Báo Cáo Tình Hình Kinh Tế – Xã Hội Quý IV Và Năm 2005

 

Tình hình kinh tế năm 2005 diễn ra trong những điều kiện khó khăn cả trong nước và trên thế giới. Trong nước, thời tiết đối với nhiều địa phương không thuận: sáu tháng đầu năm hạn hán kéo dài, lượng nước thiếu hụt không những gây khó khăn cho sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản, mà còn ảnh hưởng đến sản xuất điện và nước sinh hoạt của dân cư; 6 tháng cuối năm, mưa lớn, bão số 7 và bão số 8 làm ngập nhiều diện tích lúa mùa ở miền Bắc, miền Trung và ảnh hưởng đến năng suất; dịch cúm gia cầm tái phát ở một số địa phương. Trên thị trường thế giới, giá nhiều loại vật tư, nguyên liệu quan trọng như xăng dầu, sắt thép, phân bón, chất dẻo… tăng cao và diễn biến phức tạp đã gây áp lực tăng giá đầu vào cho sản xuất trong nước và tăng giá tiêu dùng. Do có sự chỉ đạo điều hành sát sao của Chính phủ ngay từ những tháng đầu năm và sự nỗ lực của các ngành, các cấp, các địa phương và toàn dân nhằm đạt được mục tiêu phát triển kinh tế- xã hội cả năm 2005, năm cuối của kế hoạch 5 năm 2001-2005, kinh tế nước ta tiếp tục đạt mức tăng trưởng cao và phát triển tích cực, xã hội ổn định. Trên cơ sở cập nhật tình hình quí IV, Tổng cục Thống kê tổng hợp sơ bộ tình hình kinh tế-xã hội năm 2005 như sau:

A. TÌNH HÌNH KINH TẾ

  1. Kết quả thực hiện một số chỉ tiêu kinh tế tổng hợp

Theo số liệu sơ bộ, tổng sản phẩm trong nước Quí IV tính theo gía so sánh năm 1994 tăng 9,2% so với quí IV năm trước, trong đó khu vực nông lâm nghiệp và thuỷ sản tăng 3% (nông nghiệp tăng 2%, lâm nghiệp tăng 1,2% và thuỷ sản tăng 12,5%); khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 12,3% (công nghiệp chế biến tăng mạnh (+14,7%); điện, ga và nước tăng 12,9% và xây dựng tăng 12,3%); khu vực dịch vụ tăng 9,3% (các ngành khách sạn, nhà hàng; vận tải bưu điện; tài chính là những ngành có giá trị tăng thêm lớn đạt tốc độ tăng từ 10% trở lên, đã góp phần tích cực cho tăng trưởng khu vực dịch vụ quí IV).

Tăng trưởng quí III thay đổi không nhiều so với ước tính từ  tháng 9, song tốc độ tăng của các ngành và khu vực ngành kinh tế có thay đổi, đặc biệt là khu vực công nghiệp khai thác, do khai thác dầu khí vẫn tiếp tục giảm so với cùng kỳ năm trước và các biến động tích cực hơn của một số sản phẩm chế biến xuất khẩu.

Tính chung năm 2005, tổng sản phẩm trong nước tăng 8,4% so với năm 2004, trong đó khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản tăng 4%; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 10,6% và khu vực dịch vụ tăng 8,5%. Trong 8,4% tăng trưởng chung, đóng góp của các khu vực theo thứ tự đóng góp: công nghiệp và xây dựng 4,2 điểm phần trăm; dịch vụ 3,4 điểm phần trăm và nông lâm nghiệp thuỷ sản 0,8 điểm phần trăm.

Bảng 1. Tổng sản phẩm trong nước năm 2005

theo giá so sánh 1994

Tổng sản phẩm trong nước

(Tỷ đồng)

Tốc độ tăng      so với năm 2004 (%) Đóng góp của mỗi khu vực vào tốc độ tăng chung (%)
       
Tổng số 392989 8,4 8,4
 Nông, lâm nghiệp và thuỷ sản 76905 4,0 0,8
Công nghiệp và xây dựng 157808 10,6 4,2
Riêng công nghiệp 123398 10,6 3,3
Dịch vụ 158276 8,5 3,4

Khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản năm nay đạt mức tăng thấp hơn so với dự kiến từ tháng 9, chủ yếu do sản lượng lúa mùa ở các tỉnh miền Bắc giảm (ảnh hưởng trực tiếp của bão số 7, bão số 8) và thiệt hại do cúm gia cầm không những giảm tốc độ khôi phục tổng đàn mà còn giảm cầu tiêu dùng thịt gia cầm và các sản phẩm chế biến từ gia cầm do tâm lý người dân e ngại không muốn tiêu dùng gia cầm khi không rõ nguồn gốc. Tuy nhiên, trong khu vực này thuỷ sản tăng mạnh, do cầu trong nước tăng (bù vào thịt gia cầm và sản phẩm chế biến từ gia cầm) và xuất khẩu tăng so với năm trước, nhất là những tháng cuối năm. Lâm nghiệp tăng nhẹ, chủ yếu do tăng sản lượng gỗ khai thác.

Khu vực công nghiệp và xây dựng đạt mức tăng trưởng 10,6%, trong đó giá trị tăng thêm của khu vực công nghiệp chế biến tăng 13,1% (9 tháng tăng 12,5%, cao hơn mức tăng 11% đã ước tính vào cuối tháng 9 và công nghiệp chế biến quí IV tăng 14,7%); giá trị tăng thêm của công nghiệp khai thác năm nay chỉ tăng 0,9%, chủ yếu do dầu thô khai thác trong suốt cả 4 quí  đều thấp hơn sản lượng cùng quí tương ứng của năm 2004 và sản lượng dầu thô khai thác cả năm cũng chỉ đạt mức 92,3% sản lượng năm 2004. Công nghiệp điện, ga, nước tăng 12,2%; xây dựng tăng 10,8%.

Khu vực dịch vụ có mức tăng trưởng 8,5%, cao hơn hẳn mức tăng trưởng 7,3% của năm 2004. Trong khu vực này, các ngành có tỷ trọng lớn và thuộc lĩnh vực dịch vụ kinh doanh như thương nghiệp; khách sạn, nhà hàng; vận tải, bưu điện, du lịch; tài chính, ngân hàng, bảo hiểm đều có mức tăng cao hơn so với mức tăng của từng ngành trong năm trước: Thương nghiệp năm nay tăng 8,3% (năm 2004 tăng 7,8%); Khách sạn nhà hàng tăng 17% (2004 tăng 8,1%); Vận tải, bưu điện, du lịch tăng 9,6% (2004 tăng 8,1%)…

Do khu vực công nghiệp và xây dựng tiếp tục tăng trưởng cao hơn mức tăng chung và tăng nhanh hơn các khu vực khác nên cơ cấu kinh tế ngành tiếp tục chuyển dịch theo chiều hướng tăng ở khu vực công nghiệp, xây dựng và giảm ở khu vực nông, lâm nghiệp, thuỷ sản.

 

Bảng 2. Tỷ trọng các khu vực kinh tế

trong tổng sản phẩm trong nước

%   

2001 2002 2003 2004 2005
           
Tổng số 100,00 100,00 100,00 100,00 100,00
 Nông, lâm nghiệp và thuỷ sản 23,24 23,03 22,54 21,81 20,89
Công nghiệp và xây dựng 38,13 38,49 39,47 40,21 41,03
Riêng công nghiệp 32,33 32,6 33,42 33,98 34,68
Dịch vụ 36,63 38,48 37,99 37,98 38,08

 

Tổng thu ngân sách Nhà nước năm 2005 ước tính tăng 16,6% so với năm 2004 và đạt 115% dự toán cả năm. Trong tổng số, các khoản thu nội địa đạt 109,2% dự toán; thu từ dầu thô đạt 146,1% (chủ yếu do giá dầu tăng cao so với khi lập dự toán); thu cân đối ngân sách từ hoạt động xuất, nhập khẩu bằng dự toán năm. Các khoản thu chủ yếu trong thu nội địa nhìn chung vượt dự toán cả năm, trong đó thu từ doanh nghiệp đầu tư nước ngoài (không kể thu từ dầu thô) đạt 114,2%; thu thuế công, thương nghiệp và dịch vụ ngoài quốc doanh 106,4%; thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao 107,3%; các khoản thu về nhà đất chỉ đạt 133,6%; riêng các khoản thu từ kinh tế quốc doanh chỉ đạt 101,9%.

