Báo Cáo Tình Hình Kinh Tế – Xã Hội Quý IV Và Năm 2011

Bước vào năm 2011, năm đầu thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội 5 năm 2011-2015, nước ta có những thuận lợi cơ bản: Tình hình chính trị ổn định; kinh tế-xã hội phục hồi trong năm 2010 sau hơn một năm bị tác động mạnh của lạm phát tăng cao và suy thoái kinh tế toàn cầu.

Tuy nhiên, ngay sau đó những khó khăn, thách thức tiềm ẩn trong nội tại nền kinh tế thế giới với vấn đề nợ công, tăng trưởng kinh tế chậm lại. Giá hàng hóa, giá dầu mỏ và giá một số nguyên vật liệu chủ yếu tăng cao và có diễn biến phức tạp. Ở trong nước, lạm phát và mặt bằng lãi suất cao gây áp lực cho sản xuất và đời sống dân cư.

Trước tình hình đó, Đảng, Quốc hội và Chính phủ đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thường xuyên và quyết liệt các ngành, các cấp, địa phương và tập đoàn kinh tế cùng nhân dân cả nước trên tinh thần chủ động, sáng tạo, khắc phục khó khăn, quyết tâm thực hiện tốt các mục tiêu đã đề ra. Nhiều văn bản quan trọng được Trung ương Đảng, Quốc Hội và Chính phủ ban hành kịp thời nhằm thực hiện mục tiêu ưu tiên hàng đầu là kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội. Trong đó trọng tâm là Nghị quyết số 59/2011/QH12 của Quốc hội, Kết luận số 02/KL-TW ngày 16 tháng 3 năm 2011 của Bộ Chính trị về tình hình kinh tế-xã hội năm 2011, Nghị quyết số 02/NQ-CP ngày 09 tháng 01 năm 2011 và Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 24 tháng 2 năm 2011 của Chính phủ.

I. TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ

  1. Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước

Tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2011 ước tính tăng 5,89% so với năm 2010, tuy thấp hơn mức tăng 6,78% của năm 2010 nhưng trong điều kiện tình hình sản xuất rất khó khăn và cả nước tập trung ưu tiên kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô thì mức tăng trưởng trên là khá cao và hợp lý. Tổng sản phẩm trong nước tăng đều trong cả ba khu vực và một lần nữa lại thể hiện rõ tính trụ đỡ của khu vực sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản. So với cùng kỳ năm trước, tổng sản phẩm trong nước quý I tăng 5,57%; quý II tăng 5,68%; quý III tăng 6,07% và quý IV tăng 6,10%. Trong 5,89% tăng chung của nền kinh tế, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 4%, đóng góp 0,66 điểm phần trăm; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 5,53%, đóng góp 2,32 điểm phần trăm và khu vực dịch vụ tăng 6,99%, đóng góp 2,91 điểm phần trăm. Kết quả trên khẳng định tính đúng đắn, kịp thời, hiệu quả của các biện pháp, giải pháp được Chính phủ ban hành và chỉ đạo quyết liệt các cấp, các ngành, các địa phương cùng thực hiện.

Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước

theo giá so sánh 1994

 

                                                                                  Đơn vị tính: %

  2010 2011
       Tổng số 6,78 5,89
Phân theo khu vực kinh tế
Nông, lâm nghiệp và thuỷ sản 2,78 4,00
Công nghiệp và xây dựng 7,70 5,53
Dịch vụ 7,52 6,99
Phân theo quý trong năm
Quý I 5,84 5,57
Quý II 6,44 5,68
Quý III 7,18 6,07
Quý IV 7,34 6,10

 

  1. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản

Giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản năm 2011 theo giá so sánh 1994 ước tính đạt 245,9 nghìn tỷ đồng, tăng 5,2% so với năm 2010, bao gồm: Nông nghiệp đạt 177,6 nghìn tỷ đồng, tăng 4,8%; lâm nghiệp đạt 7,8 nghìn tỷ đồng, tăng 5,7%; thuỷ sản đạt 60,5 nghìn tỷ đồng, tăng 6,1%.

a. Nông nghiệp

Sản lượng lúa cả năm 2011 ước tính đạt 42,3 triệu tấn, tăng 2,3 triệu tấn so với năm trước do diện tích và năng suất đều tăng, trong đó diện tích gieo trồng ước tính đạt 7651,4 nghìn ha, tăng 162 nghìn ha; năng suất đạt 55,3 tạ/ha, tăng 1,9 tạ/ha. Đây là mức tăng lớn nhất trong vòng 10 năm trở lại đây. Nếu tính thêm 4,6 triệu tấn ngô thì tổng sản lượng lương thực có hạt năm 2011 ước tính đạt gần 47 triệu tấn, tăng 2,3 triệu tấn so với năm 2010.

Trong sản lượng lúa năm nay, sản lượng lúa đông xuân đạt 19,8 triệu tấn, tăng 561,5 nghìn tấn so với vụ đông xuân trước do diện tích tăng 11,3 nghìn ha và năng suất tăng 1,6 tạ/ha. Sản lượng lúa hè thu đạt 13,3 triệu tấn, tăng 1,6 triệu tấn do diện tích đạt 2584,8 nghìn ha, tăng 148,8 nghìn ha (Riêng diện tích lúa thu đông tại các tỉnh đồng bằng sông Cửu long đạt 491,7 nghìn ha, tăng 131,7 nghìn ha); năng suất đạt 51,6 tạ/ha, tăng 3,6 tạ/ha. Nguyên nhân sản lượng lúa hè thu năm nay tăng cao so với nhiều năm trước một mặt do thời tiết tương đối thuận, lúa bán ra được giá; mặt khác do nông dân tập trung đầu tư loại giống mới cho năng suất và hiệu quả cao. Sản lượng lúa mùa năm nay đạt 9,2 triệu tấn, tăng 102,4 nghìn tấn so với năm 2010.

Ngoài lúa tăng cao, sản lượng một số cây hàng năm tăng so với năm trước là: Khoai lang đạt 1,3 triệu tấn, tăng 0,7%; rau tăng 3,3%; đậu tăng 1,4%. Đặc biệt giá sắn nguyên liệu và giá mía năm nay tăng mạnh đã khuyến khích người dân mở rộng diện tích, tăng sản lượng thu hoạch, trong đó sản lượng sắn đạt 9,9 triệu tấn, tăng 1,3 triệu tấn (Diện tích tăng 12,4%; năng suất tăng 2,2%); mía đạt 17,5 triệu tấn, tăng 1,3 triệu tấn (Diện tích tăng 4,6%; năng suất tăng 3,3%).

Sản lượng một số cây hàng năm khác giảm so với năm 2010 do ảnh hưởng của mưa nhiều dẫn đến diện tích giảm, trong đó sản lượng đậu tương đạt 254,2 nghìn tấn, giảm 44,4 nghìn tấn; lạc đạt 440,7 nghìn tấn, giảm 46,5 nghìn tấn.

Cây công nghiệp lâu năm tiếp tục phát triển theo hướng sản xuất hàng hoá phục vụ tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Diện tích cho sản phẩm của cây chè năm nay ước tính đạt 114,8 nghìn ha, tăng 1,4% so với năm trước, sản lượng đạt 888,6 nghìn tấn, tăng 6,5%; cà phê 533,8 nghìn ha, tăng 3%, sản lượng đạt 1167,9 nghìn tấn, tăng 5%; cao su 471,9 nghìn ha, tăng 7,5%, sản lượng đạt 811,6 nghìn tấn, tăng 8%; hồ tiêu 45,1 nghìn ha, tăng 1,8%, sản lượng đạt 109,4 nghìn tấn, tăng 3,8%; dừa 125,9 nghìn ha, tăng 3%, sản lượng đạt 1,2 triệu tấn, tăng 2,3%.

Sản lượng một số cây ăn quả cũng đạt khá, trong đó sản lượng dứa năm 2011 ước tính đạt 532,7 nghìn tấn, tăng 4% so với năm 2010; chuối 1,7 triệu tấn, tăng 2%; xoài 595,8 nghìn tấn, tăng 2,7%; bưởi 417,6 nghìn tấn, tăng 4,3%; nhãn 616,4 nghìn tấn, tăng 7,4%; vải, chôm chôm 700,8 nghìn tấn, tăng 33,4%; cam, quýt 700,8 nghìn tấn, xấp xỉ năm 2010.

