Bê Bối Tài Chính Enron Vụ Gian Lận Kế Toán Gây Thiệt Hại 70 Tỷ Usd ...

Enron từng là tập đoàn năng lượng hùng mạnh nhất Hoa Kỳ, hoạt động ở trên 40 nước.

Thế nhưng, qua nhiều vụ làm ăn man trá, hối lộ, những ông chủ Công ty Enron đã gây ra một trong những vụ phá sản lớn nhất trong lịch sử Hoa Kỳ. Nhà đầu tư mất trắng hàng tỷ USD. 20.000 nhân viên mất việc làm và thậm chí mất cả khoản tiền dành dụm cả đời.

Vào ngày 02/12/2001, vụ đệ đơn xin phá sản của Enron khiến cả thế giới đầu tư rúng động. Suốt nhiều năm trước đó, Enron đã tạo dựng được danh tiếng về sự đổi mới, khiến giá cổ phiếu của họ tăng vọt, nhưng rồi tất cả những thành tựu của công ty năng lượng này đã sụp đổ chỉ trong vài tháng. Các cổ phiếu có giá cao chót vót trước đây đột nhiên vô giá trị. Hàng ngàn công nhân không chỉ mất việc mà còn mất luôn cả giá trị của những cổ phiếu mà họ được phép sở hữu.

Ngay cả nhiều năm sau này, những gì đã xảy ra với Enron vẫn đáng được tìm hiểu vì sự thất bại của họ đã để lại cho nhà đầu tư các bài học quý giá.

Sự trỗi dậy và sụp đổ của Enron

Enron bắt đầu xuất hiện vào năm 1985 sau vụ sáp nhập của hai công ty khí đốt tự nhiên. Ban đầu, Enron tìm cách phát triển bằng cách mở rộng phạm vi ra ngoài khí đốt tự nhiên và di chuyển mạnh vào lĩnh vực điện năng với các nhà máy điện và những tài sản phát điện khác.

Tuy nhiên, dường như những gì mang lại động lực cho các giám đốc điều hành hàng đầu của Enron lại là những nỗ lực nhằm kiếm lời từ việc “giao dịch” năng lượng. Thay vì tập trung sản xuất và cung cấp các sản phẩm năng lượng cho khách hàng, Enron đã sử dụng những hợp đồng tương lai để cung cấp khí đốt hoặc điện tự nhiên vào những thời điểm cụ thể trong tương lai nhằm kiếm tiền từ những người tìm cách đầu cơ trên sự thay đổi giá cả hoặc là phòng vệ trước những rủi ro của biến động bất ngờ trong giá năng lượng.

Khi làm như vậy, Enron đã khoác lên mình những đặc điểm khiến họ giống như một công ty đầu tư trên Phố Wall hơn là một doanh nghiệp về năng lượng hoặc tiện ích. Công ty này cuối cùng đã tạo ra các thị trường hoàn toàn mới mà hầu như rất ít liên quan đến thị trường năng lượng, bao gồm các hợp đồng tương lai gắn liền với những sự kiện thời tiết và khả năng băng thông Internet. Mối liên hệ đó với sự bùng nổ công nghệ đặc biệt đúng lúc, và đến năm 2000, cổ phiếu đã tăng vọt, giúp Enron có được vị trí trong 10 doanh nghiệp hàng đầu của Mỹ.

Cuối cùng, nhiều thành công của Enron hóa ra lại là ảo ảnh. Công ty này đã tạo ra một loạt thực thể kinh doanh có quan hệ với nhau và sử dụng những mánh lới kế toán để che giấu những thua lỗ và khoản nợ khổng lồ. Những chiến thuật đó cuối cùng cũng hết tác dụng, và vào tháng 10/2001, Enron chính thức tiết lộ một khoản lỗ hàng quý khổng lồ và cho biết họ đã phóng đại thu nhập một cách có hệ thống trong suốt ít nhất bốn năm. Đối thủ Dynegy dự tính mua lại Enron vào tháng 11 năm đó, nhưng sau khi Dynegy chấm dứt các cuộc đàm phán sáp nhập vào cuối tháng đó, Enron không còn cách nào khác ngoài việc phải nộp đơn xin bảo hộ phá sản theo Chương 11.

Hậu quả của việc xin phá sản cho thấy mức độ hành vi sai trái của Enron – công ty năng lượng này đã tiến hành một kế hoạch gian lận rất lớn. Arthur Andersen, vào thời điểm đó là một trong những công ty kế toán nổi tiếng của thế giới, cuối cùng tiết lộ rằng nhân viên của họ đã hủy các tài liệu Enron, mà nếu còn thì có thể được sử dụng để truy tố công ty này. Một giám đốc điều hành chủ chốt của Enron đã chết vì tự sát, còn hai cựu CEO Jeffrey Skilling và Ken Lay thì bị kết án vì tội âm mưu và gian lận.

Ngoài ra, một số giám đốc điều hành của Enron và các thành viên gia đình họ bị cáo buộc là giao dịch nội gián. Những người này đã bán tháo cổ phiếu ở mức giá cao trong khi một vài người trong số họ lại kêu gọi các nhân viên bình thường và nhà đầu tư bên ngoài tiếp tục mua cổ phiếu của Enron.

Ba bài học từ Enron

Vẫn còn một số bài học quan trọng cho nhà đầu tư từ vụ bê bối Enron. Đầu tiên, điều quan trọng là không dành quá nhiều tiền cho một cổ phiếu duy nhất trong danh mục đầu tư. Cho dù câu chuyện của công ty đó có hấp dẫn như thế nào thì mối đe dọa về sự đảo chiều mà bạn không bao giờ dự đoán có thể “xóa sổ” tài khoản của bạn nếu bạn bỏ quá nhiều tiền đầu tư vào nó.