Tổng chi ngân sách Nhà nước năm 2005 ước tính đạt 112,5% dự toán cả năm và tăng 19,5% so với năm 2004, đã đảm bảo nhu cầu chi từ ngân sách Nhà nước. Trong tổng số, chi cho đầu tư phát triển đạt 106,1% dự toán (chi đầu tư xây dựng cơ bản đạt 105,5%); chi thường xuyên đạt 107,8%; chi trả nợ và viện trợ đạt mức dự toán năm. Những khoản chi lớn và quan trọng trong chi thường xuyên nhìn chung đều đạt dự toán cả năm, trong đó chi cho giáo dục và đào tạo đạt 104,3; chi cho y tế 107,5%; chi lương hưu và bảo đảm xã hội 102,9%; chi quản lý hành chính, Đảng, Đoàn thể 111,9%; chi sự nghiệp kinh tế 130,2%… Bội chi ngân sách bằng mức dự toán cả năm và bằng 4,9% GDP, trong đó được bù đắp bằng nguồn vay trong nước là 81,6% và vay nước ngoài 18,4%.

  1. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản

Sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản năm 2005 diễn ra trong điều kiện không thuận lợi: Hạn hán gay gắt và kéo dài trong suốt mùa khô ở Tây Nguyên và Duyên hải Nam Trung Bộ; mưa bão diễn biến phức tạp; giá nhiều loại nguyên, nhiên, vật liệu tăng; dịch cúm gia cầm tái phát ở nhiều địa phương. Tuy nhiên, nhờ sự chỉ đạo kịp thời có hiệu quả của các cấp, các ngành; giá nhiều loại nông sản trong nước tăng so với năm 2004 nên sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản năm nay không bị ảnh hưởng nhiều. Giá trị sản xuất khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản năm 2005 tính theo giá so sánh năm 1994 ước tính đạt 182,0 nghìn tỷ đồng, tăng 4,9% so với năm 2004; trong đó nông nghiệp đạt 137,1 nghìn tỷ đồng, tăng 3,2%; lâm nghiệp 6,3 nghìn tỷ đồng, tăng 1,2%; thuỷ sản 38,6 nghìn tỷ đồng, tăng 12,1%. Tình hình sản xuất của từng ngành như sau:

  1. Nông nghiệp

Trồng trọt: Sản lượng lúa cả nước năm nay đạt 35,79 triệu tấn, giảm 35,8 vạn tấn so với năm 2004, trong đó các địa phương phía Bắc đạt 12,45 triệu tấn, giảm 67,9 vạn tấn, các địa phương phía Nam đạt 23,34 triệu tấn, tăng 32,1 vạn tấn. Diện tích lúa đạt 7326,4 nghìn ha, giảm 119 nghìn ha; năng suất đạt 48,9 tạ/ha, xấp xỉ năm 2004. Riêng đồng bằng sông Cửu Long tiếp tục khẳng định là vựa lúa của cả nước, nơi cung cấp sản phẩm hàng hoá cho xuất khẩu với diện tích đạt 3,8 triệu ha, sản lượng đạt 19,23 triệu tấn, tăng 66,7 vạn tấn so với năm 2004. Nếu tính thêm 3,76 triệu tấn ngô và các loại cây lương thực có hạt khác thì sản lượng lương thực có hạt cả nước năm nay đạt 39,55 triệu tấn, xấp xỉ sản lượng năm 2004.

Sản xuất cây công nghiệp hàng năm tăng khá so với năm trước, trong đó sản lượng đậu tương đạt 291,5 nghìn tấn, tăng 18,5%; lạc 485,5 nghìn tấn, tăng 3,5%; thuốc lá 25,9 nghìn tấn, tăng 10,7%; riêng cây mía do giá mía nguyên liệu không ổn định và một số diện tích mới trồng chưa thu hoạch, nên sản lượng chỉ đạt 14,7 triệu tấn, giảm 5,9%.

Kết quả sản xuất cây công nghiệp lâu năm có nhiều tiến bộ so với năm trước do diện tích thu hoạch được mở rộng, trong đó sản lượng chè đạt 534,2 nghìn tấn, tăng 4%; cao su 468,6 nghìn tấn, tăng 11,8%; hồ tiêu 77 nghìn tấn, tăng 4,9%; điều 232 nghìn tấn, tăng 13,3%; riêng cà phê sản lượng 767,7 nghìn tấn, giảm 8,2% do nắng hạn.

Tổng diện tích cây ăn quả đạt 766,1 ngàn ha, tăng 2,6% so với năm 2004, chủ yếu do cải tạo vườn tạp và tăng diện tích cây trồng đặc sản, có giá trị hàng hoá cao. Sản lượng cam, quýt tăng 12%; dứa tăng 13,9%; xoài tăng 12,8%; nhãn tăng 3,7%; bưởi tăng 15,7%; vải giảm 25,2%.

Chăn nuôi: Nhờ nguồn thức ăn dồi dào, nhu cầu thực phẩm thay thế cho các sản phẩm gia cầm tăng và giá bán sản phẩm ổn định ở mức cao nên chăn nuôi gia súc trên địa bàn cả nước phát triển nhanh, đặc biệt tỷ lệ bò sinh sản, bò thịt, bò lai sind đang có xu hướng tăng cao; bò sữa đang phục hồi và được chăn nuôi chủ yếu theo phương thức nuôi công nghiệp nên sản lượng sữa đạt khá; đàn lợn phát triển theo mô hình trang trại, vườn trại với quy mô đầu con, số vòng quay và sản lượng xuất chuồng tăng đáng kể.

Cả nước có 2,9 triệu con trâu, tăng 1,8% so với năm 2004, chủ yếu tăng đàn trâu thịt; đàn bò 5,5 triệu con, tăng 12,9%, trong đó đàn bò lai tăng 30%; đàn lợn 27,4 triệu con, tăng 4,9%. Chăn nuôi gia cầm bị ảnh hưởng lớn bởi dịch cúm tái phát, tính từ 1/10/2005 đến nay tổng số gia cầm bị tiêu huỷ là 3,58 triệu con, trong đó gà 1,21 triệu con; ngan, vịt 1,89 triệu con.

  1. Lâm nghiệp.

Diện tích rừng trồng tập trung cả nước năm nay đạt 184,5 nghìn ha, tăng 0,1% so với năm 2004; số cây phân tán (chỉ tính cây lâm nghiệp) đạt 245,8 triệu cây, tăng 1,9%; sản lượng gỗ khai thác (kể cả gỗ nguyên liệu giấy) đạt 2703,0 nghìn m3, tăng 2,9%.

Công tác bảo vệ, phòng chống cháy rừng tuy được Nhà nước quan tâm và đầu tư nhiều hơn trước, nhưng do thời tiết trong năm diễn biến phức tạp, nắng nóng kéo dài gây hạn hán ở nhiều nơi nên diện tích rừng bị thiệt hại vẫn ở mức cao với 10296,6 ha, tăng 46,2% so với năm trước, trong đó diện tích rừng bị cháy 7552,5 ha, tăng 57,8%. Một số tỉnh có diện tích rừng bị thiệt hại nhiều là Kon Tum cháy 1483,3 ha, Điện Biên cháy 876,9 ha.

  1. Thuỷ sản.

Sản lượng thuỷ sản cả nước năm nay ước tính đạt 3432,8 nghìn tấn, tăng 9,2% so với năm 2004, trong đó cá 2400,9 nghìn tấn, tăng 7,7%; tôm 441 nghìn tấn, tăng 13,4%.

Nuôi trồng thuỷ sản năm 2005 tuy gặp khó khăn về thời tiết nhưng nhờ đa dạng hoá hình thức nuôi trồng theo hướng hiệu quả cao và bền vững nên sản lượng đạt 1437,4 nghìn tấn, tăng 19,5% so với năm 2004, trong đó cá tăng 22,6%; tôm tăng 17,2%. Diện tích nuôi trồng thuỷ sản đạt 959,9 nghìn ha, tăng 4,3%, trong đó diện tích nuôi cá 290 nghìn ha, tăng 4,1%; diện tích nuôi tôm 622,4 nghìn ha, tăng 3%.

Hoạt động khai thác thuỷ sản tuy được thời tiết ủng hộ nhưng lại đối mặt với giá xăng dầu lên cao. Để khắc phục khó khăn, các địa phương đã hướng dẫn ngư dân hợp tác sản xuất, bám biển dài ngày, tìm ngư trường mới, tổ chức các đội tàu dịch vụ thu mua sản phẩm và cung ứng nhiên liệu cho tàu đánh bắt xa bờ, góp phần giảm chi phí sản xuất, tăng năng suất tàu, thuyền. Nhờ đó, sản lượng hải sản đánh bắt vẫn tăng, tỷ trọng hải sản đánh bắt xa bờ ngày càng lớn, trong đó có những sản phẩm phục vụ xuất khẩu như cá ngừ đại dương, tôm hùm, mực ống. Sản lượng khai thác năm nay ước tính đạt 1995,4 nghìn tấn, tăng 2,9% so với năm 2004, trong đó khai thác biển 1809,7 nghìn tấn, tăng 4,4%.