Theo kết quả điều tra chăn nuôi, tại thời điểm 01/10/2011, đàn lợn cả nước có 27,1 triệu con, giảm 1,2% so với cùng thời điểm năm 2010 chủ yếu do ảnh hưởng của dịch bệnh. Đàn trâu có 2712 nghìn con, giảm 5,7%; đàn bò có 5436,6 nghìn con, giảm 6,4%. Đàn trâu, bò giảm chủ yếu do diện tích chăn thả bị thu hẹp, mặt khác hiệu quả chăn nuôi trâu, bò còn thấp nên chưa khuyến khích người nuôi mở rộng quy mô đàn. Riêng nuôi bò sữa vẫn phát triển, đặc biệt ở những vùng có nhu cầu tiêu thụ mạnh nguyên liệu sữa, tổng đàn bò sữa tại thời điểm trên của cả nước là 142,7 nghìn con, tăng 14 nghìn con so với cùng thời điểm năm trước. Do dịch bệnh trong năm qua nhìn chung không phát sinh nhiều, công tác kiểm soát và khống chế các ổ dịch được thực hiện khá tốt, bên cạnh đó mô hình chăn nuôi gia cầm theo hướng gia trại và trang trại tại các địa phương ngày càng phát triển nên đàn gia cầm có 322,6 triệu con, tăng 7,3% so với cùng kỳ năm trước. Tính đến ngày 25/12/2011, các loại dịch bệnh trên gia súc, gia cầm đã được khống chế trên phạm vi cả nước.

Sản lượng thịt hơi các loại năm 2011 ước tính đạt 4170 nghìn tấn, tăng 3,7% so với năm trước, trong đó sản lượng thịt trâu tăng 5%, sản lượng thịt bò tăng 3%; sản lượng thịt lợn tăng 2,1%; sản lượng thịt gia cầm tăng 13,1%. Sản lượng sản phẩm chăn nuôi khác tăng và tương đối ổn định, trong đó sản lượng trứng tăng 7,4%; sữa tươi tăng 12,7%; mật ong bằng 98,8%; kén tằm bằng 99,3%.

b. Lâm nghiệp

Trồng rừng tập trung năm 2011 tại một số vùng do gặp khó khăn về thời tiết nên diện tích năm nay ước tính chỉ đạt 212 nghìn ha, bằng 84% năm 2010. Tuy nhiên, nhờ các chính sách phát triển lâm nghiệp được ban hành kịp thời[1] nên các hoạt động lâm nghiệp khác tăng khá: Diện tích rừng trồng được chăm sóc năm 2011 đạt 547 nghìn ha, tăng 3,7% so với năm 2010; diện tích rừng được khoanh nuôi tái sinh 942 nghìn ha, tăng 4,2%; số cây lâm nghiệp trồng phân tán 169 triệu cây, tăng 0,4%; sản lượng gỗ khai thác đạt 4692 nghìn m3, tăng 17%, trong đó gỗ nguyên liệu giấy là 2200 nghìn m3; củi khai thác đạt 26,6 triệu ste, tăng 3,5%. Sản lượng gỗ năm nay tăng mạnh chủ yếu do nhu cầu tăng cao và giá trên thị trường ổn định. Một số địa phương có sản lượng gỗ khai thác tăng mạnh là: Gia Lai 426,5 nghìn m3, tăng 93,2% so với năm trước; Yên Bái 265 nghìn m3, tăng 32,4%; Bình Định 262 nghìn m3, tăng 20%; Quảng Ngãi 245,4 nghìn m3, tăng 32,1%; Quảng Trị 170,8 nghìn m3, tăng 24,9%; Quảng Ninh 225,9 nghìn m3, tăng 118%; Thái Nguyên 109,4 nghìn m3, tăng 115,8%.

Tổng diện tích rừng bị cháy và bị chặt phá năm 2011 là 3515 ha, bằng 45,2% năm 2010, trong đó diện tích rừng bị cháy là 1598 ha, bằng 23,8%; diện tích rừng bị chặt phá là 1917 ha, tăng 81,3%. Một số địa phương có diện tích rừng bị cháy nhiều là: Kon Tum 289 ha, Lai Châu 242 ha, Gia Lai 208 ha, Phú Yên 156 ha. Một số tỉnh có diện tích rừng bị phá nhiều là: Đắk Lắk 559 ha, Lâm Đồng 216 ha, Đắk Nông 204 ha, Bình Định 188 ha, Bình Phước 172 ha, Phú Yên 117 ha.

c. Thủy sản

Sản lượng thuỷ sản năm 2011 ước tính là 5432,9 nghìn tấn, tăng 5,6% so với năm 2010, trong đó cá 4050,5 nghìn tấn, tăng 5,6%; tôm 632,9 nghìn tấn, tăng 6,8%.

Diện tích nuôi trồng thủy sản năm 2011 ước tính đạt 1048,1 nghìn ha, giảm 0,2% so với năm trước, trong đó diện tích nuôi cá đạt 367,7 nghìn ha, tăng 2,2%; diện tích nuôi tôm đạt 626,8 nghìn ha, giảm 2%. Mặc dù diện tích thả nuôi giảm nhưng sản lượng thủy sản nuôi trồng năm nay vẫn đạt 2930,4 nghìn tấn, tăng 7,4% so với năm 2010, trong đó cá đạt 2258,6 nghìn tấn, tăng 7,5%; tôm 482,2 nghìn tấn, tăng 7,2%.

Sản xuất cá tra vẫn gặp khó khăn do giá không ổn định, đầu năm giá tăng cao nhưng từ giữa năm giá lại giảm gây tâm lý e ngại và chưa khuyến khích người nuôi mạnh dạn đầu tư mở rộng diện tích thả nuôi. Để tránh rủi ro trong nuôi cá tra, một số địa phương tập trung nuôi theo hướng liên kết với các nhà máy chế biến nhằm ổn định nguồn tiêu thụ. Diện tích thả nuôi cá tra cả nước năm 2011 ước tính đạt 12,9 nghìn ha, giảm 2,2% so với năm trước. Diện tích nuôi cá tra giảm song sản lượng cá tra đạt khá, ước tính 1120 nghìn tấn, tăng 9,3% so với năm trước do mật độ thả nuôi dày hơn vào thời điểm giá cao nên cuối năm thu hoạch tăng nhiều.

Mô hình nuôi tôm sú theo hướng thân thiện với môi trường tiếp tục phát triển tại các địa phương nên sản lượng thu hoạch trên phần diện tích này ổn định và tăng khá, trong đó Cà Mau đạt 106 nghìn tấn, tăng 10,3% so với năm trước; Kiên Giang 26 nghìn tấn, tăng 10%; Tiền Giang 11 nghìn tấn, tăng 16%. Ngược lại, trên phần diện tích nuôi công nghiệp, tôm sú bị ảnh hưởng nhiều từ dịch bệnh do người nuôi tự phát đào ao mở rộng diện tích trong khi cơ sở hạ tầng chưa được đầu tư đúng mức và đầy đủ, do đó sản lượng tôm sú năm 2011 giảm 3,7% so với năm 2010. Một số địa phương có sản lượng tôm sú giảm là: Sóc Trăng giảm 37,6%; Bến Tre giảm 23%; Bạc Liêu giảm 0,7%. Tuy nhiên, sản lượng các loại tôm khác tiếp tục tăng nhanh nên sản lượng tôm nói chung năm nay không bị ảnh hưởng nhiều, trong đó tôm thẻ chân trắng đạt 139,4 nghìn tấn, tăng 34,5% so với năm trước do năng suất cao và chu kỳ nuôi ngắn; tôm hùm lồng đạt 1,3 nghìn tấn, tăng 22,7%.

Sản lượng thuỷ sản khai thác năm 2011 ước tính đạt 2502,5 nghìn tấn, tăng 3,6% so với năm trước, bao gồm: Khai thác biển đạt 2300 nghìn tấn, tăng 3,6%; khai thác nội địa đạt 202,5 nghìn tấn, tăng 4,2%. Do thời tiết thuận lợi cùng với chính sách hỗ trợ của Nhà nước cho tàu có công suất lớn và các địa phương tổ chức khai thác theo mô hình tổ, đội kết hợp nhằm tiết kiệm được chi phí nên sản lượng thuỷ sản khai thác biển tăng khá. Đặc biệt sản lượng cá ngừ đại dương năm nay tăng cao, đạt 10,5 nghìn tấn, tăng 12,5% so với năm 2010, trong đó Phú Yên đạt 5,6 nghìn tấn, tăng 13,8%; Bình Định 4,7 nghìn tấn, tăng 17,6%.

  1. Sản xuất công nghiệp

Chỉ số sản xuất công nghiệp tháng 12/2011 tăng 4,8% so với tháng trước và tăng 7,5% so với cùng kỳ năm 2010. Chỉ số sản xuất công nghiệp cả năm 2011 tăng 6,8% so với năm trước, bao gồm: Công nghiệp khai thác mỏ giảm 0,1%; công nghiệp chế biến tăng 9,5%; sản xuất, phân phối điện, ga, nước tăng 10%.

