Bàu Trắng Xưa Và Nay
Có thể bạn quan tâm

Bàu Trắng xã Hòa Thắng, huyện Bắc Bình, tỉnh Bình Thuận
Từ thuở khai thiên lập địa, có hàng trăm hồ (bàu) nước ngọt dọc theo chiều dài ven biển miền Trung. Theo các nhà khoa học, đó là những lạch trũng thoát triều đầm phá ra biển. Trải qua hàng triệu năm, xuất hiện nhiều cồn cát chặn lại phía ngoài khiến chúng không thông được với biển(1), dần trở thành bàu nước ngọt. Bàu Trắng (xã Hòa Thắng, huyện Bắc Bình) là một trong những bàu nước ngọt ven biển Bình Thuận được hình thành như thế.
Cuối năm 2019, Bàu Trắng được xếp hạng danh lam thắng cảnh cấp quốc gia. Kể ra cũng là việc công nhận…hơi muộn so với tiếng tăm cảnh đẹp từ xa xưa. Bởi hơn hai trăm năm trước, các sử quan triều Nguyễn đã dành nhiều chữ nghĩa ghi chép vào các bộ địa chí: Hoàng Việt nhất thống địa dư chí (Hoàng Việt chí, 1806), Đại Nam nhất thống chí (Đại Nam chí, 1882), Đồng Khánh địa dư chí (Đồng Khánh chí, 1887). Trong quyển Đồng Khánh chí, sử quan triều Nguyễn nhận định, “Hòa Đa có Tam Động, Hạ Hồ (tức Bàu Trắng - Tg)…đều là những nơi danh thắng của tỉnh hạt”. Còn nhà thơ yêu nước Nguyễn Thông (1827 - 1884), cũng nhận xét, “là hồ có tiếng nhất trong các hồ suối từ Nam ra đây”. Qua khảo cứu các truyền thuyết, sử liệu, địa chí cũng như trước tác của một vài quan lại triều Nguyễn, chúng tôi nhận thấy cảnh đẹp này có nhiều tên gọi.
Cảnh đẹp nhiều tên gọi
Theo truyền thuyết của người Chăm, bàu nước mang tên Danaw Bala Mbong (danaw: ao; bala: ngà voi; mbong: màu trắng), nghĩa là: Bàu nước có ngà voi trắng(2). Nguồn gốc tên gọi này liên quan đến truyền thuyết “vua Tabai và nàng Ngà”. Người Kinh dịch ra tiếng Việt, rút gọn dòng chữ “Bàu nước có ngà voi trắng” lại thành “Bàu Trắng”.
Hoàng Việt chí chép Bàu Trấn, “…Phía dưới điếm (chòi canh gác, nơi binh lính, dân binh ngày xưa ngồi canh gác -Tg) có hồ, tục gọi là Bàu Trấn. Nước hồ trong và ngọt, bốn mùa không tăng không giảm, hồ dài 1.500 tầm (尋, đơn vị đo chiều dài ngày xưa, 1 tầm bằng 8 thước, tương đương gần 2 m - Tg), rộng 200 tầm, sâu 19 tầm 6 thước….Về phía tây của hồ cách 250 tầm có thêm một cái hồ nữa, hồ này dài 1.100 tầm, rộng 28 tầm, sâu 2 tầm 4 thước, trước đây ở hồ này có sen, nay không còn, tục cũng gọi là Bàu Trấn…”(3). Theo chúng tôi, sở dĩ có tên gọi Bàu Trấn, có thể người biên soạn Hoàng Việt chí phát âm, đọc chệch trắng thành trấn.
Hiệp biện Đại học sĩ Trương Quốc Dụng (1797 - 1864), trong cuốn Thoái thực ký văn soạn xong năm 1851, gọi là Bạch Hồ. “…Chân động có Bạch Hồ, chu vi hơn hai mươi dặm, nước rất trong. Đêm trăng nhìn ra, thấy sắc vàng lấp lánh, ánh trăng trải dài muôn khoảnh, vô cùng kỳ diệu”(4). Cụ Trương Quốc Dụng dùng chữ Hán, nên Bàu Trắng gọi là Bạch Hồ.