  1. Sản xuất công nghiệp

Sản xuất công nghiệp năm 2005 tiếp tục duy trì được tốc độ tăng trưởng cao so với kế hoạch đề ra và tăng cao hơn so với tốc độ tăng của những năm gần đây. Giá trị sản xuất công nghiệp năm 2005 theo giá cố định 1994 ước tính tăng 17,2% so với năm 2004, trong đó khu vực Nhà nước, chiếm tỷ trọng 34,3% giá trị sản xuất công nghiệp, tăng 8,7% (doanh nghiệp Nhà nước do trung ương quản lý tăng 13,1% và doanh nghiệp Nhà nước do địa phương quản lý giảm 2%); khu vực ngoài quốc doanh, chiếm tỷ trọng 28,5%, tăng 24,1%, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài  chiếm tỷ trọng 37,2%, tăng 20,9% (dầu mỏ, khí đốt đạt 27,1 nghìn tỷ, giảm 4,6%, các ngành khác đạt 127,9 nghìn tỷ, tăng 28,1%). Trong các khu vực kinh tế, khu vực doanh nghiệp Nhà nước có tốc độ tăng thấp, do số doanh nghiệp giảm, giảm nhiều nhất là doanh nghiệp Nhà nước địa phương quản lý, do tiếp tục thực hiện chủ trương của Nhà nước về đổi mới, sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước (có qui mô sản xuất nhỏ, hiệu quả sản xuất thấp hoặc làm ăn thua lỗ) chuyển sang các hình thức sở hữu khác như cổ phần hoá.

Trong ba ngành công nghiệp cấp I, công nghiệp khai thác chiếm tỷ trọng 9,1% giá trị sản xuất công nghiệp, chỉ tăng 1,4%, chủ yếu do khai thác dầu thô giảm, (sản lượng khai thác dầu thô năm 2005 ước tính chỉ đạt 92,3% sản lượng năm 2004); công nghiệp chế biến chiếm tỷ trọng 84,9%, tăng 19,5% so với năm trước, đóng góp chính vào tăng giá trị sản xuất công nghiệp 2005; sản xuất, phân phối điện, ga và nước chiếm tỷ trọng xấp xỉ 6%, tăng 14,1% so với cùng kỳ, cao hơn mức tăng của một số năm gần đây, chủ yếu do một số nhà máy điện được Nhà nước đầu tư xây dựng thêm đã đi vào hoạt động trong năm 2005.

Một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu tăng mạnh so với năm 2004 như: Than sạch khai thác năm 2005 ước tính đạt 32,6 triệu tấn, tăng 21,7% so với năm trước; thuỷ sản chế biến 594,6 nghìn tấn, tăng 15,9%; sữa hộp tăng 15,2%; phân hoá học 2,2 triệu tấn, tăng 24,7%; gạch lát 134,1 triệu m2, tăng 21,9%; thép cán 3,7 triệu tấn, tăng 21,8%; dây cáp điện 72,3 triệu m, tăng 39,8%; máy công cụ tăng 32,8%; ô tô lắp ráp tăng 31,1% và điện tăng 15,4%. Một số sản phẩm chủ yếu tăng ở mức 10-15% so với năm trước, do khó khăn trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm: quần áo may sẵn tăng 14,8%; giấy bìa  tăng 12,7%; xi măng tăng 11,9%, xe máy lắp ráp tăng 11,7%; bia tăng 10,3%… Bên cạnh đó có một số sản phẩm giảm so với năm 2004 như: dầu thô khai thác giảm 7,7%; ga hoá lỏng giảm 7,3%; đường mật giảm 18,5%; ti vi lắp ráp giảm 7,5%; xe đạp hoàn chỉnh giảm 20,5%…

Nhìn chung, công nghiệp năm 2005 tăng trước hết do tăng cầu sản phẩm công nghiệp được sản xuất trong nước trên thị trường nội địa và tăng xuất khẩu sản phẩm công nghiệp, trong đó xuất khẩu một số mặt hàng tăng mạnh như  than đá, các sản phẩm điện tử, điện lạnh; dây điện và cáp điện; sản phẩm nhựa; sản phẩm gỗ… Nhà nước tăng đầu tư cho các công trình công cộng, kết cấu hạ tầng … làm tăng nhu cầu tiêu thụ các sản phẩm liên quan, đặc biệt là các sản phẩm phục vụ xây dựng như sắt, thép, xi măng… Qui mô sản xuất công nghiệp được mở rộng so với năm 2004: Theo ước tính sơ bộ, số doanh nghiệp công nghiệp thực tế đang hoạt động đầu năm 2005 khoảng trên 23 nghìn doanh nghiệp, tăng 27,5% so với đầu năm 2004; tương ứng với số lao động tăng 12,6%; vốn tăng 25,6%; doanh thu tăng trên 30% so với năm 2004. Trong tổng số, doanh nghiệp công nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đang hoạt động là 2352, tăng 17,2% so với đầu năm  2004; lao động tăng 21,7%; vốn tăng 42%. Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực công nghiệp trong những năm qua tăng nhanh, tạo tiền đề cho khu vực này tăng trưởng cao và ổn định và chính khu vực này đã cung cấp nhiều sản phẩm mới có giá trị cao, tiêu thụ tốt ở thị trường trong nước và cung cấp cho xuất khẩu.

  1. Đầu tư­

Thực hiện vốn đầu tư­ phát triển năm 2005 theo giá thực tế sơ bộ đạt 324 nghìn tỷ đồng, tăng 8% so với kế hoạch năm. Trong tổng số, vốn Nhà nư­ớc chiếm 53,1%, vốn ngoài Nhà nước chiếm 32,4%, vốn đầu t­ư trực tiếp nư­ớc ngoài chiếm 14,5%.

Bảng 3. Thực hiện vốn đầu t­ư phát triển năm 2005

 

 Kế hoạch 2005    (Nghìn tỷ đồng) Ước thực hiện năm 2005
(Nghìn tỷ đồng) % so với kế hoạch năm Tổng số = 100 (%)
Tổng số 300,0 324,0 108,0 100,0
Vốn Nhà n­ước 171,0 172,0 100,6 53,1
Vốn ngoài Nhà nước 86,0 105,0 122,1 32,4
Vốn đầu tư­ trực tiếp n­ước ngoài 43,0 47,0 109,3 14,5

Vốn đầu tư xây dựng cơ bản thuộc vốn ngân sách Nhà nước năm 2005 ước thực hiện 62,93 nghìn tỷ đồng, bằng 121,2% kế hoạch cả năm, trong đó các đơn vị Trung ương 24,57 nghìn tỷ đồng bằng 123,5% kế hoạch năm; các đơn vị địa phương 38,36 nghìn tỷ đồng bằng 119,8%. Trong khối các đơn vị trung ương quản lý, Bộ giao thông vận tải thực hiện 7949 tỷ đồng,  bằng 138% kế hoạch năm; Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn 2309 tỷ đồng, đạt 126,3%; các Bộ khác đạt tỷ lệ kế hoạch vốn phổ biến ở mức từ 95%;  riêng Bộ Thuỷ sản mới đạt 86%.

Về đầu tư trực tiếp của nước ngoài, từ đầu năm đến ngày 15/12/2005, trên phạm vi cả nước đã có 771 dự án mới được cấp phép đầu tư với tổng vốn đầu tư đăng ký 3,9 tỷ USD, bình quân vốn 1 dự án mới được cấp phép là 5,1 triệu USD. Theo ngành kinh tế, các dự án mới được cấp phép trong năm nay vẫn chủ yếu tập trung vào công nghiệp và xây dựng, đặc biệt là lĩnh vực công nghiệp có nhiều dự án và  qui mô lớn hơn nhiều so với các dự án đầu tư vào nông, lâm nghiệp và thuỷ sản.