Một số ngành công nghiệp chủ yếu có chỉ số sản xuất năm 2011 tăng cao so với năm 2010 là: Sản xuất đồ gốm, sứ không chịu lửa (trừ gốm sứ dùng trong xây dựng) tăng 139,3%; sản xuất đường tăng 33,7%; đóng và sửa chữa tàu tăng 28,4%; sản xuất mô tô, xe máy tăng 19,6%; sản xuất bia tăng 16,4%; sản xuất sản phẩm bơ, sữa tăng 15,8%; sản xuất trang phục (trừ quần áo da lông thú) tăng 13,3%; sản xuất sợi và dệt vải tăng 11,6%; chế biến, bảo quản thủy sản và sản phẩm từ thủy sản tăng 11,3%. Một số ngành có chỉ số sản xuất tăng khá là: Sản xuất thức ăn gia súc tăng 10,9%; sản xuất và phân phối điện tăng 10,3%; sản xuất phân bón và hợp chất ni tơ tăng 9,5%; sản xuất thuốc lá tăng 9,3%; sản xuất giày, dép tăng 8,3%. Một số ngành có chỉ số sản xuất tăng thấp hoặc giảm là: Khai thác, lọc và phân phối nước tăng 6,8%; sản xuất xi măng tăng 6,8%; sản xuất sắt, thép tăng 1,8%; sản xuất thuốc, hoá dược và dược liệu tăng 1,3%; khai thác dầu thô và khí tự nhiên giảm 0,8%; sản xuất cáp điện và dây điện có bọc cách điện giảm 19,6%.

Chỉ số tiêu thụ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo mười một tháng năm 2011 tăng 15% so với cùng kỳ năm trước. Các ngành có chỉ số tiêu thụ tăng cao là: Sản xuất xe có động cơ tăng 138,7%; sản xuất đường tăng 37,8%; sản xuất gạch, ngói và gốm, sứ xây dựng không chịu lửa tăng 33,1%; sản xuất mô tô, xe máy tăng 17,3%. Một số ngành có chỉ số tiêu thụ tăng thấp hoặc giảm là: Sản xuất trang phục (trừ quần áo da, lông thú) tăng 15,9%; sản xuất sản phẩm bơ, sữa tăng 15,7%; sản xuất các sản phẩm từ kim loại đúc sẵn tăng 12,6%; xay xát, sản xuất bột thô tăng 12,5%; sản xuất thức ăn gia súc tăng 9,8%; chế biến bảo quản thủy sản và sản phẩm từ thủy sản tăng 8,6%; sản xuất giày, dép tăng 6%; sản xuất xi măng tăng 3,9%; chế biến và bảo quản rau quả giảm 6,3%; sản xuất cáp điện và dây điện có bọc cách điện giảm 7,5%.

Chỉ số tồn kho tại thời điểm 01/12/2011 của toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 23% so với cùng thời điểm năm trước, trong đó các ngành có chỉ số tồn kho tăng cao là: Sản xuất đồ gốm sứ không chịu lửa (trừ gốm sứ dùng trong xây dựng) tăng 96,8%; sản xuất xi măng, vôi, vữa tăng 64,1%; sản xuất phân bón và hợp chất ni tơ tăng 57%; sản xuất các sản phẩm khác từ plastic tăng 55,6%; sản xuất mô tô, xe máy tăng 41,7%; sản xuất bia và mạch nha tăng 21,7%. Một số ngành có chỉ số tồn kho giảm mạnh là: Sản xuất đường giảm 12,1%; sản xuất xe có động cơ giảm 14,6%; sản xuất sản phẩm bơ, sữa giảm 19,5%; sản xuất đồ uống không cồn giảm 31%.

  1. Hoạt động dịch vụ

a. Bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng

Tổng mức hàng hóa bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng năm 2011 ước tính đạt 2004,4 nghìn tỷ đồng, tăng 24,2% so với năm trước, nếu loại trừ yếu tố giá thì tăng 4,7%. Trong tổng mức hàng hoá bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng năm nay, kinh doanh thương nghiệp đạt 1578,2 nghìn tỷ đồng, chiếm 78,8% tổng mức và tăng 24,1% so với năm trước; khách sạn nhà hàng đạt 227 nghìn tỷ đồng, chiếm 11,3% và tăng 27,4%; dịch vụ đạt 181 nghìn tỷ đồng, chiếm 9,0% và tăng 22,1%; du lịch đạt 18,2 nghìn tỷ đồng, chiếm 0,9% và tăng 12,2%.

b. Vận tải hành khách và hàng hóa

Vận tải hành khách năm 2011 ước tính đạt 2845,3 triệu lượt khách, tăng 14,6% và 120,9 tỷ lượt khách.km, tăng 11,9% so với năm 2010, bao gồm: Vận tải trung ương đạt 41,8 triệu lượt khách, tăng 10,5% và 27,9 tỷ lượt khách.km, tăng 9,2%; vận tải địa phương đạt 2803,5 triệu lượt khách, tăng 14,9% và 93 tỷ lượt khách.km, tăng 12,5%. Vận tải hành khách đường bộ ước tính đạt 2621,2 triệu lượt khách, tăng 15,1% và 90,8 tỷ lượt khách.km, tăng 12,6% so với năm trước; đường sông đạt 191,9 triệu lượt khách, tăng 9,9% và 4,1 tỷ lượt khách.km, tăng 15%; đường hàng không đạt 13,6 triệu lượt khách, tăng 11% và 21,1 tỷ lượt khách.km, tăng 9,7%; đường biển đạt 6,7 triệu lượt khách, tăng 1,9% và 404,5 triệu lượt khách.km, tăng 3,1%; đường sắt đạt 11,9 triệu lượt khách, tăng 3,5% và 4,6 tỷ lượt khách.km, tăng 4,4%.

Vận tải hàng hóa năm 2011 ước tính đạt 806,9 triệu tấn, tăng 12,1% và 213 tỷ tấn.km, giảm 2,2% so với năm trước, bao gồm: Vận tải trong nước đạt 761,5 triệu tấn, tăng 12,7% và 69,8 tỷ tấn.km, tăng 6,3%; vận tải ngoài nước đạt 45,4 triệu tấn, tăng 4,3% và 143,2 tỷ tấn.km, giảm 6,9%. Vận tải hàng hoá đường bộ đạt 620,6 triệu tấn, tăng 13% và 33,5 tỷ tấn.km, tăng 11,2%; đường sông đạt 124,5 triệu tấn, tăng 12,2% và 14,9 tỷ tấn.km, tăng 15,6%; đường biển đạt 54,4 triệu tấn, tăng 5% và 160 tỷ tấn.km, giảm 6,8%; đường sắt đạt 7,2 triệu tấn, giảm 8,2% và 4,1 tỷ tấn.km, tăng 3,5%.

c. Bưu chính, viễn thông

Số thuê bao điện thoại phát triển mới năm 2011 đạt 11,8 triệu thuê bao, giảm 12,9% so với năm 2010, bao gồm 49,6 nghìn thuê bao cố định, giảm 76,1% và 11,8 triệu thuê bao di động, giảm 11,9%. Số thuê bao điện thoại cả nước tính đến cuối tháng 12/2011 ước tính đạt 133,1 triệu thuê bao, tăng 3,9% so với cùng thời điểm năm trước, bao gồm 15,5 triệu thuê bao cố định, tăng 0,1% và 117,6 triệu thuê bao di động, tăng 4,4%.

Số thuê bao internet băng rộng trên cả nước tính đến cuối tháng 12/2011 ước tính đạt 4,2 triệu thuê bao, tăng 16,1% so với cùng thời điểm năm trước. Số người sử dụng internet tại thời điểm cuối tháng 12/2011 đạt 32,6 triệu người, tăng 22% so với cùng thời điểm năm trước. Tổng doanh thu thuần bưu chính, viễn thông năm 2011 ước tính đạt 167,1 nghìn tỷ đồng, tăng 19,3% so với năm 2010.

d. Khách quốc tế đến Việt Nam

Khách quốc tế đến nước ta năm 2011 ước tính đạt 6014 nghìn lượt người, tăng 19,1% so với năm trước, trong đó khách đến với mục đích du lịch, nghỉ dưỡng đạt 3651,3 nghìn lượt người, tăng 17,4%; đến vì công việc 1003 nghìn lượt người, giảm 2%; thăm thân nhân đạt 1007,3 nghìn lượt người, tăng 75,5%. Khách quốc tế đến nước ta bằng đường hàng không là 5031,6 nghìn lượt người, tăng 23,9% so với năm 2010; đến bằng đường biển 46,3 nghìn lượt người, giảm 8,3%; đến bằng đường bộ 936,1 nghìn lượt người, giảm 0,2%.

Trong năm nay, khách quốc tế đến Việt Nam từ hầu hết các quốc gia và vùng lãnh thổ đều tăng so với năm trước, trong đó khách đến từ Trung Quốc đạt 1416,8 nghìn lượt người, tăng 56,5%; Hàn Quốc 536,4 nghìn lượt người, tăng 8,2%; Nhật Bản 481,5 nghìn lượt người, tăng 8,9%; Hoa Kỳ 439,9 nghìn lượt người, tăng 2,1%; Cam-pu-chia 423,4 nghìn lượt người, tăng 66,3%; Đài Loan 361,1 nghìn lượt người, tăng 8,1%; Ôx-trây-li-a 289,8 nghìn lượt người, tăng 4,2%; Ma-lai-xi-a 233,1 nghìn lượt người, tăng 10,3%; Pháp 211,4 nghìn lượt người, tăng 6,1%.