Nhà thơ yêu nước Nguyễn Thông, năm 1874 trên đường ra kinh Thuận Hóa phục chức, ngang qua cảnh đẹp, cũng chép là Bạch Hồ. “…Dưới động có hồ, tức Bạch Hồ. Nước hồ rất trong, được coi là hồ có tiếng nhất trong các hồ suối từ Nam ra đây”(5). Tức cảnh sinh tình, cụ Nguyễn Thông vung bút làm thơ vịnh cảnh Bạch Hồ nhàn hành (Đi dạo ở Bạch Hồ).
Dục tầm dao thảo nhiễu hồ hành/ Vân ảnh hồ quang chiếu nhãn thanh/ Tối ái dạ lai tàn nguyệt thượng/ Dã hàng hoành địch kích thông minh.
(Dịch nghĩa) Muốn tìm cỏ thơm đi vòng quanh hồ/ Bóng mây pha ánh hồ chiếu lên sắc xanh/ Thích làm sao khi đêm đến, trăng non vừa lên/ Được thổi sáo bơi thuyền nan khua bóng trăng trên mặt nước(6).
Đại Nam chí chép Hồ Trắng. “…Có hai hồ trên và dưới phía Tây Nam huyện Hòa Đa, phía tây Ba Động, hồ trên chu vi 8 dặm linh (đơn vị đo chiều dài ngày xưa, 1 dặm tương đương 444,4 m - Tg), hồ dưới chu vi 12 dặm linh, nước trong ngọt, bốn mùa không tăng giảm”(7). Theo chúng tôi, có thể các sử quan triều Nguyễn đã “phiên dịch” chữ viết của hai cụ Trương Quốc Dụng, cụ Nguyễn Thông, từ Bạch Hồ (chữ Hán) thành Hồ Trắng (chữ Nôm).
Aymonier, công sứ Bình Thuận (1886 - 1887), trong Notes sur L’Annam, I Le Binh Thuan (Ký sự An Nam, tập I, tỉnh Bình Thuận) xuất bản năm 1885, gọi là Bàu Bà Dõng (tạm dịch). “…Dịch trạm mà chúng ta gặp sau trạm Thuan Cang là trạm Thuan Dong, trạm thứ chín. Ở rìa một cái đầm gần đó có tên Bàu Bà Dõng là một ngôi làng nhỏ”(8).
Đồng Khánh chí chép Hồ Hạ Tam động, Hạ Hồ. “Hòa Đa có Tam Động, Hạ Hồ…đều là những nơi danh thắng của tỉnh hạt”(9); “…phía tây gò có hai hồ tên là hồ Thượng, hồ Hạ. Hồ Thượng chu vi 8 dặm, sâu 1 trượng 4 thước; hồ Hạ chu vi hơn 12 dặm, sâu 8 trượng 5 thước”(10); “Hồ Hạ Tam động: gò cát ở phía đông hồ, hồ ở phía tây gò. Gò do nhiều lớp cát tạo nên, đi lại không bị lạc, không để lại dấu vết. Nước hồ trong vắt, ngưng đọng, lúc hạn hay lụt cũng không tăng không giảm, nơi đây mát mẻ thanh tịnh chẳng khác gì Thần Châu(11), người đi qua có cảm giác phiêu diêu thư thái như rũ hết bụi trần”(12). Theo chúng tôi, sở dĩ có tên Hồ Hạ Tam động có thể các sử quan triều Nguyễn ghép hai từ Hồ Hạ và gò Tam Động. Trên bản đồ Đồng Khánh chí, phần huyện Hòa Đa có thể hiện rõ ràng các vị trí Hồ Thượng, Hồ Hạ và gò Tam Động nằm cạnh nhau.
Camille Paris, một viên chức chính quyền thuộc địa Pháp, trong cuốn Voyage d’exploration de Hué en Cochinchine par la Route mandarine (Du ký Trung kỳ theo đường cái quan) xuất bản năm 1889, lấy nguyên bản ghi chép đường đi từ Phan Thiết ra Phan Rang của Aymonier. Trong chú thích bản dịch Du ký Trung kỳ theo đường cái quan (Nguyễn Thúy Yên dịch, Nxb Hồng Đức 2021) có đoạn, “…Bàu Bà Dông, có lẽ là Bàu Bà Động, từ Động có lẽ liên quan đến trạm Thuận Động…”(13)
Từ các tư liệu trích dẫn, cho thấy cảnh đẹp này có nhiều tên gọi: Bàu Trắng (truyền thuyết Chăm); Bàu Trấn (Hoàng Việt chí); Bạch Hồ (hai cụ Trương Quốc Dụng, cụ Nguyễn Thông); Hồ Trắng (Đại Nam chí); Bàu Bà Dõng/ Bàu Bà Động (Aymonier, Camille Paris); Hạ Hồ, Hồ Hạ Tam động (Đồng Khánh chí). Dù cảnh đẹp đi vào chữ nghĩa, văn chương với tên gọi mỹ miều thế nào chăng nữa, thì cái tên thuở ban đầu “Bàu Trắng” vẫn dân dã, dễ nhớ, được dân gian gọi cho đến nay.