Bảng 4: Đầu t­ư trực tiếp nước ngoài năm 2005

Số dự án mới đuọc cấp phép Số vốn đăng ký (Triệu USD) % của tổng số Vốn bình quân một dự án (Triệu USD)
Dự án Vốn đăng ký
Tổng số 771 3896,2 100,0 100,0 5,05
Công nghiệp và xây dựng 519 2340,0 67,3 60,1 4,51
Công nghiệp dầu khí 1 20,0 0,1 0,5 20,00
Công nghiệp nặng 245 638,7 31,8 16,4 2,61
Công nghiệp nhẹ 221 1557,4 28,7 40,0 7,05
Công nghiệp thực phẩm 28 80,4 3,6 2,1 2,87
Xây dựng 24 43,7 3,1 1,1 1,82
Nông lâm nghiệp, thuỷ sản 75 122,6 9,7 3,1 1,63
Dịch vụ 177 1433,4 23,0 36,8 8,10

Cũng tính từ đầu năm đến ngày 15/12/2005 đã có 42 quốc gia và vùng lãnh thổ được cấp phép dự án đầu tư mới tại Việt Nam. Có 40 tỉnh, thành phố có dự án đầu tư  nước ngoài mới được cấp phép. Có 509 lượt dự án được tăng vốn trong năm nay, với tổng số vốn tăng thêm là 1825,8 triệu USD, trong đó các ngành công nghiệp 404 dự án với 1407,4 triệu USD; xây dựng 10 dự án với 92,1 triệu USD; nông, lâm nghiệp và thuỷ sản 56 dự án với 204 triệu USD và dịch vụ 49 dự án với 214,4 triệu USD. Tính chung trong năm nay, cả vốn cấp mới và vốn tăng thêm đạt 5,72 tỷ USD, là mức thu hút đầu tư  trực tiếp của nước ngoài khá cao so với những năm gần đây.

  1. Thương mại, giá cả và du lịch

Thị trường trong nước năm nay diễn biến phức tạp, do ảnh hưởng của biến động giá trên thị trường thế giới, nhất là giá xăng dầu và một số vật tư nguyên liệu tăng mạnh đã làm tăng giá trong nước. Tuy nhiên, do sản xuất tiếp tục tăng trưởng, giá nông sản tăng có lợi cho nông dân và điều chỉnh tăng lương khu vực hưởng lương từ ngân sách Nhà nước, nên thu nhập của dân cư tăng, kéo theo cầu tăng. Tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ quí IV tiếp tục tăng so với cùng quí năm trước, sơ bộ cả năm tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ  đạt 475,38 nghìn tỷ đồng, tăng 20,5% so với năm trước và tăng khoảng 12%, nếu loại trừ yếu tố tăng giá.  Khu vực kinh tế Nhà nước đạt 62,13 nghìn tỷ đồng, chiếm 13,1% tổng mức và chỉ tăng 3,9% so với năm trước, như vậy nếu loại trừ giá thì khu vực này giảm; khu vực kinh tế tập thể đạt 5 nghìn tỷ đồng, chiếm 1%, tăng 16,8%; khu vực kinh tế cá thể đạt 288,92 nghìn tỷ đồng, chiếm 60,8%, tăng 25,3%; khu vực kinh tế tư nhân 101,1 nghìn tỷ đồng, chiếm 21,3% và tăng 19,4%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 18,23 nghìn tỷ đồng, chiếm 3,8% và tăng 20,7%. Theo ngành kinh doanh, tổng mức bán lẻ hàng hoá và dịch vụ xã hội ngành thương nghiệp chiếm 77,9% tổng mức và tăng 19% so với cùng kỳ năm trước; khách sạn, nhà hàng tăng 28,6%, ngành dịch vụ tăng 23,8%. Cụ thể như sau:

 

Bảng 5. Tổng mức bán lẻ hàng hoá

và dịch vụ xã hội năm 2005

Tổng mức (Nghìn tỷ đồng giá thực tế) Cơ cấu

(Tổng số =100) %

Tốc độ tăng danh nghĩa so với 9 tháng 2004 (%)
TỔNG SỐ 475,38 100,0 20,5
Thương nghiệp 370,22 77,9 19,0
Khách sạn, nhà hàng 58,01 12,2 28,6
Dịch vụ 43,56 9,2 23,8
Du lịch 3,59 0,7 19,9

 

Giá tiêu dùng tháng 12/2005 tiếp tục tăng 0,8% so với tháng trước, bằng mức tăng giá của tháng 9 và là mức tăng tương đối cao so với mức tăng 0,4% của 10 và tháng 11. Như vậy, giá tiêu dùng so với tháng trước của tất cả các tháng trong năm 2005 đều tăng lên tuy mức độ có chênh lệch giữa các tháng, tăng thấp nhất là 0,4% và tăng cao nhất là 2,5% (tháng 2/2005, là tháng Tết). Giá tháng 12 so với tháng trước của 9/10 phân nhóm tăng, trong đó giá phân nhóm lương thực, thực phẩm và dịch vụ ăn uống ngoài gia đình tăng 1,4% (lương thực tăng 1,2% và thực phẩm tăng 1,7%), đã đóng góp 0,67 điểm phần trăm vào tăng giá chung; ba nhóm tiếp theo là nhà ở vật liệu xây dựng; thiết bị và đồ dùng gia đình; hàng may mặc, giày dép, mũ nón đều tăng 0,6% và mỗi nhóm đóng góp 0,5 điểm phần trăm. Các nhóm còn lại tăng từ 0,2 đến 0,7%; riêng giá phương tiện đi lại, bưu điện giảm 1,1% (trong nhóm này, giá bưu chính viễn thông không thay đổi so với tháng trước).

So với tháng 12/2004, giá tiêu dùng tháng 12 năm 2005 tăng 8,4%. Đáng chú ý là giá của tất cả 10 nhóm hàng hoá và dịch vụ đều tăng: một số nhóm giá tăng cao, đóng góp chính vào tăng giá tiêu dùng so với tháng 12/2004 như giá lương thực, thực phẩm tăng 10,8%; nhóm nhà ở, vật liệu xây dựng tăng 9,8%; nhóm phương tiện đi lại, bưu điện tăng 9,1% (trong đó nhóm phương tiện đi lại tăng khá cao, bưu chính viễn thông giảm 9,2%). Gía bình quân 12 tháng tăng 8,3% so với năm 2004, là mức tăng khá cao so với các năm gần đây: giá 2004 tăng bình quân 7,7%, năm 2003 tăng 3,2%; giá 2002 tăng 3,9%.

Giá vàng tháng 12 đạt mức tăng kỷ lục so với tháng trước (+7,5%), và vượt mức tăng giá của tất cả các tháng từ đầu năm đến nay (giá vàng tháng 10 so với tháng trước đạt mức tăng cao nhất từ đầu năm cũng chỉ đạt mức tăng 4,1%). Giá vàng tăng mạnh chủ yếu do giá vàng trên thị trường thế giới tăng, mặt khác do tăng lãi suất đồng đô la Mỹ và tăng giá tiêu dùng, người dân đã chuyển sang dự trữ vàng nhiều hơn trước, làm tăng cầu. So với tháng 12 năm 2004 giá vàng tăng 11,3%. Giá đô la Mỹ tương đối ổn định, giá các tháng so với tháng trước chỉ tăng ở mức từ 0% đến 0,2%; so với tháng 12 năm trước tăng 0,9%, bình quân 12 tháng tăng 0,6% so với năm trước.

Bảng 6. Chỉ số giá tiêu dùng và giá vàng, giá đô la Mỹ

%

  Giá tiêu dùng Giá vàng so với tháng 12 năm 2004 Giá đô la mỹ so với tháng 12 năm 2004
  So với tháng trước So với tháng 12 năm 2004 So với cùng tháng 2004
Tháng 1 101,1 101,1 109,7 98,0 100,0
Tháng 2 102,5 103,6 109,1 96,2 100,1
Tháng 3 100,1 103,7 108,4 98,1 100,1
Tháng 4 100,6 104,3 108,5 97,3 100,2
Tháng 5 100,5 104,8 108,1 97,1 100,3
Tháng 6 100,4 105,2 107,6 95,6 100,3
Tháng 7 100,4 105,6 107,5 96,7 100,5
Tháng 8 100,4 106,0 107,3 97,0 100,6
Tháng 9 100,8 106,8 107,8 98,6 100,6
Tháng 10 100,4 107,2 108,3 102,6 100,7
Tháng 11 100,4 107,6 108,5 103,5 100,8
Tháng 12 100,8 108,4 108,4 111,3 100,9

Tổng mức lưu chuyển ngoại thương năm 2005 ước tính đạt 69,11 tỷ USD, tăng 18,2% so với cùng kỳ năm trước, trong đó xuất khẩu đạt 32,23 tỷ USD, tăng 21,6% và nhập khẩu đạt 36,88 tỷ USD, tăng 15,4%. Trong năm 2005 tốc độ xuất khẩu tăng đáng kể so với tốc độ tăng nhập nhẩu (xuất khẩu tăng nhanh hơn 6,2 điểm phần trăm), do vậy nhập siêu cả năm nay giảm cả về số tuyệt đối và tỷ lệ so với trị giá xuất khẩu: nhập siêu cả năm chỉ còn 4,65 tỷ USD (năm 2004 là 5,45 tỷ), bằng 14,4% kim ngạch xuất khẩu, giảm 6,2 điểm phần trăm so với tỷ lệ 20,6% trong năm 2004.