II. ỔN ĐỊNH KINH TẾ VĨ MÔ, KIỀM CHẾ LẠM PHÁT

  1. Xây dựng, đầu tư phát triển

Thực hiện Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 24 tháng 02 năm 2011 của Chính phủ, các cấp, các ngành đã thực hiện cắt giảm và điều chuyển 81,5 nghìn tỷ đồng vốn đầu tư phát triển khu vực Nhà nước. Khu vực tư nhân và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài vẫn được khuyến khích đầu tư vào cơ sở hạ tầng và các công trình phúc lợi. Giá trị sản xuất xây dựng năm 2011 theo giá thực tế cả nước ước tính đạt 676,4 nghìn tỷ đồng, bao gồm: Khu vực Nhà nước đạt 119,6 nghìn tỷ đồng; khu vực ngoài nhà nước đạt 529,4 nghìn tỷ đồng; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 27,4 nghìn tỷ đồng.

Vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện năm 2011 theo giá thực tế ước tính đạt 877,9 nghìn tỷ đồng, tăng 5,7% so với năm 2010 (Nếu loại trừ yếu tố tăng giá thì bằng 90,6% năm 2010) và bằng 34,6% GDP, bao gồm: Vốn khu vực Nhà nước 341,6 nghìn tỷ đồng, chiếm 38,9% và tăng 8% so với năm trước; khu vực ngoài Nhà nước 309,4 nghìn tỷ đồng, chiếm 35,2% và tăng 3,3%; khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 226,9 nghìn tỷ đồng, chiếm 25,9% và tăng 5,8%.

Vốn đầu tư toàn xã hội theo giá thực tế thực hiện năm 2011

Nghìn

tỷ đồng

Cơ cấu

(%)

So với năm 2010 (%)
TỔNG SỐ 877,9 100,0 105,7
Khu vực Nhà nước 341,6 38,9 108,0
Khu vực ngoài Nhà nước 309,4 35,2 103,3
Khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 226,9 25,9 105,8

Trong vốn đầu tư của khu vực Nhà nước, vốn từ ngân sách Nhà nước thực hiện năm 2011 ước tính đạt 178 nghìn tỷ đồng, bằng 101,8% kế hoạch năm và tăng 6,7% so với năm 2010, gồm có:

– Vốn trung ương quản lý đạt 42 nghìn tỷ đồng, bằng 100,4% kế hoạch năm và tăng 7,1% so với năm trước, trong đó vốn đầu tư thực hiện của Bộ Công thương là 4079 tỷ đồng, bằng 100% và tăng 8%; Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn 3882 tỷ đồng, bằng 105,7% và tăng 7,8%; Bộ Giáo dục và Đào tạo 945 tỷ đồng, bằng 105,1% và tăng 5,7%; Bộ Y tế 922 tỷ đồng, bằng 102,5% và tăng 5,2%; Bộ Xây dựng 873 tỷ đồng, bằng 89% và tăng 7,2%; Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch 593 tỷ đồng, bằng 106,4% và tăng 3,9%.

– Vốn địa phương quản lý đạt 136 nghìn tỷ đồng, bằng 102,3% kế hoạch năm và tăng 6,5% so với năm 2010. Một số địa phương có khối lượng vốn đầu tư thực hiện lớn là: Thành phố Hồ Chí Minh đạt 17862 tỷ đồng, bằng 97% kế hoạch năm và giảm 4,3% so với năm 2010; Hà Nội 16859 tỷ đồng, bằng 80,6% và tăng 12,7%; Đà Nẵng 7697 tỷ đồng, bằng 134,6% và tăng 3,3%; Quảng Ninh 5120 tỷ đồng, bằng 81,6% và tăng 3,3%; Thanh Hóa 4396 tỷ đồng, bằng 123,7% và tăng 4,3%.

  1. Tài chính, tiền tệ\

Tổng thu ngân sách Nhà nước năm 2011 ước tính đạt 674,5 nghìn tỷ đồng, bằng 113,4% dự toán năm và tăng 20,6% so với năm 2010 (Mục tiêu đề ra trong Nghị quyết số 11 của Chính phủ là tăng 7-8%). Tổng chi ngân sách Nhà nước năm 2011 ước tính 796 nghìn tỷ đồng. Bội chi ngân sách Nhà nước bằng 4,9% GDP (Kế hoạch đề ra là 5,3%).

Tổng phương tiện thanh toán năm 2011 ước tính tăng 10% so với tháng 12/2010 (Kế hoạch là 15-16%); tổng dư nợ tín dụng tăng 12% (Kế hoạch là dưới 20%).

  1. Xuất, nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ

a. Xuất khẩu hàng hóa

Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu tháng 12/2011 ước tính đạt 8,9 tỷ USD, tăng 0,5% so với tháng trước và tăng 18% so với cùng kỳ năm 2010. Tính chung năm 2011, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu đạt 96,3 tỷ USD, tăng 33,3% so với năm 2010, bao gồm: Khu vực kinh tế trong nước đạt 41,8 tỷ USD, tăng 26,1%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (gồm cả dầu thô) đạt 54,5 tỷ USD, tăng 39,3%. Nếu không kể dầu thô thì kim ngạch xuất khẩu hàng hoá của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài năm nay đạt 47,2 tỷ USD, tăng 38,4% so với năm trước.

Trong năm 2011, có 14 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 2 tỷ USD[2] là: Dệt may 14 tỷ USD, tăng 25,1% so với năm 2010; dầu thô 7,2 tỷ USD, tăng 45,9%; điện thoại các loại và linh kiện 6,9 tỷ USD, tăng 197,3%; giày dép 6,5 tỷ USD, tăng 27,3%; thủy sản 6,1 tỷ USD, tăng 21,7%; điện tử máy tính 4,2 tỷ USD, tăng 16,9% ; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng 4,1 tỷ USD, tăng 34,5%; gỗ và sản phẩm gỗ 3,9 tỷ USD, tăng 13,7%; gạo 3,6 tỷ USD, tăng 12,2%; cao su 3,2 tỷ USD, tăng 35%; cà phê 2,7 tỷ USD, tăng 48,1%; đá quý, kim loại quý và sản phẩm gần 2,7 tỷ USD, giảm 5,2%; phương tiện vận tải và phụ tùng 2,4 tỷ USD, tăng 51,3%; xăng dầu 2,1 tỷ USD, tăng 53,6%.

Kim ngạch xuất khẩu năm 2011 tăng mạnh chủ yếu do đơn giá của nhiều mặt hàng trên thị trường thế giới tăng, trong đó giá hạt tiêu tăng 65%; giá hạt điều tăng 42%; giá cà phê tăng 44%; giá cao su tăng 29%; giá gạo tăng 9%, giá sắn và sản phẩm của sắn tăng 9%; giá than đá tăng 15,6%, giá dầu thô tăng 40,8%, giá xăng dầu tăng 36%. Nếu loại trừ yếu tố tăng giá thì kim ngạch hàng hóa xuất khẩu năm 2011 tăng 11,4% so với năm trước.

Cơ cấu kim ngạch hàng hóa xuất khẩu năm nay có một số thay đổi so với năm 2010: Tỷ trọng nhóm hàng công nghiệp nặng và khoáng sản chiếm 35,2%, tăng 4 điểm phần trăm, là nhóm hàng đóng góp vào mức tăng kim ngạch xuất khẩu cao nhất với mức 47,5%; nhóm hàng công nghiệp nhẹ chiếm 40,6%, giảm 2 điểm phần trăm so với năm trước; tỷ trọng nhóm hàng nông, lâm, thủy sản giảm nhẹ từ 22,5% năm 2010 xuống 21,9% năm 2011; vàng và các sản phẩm vàng chiếm 2,3%, giảm so với 3,8% của năm 2010.

Về thị trường hàng hóa xuất khẩu, Hoa Kỳ vẫn là thị trường có kim ngạch cao nhất trong năm 2011 với 16,7 tỷ USD, chiếm 17,4% tổng kim ngạch hàng hóa xuất khẩu của nước ta và tăng 17,5% so với năm 2010; thị trường EU đạt 16,5 tỷ USD, chiếm 17,2% và tăng 45,4%; thị trường ASEAN đạt 13,6 tỷ USD, chiếm 14,1% và tăng 31,5%; Nhật Bản đạt 10,6 tỷ USD, chiếm 11,1% và tăng 37,8%; Trung Quốc đạt 10,8 tỷ USD, chiếm 11,2% và tăng 47,6%.

b. Nhập khẩu hàng hóa

Kim ngạch hàng hóa nhập khẩu tháng 12/2011 ước tính đạt 9,6 tỷ USD, tăng 1,9% so với tháng trước và tăng 8,7% so với cùng kỳ năm 2010. Kim ngạch hàng hóa nhập khẩu năm 2011 đạt 105,8 tỷ USD, tăng 24,7% so với năm trước, bao gồm: Khu vực kinh tế trong nước đạt 58 tỷ USD, tăng 21,2%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 47,8 tỷ USD, tăng 29,2%. Kim ngạch nhập khẩu của nhiều mặt hàng năm nay tăng so với năm trước, chủ yếu vẫn là nhóm hàng máy móc thiết bị và nguyên liệu phục vụ sản xuất trong nước, trong đó máy móc, thiết bị, dụng cụ phụ tùng đạt 15,2 tỷ USD, tăng 12%; xăng, dầu đạt 9,9 tỷ USD, tăng 62,2%; vải đạt 6,8 tỷ USD, tăng 26,1%; chất dẻo đạt 4,7 tỷ USD, tăng 25,7%; nguyên phụ liệu dệt may, giày dép 2,9 tỷ USD, tăng 12%; hóa chất đạt 2,7 tỷ USD, tăng 25,7%; sản phẩm hóa chất đạt 2,4 tỷ USD, tăng 16,3%; thức ăn gia súc và nguyên phụ liệu đạt 2,3 tỷ USD, tăng 7,2%.