Nhắc đến Bàu Trắng thì phải nhắc đến đồi cát, cùng miếu thờ nữ thần Thiên Y A Na. Hai trăm năm trước đây, cũng như Bàu Trắng, người xưa gọi đồi cát, miếu thờ với nhiều tên khác nhau.
Đồi cát: Động Tam Sa (Hoàng Việt chí); Tam Động (cụ Trương Quốc Dụng); Ba Động (cụ Nguyễn Thông, Đại Nam chí); Gò Tam động (Đồng Khánh chí). Ngoài gọi bằng tên Ba Động, cụ Nguyễn Thông còn làm bài thơ Bình Nhân sa mạc (Bãi cát (làng) Bình Nhân)
Tam điều cao lạc tự thủy hồng/ Phiếu diễu vân bình ỷ bích không/ Nhật nhật hồ ba phiêu bất tận/ Biệt lưu tinh tuyết hộ tiên cung.
(Dịch nghĩa): Ba nhánh từ trên cao rủ xuống như cầu vồng rủ/ Rặng mây như tấm bình phong dựa vào trời biết xa xa/ Ngày ngày sóng trên hồ dợn mãi không thôi/ Như riêng lưu lại tuyết sáng chở che cho cung tiên.
Miếu thờ: miếu Bàu Trấn (Hoàng Việt chí); Đền thờ nữ thần A Na diễn Ngọc Phi (cụ Nguyễn Thông); Đền thờ thần Chúa Động (Đại Nam chí); Đền Chúa Động Phu nhân (Đồng Khánh chí).
Hiện nay, người ta đã quen với tên gọi “đồi Trinh nữ” để nói đến tiểu sa mạc nằm bên hồ nước. Gọi đồi Trinh Nữ là do đồi cát có hình dáng “giống người con gái nằm nghiêng mình”(14) (?!). Chúng tôi chưa có tư liệu đủ tin cậy để tìm hiểu chính xác nguồn gốc, thời gian xuất hiện tên “đồi Trinh Nữ”; nhưng có thể ở những năm cuối thế kỷ XX, khi du lịch Bình Thuận được biết đến sau nhật thực toàn phần năm 1995.
Còn đền thờ nữ thần Thiên Y A Na, người dân địa phương gọi là Miễu Bà, nổi tiếng hiển linh. Năm 1958, Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Ngô Đình Diệm khi đến đây, phải đi bộ từ xa vào thắp hương bái lạy(15).
Cảnh đẹp nhiều giai thoại
Bao phủ quanh bàu nước ngọt nằm giữa gò/động cát chập chùng là những câu chuyện, truyền thuyết, giai thoại lưu truyền trong dân gian, hoặc được lưu giữ trong những trang giấy xưa cũ truyền lại đến nay.
Người Chăm có câu chuyện “Vua Tabai và nàng Ngà”, cũng để giải thích cho tên gọi Bàu Trắng. Chuyện rằng, ngày xưa có vua Chăm tên Patao Tabai ham thích săn bắn, đã lớn tuổi nhưng chưa có vợ. Một hôm trên đường đi săn, vua gặp một bàu nước. Bỗng nhiên con chó săn sủa mãi không chịu đi. Thấy lạ, vua cho lính xuống bàu nước xem thì phát hiện một cây ngà voi trắng. Hàng chục binh lính khiêng cây ngà voi trắng lên cho vua xem nhưng không được vì ngà voi nặng một cách lạ thường. Cuối cùng, đích thân vua Tabai phải lội xuống bàu. Thật kỳ lạ, vua nhấc ngà voi lên khỏi mặt nước nhẹ nhàng. Vua mang ngà voi về cung điện cất giữ. Về sau ngà voi biến thành cô gái xinh đẹp làm vợ vua. Từ đó, bàu nước này được gọi tên là “bàu nước có ngà voi trắng”(16). Câu chuyện còn có thêm nội dung kế tiếp, giải thích nguồn gốc tên gọi “Đồi cát hồng” Mũi Né.