Xuất khẩu: Trị giá xuất khẩu tháng 12 ước tính đạt xấp xỉ 3 tỷ USD (gần đạt mức 3,06 tỷ USD, là mức xuất khẩu cao nhất đã đạt được trong tháng 8/2005), nâng tổng trị giá xuất khẩu cả năm 2005 lên 32,23 tỷ USD, tăng 5,73 tỷ USD so với năm 2004, bình quân một tháng năm nay xuất khẩu 2,69 tỷ USD (bình quân năm 2004 đạt 2,2 tỷ USD). Trong tổng kim ngạch, xuất khẩu dầu thô đạt 7,39 tỷ USD, tăng 30,3% so với năm trước; xuất khẩu không kể dầu thô đạt 24,85 tỷ USD, tăng 19,3%, trong đó kinh tế trong nước 13,72 tỷ USD, tăng 14,1%; xuất khẩu của khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) 11,13 tỷ USD, tăng 26,2%.

Trong năm nay, sau dầu thô kim ngạch dệt may ước đạt 4,81 tỷ USD, giày dép 3 tỷ USD, thuỷ sản khoảng 2,74 tỷ USD, có thêm 3 mặt hàng đạt kim ngạch cỡ 1,4 tỷ USD đến 1,5 tỷ là gỗ và sản phẩm gỗ 1,52 tỷ USD, điện tử máy tính 1,44 tỷ USD và gạo 1,4 tỷ USD. Xuất khẩu dầu thô năm nay tăng thêm 1,72 tỷ USD so với năm trước do giá xuất khẩu dầu thô bình quân cả năm đã tăng trên 40% so với giá xuất khẩu bình quân của năm trước, làm tăng thêm 2,13 tỷ USD, bù lại lượng xuất khẩu cả năm chỉ bằng 92,7% năm trước và chưa đạt được kế hoạch năm về lượng dầu thô xuất khẩu. Xuất khẩu gạo tăng mạnh cả giá và lượng và mở rộng thị trường xuất khẩu sang các nước châu Á. Xuất khẩu gạo năm nay ước tính đạt 1,4tỷ USD, tương đương với lượng xuất khẩu 5,2 triệu tấn, tăng 47,3% về kim ngạch so với năm 2004 và tăng 27,3% về lượng; giá xuất khẩu gạo bình quân năm nay tăng 15,7%. Xuất khẩu than đá tiếp tục tăng mạnh trong quí IV, cả năm ước đạt 658 triệu USD tương đương với lượng xuất khẩu 17,9 triệu tấn, tăng 85,2% về kim ngạch trong khi lượng xuất khẩu tăng 53,8%. Kim ngạch giày dép 3 tỷ USD, tăng 11,7%; gỗ và sản phẩm gỗ 1,52 tỷ USD, tăng 33,2%; hàng điện tử, máy tính 1,44 tỷ USD, tăng 34,1%.

Các mặt hàng chủ lực khác như dệt may, thuỷ sản trong quí IV đã đạt tốc độ tăng cao hơn so với mức tăng 9 tháng, do vậy tốc độ tăng cả năm đã khá hơn: Xuất khẩu hàng dệt, may 4,81 tỷ USD, tăng 9,6% (9 tháng chỉ dự kiến tăng 4,4%); xuất khẩu thuỷ sản 2,74 tỷ USD, tăng 14,2% (9 tháng tăng 13,1%). Tuy nhiên trong năm nay, lượng xuất khẩu một số mặt hàng nông sản như cà phê, điều và chè giảm, nhưng được lợi về giá nên kim ngạch xuất khẩu cả ba mặt hàng này đều tăng hơn năm trước: xuất khẩu cà phê lượng giảm 9,2%, giá xuất khẩu bình quân tăng 26,6%, kim ngạch tăng 13,1%; điều giảm 1,8% về lượng, giá tăng 13,6%, kim ngạch tăng 11,5%; chè lượng giảm 10,2%, giá tăng 15,9%, kim ngạch tăng 4,6%. do vậy kim ngạch xuất khẩu ba nông sản này đều tăng hơn so với năm trước. Một số mặt hàng công nghiệp xuất khẩu giảm mạnh so với năm trước như xe đạp và phụ tùng (-39,2%); dầu, mỡ động thực vật giảm 18,5%, đồ chơi trẻ em giảm 6,6% …

Thị trường hàng xuất khẩu của Việt Nam cả năm nhìn chung ổn định và tăng so với cùng kỳ, nhất là các thị trường lớn và xuất hiện nhiều thị trường mới ở khu vực Châu Phi. Thị trường Hoa kỳ cả năm ước tính khoảng 6 tỷ, tăng 16,2%, tăng mạnh ở mặt hàng gỗ và đồ gỗ xuất khẩu, giày dép. Thị trường Nhật Bản 4,45 tỷ, tăng 26,9%, trong đó thuỷ sản tăng 8%, dệt may tăng 16%. Thị trường Ôxtrâylia 2,58 tỷ USD, tăng 41,9%; thị trường Trung Quốc tăng 8,8%; Xin-ga-po tăng 28,5%; riêng một số thị trường lớn thuộc EU giảm như: thị trường Đức và Anh, kim ngạch mỗi thị trường năm 2005 khoảng 1 tỷ USD, nhưng mỗi thị trường đều giảm 1,7% so với năm trước.

Nhập khẩu: Trị giá nhập khẩu năm 2005 đạt 36,88 tỷ USD, tăng 15,4% so với năm 2004, trong đó, khu vực kinh tế trong nước 23,19 tỷ USD, tăng 11,1%, là tốc độ tăng tương đối thấp so với tốc độ tăng nhập khẩu 23,5% của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài, do vậy tỷ lệ nhập khẩu của khu vực kinh tế trong nước so với tổng kim ngạch nhập khẩu chỉ còn  62,9% (năm trước là 65,3%) và của khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là 37,1% (tăng từ 34,7% trong năm trước). Bình quân mỗi tháng năm nay nhập khẩu 3,07 tỷ USD.

Nhập khẩu hầu hết các nguyên, nhiên vật liệu chủ yếu phục vụ cho sản xuất trong nước đều tăng cả về kim ngạch và lượng nhập so với năm trước. Trong  một số mặt hàng có thống kê về lượng, nhiều mặt hàng có tốc độ tăng giá cao hơn tốc độ tăng về lượng. Nhập khẩu xăng dầu cả năm đạt 4,97 tỷ USD, tăng 39% so với năm trước (lượng nhập khẩu tăng 2,6%, giá nhập khẩu tăng 35%); sắt thép 2,98 tỷ USD, tăng 16% (lượng tăng 8,7%, giá tăng 6,7%); chất dẻo 1,43 tỷ USD, tăng 19,7% (lượng tăng 2,5%, giá tăng 16,7%): sợi dệt tăng 4,5% (lượng giảm 1,6%, giá tăng 6,4%).

Kim ngạch nhập khẩu phân bón giảm mạnh, do lượng nhập giảm, kéo theo kim ngạch giảm; bông giảm 14,6% (chủ yếu do giá giảm 20,6%, trong khi lượng tăng 7,6%); dầu mỡ động thực vật giảm 18,5%.

Nhập khẩu máy móc thiết bị, dụng cụ, phụ tùng cả năm tăng không đáng kể (+0,1%). Nhập khẩu ô tô tăng 19,3%, trong đó nguyên chiếc giảm 13,2% (riêng số lượng nhập giảm 24,3%); Xe máy nhập khẩu 533 triệu USD, tăng 17,9% so với năm trước, trong đó xe máy nguyên chiếc nhập khẩu tăng 61,2% (số lượng nhập 44,8 nghìn chiếc, bằng 2,3 lần năm 2004).

Nhập khẩu hàng hoá từ các nước châu Á chiếm tỷ trọng lớn và nhìn chung tăng tương đối cao: Trung Quốc tăng 27,8%; Xin-ga-po tăng 25%, Đài Loan tăng 16,3%; Nhật Bản tăng 14,4%; Hàn Quốc tăng 8,3% và Thái Lan tăng 29,6%…

Bảng 7. Tổng mức lưu chuyển ngoại thương 2005

 

Tổng mức lưu chuyển ngoại thương Chia ra
Xuất khẩu Nhập khẩu
  Triệu USD
Tổng trị giá 69114 32233 36881
Khu vực kinh tế trong nước 36910 13716 23194
Khu vực có  đầu tư nước ngoài (cả dầu thô) 32204 18517 13687
  Tốc độ tăng so với 2004 (%)
Tổng trị giá 18.2 21.6 15.4
Khu vực kinh tế trong nước 12.2 14.1 11.2
Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài 25.9 27.8 23.5

 

  1. Vận tải

Vận chuyển hành khách năm 2005 ư­ớc tính đạt 1267,4 triệu l­ượt hành khách và 53,3 tỷ lượt hành khách.km, so với năm trư­ớc tăng 7,5% về lượt khách và tăng 11,8% về lượt khách.km. Trong các loại đường vận chuyển hành khách năm nay, vận chuyển bằng đường bộ và đường không tăng khá hơn: Vận chuyển hành khách bằng đường bộ chiếm tỷ trọng 85% số lượt khách, tăng 8,2%, tăng mạnh do phát triển hệ thống xe buýt và xe buýt liên tỉnh; tỷ trọng số lượt khách.km chiếm 64,6%, tăng 9,2%. Vận chuyển hành khách bằng đường không chiếm 0,5% về số khách, tăng 23,9% so với năm trước và chiếm 20% số khách.km, tăng 27,7%. Riêng vận chuyển hành khách bằng đường sắt giảm 1,3% về số lượt khách và chỉ tăng 4,7% về số lượt khách.km so với năm 2004.