Đơn giá nhiều mặt hàng trên thị trường thế giới tăng cao là một trong những nguyên nhân chủ yếu làm tăng kim ngạch hàng hóa nhập khẩu năm nay, trong đó giá bông tăng 72%; giá xăng, dầu tăng 46%; giá cao su tăng 22%; giá khí đốt hoá lỏng tăng 18%. Nếu loại trừ yếu tố giá, kim ngạch hàng hóa nhập khẩu năm 2011 chỉ tăng 3,8% so với năm 2010.

Cơ cấu kim ngạch hàng hóa nhập khẩu năm nay không có sự thay đổi lớn so với năm trước, trong đó nhóm tư liệu sản xuất vẫn chiếm tỷ trọng cao nhất với 90,6%, tăng 0,6 điểm phần trăm so với năm 2010; nhóm hàng vật phẩm tiêu dùng giảm từ 8,8% năm 2010 xuống còn 7,6%; nhóm vàng và các sản phẩm vàng tăng từ 1,2% lên 1,8%.

Về thị trường hàng hóa nhập khẩu, Trung Quốc tiếp tục là thị trường lớn nhất của nước ta với kim ngạch đạt 24,6 tỷ USD, tăng 22,7% so với năm 2010; tiếp đến là thị trường ASEAN đạt 20,9 tỷ USD, tăng 27,7%; Hàn Quốc đạt 13 tỷ USD, tăng 33,6%; Nhật Bản đạt 10,2 tỷ USD, tăng 13%; EU đạt 7,5 tỷ USD, tăng 18%; Hoa kỳ 4,3 tỷ USD, tăng 14,5%.

Tốc độ tăng cao của kim ngạch hàng hóa xuất, nhập khẩu năm nay có phần đóng góp khá lớn của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài với mức tăng xuất khẩu là 39,3% và mức tăng nhập khẩu là 29,2%. Kim ngạch xuất khẩu của khu vực này (kể cả dầu thô) chiếm 56,6% tổng kim ngạch xuất khẩu, trong đó một số mặt hàng xuất khẩu chiếm tỷ trọng lớn trong kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng tương ứng của cả nước là: Dệt may chiếm 60,5%; giầy dép chiếm 76,3%; điện tử máy tính chiếm 96,4%; dây điện và cáp điện chiếm 90,4%; máy móc thiết bị phụ tùng chiếm 89,7% và sản phẩm chất dẻo chiếm 67,3%. Kim ngạch nhập khẩu của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài chiếm 45,2% tổng kim ngạch nhập khẩu, trong đó một số mặt hàng nhập khẩu chiếm tỷ trọng cao trong tổng kim ngạch nhập khẩu các mặt hàng ương ứng của cả nước là: Điện tử, máy tính và linh kiện chiếm 79,5%, dây điện và cáp điện chiếm 74%, sản phẩm từ chất dẻo chiếm 71,7%, bông chiếm 70,1% và cao su chiếm 61%.

Nhập siêu hàng hóa năm 2011 ước tính 9,5 tỷ USD, bằng 9,9% tổng kim ngạch hàng hóa xuất khẩu. Mức nhập siêu của năm 2011 là mức thấp nhất trong vòng 5 năm qua và là năm có tỷ lệ nhập siêu so với kim ngạch xuất khẩu thấp nhất kể từ năm 2002.

                            Nhập siêu hàng hóa qua một số năm

            

2007 2008 2009 2010 2011
Nhập siêu (Tỷ USD) 14,2 18,0 12,9 12,6 9,5
Nhập siêu so với tổng kim ngạch xuất khẩu (%) 29,2 28,8 22,5 17,5 9,9

c. Xuất, nhập khẩu dịch vụ

Kim ngạch dịch vụ xuất khẩu năm 2011 ước tính đạt 8879 triệu USD, tăng 19% so với năm 2010, trong đó dịch vụ du lịch đạt 5620 triệu USD, tăng 26,3%; dịch vụ vận tải 2505 triệu USD, tăng 8,7%. Kim ngạch dịch vụ nhập khẩu năm 2011 ước tính đạt 11859 triệu USD, tăng 19,5% so với năm 2010, trong đó dịch vụ vận tải đạt 8226 triệu USD, tăng 24,7%; dịch vụ du lịch 1710 triệu USD, tăng 16,3%. Nhập siêu dịch vụ năm 2011 là 2980 triệu USD, tăng 21,1% so với năm 2010 và bằng 33,6% kim ngạch dịch vụ xuất khẩu năm 2011.

  1. Chỉ số giá

a. Chỉ số giá tiêu dùng

Chỉ số giá tiêu dùng tuy vẫn ở mức cao nhưng đã có xu hướng giảm. Chỉ số giá tiêu dùng tháng 12/2011 tăng 0,53% so với tháng trước, thấp hơn nhiều so với mức tăng 1,38% và 1,98% của cùng kỳ năm 2009 và năm 2010. Tháng Mười Hai là tháng thứ năm liên tiếp trong năm nay có chỉ số giá tiêu dùng tăng thấp hơn 1%. Trong các nhóm hàng hóa và dịch vụ, các nhóm có chỉ số giá tăng cao hơn mức tăng chung là: May mặc, mũ nón, giày dép tăng 0,86%; nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 0,69% (Lương thực tăng 1,40%; thực phẩm tăng 0,49%); Thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,68%. Các nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá tăng thấp hơn mức tăng chung gồm: Nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 0,51%; đồ uống và thuốc lá tăng 0,49%; văn hóa, giải trí và du lịch tăng 0,35%; thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,24%; giao thông tăng 0,16%; giáo dục tăng 0,05%. Riêng nhóm bưu chính viễn thông có chỉ số giá giảm 0,09%.

Chỉ số giá tiêu dùng tháng 12/2011 so với tháng 12/2010 tăng 18,13%. Chỉ số giá tiêu dùng bình quân năm 2011 tăng 18,58% so với bình quân năm 2010.

Chỉ số giá vàng tháng 12/2011 giảm 0,97% so với tháng trước; tăng 24,09% so với cùng kỳ năm 2010. Chỉ số giá đô la Mỹ tháng 12/2011 tăng 0,02% so với tháng trước; tăng 2,24% so với cùng kỳ năm 2010.

 

Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) các tháng năm 2011

                                                                                                                                                  Đơn vị tính: %

  Tháng 1 Tháng 2 Tháng 3 Tháng 4 Tháng 5 Tháng 6 Tháng 7 Tháng 8 Tháng 9 Tháng 10 Tháng 11 Tháng 12
So với tháng trước 101,74 102,09 102,17 103,32 102,21 101,09 101,17 100,93 100,82 100,36 100,39 100,53
So với tháng 12 năm 2010 101,74 103,87 106,12 109,64 112,07 113,29 114,61 115,68 116,63 117,05 117,50 118,13

b. Chỉ số giá sản xuất

Chỉ số giá bán sản phẩm của người sản xuất hàng nông, lâm nghiệp và thủy sản năm 2011 tăng 31,8% so với năm trước, trong đó chỉ số giá bán sản phẩm của người sản xuất hàng nông nghiệp tăng 33,49%; hàng lâm nghiệp tăng 13,58%; hàng thủy sản tăng 27,23%. Chỉ số giá bán sản phẩm của người sản xuất hàng công nghiệp năm nay tăng 18,43% so với năm trước, trong đó chỉ số giá bán sản phẩm của người sản xuất sản phẩm khai khoáng tăng 30,33%; sản phẩm công nghiệp chế biến tăng 16,49%; điện, nước tăng 11,92%.

Chỉ số giá nguyên, nhiên, vật liệu dùng cho sản xuất năm 2011 tăng 21,27% so với năm 2010, trong đó chỉ số giá nguyên, nhiên, vật liệu dùng cho sản xuất của một số ngành tăng cao là: Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 30,65%; thực phẩm, đồ uống và thuốc lá tăng 22,75%; than cốc, sản phẩm dầu mỏ tinh chế tăng 27,68%; khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí tăng 21,8%; hóa chất và các sản phẩm hóa chất tăng 18,33%.