Các quyển địa chí triều Nguyễn chép một vài giai thoại quanh hồ nước, đồi cát, miếu thờ rằng, từ xưa tới nay, dù mưa gió bão lốc hay đi lại nhiều thì các động cát cũng không thêm bớt hay hao mòn. Ở đây nổi tiếng là nơi linh dị. Quan lại mỗi lần qua đây đều phải xuống ngựa, cất lọng đến quán nghỉ trạm cũ Bàu Trấn. Miếu Bàu Trấn do thôn Bình Nhơn lập cạnh hồ nước để thờ các thần linh bổn xứ, nổi tiếng linh thiêng. Vào những đêm khuya thanh vắng thường nghe có tiếng chuông trống. Khi trời ít mưa, thuyền gặp gió bão, nghề đánh cá thất thu, người hoặc súc vật bị bệnh, đến miếu cúng tế, cầu xin thì rất linh ứng. Miếu ở phía nam hồ, vắng vẻ u tịch, thâm nghiêm, người đi qua không ai không kính cẩn.
Năm Đinh Tị (1877), một người tên Cha Bích thấy giữa mặt hồ bỗng dưng nổi lên vật màu đen giống con rùa, cao khoảng 1 thước (khoảng 0,5 m - Tg), to chừng 6, 7 tầm. Hồi lâu, vật màu đen chìm xuống nước, nhiều cây gỗ nổi lên. Một chốc sau, cây gỗ lại chìm hết, nước biến thành màu đỏ, rồi trong xanh trở lại bình thường.
Năm Kỷ Mùi (1879), người buôn trâu tên Phú, đuổi trâu qua trước miếu. Bỗng dưng đàn trâu hoảng hốt, chạy tán loạn. Một con trong bầy nhảy xuống hồ biến mất. Một lát sau xác trâu chết nổi lên mặt nước.
Một người tên Đội Châu đi ngang miếu, nói năng khinh xuất tục tĩu. Khi đi lên đến động cát, bỗng dưng bị cấm khẩu. Lính đi theo phải đưa về nhà trạm rồi đến trước miếu tạ lỗi mới khỏi.
Một người nhà quan đi qua miếu một mình. Bỗng thấy đoàn quan quân rất đông từ dưới hồ đi lên miếu. Người này say xẩm ngã xuống đất. Sau đó, có người đến cúng tế, cầu xin ở miếu mới khỏi.
Năm Tân Dậu (1801), một người tên Thư ở thôn Bình Nhơn từ nhà trạm đi ra liền bị hổ dữ cắp đi. Vài hôm sau trong hồ có con hổ bị chết chìm. Người ta xem thấy đó là hổ đã hại người hôm trước.
Đến những năm 50, thế kỷ XX, lại xuất hiện những câu chuyện cá sấu Bàu Trắng hại người. Khoảng năm 1950, vào một buổi chiều, một bé gái tầm 13 - 14 tuổi đang tắm, bị cá sấu tấn công, nhận chìm, ăn một phần thân thể. Năm 1951, cá sấu táp chân một bé trai nhận chìm xuống nước. Ít lâu sau, người dân phát hiện một con cá sấu nằm phơi trên bãi cát, liền bắn hạ, khi mổ bụng thấy trong ruột có chiếc còng tay bằng đồng (nghĩa là con cá sấu này đã ăn nhiều người, có thể có cả tù nhân bị còng tay - Tg). Năm 1954, một thanh niên đi câu ban đêm thì bị cá sấu đớp phải bắp chân, may sao thoát chết. Năm 1960, nhà chức trách phải trao thưởng cho ai bắt được cá sấu. Có nhóm thanh niên xung phong đi bắt cá sấu, mồi câu bằng con chó nhỏ, dưới bụng cột lưỡi câu lớn. Cá sấu bị mắc câu và kể từ đó, không ai thấy cá sấu ở Bàu Trắng nữa(17).