Bảng 8. Vận chuyển hành khách năm 2005

 

  Nghìn khách Triệu  khách.km Tổng số = 100 (%) Tốc độ tăng so với 2004 (%)
  Nghìn khách Triệu  khách.km Nghìn khách Triệu  khách.km
Tổng số 1270443,1 53297 100,0 100,0 7,5 11,8
Đường sắt 12778,0 4582,0 1,0 8,6 -1,3 4,7
Đường biển 2523,1 189,2 0,2 0,4 7,2 6,2
Đường sông 169336,2 3419,8 13,3 6,4 3,2 5,5
Đường bộ 1079466,8 34436 85,0 64,6 8,2 9,2
Hàng không 6339,0 10670 0,5 20,0 23,9 27,7

 

Vận chuyển hàng hoá năm 2005 ước tính đạt 324,2 triệu tấn và 81,1 tỷ tấn.km, so với năm 2004, tăng 7,3% về tấn và tăng 6,7% về tấn.km. Vận chuyển hàng hoá thuộc phạm vi ngoài nước cũng như trong nước tính theo cả hai chỉ số tấn và tấn.km đều tăng ở mức 6-7%. Trong các ngành vận chuyển, vận chuyển hàng hoá bằng đường biển chiếm 10,2% số tấn và 80,7% số tấn.km, tăng 5,7 về tấn và tăng 6,3% về tấn.km; vận chuyển bằng đường bộ chiếm 66,3% và 10,8 %, tăng 8,3% và tăng 9,2%; vận chuyển bằng đường sông chiếm 20,3% và 4,6%, tăng 6,4% và tăng 4,8%; riêng vận chuyển hàng hoá bằng đường sắt giảm 0,4% về tấn, nhưng tăng tới 7,4% về tấn.km.

Mặc dù trong năm 2005 giá xăng dầu tăng cao, gây áp lực tăng cước phí vận tải, nhưng các ngành vận tải đã xắp xếp lại hoạt động hợp lý và hiệu quả hơn như mở thêm các tuyến xe buýt liên tỉnh, các tuyến chất lượng cao, tăng chuyến, đổi mới các dịch vụ bổ trợ, giảm giá cước nhằm tăng sức cạnh tranh giữa các đơn vị… nên hoạt động vận tải cả năm đã đáp ứng được nhu cầu sản xuất và đi lại của dân cư, góp phần tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, trật tự an toàn giao thông trong năm vẫn là vấn đề đáng quan tâm và cần đ­ược khắc phục.

Số lượng khách quốc tế đến Việt Nam trong năm 2005 ước tính đạt 3,47 triệu lượt người, tăng 18,4% so với năm trước, trong đó khách đến với mục đích du lịch 2,04 triệu, tăng 28,9%; thăm thân nhân 505,3 nghìn lượt người, tăng 8,1%; vì mục đích khác 427,6 nghìn lượt người, tăng 20,5%. Riêng khách vào vì công việc 493,3 nghìn lượt người, giảm 5,4%.

Khách đến Việt Nam từ Mỹ 333,6 nghìn lượt người, tăng 22,4%; từ Hàn Quốc 317,2 nghìn lượt người, tăng 36,1%; từ Nhật Bản 320,6 nghìn lượt người, tăng 20%, từ Đài Loan 286,3 nghìn lượt người, tăng 11,5%; từ Cam-pu-chia 186,5 nghìn lượt người, tăng 105,4%; từ Ô-xtrây-li-a 145,4 nghìn lượt người, tăng 13%, từ Pháp 126,4 nghìn lượt người, tăng 21,5%. Đáng chú ý là trong năm nay, khách vào tăng mạnh (trên 50%) ở một số nước có tỷ trọng không lớn như từ Xin-ga-po tăng 52,5%; từ Thái Lan tăng 56,7%; từ Nga tăng 94,3%; từ Tây Ban Nha tăng 76%. Riêng khách đến từ CHND Trung Hoa 752,6 nghìn lượt người, vẫn chiếm tỷ lệ cao nhất trong số khách đến, nhưng lại giảm 3,3% so với năm trước.

  1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ XÃ HỘI
  2. Dân số và lao động

Dân số trung bình năm 2005 của cả nước ước tính khoảng 83,12 triệu người, tăng 1,33% so với năm 2004, trong đó dân số nam 40,86 triệu người, chiếm 49,2%; dân số nữ 42,26 triệu người, chiếm 50,8%. Dân số khu vực thành thị là 22,23 triệu người, chiếm 26,8% và dân số nông thôn 60,89 triệu người, chiếm 73,2%.

Bảng 9: Dân số trung bình 2001-2005

Nghìn người

2001 2002 2003 2004 2005
        Cả nước 78685,8 79727,4 80902,4 82032,3 83121,7
Thành thị 19469,3 20022,1 20869,5 21591,2 22235,1
Nông thôn 59216,5 59705,3 60032,9 60441,1 60886,6

Lao động đang làm việc trong các ngành kinh tế tại thời điểm 1/7/2005 là 42,71 triệu người, tăng 1,12 triệu người (+2,7%) so với năm 2004, trong đó lao động đang làm việc trong khu vực Nhà nước chiếm 9,6%; lao động khu vực ngoài Nhà nước chiếm 88,8% và lao động khu vực có vốn đầu tư nước ngoài chiếm 1,6%. Theo ngành kinh tế, tỷ trọng lao động khu vực nông, lâm nghiệp, thuỷ sản chiếm 56,8%; khu vực công nghiệp, xây dựng 17,9% và khu vực dịch vụ 25,3%.

Tỷ lệ thất nghiệp năm 2005 tiếp tục giảm; tính đến giữa năm 2005, tỷ lệ thất nghiệp của lao động trong độ tuổi ở khu vực thành thị là 5,3%, giảm 0,3 điểm phần trăm so với năm 2004, đồng thời đạt mục tiêu kế hoạch 5 năm 2001-2005 về giảm tỷ lệ thất nghiệp khu vực thành thị xuống dưới 6% vào cuối năm 2005.

  1. Đời sống dân cư

Đời sống dân cư năm nay nhìn chung ổn định; nhiều ngành và địa phương đã có những biện pháp tích cực góp phần cải thiện đời sống người lao động như tạo việc làm ổn định, tăng thu nhập cho người lao động; thực hiện trợ cấp, phát thưởng kịp thời…Bên cạnh đó, việc điều chỉnh mức lương tối thiểu cũng đã tác động tích cực và cải thiện đáng kể đời sống cán bộ, viên chức và người hưởng lương. ở nông thôn, đời sống của đại đa số nông dân ổn định và từng bước được cải thiện do sản xuất nông nghiệp tiếp tục phát triển; giá nông sản, thực phẩm tăng; đồng thời nhiều địa phương thực hiện hiệu quả chương trình xoá đói giảm nghèo. Đến nay, tỷ lệ hộ nghèo của cả nước và nhiều địa phương tiếp tục giảm, nhiều tỉnh đã không còn hộ đói. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của dịch cúm gia cầm và tình trạng hạn hán kéo dài cũng như ảnh hưởng của mưa, bão, lũ ở một số địa phương nên đời sống một bộ phận dân cư còn gặp nhiều khó khăn, thiếu đói giáp hạt vẫn xảy ra ở một số địa phương và tập trung chủ yếu tại các tỉnh Tây Bắc, Bắc Trung Bộ và Tây Nguyên. Để hỗ trợ các đối tượng thiếu đói khắc phục khó khăn, trong năm 2005 các cấp, các ngành, các tổ chức, cá nhân đã trợ giúp trên 22 nghìn tấn lương thực và 13,3 tỷ đồng.