Chỉ số giá cước vận tải năm 2011 tăng 18,52% so với năm trước, trong đó giá cước vận tải hành khách tăng 22,96%; vận tải hàng hóa tăng 16,23%. Chỉ số giá cước vận tải đường sắt năm 2011 tăng 20,34% so với năm 2010; đường bộ tăng 18,77%; đường thủy tăng 16,65%; đường hàng không tăng 13,13%.

c. Chỉ số giá xuất, nhập khẩu hàng hóa

Chỉ số giá xuất khẩu hàng hoá năm 2011 tăng 19,62% so với năm trước, trong đó chỉ số giá lương thực, thực phẩm tăng 21,41%; hàng phi lương thực, thực phẩm tăng 13,27%; nguyên liệu tăng 25,40%; máy móc, thiết bị tăng 7,74%. Chỉ số giá nhập khẩu hàng hoá năm nay tăng 20,18% so với năm trước, trong đó chỉ số giá lương thực, thực phẩm tăng 20,65%; hàng phi lương thực, thực phẩm tăng 18,60%; nguyên liệu tăng 22,89%; máy móc, thiết bị tăng 12,72%.

III. MỘT SỐ VẤN ĐỀ XÃ HỘI

  1. Dân số, lao động và việc làm

Dân số trung bình cả nước năm 2011 ước tính 87,84 triệu người, tăng 1,04% so với năm 2010, bao gồm: Dân số nam 43,47 triệu người, chiếm 49,5% tổng dân số cả nước, tăng 1,1%; dân số nữ 44,37 triệu người, chiếm 50,5%, tăng 0,99%. Trong tổng dân số cả nước năm nay, dân số khu vực thành thị là 26,88 triệu người, chiếm 30,6% tổng dân số, tăng 2,5% so với năm trước; dân số khu vực nông thôn là 60,96 triệu người, chiếm 69,4%, tăng 0,41%.

Tổng tỷ suất sinh năm 2011 đạt 1,99 con/phụ nữ, giảm so với mức 2,00 của năm 2010. Tỷ suất sinh thô đạt 16,6 trẻ sinh ra sống trên 1000 người dân. Tỷ số giới tính của trẻ em mới sinh duy trì ở mức khá cao với 111,9 bé trai/100 bé gái, tăng so với mức 111,2 bé trai/100 bé gái của năm 2010.

Tỷ suất chết thô năm 2011 là 6,9‰, trong đó khu vực thành thị 5,8‰; khu vực nông thôn 7,4‰. Tỷ suất chết của trẻ em dưới 1 tuổi là 15,5‰; tỷ suất chết của trẻ em dưới 5 tuổi là 23,3‰. Tỷ suất chết tiếp tục giữ ở mức thấp, thể hiện rõ hiệu quả của chương trình chăm sóc sức khoẻ bà mẹ và trẻ em nói riêng và công tác bảo vệ sức khoẻ, nâng cao mức sống cho người dân nói chung trong năm qua.

Theo kết quả điều tra, tỷ lệ phụ nữ 15-49 tuổi sinh con thứ ba trở lên của năm 2011 là 14,7%, giảm so với mức 15,1% của năm 2010; tỷ lệ phụ nữ 15-49 tuổi có chồng đang sử dụng biện pháp tránh thai đạt 78,2%, trong đó sử dụng biện pháp hiện đại là 68,6%; biện pháp khác là 9,6%.

Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên năm 2011 là 51,39 triệu người, tăng 1,97% so với năm 2010, trong đó lao động nam chiếm 51,6%; lao động nữ chiếm 48,4%. Lực lượng lao động trong độ tuổi lao động là 46,48 triệu người, tăng 0,12%, trong đó nam chiếm 53,4%; nữ chiếm 46,6%. Cơ cấu lao động khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản giảm từ 48,7% năm 2010 xuống 48,0% năm 2011; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng từ 21,7% lên 22,4%; khu vực dịch vụ duy trì ở mức 29,6%.

Tỷ lệ thất nghiệp của lao động trong độ tuổi năm 2011 là 2,27%, trong đó khu vực thành thị là 3,6%, khu vực nông thôn là 1,71% (Năm 2010 các tỷ lệ tương ứng là: 2,88%; 4,29%; 2,30%). Tỷ lệ thiếu việc làm của lao động trong độ tuổi năm 2011 là 3,34%, trong đó khu vực thành thị là 1,82%, khu vực nông thôn là 3,96% (Năm 2010 các tỷ lệ tương ứng là: 3,57%; 1,82%; 4,26%).

  1. Đời sng dân cư, bảo đảm an sinh xã hội

Năm 2011, giá cả hàng hóa tăng cao cùng với thiên tai, dịch bệnh xảy ra trên cây trồng, vật nuôi đã ảnh hưởng không nhỏ đến sản xuất và đời sống của dân cư, đặc biệt là nông dân và người lao động có thu nhập thấp ở khu vực thành thị. Tuy nhiên, được sự quan tâm của Đảng và Chính phủ cùng với việc thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội của các cấp, các ngành, các địa phương nên nhìn chung đời sống đại bộ phận dân cư có những cải thiện.

Ở khu vực nông thôn, tình trạng thiếu đói giáp hạt trong năm tuy còn xảy ra nhưng đã giảm so với năm trước. Cả nước có 622,8 nghìn lượt hộ thiếu đói, giảm 21,7% so với năm 2010, tương ứng với 2621 nghìn lượt nhân khẩu bị thiếu đói, giảm 14,6%.

Đời sống của người làm công ăn lương cũng được cải thiện hơn. Mức lương tối thiểu của cán bộ công chức tăng từ 730 nghìn đồng/tháng lên 830 nghìn đồng/tháng từ 01/5/2011. Theo Nghị định số 70/2011/NĐ-CP của Chính phủ, lương tối thiểu cho các doanh nghiệp được điều chỉnh tăng áp dụng cho 4 vùng từ 01/10/2011, theo đó mức lương tối thiểu của vùng 1 là 2,0 triệu đồng/tháng; vùng 2 là 1,78 triệu đồng/tháng; vùng 3 là 1,55 triệu đồng/tháng; vùng 4 là 1,4 triệu đồng/tháng. Như vậy, lần đầu tiên mức lương tối thiểu khu vực doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã được thống nhất.

Công tác an sinh xã hội và giảm nghèo trong năm qua được Đảng, Nhà nước và Chính phủ tập trung quan tâm. Bên cạnh đó, các cấp, các ngành và địa phương tích cực triển khai thực hiện các hoạt động mang nhiều ý nghĩa nên đã thu được những kết quả nhất định. Trong năm 2011, Chính phủ đã phân bổ 2740 tỷ đồng vốn đầu tư phát triển và 550 tỷ đồng vốn sự nghiệp cho 62 huyện nghèo trên cả nước. Bên cạnh đó, đã có 40 tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước và doanh nghiệp cam kết hỗ trợ cho các huyện nghèo trong giai đoạn 2009-2020 với tổng số tiền là 2,1 nghìn tỷ đồng, riêng mười tháng năm 2011 đã giải ngân được 350 tỷ đồng. Trong dịp Tết Nguyên Đán Tân Mão, trị giá quà tặng cho các đối tượng chính sách trên phạm vi cả nước khoảng 950 tỷ đồng.

Thực hiện Nghị quyết số 80/NQ-CP của Chính phủ ngày 19/5/2011 về định hướng giảm nghèo bền vững thời kỳ 2011-2020, đến nay đã có hơn 500 nghìn hộ nghèo được vay vốn tín dụng ưu đãi; 300 nghìn lượt người nghèo được hướng dẫn cách làm ăn thông qua 800 mô hình trình diễn và 5 nghìn lớp tập huấn kỹ thuật; 14 triệu người nghèo được cấp thẻ bảo hiểm y tế; 2,5 triệu học sinh nghèo được miễn, giảm học phí năm học 2010-2011 và 20 nghìn hộ nghèo được hỗ trợ về nhà ở.

Công tác bồi dưỡng, đào tạo cán bộ làm công tác xã hội cũng được các địa phương xây dựng kế hoạch và triển khai thực hiện tốt. Theo đó, trong năm 2011, ngân sách Trung ương hỗ trợ 22,5 tỷ đồng cho 36 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương để đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ, nhân viên làm công tác xã hội và xây dựng mô hình điểm về trung tâm cung cấp dịch vụ công tác xã hội.

Theo báo cáo sơ bộ của 54 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, tổng kinh phí dành cho hoạt động an sinh xã hội và giảm nghèo trong năm 2011 là 3213 tỷ đồng, bao gồm: 1269 tỷ đồng hỗ trợ các đối tượng chính sách; 988 tỷ đồng hỗ trợ các hộ nghèo và 956 tỷ đồng cứu đói, cứu trợ xã hội khác.

  1. Giáo dục, đào tạo

Tính đến cuối năm 2011, cả nước có 57/63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi và 63/63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đạt chuẩn phổ cập giáo dục trung học cơ sở.