Vài lời tường minh
Cho đến nay, nhiều học giả, nhà nghiên cứu đã công bố một số công trình, bài viết liên quan đến Bàu Trắng xưa và nay. Chúng tôi nhận thấy cần có vài lời xác tín, tường minh về một số thông tin quanh Bàu Trắng như: Nguồn gốc tên gọi Bàu Trắng (?) Ai là người đầu tiên sử dụng tên Bạch Hồ, hay tên gọi Bạch Hồ xuất hiện lúc nào (?) Cụ Nguyễn Thông làm bài thơ “Bạch Hồ nhàn hành” vào năm nào (?)…
Nguồn gốc tên gọi Bàu Trắng
Cho đến nay, có nhiều cách giải thích quanh nguồn gốc tên gọi Bàu Trắng như: do nằm bên cạnh những đồi cát trắng cao lừng lững và mặt hồ khi có gió lớn cũng nổi sóng trắng như mặt biển (18); do nằm giữa triền cát trắng (19); do bài thơ “Bạch Hồ nhàn hành” của cụ Nguyễn Thông cảm tác khi đến đây vào năm 1867, và cách gọi cũng xuất phát từ địa hình tự nhiên….(20)
Chúng tôi thấy rằng, theo truyền thuyết người Chăm, bàu nước mang tên Danaw Bala Mbong (danaw: ao; bala: ngà voi; mbong: màu trắng), nghĩa là: Bàu nước có ngà voi trắng. Người Kinh dịch ra tiếng Việt rút gọn lại thành Bàu Trắng. Đây là nguồn gốc đáng tin cậy, logic và hợp lý về tên gọi bàu nước. Bởi qua các công trình nghiên cứu đã khẳng định, người Chăm sinh sống và đóng góp vào quá trình khai phá, hình thành vùng đất Bình Thuận. Dấu ấn của người Chăm cho đến nay còn lưu giữ qua văn hóa, kiến trúc, địa danh. Nhiều địa danh trên vùng đất Bình Thuận có nguồn gốc từ tiếng Chăm.
Ai là người đầu tiên sử dụng tên Bạch Hồ, hay tên gọi Bạch Hồ xuất hiện từ lúc nào (?)
Một số công trình địa chí, sách biên khảo, bài nghiên cứu (cũng như vài trang mạng trích dẫn theo)(21) có nhắc đến Bàu Trắng cho rằng, cụ Nguyễn Thông là người đầu tiên gọi Bàu Trắng bằng tên chữ Bạch Hồ, khi cụ đến đây vào năm 1867 làm bài thơ Bạch Hồ nhàn hành.
Tuy nhiên, khảo cứu qua các trước tác thì Hiệp biện Đại học sĩ Trương Quốc Dụng đã dùng tên Bạch Hồ (gọi theo chữ Hán của từ Bàu Trắng) trong cuốn Thoái thực ký văn, soạn xong năm 1851. Cụ Trương Quốc Dụng là người dùng tên Bạch Hồ đầu tiên so với cụ Nguyễn Thông.
Bài thơ Bạch Hồ nhàn hành ra đời năm 1867 hay năm nào (?)
Một số công trình địa chí, sách biên khảo, bài nghiên cứu cho rằng bài thơ Bạch Hồ nhàn hành ra đời năm 1867 khi cụ Nguyễn Thông đến Bàu Trắng. Thông tin này chưa chính xác.
Theo các tư liệu lịch sử, đầu năm 1867, thực hiện phong trào Tị địa, Đốc học tỉnh Vĩnh Long Nguyễn Thông cùng nhân sĩ Nam Kỳ dời mộ thầy Võ Trường Toản qua Vĩnh Long để lánh tránh Pháp. Tháng 6-1867, khi Pháp chiếm luôn 3 tỉnh miền Tây Nam kỳ, cụ Nguyễn Thông ra Bình Thuận, được cử làm Án sát tỉnh Khánh Hòa, đến đầu năm 1868 về kinh làm Biện lý Bộ Hình. Chưa có dòng sử liệu nào (hoặc thơ, văn cụ Nguyễn Thông) nhắc đến việc cụ Nguyễn Thông dạo chơi Bạch Hồ vào năm 1867 để nhân đó làm bài thơ Bạch Hồ nhàn hành.
Cho mãi đến gần chục năm sau, năm Giáp Tuất 1874, khi cụ Nguyễn Thông được phục chức, trên đường ra kinh đô Thuận Hóa nhận việc, ngang qua thắng cảnh này thì bài thơ Bạch Hồ nhàn hành mới được ra đời. Trong lời đề từ bài thơ Bình Nhân sa mạc, cụ đã nói rõ, “Năm Giáp Tuất (1874)(22) tôi được cho phục chức. Từ đây (từ 1874, cũng như từ bài thơ Bình Nhân sa mạc - Tg) về sau là một số bài viết lúc lên kinh…” (23).