Công tác đền ơn đáp nghĩa, chăm sóc thương binh, gia đình liệt sĩ, người có công và các đối tượng chính sách, đối tượng xã hội được các cấp, các ngành quan tâm thực hiện. Việc vận động xây dựng nhà tình nghĩa, nhà tình thương được hưởng ứng và thực hiện tích cực, góp phần cải thiện đời sống cho người có công, đối tượng chính sách, các hộ nghèo, vùng nghèo. Theo số liệu sơ bộ, đã có 11 nghìn nhà tình nghĩa và trên 8,1 vạn nhà tình thương được được xây dựng và bàn giao trong năm 2005. Một số tỉnh ở Tây Nguyên đã có chính sách hỗ trợ đất sản xuất, đất ở, nhà ở, nước sạch cho các hộ nghèo trong đồng bào dân tộc.

  1. Văn hoá thông tin, thể dục thể thao

Hoạt động văn hoá thông tin năm 2005 tập trung thực hiện tốt công tác thông tin truyên truyền các nhiệm vụ chính trị của đất nước và tổ chức thành công các ngày lễ lớn của dân tộc; các hoạt động văn hoá dân gian và giao lưu văn hoá. Trong năm 2005, đã tổ chức thành công các ngày kỷ niệm trọng đại của đất nước mà đặc biệt là lễ mít tinh, diễu binh, diễu hành quần chúng kỷ niệm 60 năm Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh 2/9 tại Quảng trường Ba Đình lịch sử với trên 1 vạn người tham dự. Trong năm cũng đã tổ chức thành công các lễ hội tôn vinh các giá trị văn hoá cộng đồng các dân tộc Việt Nam; tổ chức triển lãm Mỹ thuật toàn quốc 5 năm 2001-2005… Nhiều hoạt động và sự kiện văn hoá khác diễn ra trong năm  như: Không gian văn hoá cồng chiêng Tây Nguyên được UNESCO công nhận Kiệt tác truyền khẩu và di sản phi vật thể của nhân loại; triển lãm “Kho tàng nghệ thuật Việt Nam – Điêu khắc Chămpa” lần đầu tiên tổ chức tại Pháp; các hoạt động giao lưu văn hoá thông tin với các nước nhân kỷ niệm 60 năm thành lập nước; các hoạt động chấn chỉnh tiêu cực trong quán bar, nhà hàng, karaoke, vũ trường; ban hành quy chế thực hiện nếp sống văn minh trong việc tang và lễ hội…

Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá” phát triển mạnh, có tác động tích cực đến đời sống văn hoá, xã hội của nhân dân. Các địa phương trong cả nước và Ban chỉ đạo cuộc vận động ở Trung ương đã tổ chức tổng kết 5 năm phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá” với nhiều điển hình tiên tiến được tổng kết và nhân rộng. Hiện nay, cả nước có khoảng 12,5 triệu gia đình được công nhận là gia đình văn hoá.

Công tác thanh tra, kiểm tra văn hoá tiếp tục được đẩy mạnh với nhiều đợt thanh tra, kiểm tra các cơ sở kinh doanh dịch vụ văn hoá. Đã tiến hành kiểm tra trên 21 nghìn  lượt cơ sở kinh doanh hoạt động dịch vụ văn hoá, phát hiện và xử lý 11,8 nghìn lượt cơ sở vi phạm, trong đó rút giấy phép và đình chỉ hoạt động 141 cơ sở; thu giữ 12,7 triệu băng, đĩa các loại, 75 nghìn cuốn sách, tháo dỡ 16,5 nghìn băng rôn, biển quảng cáo, biển hiệu vi phạm…, xử phạt hành chính 12,3 tỷ đồng. Công tác báo chí xuất bản phát triển cả về số lượng và chất lượng. Sơ bộ năm 2005, đã xuất bản 17,1 nghìn cuốn sách với 240,2 triệu bản sách.

Hoạt động thể dục thể thao trong năm tập trung vào các hoạt động thể dục thể thao quần chúng, chuẩn bị và tham dự Đại hội Thể thao Đông Nam Á lần thứ 23 (SEA Games 23) tại Phi-líp-pin; chuẩn bị lực lượng tham dự ASIAD 15 tại Doha, Quatar vào năm 2006 và Olimpic 2008 tại Bắc Kinh, Trung Quốc.

Thể dục thể thao quần chúng: Trong năm 2005, ngành Thể dục Thể thao tiếp tục chỉ đạo thực hiện cuộc vận động “Toàn dân rèn luyện thân thể theo gương Bác Hồ vĩ đại” với nhiều hình thức, nội dung mới, đồng thời tăng cường đưa các hoạt động thể dục thể thao về cơ sở. Uỷ ban Thể dục Thể thao đã phối hợp với Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh ký kết Chương trình đẩy mạnh phong trào “Khoẻ để lập nghiệp và giữ nước”; với Uỷ ban Dân tộc ký kết Chương trình “Đẩy mạnh các hoạt động Thể dục thể thao vùng đồng bào dân tộc thiểu số và vùng núi giai đoạn 2005- 2010”; với Bộ Văn hoá Thông tin và Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam ký kết Chương trình phối hợp hoạt động giai đoạn 2006-2010 và cùng các cấp, các ngành tổ chức 25 giải thể thao quần chúng và 11 giải thể thao dân tộc. Ngoài ra, công tác tổ chức Đại hội Thể dục Thể thao các cấp hướng tới Đại hội Thể dục Thể thao toàn quốc lần V năm 2006 cũng đang được triển khai. Đến nay, cả nước đã có 80% số đơn vị cấp xã tổ chức xong Đại hội Thể dục Thể thao; 60% đơn vị cấp huyện và 11 tỉnh, thành phố tổ chức xong Đại hội Thể dục Thể thao cấp tỉnh.

Về thể thao thành tích cao, trong năm 2005 ngành Thể dục Thể thao đã tập trung chỉ đạo công tác chuẩn bị và tham gia thi đấu tại SEA Games 23 tại Phi-líp-pin và đã đạt thành tích cao. Tại SEA Games 23, đoàn thể thao Việt nam đã tham gia thi đấu ở 33/40 môn và đã xuất sắc giành vị trí thứ 3 toàn đoàn với 71 huy chương vàng; 68 huy chương bạc và 89 huy chương đồng. Cũng tại Đại hội Thể thao Người khuyết tật Đông Nam Á lần thứ 3 (ASEAN Paragames 3) vừa kết thúc tại Phi-líp-pin, đoàn thể thao người khuyết tật Việt Nam đã bảo vệ thành công ngôi vị thứ 2 toàn đoàn. Ngoài ra, cũng đã tham gia nhiều giải thể thao quốc tế và giành được 380 huy chương các loại.

  1. Giáo dục và đào tạo

Tình hình khai giảng năm học 2005-2006:

Năm học 2005-2006, cả nước có 401,6 nghìn trẻ em đi nhà trẻ, giảm 5% so với năm trước và đạt 8,6% tổng số trẻ em từ 0-2 tuổi; 2558,2 nghìn học sinh mẫu giáo, tăng 9,7% và đạt 63,4% số trẻ em từ 3-5 tuổi. Số học sinh tiểu học là 7318,2 nghìn em, giảm 5,5% so với năm học trước; học sinh trung học cơ sở 6691,5 nghìn em, tăng 1,1% và học sinh trung học phổ thông là 2993,7 nghìn em, tăng 8,4%. Cả nước có khoảng 353,6 nghìn giáo viên tiểu học; 300,9 nghìn giáo viên trung học cơ sở và 118,2 nghìn giáo viên trung học phổ thông. So với định mức chuẩn, cả nước còn thiếu khoảng 20,2 nghìn giáo viên trung học cơ sở và 21,8 nghìn  giáo viên trung học phổ thông.

Năm học này cả nước có 239 nghìn phòng học tiểu học, tăng 1,5% so với năm trước (Số phòng học kiên cố là 95,9 nghìn phòng, tăng 4,35%); 130 nghìn phòng học trung học cơ sở, tăng 8,5% (Kiên cố là 79,6 nghìn phòng, tăng 3,9%); 59,1 nghìn phòng phòng học trung học phổ thông, tăng 25,7% (Kiên cố là 45,9 nghìn phòng, tăng 21,1%).

Giáo dục đại học, cao đẳng và dạy nghề

Năm 2005 cả nước có 149 trường đại học, học viện, khoa trực thuộc và 136 trường cao đẳng tổ chức tuyển sinh với tổng số thí sinh dự thi trong cả 2 đợt là 935,3 nghìn thí sinh, bằng 74,9% số thí sinh đăng ký. Số thí sinh trúng tuyển nguyện vọng 1 là 158 nghìn người, trong đó đại học là 110,9 nghìn người và cao đẳng là 47,1 nghìn người. Năm nay có 1752 học sinh là những em đoạt giải các kỳ thi quốc gia và năng khiếu đăng ký tuyển thẳng vào đại học, cao đẳng.