Công tác xây dựng trường, lớp và đào tạo giáo viên theo các tiêu chí trường chuẩn tiếp tục được triển khai tại các địa phương. Do đó số trường đạt chuẩn quốc gia trong năm học 2010-2011 ở các cấp tăng so với năm học trước, trong đó có 1901 trường mầm non, chiếm 19% số trường mầm non trên cả nước và tăng 20,6%; 5548 trường tiểu học, chiếm 36,4% số trường tiểu học và tăng 11,5%; 2001 trường trung học cơ sở, chiếm 19,7% số trường trung học cơ sở và tăng 22,3%; 235 trường trung học phổ thông, chiếm 10,3% số trường trung học phổ thông và tăng 24,3%. Vùng Đồng bằng sông Hồng có tỷ lệ trường đạt chuẩn quốc gia cao nhất cả nước với 23,2% số trường mầm non; 67,1% trường tiểu học; 33,8% trường trung học cơ sở và 18,1% trường trung học phổ thông.

Số giáo viên phổ thông năm học 2010-2011 là 830,9 nghìn giáo viên, tăng hơn 12 nghìn giáo viên so với năm học trước. Tỷ lệ giáo viên đạt chuẩn cấp tiểu học trong năm học này là 97,6%; cấp trung học cơ sở là 97,4% và cấp trung học phổ thông là 99,0%. Vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung có tỷ lệ giáo viên đạt chuẩn cao nhất ở cả ba cấp với 99,4% giáo viên tiểu học; 99,2% giáo viên trung học cơ sở và 99,7% giáo viên trung học phổ thông.

Tình trạng học sinh bỏ học nhìn chung đã có xu hướng giảm. Tỷ lệ học sinh bỏ học năm 2010-2011 cấp tiểu học là 0,2%, giảm so với mức 0,24% của năm học trước; cấp trung học cơ sở là 1,17%, năm học trước là 1,29%; cấp trung học phổ thông là 1,8%, giảm so với mức 2,11% của năm học 2009-2010. Vùng Đồng bằng sông Cửu Long có tỷ lệ học sinh bỏ học cao nhất, trong đó tỷ lệ ở cấp tiểu học là 0,56%; trung học cơ sở là 2,85% và trung học phổ thông là 4,06%.

Công tác đào tạo nghề cũng được các cấp, các ngành và địa phương tiếp tục quan tâm đầu tư. Tính đến cuối năm 2011, cả nước có 128 trường cao đẳng nghề, tăng 8,5% so với năm 2010; 308 trường trung cấp nghề, tăng 8,1%; 908 trung tâm dạy nghề, tăng 12,1% và trên 1 nghìn cơ sở có các lớp dạy nghề. Số học sinh học nghề được tuyển mới trong năm nay là 1860 nghìn lượt người, tăng 6,4% so với năm trước, bao gồm: Cao đẳng nghề và trung cấp nghề là 420 nghìn lượt người; sơ cấp nghề 1440 nghìn lượt người.

  1. Tình hình dịch bệnh và ngộ độc thực phẩm

Tình hình dịch bệnh năm 2011 diễn biến tương đối phức tạp. Tính từ đầu năm, cả nước đã có 65,5 nghìn trường hợp mắc bệnh sốt xuất huyết (56 trường hợp tử vong); 9,3 nghìn trường hợp mắc bệnh viêm gan virút; 995 trường hợp mắc bệnh viêm não virút (21 trường hợp tử vong); 664 trường hợp mắc bệnh thương hàn; 767 trường hợp mắc cúm A (H1N1) (17 trường hợp tử vong). Trong năm, dịch chân, tay, miệng lây lan với mức độ nhanh trong cộng đồng, chủ yếu xuất hiện ở trẻ em với tỷ lệ tử vong cao so với các dịch bệnh nguy hiểm khác. Số trường hợp mắc bệnh chân, tay, miệng năm 2011 là 106,5 nghìn người, trong đó 162 trường hợp tử vong.

Công tác phòng, chống HIV/AIDS mặc dù đã được tăng cường, tuy nhiên số trường hợp nhiễm HIV/AIDS tại các địa phương vẫn gia tăng. Tính từ ca phát hiện đầu tiên đến giữa tháng 12/2011, trên địa bàn cả nước đã có 248,6 nghìn trường hợp nhiễm HIV, trong đó 100,8 nghìn người đã chuyển sang giai đoạn AIDS và gần 52 nghìn người đã tử vong do AIDS. Trong năm 2011, cả nước đã xảy ra 105 vụ ngộ độc thực phẩm làm 4,8 nghìn người bị ngộ độc, trong đó 17 người tử vong.

  1. Văn hóa, thể thao

Trong năm 2011, các địa phương trên cả nước triển khai thành công nhiều hoạt động văn hóa có ý nghĩa phục vụ các ngày lễ trọng đại của năm, trong đó công tác tuyên truyền cho cuộc bầu cử Quốc hội khóa XIII được tổ chức chu đáo. Ngày 27/12/2011, Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch công bố 10 sự kiện văn hóa, thể thao, du lịch nổi bật trong năm 2011[3].

Công tác xuất bản cũng thu được những thành tích đáng khích lệ. Trong năm 2011, ngành xuất bản đã xuất bản được 20,4 nghìn đầu sách với gần 267 triệu bản (Tăng 10% về số đầu sách và tăng 3% về số bản sách so với năm trước); 26 triệu bản văn hóa phẩm, trong đó riêng lịch bloc đạt gần 17,7 triệu bản.

Hoạt động thể dục, thể thao quần chúng tiếp tục được duy trì, phát triển sâu rộng với nhiều nội dung phong phú, thu hút đông đảo quần chúng tham gia. Trong năm 2011, ngành Thể dục Thể thao đã phối hợp với các Bộ, ngành liên quan tổ chức thành công nhiều giải thể thao quần chúng lớn như: Hội thi thể thao các dân tộc thiểu số toàn quốc lần thứ VII  khu vực I tại Điện Biên; Giải Vô địch vật dân tộc toàn quốc lần thứ 15 tại Hà Nội; Giải Bóng chuyền nữ học sinh Châu Á.

Trong hoạt động thể thao thành tích cao, ngành Thể dục Thể thao tổ chức thành công 171 giải thể thao quốc gia và quốc tế. Để chuẩn bị lực lượng cho các giải thi đấu lớn, các đội tuyển quốc gia và đội tuyển trẻ được triệu tập để tham gia tập huấn tại các trung tâm huấn luyện thể thao; mở 36 lớp tập huấn, nâng cao trình độ cho các trọng tài, huấn luyện viên thể thao và cử 188 đoàn thể thao đi tập huấn và tham dự các giải thể thao cấp khu vực, châu lục và thế giới. Thành tích của đoàn thể thao Việt Nam đạt được tại các giải thể thao quốc tế năm 2011 là: 297 huy chương vàng, 228 huy chương bạc và 248 huy chương đồng. Đáng chú ý là tại Đại hội thể thao Đông Nam Á lần thứ 26 (Sea Games 26), đoàn thể thao Việt Nam đã giành 96 huy chương vàng, 92 huy chương bạc và 100 huy chương đồng, đứng vị trí thứ 3 trong bảng tổng sắp huy chương.

Hoạt động thể thao dành cho người khuyết tật cũng nhận được sự quan tâm đặc biệt và giành được nhiều thành tích. Đoàn thể thao khuyết tật của Việt Nam đã tham dự 6 nội dung trong Đại hội thể thao người khuyết tật khu vực Đông Nam Á và xếp thứ 4 toàn đoàn với 160 huy chương gồm: 44 huy chương vàng, 44 huy chương bạc và 72 huy chương đồng.

  1. Tai nạn giao thông

Trong tháng 11/2011 trên địa bàn cả nước đã xảy ra 1087 vụ tai nạn giao thông, làm chết 864 người và làm bị thương 908 người. So với cùng kỳ năm trước, số vụ tai nạn giao thông giảm 14%, số người chết giảm 14% và số người bị thương tăng 5%. Tính chung mười một tháng năm nay, trên địa bàn cả nước đã xảy ra 12,1 nghìn vụ tai nạn giao thông, làm chết 10,1 nghìn người và làm bị thương 9,3 nghìn người. So với cùng kỳ năm 2010, số vụ tai nạn giao thông giảm 2,9%, số người chết giảm 2,5% và số người bị thương tăng 2,9%. Bình quân 1 ngày trong mười một tháng năm 2011, cả nước xảy ra 36 vụ tai nạn giao thông, làm chết 30 người và làm bị thương 28 người.