Cụ Nguyễn Thông tìm đến Bàu Trắng dạo chơi ngoạn cảnh hay đi ngang qua đây ?
Báo Bình Thuận cuối tuần tháng 3/2016, có đoạn, “…Năm Giáp Tuất 1874, khi sức khỏe dần hồi phục, với đam mê tìm hiểu, khám phá Nguyễn Thông từ Sa Ra (Vĩnh Hòa) nhờ người địa phương dẫn đường, vượt đồi cát chập chùng tìm đến một cái hồ nước tuyệt đẹp mang tên Bạch Hồ nằm ở phía Tây Nam huyện Hòa Đa (ngày nay gọi là Bàu Trắng, xã Hòa Thắng, Bắc Bình). Trước vẻ đẹp Bạch Hồ, Nguyễn Thông đã ở lại đây nhiều ngày. Và trong một đêm ngồi thuyền nan thả trôi trên mặt hồ nhà thơ viết bài “Bạch Hồ nhàn hành”: “Đáng yêu nhất là đêm đến, trăng mới mọc/ Ngồi thuyền nan thổi sáo, khỏa bóng trăng chập chờn trên mặt nước”. Từ Bạch Hồ, Nguyễn Thông vượt qua những bãi cát dài ra đến bờ biển: “Đi đi trên đê cát/ Núi xa nhìn thấy thấp/ Đến chốn vắng người tới/ Tiếng chim kêu bỗng nghe/ Trăng hồ ánh thấu bể/ Hoa núi chiếu xuống khe” (bài Quá Bình Nhân sa mạc - Đi qua bãi cát Bình Nhơn)…”(24). Qua đoạn trích, chúng tôi nhận thấy có một số nhầm lẫn.
Khi cụ Nguyễn Thông đến thắng cảnh này thì bàu nước không phải mang tên Bạch Hồ (như đã dẫn chứng ở phần đầu bài viết này của chúng tôi).
Mặt khác, cụ Nguyễn đến Bàu Trắng không phải “với đam mê tìm hiểu, khám phá”, “nhờ người địa phương dẫn đường”, và “ở lại đây nhiều ngày”; mà theo lời đề từ bài thơ Bình Nhân sa mạc, cụ được phục chức, trên đường ra kinh Thuận Hóa, đi ngang thấy cảnh đẹp nên viết nên hai bài thơ Bình Nhân sa mạc, Bạch Hồ nhàn hành.
Ngoài hai bài thơ này, trên bước đường ra kinh năm 1874, trước mỗi cảnh đẹp đi qua, cụ Nguyễn Thông đều có thơ vịnh. Sắp xếp theo lộ trình chuyến đi thì các bài thơ lần lượt ra đời gồm: Bình Nhân sa mạc(25), Bạch Hồ nhàn hành , Khánh Hòa đạo trung, Bình Hòa phùng đồng quận Hà Lang, Thứ Hòa Mã dịch, Độ lĩnh, Tư Châu quá Nguyễn Tử Mỹ, Biệt Tùng Đường, Hải Vân quan.
Theo lộ trình đi, cụ Nguyễn Thông gặp bãi cát (làng) Bình Nhân, Bàu Trắng (thuộc huyện Hòa Đa, tỉnh Bình Thuận); qua tỉnh Khánh Hòa (xưa là trấn Bình Hòa), đến dịch trạm Hòa Mã giáp tỉnh Phú Yên, đèo Cả, phủ Tư Nghĩa (Tư Châu) Quảng Ngãi, đèo Hải Vân.
Bàu Trắng nằm ở giữa Phan Rí và Phan Rang?
Trong chú thích bản dịch cuốn Du ký Trung kỳ theo đường cái quan, có đoạn, “…Đây là một hồ nước tự nhiên rất lớn, nằm trên vùng động cát lớn ngăn cách hai vùng Phan Rang và Phan Rí. Nay thuộc xã Hòa Thắng, huyện Bắc Bình…” (26). Việc nhận định “…ngăn cách hai vùng Phan Rang và Phan Rí…” là chưa chính xác trên phương diện địa lý.
Bởi thực tế, Bàu Trắng cùng cả “vùng động cát rộng lớn” đều nằm gọn trong địa phận huyện Bắc Bình kéo dài ra huyện Tuy Phong (Bình Thuận). Do đó, không thể Bàu Trắng hay “vùng động cát rộng lớn” nằm giữa, phân chia, ngăn cách hai vùng Phan Rí - Phan Rang chú thích đã nêu.