Trong năm 2005, Tổng cục Dạy nghề đã tuyển mới 230 nghìn học sinh học nghề dài hạn, tăng 13,9% so với năm 2004; số học sinh học nghề ngắn hạn là 977 nghìn người, tăng 2,9%. Bên cạnh đó, đã tổ chức dạy nghề cho lao động nông thôn, dân tộc thiểu số và người tàn tật; bộ đội xuất ngũ; dạy nghề cho lao động thuộc các khu vực chuyển đổi mục tiêu sử dụng đất với kinh phí hàng trăm tỷ đồng. Mạng lưới cơ sở dạy nghề phát triển nhanh, đã xoá được tình trạng trắng trường nghề ở các địa phương. Đến nay cả nước có 1691 cơ sở dạy nghề, trong đó 212 trường đại học, cao đẳng, THCN có dạy nghề; 236 trường dạy nghề; 404 trung tâm dạy nghề và  839 cơ sở dạy nghề khác.

  1. Y tế

Tình hình suy dinh dưỡng của trẻ em: Theo tính toán sơ bộ, tỷ lệ suy dinh dưỡng của trẻ em dưới 5 tuổi (cân nặng theo tuổi) chung cả nước năm 2005 là 25,2%, giảm 1,4 điểm phần trăm so với năm 2004, trong đó khu vực thành thị là 19,6% (-1,6 điểm phần trăm); khu vực nông thôn 29,8% (-1 điểm phần trăm) và khu vực miền núi là 37,5% (-2,2 điểm phần trăm). Tỷ lệ suy dinh dưỡng chiều cao theo tuổi chung cả nước là 29,8%, giảm 0,9 điểm phần trăm so với năm 2004 và tỷ lệ suy dinh dưỡng cân nặng theo chiều cao là 7,6%, giảm 0,1 điểm phần trăm.

Tình hình dịch bệnh

Bệnh sốt rét: Trong tháng 12 có 8,1 nghìn trường hợp mắc bệnh, nâng số người bị mắc từ đầu năm đến nay là 88,8 nghìn trường hợp, trong đó 13 người đã tử vong. So với năm 2004 số người mắc bệnh giảm 23,6%; số tử vong giảm 38,1%.

Bệnh sốt xuất huyết: Trong tháng 12 có 3 nghìn trường hợp mắc bệnh, trong đó 11 người đã tử vong. Tính từ đầu năm đến nay, cả nước có 49,4 nghìn trường hợp mắc bệnh, trong đó 51 người tử vong, giảm 32,7% số người mắc bệnh và giảm 49,5% số người tử vong so với năm 2004.

Bệnh viêm não vi rút: Trong tháng 12 có 116 trường hợp mắc bệnh và không có trường hợp nào tử vong. Tính từ đầu năm đến nay đã có 1,2 nghìn trường hợp mắc bệnh, trong đó 50 người tử vong. So với năm 2004, số mắc bệnh giảm 51% và số trường hợp tử vong giảm 58,7%.

Bệnh cúm tuýp A-H5N1: Tổng số trường hợp mắc bệnh cúm tuýp A-H5N1 trong cả nước từ đầu năm đến nay là 66 trường hợp, trong đó 22 người đã tử vong.

 Tình hình nhiễm HIV/AIDS: Trong tháng 12 phát hiện thêm trên 800 trường hợp nhiễm HIV, nâng tổng số người nhiễm HIV trong cả nước đến 19/12/2005 lên 103,9 nghìn người, trong đó có 17,2 nghìn bệnh nhân AIDS và 10 nghìn người đã chết do AIDS.

 Tình hình ngộ độc thực phẩm: Trong tháng đã xảy ra trên 200 trường hợp bị ngộ độc thực phẩm và không có người tử vong. Tổng số người bị ngộ độc thực phẩm từ đầu năm đến 16/12/2005 là 4,3 nghìn trường hợp, trong đó 50 người đã tử vong.

  1. Tai nạn giao thông

Trong 11 tháng năm 2005, trên phạm vi cả nước đã xảy ra 13,3 nghìn vụ tai nạn giao thông, làm chết 10,4 nghìn người và làm bị thương 11 nghìn người. So với 11 tháng năm 2004, số vụ tai nạn giao thông giảm 17,9%; số người chết giảm 6% và số người bị thương giảm 23,5%. Bình quân 1 ngày trong 11 tháng qua, trên địa bàn cả nước xảy ra 39,7 vụ tai nạn giao thông, làm chết 31 người và làm bị thương 33 người. So với bình quân cùng kỳ năm trước, mỗi ngày giảm gần 9 vụ tai nạn; số bị chết giảm 2 người và số bị thương giảm 10 người. Tai nạn giao thông trong 11 tháng qua chủ yếu xảy ra trên đường bộ với số vụ tai nạn chiếm 96,4%; số người chết chiếm 97,1% và số người bị thương chiếm 97,8%. Mặc dù tai nạn giao thông đã giảm đáng kể cả về số vụ tai nạn, số người chết và bị thương so với cùng kỳ năm 2004, nhưng vẫn ở mức cao cả về số vụ, số người chết và bị thương và đã xảy ra nhiều vụ tai nạn giao thông đặc biệt nghiêm trọng, làm chết và bị thương nhiều người.

  1. Thiệt hại do thiên tai

Năm 2005 đã xảy ra mưa lớn, bão, lũ quét, áp thấp nhiệt đới, lở đất tại nhiều địa phương trong cả nước gây thiệt hại lớn và người và tài sản như bão và lở đất ở các tỉnh miền Bắc; lũ tại đồng bằng sông Cửu Long; mưa lũ tại các tỉnh Nam Trung Bộ. Theo báo cáo sơ bộ, thiên tai đã làm trên 350 người chết, mất tích và khoảng 400 người bị thương; 12,5 nghìn mét đê bị vỡ, bị cuốn trôi; khoảng 650 km đê bị sạt lở; 180 công trình phai đập cống bị phá huỷ; 212 tàu thuyền bị chìm, phá huỷ; 640 km đường xe cơ giới bị sạt lở, cuốn trôi; 1,5 nghìn cột điện trung và cao thế bị gãy, bị đổ. Thiên tai cũng đã làm 450 nghìn ha lúa bị ngập, hư hại, trong đó mất trắng gần 50 nghìn ha; 44,5 nghìn ha diện tích nuôi trồng thuỷ sản bị thiệt hại; trên 750 phòng học và 9,2 nghìn ngôi nhà bị sập đổ, cuốn trôi; hàng chục vạn nhà bị tốc mái và nhiều công trình kinh tế-xã hội khác bị ảnh hưởng. Tổng giá trị thiệt hại ước tính 6,5 nghìn tỷ đồng, trong đó Nam Định thiệt hại khoảng 1,9 nghìn tỷ đồng; Thanh Hoá 1,3 nghìn tỷ đồng; Tuyên Quang 1,1 nghìn tỷ đồng….

Khái quát lại, kinh tế-xã hội năm 2005 tiếp tục phát triển và ổn định. Các chỉ tiêu chủ yếu của nền kinh tế và các lĩnh vực then chốt đạt kết quả cao hơn so với năm trước. Tổng sản phẩm trong nước tăng 8,4% là tốc độ tăng tương đối cao so với tốc độ tăng những năm gần đây, do sự gia tăng khả quan của các ngành sản xuất, dịch vụ. Mặt khác trong năm 2005 do sản xuất phát triển đã tạo điều kiện tăng tiêu dùng của dân cư, tăng chi ngân sách Nhà nước, tăng đầu tư và tăng xuất khẩu nhanh hơn nhập khẩu. Giá tiêu dùng tuy tăng cao nhưng giữ ở mức xấp xỉ tốc độ tăng trưởng kinh tế. Tình hình xã hội ổn định; văn hoá, y tế, giáo dục tiếp tục phát triển.

Mức tăng trưởng trong năm 2005 đã góp phần tích cực vào hoàn thành mục tiêu tăng trưởng bình quân 7,5%/năm đã được đề ra trong kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm 2001-2005, tạo tiền đề vững chắc cho cả nước bước vào thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 2006-2010. Tuy nhiên, chất lượng tăng trưởng, hiệu quả đầu tư, chuyển dịch cơ cấu kinh tế chung và cơ cấu trong nội bộ từng ngành kinh tế, cơ cấu xuất khẩu và nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm nước ta không chỉ trên thị trường quốc tế mà ngay ở trên thị trường trong nước vẫn là những thách thức lớn đối với nền kinh tế nứơc ta trong những năm tới, nhất là trong năm 2006 khi thực hiện AFTA và ngày càng hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế thế giới, cũng như  chuẩn bị tham gia  WTO. 

Từ khóa » Tốc độ Tăng Trưởng Gdp Của Nhật Bản ở Mức Thấp Nhất Trong Thời Kỳ 1995 đến 2005 Là Vào Năm