  1. Thiệt hại do thiên tai gây ra

Thiên tai trong nước xảy ra trong năm 2011 đã làm 257 người chết và mất tích, 267 người bị thương; gần 1,2 nghìn ngôi nhà bị sập đổ, cuốn trôi; 391,8 nghìn ngôi nhà bị ngập nước, hư hỏng; hơn 760 km đê, kè và trên 680 km đường giao thông cơ giới bị vỡ, sạt lở; 867 cột điện gãy, đổ; gần 54 nghìn ha lúa và hoa màu bị mất trắng; hơn 330 nghìn ha lúa và hoa màu bị ngập, hư hỏng. Nghệ An là địa phương bị thiệt hại nặng nhất với 23 người chết và mất tích; 5,6 nghìn ngôi nhà bị sập đổ, hư hỏng; trên 22 nghìn ha lúa và hoa màu bị mất trắng; hơn 50 nghìn ha lúa và hoa màu bị ngập, hư hỏng. Tổng giá trị thiệt hại do thiên tai gây ra trong năm nay ước tính hơn 10 nghìn tỷ đồng, trong đó Nghệ An thiệt hại gần 2,9 nghìn tỷ đồng.

 

Khái quát lại, kinh tế-xã hội nước ta năm 2011 đối mặt với một loạt khó khăn và thách thức: Lạm phát tăng trở lại; kinh tế vĩ mô còn nhiều bất ổn; lãi suất tăng cao; doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn trong sản xuất, kinh doanh do tín dụng thu hẹp; tỷ giá có những thời điểm biến động phức tạp. Những bất ổn trên đây do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, trong đó chủ yếu là các cân đối vĩ mô không ổn định, thiếu vững chắc tiềm ẩn trong nền kinh tế nước ta từ nhiều năm qua. Tăng trưởng kinh tế chủ yếu theo chiều rộng, chưa tập trung quan tâm đến chiều sâu, đặc biệt là chưa coi trọng chất lượng và sự bền vững trong phát triển của từng ngành, lĩnh vực nói riêng và của tăng trưởng toàn nền kinh tế nói chung.

Đảng, Quốc hội và Chính phủ đã nhìn nhận khách quan, toàn diện về những thiếu sót và tồn tại của nền kinh tế, trên cơ sở đó đề ra nhiều giải pháp, biện pháp quan trọng, cùng với sự quyết tâm và đồng thuận cao của nhân dân cả nước. Các giải pháp nhằm thực hiện mục tiêu ưu tiên hàng đầu là kiềm chế lạm phát được triển khai đồng bộ đã phát huy tác dụng. Chỉ số giá tiêu dùng tuy vẫn ở mức cao nhưng diễn biến theo hướng tích cực trong sáu tháng cuối năm. Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa tăng cao. Nhập siêu được kiểm soát và đã giảm ở mức hợp lý. Mức tăng tổng phương tiện thanh toán, tổng dư nợ tín dụng và tỷ lệ bội chi ngân sách Nhà nước thấp hơn nhiều so với mục tiêu đề ra. Sản xuất nông nghiệp đạt kết quả khá. An sinh xã hội và phúc lợi xã hội được Chính phủ quan tâm chỉ đạo thường xuyên.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, kinh tế-xã hội nước ta trong năm tới tiếp tục đối mặt với những thách thức và có nhiều dấu hiệu bất lợi: Kinh tế thế giới thiếu ổn định do một số nền kinh tế lớn gặp rủi ro và có xu hướng suy thoái. Tái cơ cấu kinh tế trong các ngành, lĩnh vực và các tập đoàn kinh tế cũng như các doanh nghiệp còn lúng túng nên chuyển biến chậm. Khó khăn trong sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp trong nước, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa chưa được tháo gỡ. Lạm phát có nguy cơ tăng cao trở lại do tác động từ nhiều yếu tố cả trong và ngoài nước. Bên cạnh đó, nhu cầu tiêu dùng hàng hóa và sức mua của dân cư tăng mạnh trong dịp Tết Nguyên Đán Nhâm Thìn.

Để thực hiện tốt mục tiêu của năm 2012 là ưu tiên kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì tăng trưởng ở mức hợp lý gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế, nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh; bảo đảm phúc lợi xã hội, an sinh xã hội và cải thiện đời sống nhân dân, các ngành, các cấp và các địa phương cần tiếp tục thực hiện đồng bộ các giải pháp, tập trung vào một số việc trọng tâm sau đây:

Một là, tiếp tục thực hiện nhất quán chính sách tiền tệ chặt chẽ, bảo đảm chủ động linh hoạt và hiệu quả trong điều hành. Thực hiện chính sách tài khoá chặt chẽ và hiệu quả, theo đó cần tập trung kiểm tra, kiểm soát và quản lý các nguồn thu và việc sử dụng ngân sách; tăng cường quản lý, bố trí hợp lý và sử dụng hiệu quả nguồn vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước và vốn trái phiếu chính phủ.

Hai là, khẩn trương xây dựng kế hoạch với lộ trình cụ thể trong thực hiện nhiệm vụ quan trọng, vừa cấp bách vừa mang tính lâu dài là tái cơ cấu kinh tế theo tinh thần Hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp hành Trung ương khóa XI đã quyết định, đó là: Tập trung ưu tiên tái cơ cấu 3 lĩnh vực quan trọng nhất gồm: Tái cơ cấu đầu tư với trọng tâm là đầu tư công; tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước mà trọng tâm là các tập đoàn, tổng công ty nhà nước; cơ cấu lại hệ thống tài chính với trọng tâm là tái cơ cấu hệ thống ngân hàng thương mại và các tổ chức tài chính khác.

Ba là, tăng cường kiểm tra, kiểm soát tài chính đối với các tập đoàn, tổng công ty, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài để đảm bảo sử dụng hiệu quả nguồn vốn đầu tư, ngăn chặn hiện tượng chuyển giá và các khoản chi bất hợp lý, nhằm hạ giá bán sản phẩm, nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm Việt Nam ở thị trường trong nước và quốc tế.

Bốn là, tập trung tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp. Bên cạnh việc Chính phủ hỗ trợ thông qua nhiều chính sách thì mức lãi suất hợp lý và minh bạch phù hợp với từng lĩnh vực, từng đối tượng cũng là điều kiện thuận lợi giúp các doanh nghiệp trong tiếp cận vốn sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, trong điều kiện khó khăn thì vấn đề quản trị tốt doanh nghiệp là hết sức cần thiết để tồn tại và phát triển, đồng thời phải xây dựng được chiến lược đầu tư sản xuất phù hợp và mở rộng thêm các kênh huy động vốn.

Năm là, thực hiện nghiêm Chỉ thị số 2051/CT-TTg ngày 16 tháng 11 năm 2011 của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường biện pháp nhằm bình ổn giá cả, thị trường, bảo đảm trật tự an toàn xã hội dịp Tết Nhâm Thìn. Theo đó, tập trung tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong sản xuất, kinh doanh liên quan đến thủ tục hành chính, tiêu thụ sản phẩm và khả năng tiếp cận vốn của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Chỉ đạo tốt sản xuất và lưu thông hàng hóa, nhất là lương thực, thực phẩm. Phòng chống dịch bệnh cho gia súc, gia cầm, khống chế dịch bệnh hiệu quả để bảo đảm nguồn cung thực phẩm. Tăng cường kiểm tra, kiểm soát và xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật về giá; hành vi buôn bán hàng giả, hàng không rõ nguồn gốc; gian lận thương mại cũng như đầu cơ găm hàng, thao túng giá cả.

TỔNG CỤC THỐNG KÊ

[1] Dự án Bảo vệ và phát triển rừng bền vững; Chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh theo Nghị quyết 30a của Chính phủ; Dự án trồng rừng theo Quyết định 147 của Thủ tướng Chính phủ

[2] Năm 2010 có 10 mặt hàng là: Dệt may; giày dép; thủy sản; dầu thô; điện tử máy tính và linh kiện; gỗ và sản phẩm gỗ; gạo; máy móc, thiết bị, dụng cụ phụ tùng; đá quý, kim loại quý và sản phẩm; cao su.

[3] (1) UNESCO công nhận Thành nhà Hồ là Di sản văn hóa Thế giới; (2) UNESCO công nhận hát xoan là Di sản văn hóa phi vật thể cần được bảo vệ khẩn cấp; (3) Trình diễn trang phục truyền thống cộng đồng các dân tộc Việt Nam lần thứ nhất năm 2011; (4) Kỷ niệm 100 năm Nhà hát Lớn Hà Nội; (5) Liên hoan Trà quốc tế lần thứ nhất tại Thái Nguyên; (6) Đoàn thể thao Việt Nam giành 96 HCV, 92 HCB, 100 HCĐ, đứng thứ 3 tại SEA Games lần thứ 26; (7) Lần đầu tiên tại giải Thể dục dụng cụ thế giới (Nhật Bản), vận động viên Phan Thị Hà Thanh giành huy chương đồng, chính thức tham dự Olympic London 2012; (8) Vận động viên Hoàng Quý Phước giành 2 huy chương vàng tại SEA Games 26, phá kỷ lục Đông Nam Á nội dung 100m bơi bướm, đạt chuẩn tham dự Olympic London 2012; (9) Vịnh Hạ Long được đưa vào danh sách là một trong bảy kỳ quan thiên nhiên thế giới mới của thế giới; (10) Du lịch Việt Nam đón vị khách quốc tế thứ 6 triệu.

Từ khóa » Cơ Cấu Mặt Hàng Xuất Khẩu Của Việt Nam 2011