Thay lời kết
Làng Bình Nhân (Nhơn) trong Bình Nhân sa mạc của cụ Nguyễn Thông trải qua hơn một trăm năm đến nay vẫn nằm bên bờ nam Bàu Trắng, bên cạnh đền thờ Thiên Y A Na đã trở thành phế tích. Trước tháng 8-1945, Bình Nhơn là một trong ba thôn, thuộc đơn vị hành chính xã Bình Hưng. Năm 1950, người ta sáp nhập xã Bình Hưng cùng hai xã khác thành đơn vị hành chính xã Hòa Thắng. Cuối năm 1950, xã Hòa Thắng được đổi tên thành Hồng Lâm, gồm làng Bàu Trắng và ba làng khác. Sau tháng 4/1975 cho đến nay, xã Hồng Lâm sáp nhập với hai xã khác thành xã Hòa Thắng(27). Làng Bình Nhơn xưa, nay là thôn Hồng Lâm, xã Hòa Thắng. Tên làng Bình Nhơn thuở ấy chỉ còn lưu lại trên vùng đất này qua tên một ngôi chùa - chùa Bình Nhơn.
Miễu Bà bị san bằng trong chiến tranh. Năm 1990, các bô lão thôn Hồng Lâm, xã Hòa Thắng tái lập đền thờ nữ thần, không phải tại nền miễu cũ, mà nằm ở bờ tây Bàu Bà. Đến năm 1996, đền được phá bỏ xây mới, cao lớn hơn, có ban khánh tiết, để quản lý, cúng lệ hàng năm.
Bàu Trắng giờ đã nổi tiếng. Thiết nghĩ, để cảnh đẹp mãi vang danh khắp nơi như cụ Nguyễn Thông từng nói, hậu thế cần tạo thêm điểm nhấn, hình thành không gian văn hóa Bàu Trắng. Trong không gian văn hóa đó, có đặt tượng cụ Nguyễn Thông, in khắc hai bài thơ Bình Nhân sa mạc, Bạch Hồ nhàn hành, trồng hoa lá, cây cối, tiểu cảnh xanh tươi. Khi đến với Bàu Trắng, ngoài giải trí vui chơi, thì không gian văn hóa cũng sẽ là điểm dừng chân tìm hiểu về lịch sử văn hóa, thơ ca vùng đất này.
________________________________ Chú thích
(1) Nguyễn Xuân Lý, Bàu Trắng ở Bình Thuận và Bàu Tró ở Quảng Bình: Khám phá về những nét tương đồng, tr.1 (nguồn: dulich.baobinhthuan.com.vn); (2) Sakaya, Từ điển địa danh đối chiếu Việt-các dân tộc thiểu số miền Trung-Trường Sơn-Tây Nguyên-Nam Bộ, Nxb Tri thức 2020, tr.19-20; (3) Lê Quang Định, Hoàng Việt nhất thống dư địa chí, Nxb Thuận Hóa 2005, tr.64; (4) Trương Quốc Dụng, Thoái thực ký văn (Nhương Lê dịch), Nxb Hội Nhà văn, 2020, tr.335; (5) Cao Tự Thanh, Đoàn Lê Giang (1984, trích dịch, giới thiệu), Tác phẩm Nguyễn Thông, Sở Văn hóa và Thông tin Long An, tr.150; (6) như (5), tr.151; (7) Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam nhất thống chí, tập 3, Nxb Thuận Hóa 2006, tr.163; (8) “…Le tram que l'on rencontre après celui de Thuân Cang est le tram de Thuân Dong, le neuvième. Au bord d'une lagune voisine appelée Bàu Bà Dõng est un petit village…” (Étienne Aymonier, Notes sur L’Annam, I Le Binh Thuan, Saigon Imprimerie Coloniale 1885, tr.17); (9) Quốc sử quán triều Nguyễn, Đồng Khánh địa dư chí, Nxb Thế giới, Hà Nội 2013, tr.1654; (10) và (12) như (9), tr.1676, tr.1677; (11) Trung Quốc cổ đại xưa hay còn được gọi là mảnh