc giảm sâu. Tính đến 16 giờ ngày 27/3/2022, Việt Nam có 9.011,5 nghìn trường hợp mắc, trong đó 5.352 nghìn trường hợp đã được chữa khỏi và hơn 42,3 nghìn trường hợp tử vong.
Việt Nam hiện là một trong 6 quốc gia có tỷ lệ bao phủ vắc xin phòng Covid-19 cao nhất trên thế giới. Tính đến ngày 25/3/2022, tổng số liều vắc xin phòng Covid-19 đã được tiêm là 204.566 nghìn liều, trong đó tiêm mũi 1 là 79.974,2 nghìn liều; tiêm mũi 2 là 76.301 nghìn liều; tiêm mũi 3 (tiêm bổ sung, tiêm nhắc và mũi 3 liều cơ bản) là 48.290,8 nghìn liều.
d) Tai nạn giao thông
Trong quý I năm 2022, trên địa bàn cả nước xảy ra 2.762 vụ tai nạn giao thông, bao gồm 1.966 vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên và 796 vụ va chạm giao thông, làm 1.676 người chết, 947 người bị thương và 794 người bị thương nhẹ. Bình quân 1 ngày trong 3 tháng đầu năm, trên địa bàn cả nước xảy ra 31 vụ tai nạn giao thông, gồm 22 vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên và 09 vụ va chạm giao thông, làm 19 người chết, 11 người bị thương và 09 người bị thương nhẹ.
e) Thiệt hại do thiên tai
Tính chung 3 tháng đầu năm, thiên tai làm 03 người chết và mất tích; 01 người bị thương; 38,6 nghìn ha lúa và 4,1 nghìn ha hoa màu bị hư hỏng; gần 12,2 nghìn con gia súc và gia cầm bị chết; gần 1,5 nghìn ngôi nhà bị sập đổ, cuốn trôi và bị hư hỏng. Tổng giá trị thiệt hại về tài sản do thiên tai gây ra trong quý I năm 2022 ước tính hơn 832,5 tỷ đồng, gấp 19,6 lần so với cùng kỳ năm trước.
g) Bảo vệ môi trường và phòng chống cháy nổ
Trong 3 tháng đầu năm đã phát hiện 6.068 vụ vi phạm môi trường, trong đó xử lý 5.139 vụ với tổng số tiền phạt 65,8 tỷ đồng. Trong tháng[10], cả nước xảy ra 131 vụ cháy, nổ, làm 7 người chết và 14 người bị thương, tài sản thiệt hại ước tính 10,7 tỷ đồng. Tính chung 3 tháng đầu năm, cả nước xảy ra 446 vụ cháy, nổ, làm 23 người chết và 30 người bị thương, tài sản thiệt hại ước tính là 56,7 tỷ đồng.
Khái quát lại, trong bối cảnh dịch Covid-19 vẫn còn diễn biến phức tạp, lây lan nhanh trong cộng đồng, tình hình kinh tế, chính trị thế giới biến động khó lường, tuy nhiên bức tranh kinh tế – xã hội Việt Nam quý I năm 2022 đạt được mức tăng trưởng khá trên các lĩnh vực là do sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, sự chỉ đạo, điều hành kịp thời, quyết liệt, sát sao của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và nỗ lực của các cấp, các ngành, địa phương, cộng đồng doanh nghiệp và nhân dân cả nước.
[1] Giá trị tăng thêm các ngành nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản quý I năm 2021 so với cùng kỳ năm trước lần lượt là: 3,55%; 3,82%; 3,25%.
[2] Theo Báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Phát trển nông thôn.
[3] Nguồn: Hệ thống thông tin đăng ký doanh nghiệp quốc gia, Cục Quản lý đăng ký kinh doanh, Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
[4] Theo báo cáo của Cục Đầu tư nước ngoài, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, nhận ngày 22/3/2022.
[5] Tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa quí I năm 2021 đạt 154,18 tỷ USD, tăng 25,4% so với cùng kỳ năm trước, trong đó xuất khẩu đạt 78,47 tỷ USD, tăng 23,8%; nhập khẩu đạt 75,71 tỷ USD, tăng 27,1%.
[6] Ước tính tổng trị giá xuất khẩu, nhập khẩu tháng 3/2022 do Tổng cục Hải quan cung cấp ngày 28/3/2022. Tổng cục Thống kê ước tính trị giá xuất, nhập khẩu một số mặt hàng chủ yếu tháng 3/2022 dựa trên số liệu sơ bộ về trị giá xuất, nhập khẩu một số mặt hàng chủ yếu đến hết ngày 15/3/2022 do Tổng cục Hải quan cung cấp.
[7] Ước tính tháng Hai nhập siêu 2,34 tỷ USD.
[8] Chỉ số giá xuất khẩu hàng hóa so với chỉ số giá nhập khẩu hàng hóa.
[9] Tính đến 16 giờ ngày 22/3/2022 trên thế giới có 472.785,9 nghìn trường hợp mắc Covid-19 (6.106,7 nghìn trường hợp tử vong).
[10] Theo báo cáo nhanh từ Bộ Công an ngày 23/03/2022.
Từ khóa » Tốc độ Tăng Trưởng Kinh Tế
-
Tăng Trưởng Kinh Tế – Wikipedia Tiếng Việt
-
Tốc độ Tăng Trưởng Kinh Tế Thực Là Gì? Công Thức Tính Và Ví Dụ?
-
Tổng Quan Về Việt Nam - World Bank
-
Tăng Trưởng Kinh Tế - SlideShare
-
Việt Nam Có Tốc độ Tăng Trưởng Kinh Tế Số Cao
-
Tăng Trưởng Kinh Tế Của Trung Quốc Quý 2 Thấp Nhất Trong 2 Năm
-
Tốc độ Tăng Trưởng GDP Quý 2/2022 Cao Nhất Một Thập Kỷ
-
HTCTTKQG – Tốc độ Tăng Tổng Sản Phẩm Trong Nước
-
[PDF] Việt Nam Cần Những Gì để đạt được Khát Vọng Tăng Trưởng Dài Hạn?
-
Kinh Tế Yên Bái Có Tốc độ Tăng Trưởng Cao Nhất Trong 5 Năm Qua
-
Thế Giới ấn Tượng Với Tăng Trưởng Kinh Tế Việt Nam - Báo Lao động
-
Tăng Trưởng Kinh Tế Việt Nam Dự Báo đạt 7% Trong Năm 2019
-
Tốc độ Tăng Trưởng Kinh Tế Của Việt Nam Sẽ Giảm Sau 2010?
-
Tăng Trưởng Kinh Tế Việt Nam Năm 2020 Và Triển Vọng Năm 2021 (18 ...
-
Tốc độ Tăng Trưởng Kinh Tế - Báo Tuổi Trẻ
-
Tốc độ Tăng Trưởng Kinh Tế (GRDP) Bình Quân Hàng Năm đạt 7,1%
-
Trung Quốc Nỗ Lực Khôi Phục Tốc độ Tăng Trưởng Kinh Tế
-
Tăng Trưởng Kinh Tế Năm 2022 Khoảng 5,2 - 6,2%