đất Thần Châu, được thiên nhiên ưu ái ban tặng những cảnh quan huyền ảo, thơ mộng như chốn bồng lai dưới hạ giới. Ý sử quan triều Nguyễn so sánh Bạch Hồ đẹp như thắng cảnh của Trung Quốc; (13) Camille Paris, Du ký Trung kỳ theo đường cái quan (Nguyễn Thúy Yên dịch), Nxb Hồng Đức 2021, tr.304; (14) vietnamtourism.gov.vn/index.php/items/29998 (truy cập ngày 03/12/2021); (15) Đảng ủy xã Hòa Thắng, huyện Bắc Bình, Lịch sử Đảng bộ xã Hòa Thắng (1975-2010), xb 2017, tr.129; (16) như (2), tr.19-20; (17) Nhiều tác giả, Địa chí Phan Rí cửa, Nxb Hội Nhà văn 2015, tr.50-51; (18) facebook.com/permalink.php?story_fbid=1513448628844559&id=100005383087651, (truy cập 02/12/2021); (19) nld.com.vn/mien-trung-tay-nguyen/bau-trang-oc-dao-xanh-giua-sa-mac-20210609205307664.htm, truy cập 02/12/2021; (20) danviet.vn/huyen-bi-ho-bau-trang-lung-linh-giua-doi-cat-hoang-so 7777663019.htm, truy cập 02/12/2021; (21) Địa chí Phan Rí cửa, tr.49; Phạm Côn Sơn, Cẩm nang du lịch Hòn Rơm - Mũi Né - Phan Thiết, Nxb Thanh niên 2003, tr.63…cùng một số sách biên khảo khác; baotangbinhthuan.com/index.php/news/Tin-Tuc-Su-Kien/BAU-TRANG-DUOC-XEP-HANG-DANH-LAM-THANG-CANH-CAP-QUOC-GIA-217/ (truy cập ngày 02/12/2021); baobinhthuan.com.vn/van-hoa/bau-trang-qua-moc-ban-trieu-nguyen-110770.html (truy cập ngày 02/12/2021); plo.vn/van-hoa/doi-trinh-nu-duoc-xep-hang-danh-thang-quoc-gia-856325.html (truy cập ngày 02/12/2021)..; (22) Trong Tác phẩm Nguyễn Thông, tr.150 nhầm lẫn khi chú thích năm Giáp Tuất (lịch Âm) sang Dương lịch là năm 1876. Có lẽ các tác giả nhầm với năm Bính Tí 1876 khi cụ Nguyễn Thông được thăng Hàm Lâm viện trước tác, lãnh chức Tư nghiệp Quốc Tử giám; (23) như (5); (24) Bình Thuận cuối tuần số 5451, ngày 11/3/2016, tr.5; (25) Một vài bài nghiên cứu thêm từ “Quá” vào trước “Bình Nhân sa mạc” là sai tên bài thơ của cụ Nguyễn Thông; (26) như (13); (27) như (15) tr.9-10, tr.13.
✿ ✿ ✿ ✿ ✿ ✿ ✿ ✿ ✿ ✿Từ khóa » Hồ Bàu Trắng
-
Huyền Bí Hồ Bàu Trắng Lung Linh Giữa đồi Cát Hoang Sơ - Dân Việt
-
Bàu Trắng – Wikipedia Tiếng Việt
-
ĐỒI CÁT TRẮNG MŨI NÉ (BÀU TRẮNG) - KHU DU LỊCH BÀU TRẮNG
-
REVIEW Bàu Trắng Phan Thiết Cho Người Mới đi Lần đầu
-
“Tiểu Sa Mạc Sahara” Của Bình Thuận-Bàu Trắng Mũi Né Hút Hồn Du ...
-
Du Lịch Bàu Trắng Bình Thuận – Tiểu Sa Mạc đẹp Ngỡ Ngàng
-
Bàu Sen - Bàu Trắng ở Bình Thuận - TripHunter
-
Bàu Trắng Mũi Né Thắng Cảnh đồi Cát Trắng đẹp Nhất Bình Thuận
-
KHÁM PHÁ " BÀU TRẮNG " TIỂU XA MẠC QUÊN LỐI VỀ Ở MŨI NÉ ...
-
Tư Vấn Và Kinh Nghiệm Du Lịch Bàu Trắng, Bình Thuận Rất đầy đủ
-
Sự Tích Hình Thành Bàu Trắng Mũi Né
-
Hướng Dẫn Chi Tiết đường đi Bàu Trắng Mũi Né - Phan Thiết
-
Bàu Trắng - Cung đường Vượt Biển Khiến Nhiều Tín đồ Xê Dịch Phải ...