Thứ hai, các nhân viên công ty nên đặc biệt thận trọng khi mua cổ phiếu của ông chủ mình. Thật hấp dẫn khi đầu tư vào một doanh nghiệp mà bạn biết rõ, nhưng nếu có gì đó trục trặc, bạn có nguy cơ vừa mất cả nguồn thu nhập chính vừa bị ảnh hưởng lớn trong danh mục đầu tư.

Cuối cùng, hãy đảm bảo là bạn hiểu được việc kinh doanh của công ty đang diễn ra như thế nào. Hầu hết các cổ đông đều không thể hiểu được chuyện giao dịch phức tạp của Enron, nhưng họ không thực sự quan tâm, miễn là cổ phiếu này tăng giá cao hơn. Điều đó khiến họ dễ bị tổn thương trước những thay đổi về “ sức khỏe” cơ bản của việc kinh doanh mà Enron đang vận hành. Nợ “đầm đìa”, chứng khoán phái sinh phức tạp và sự quản lý mà hóa ra là có vấn đề về tính trung thực và toàn vẹn của nó, Enron rõ ràng đã cung cấp một số dấu hiệu cảnh báo cho những người sẵn sàng lắng nghe, và các cổ đông có thể đã tránh được một số thiệt hại từ vụ bê bối này nếu trước đó họ tránh xa công ty này.

Mười bảy năm sau khi Enron nộp đơn xin phá sản, vụ bê bối của công ty năng lượng này vẫn có ảnh hưởng đến thế giới đầu tư. Bằng cách nhận ra những rủi ro tương tự vẫn còn tồn tại ngày hôm nay, bạn có thể luôn cảnh giác và bảo vệ bản thân khỏi những vụ bê bối trong tương lai.

Theo người thành công, vietstock

Worldcom "ông trùm" viễn thông và vụ bê bối tài chính gây chấn động nước mỹ

WorldCom từng được xem là "ông trùm" trong giới viễn thông và bản thân người sáng lập ra nó - Bernard Ebbers - cũng được Cựu Tổng thống Mỹ B.Clinton gọi là "biểu tượng của nước Mỹ ở thế kỷ 21".

Mọi chuyện cứ suôn sẻ, mọi hào quang cứ thế ùa về cho đến một ngày tháng 6.2002, gã khổng lồ bị luật pháp Mỹ sờ gáy và phát hiện ra một vụ lừa đảo tài chính khủng khiếp.

Sau khi tốt nghiệp trường Cao đẳng Mississippi ở Clinton vào năm 1967, Bernard Ebbers bắt đầu kinh doanh nhà trọ. Trong số các nhà trọ, có cơ sở cung cấp dịch vụ điện thoại đường dài. Từ đó, Ebbers phát hiện ra có thể cung cấp dịch vụ điện thoại đường dài giá rẻ, bằng cách mua sỉ dịch vụ của AT&T rồi bán lẻ lại.

Năm 1983, Ebbers và 3 đối tác lên kế hoạch mở rộng hoạt động kinh doanh bằng việc thành lập Công ty Dịch vụ điện thoại đường dài giá rẻ (LDDS). Ebbers phát triển LDDS theo tôn chỉ: quy mô càng lớn càng tốt.

Với phương thức chủ yếu dùng cổ phiếu thay tiền, Ebbers đẩy nhanh mua sắm các công ty khác, mỗi lần mua lại mang đến thêm khách hàng và doanh thu. Đến năm 1989, LDDS trở thành công ty giao dịch công cộng. Trong nửa đầu thập niên 1990, Ebbers đã sáp nhập được trên 35 công ty. Ebbers vươn sang lĩnh vực internet, dữ liệu, giao dịch thương mại điện tử và công ty được đổi tên thành WorldCom để thể hiện một địa vị mới.

Năm 1996, WorldCom thực hiện thương vụ "khủng", chi 14 tỷ USD mua MFS Communications Co. WorldCom cũng mua một mạng cáp quang mới, đàm phán sáp nhập công ty UUNet, và đặc biệt đình đám với thỏa thuận 37 tỷ USD mua MCI Communications, nâng doanh thu hàng năm của WorldCom từ 5,6 tỷ USD lên 32 tỷ USD.

Lúc này, nhiều công ty mới nhảy vào thị trường đã kéo giảm giá dịch vụ. Nhưng Ebbers vẫn tiếp tục "cơn nghiện mua sắm", đề nghị giá 129 tỷ USD để sáp nhập công ty Sprint danh giá, bất chấp những quan ngại về cạnh tranh và độc quyền. Giới chức Hoa Kỳ đã ra tay ngăn chặn thương vụ này vào tháng 7-2000. Đây là điềm báo chấm dứt một thập niên bùng nổ thần tốc của WorldCom và khởi đầu cho sự xuống dốc.

Tháng 9-2000, WorldCom chi 1,6 tỷ USD mua Intermedia Communications, một thương vụ bị giới quan sát cho là hớ nặng vì đó là một công ty điện thoại và internet địa phương đang gặp khó khăn chỉ có giá khoảng 50 triệu USD. Tính ra, trong vòng 15 năm, WorldCom đã thực hiện hơn 60 cuộc thôn tính.

Gian dối

Năm 1998, ngành công nghiệp viễn thông bắt đầu hạ nhiệt, cổ phiếu WorldCom mất giá. CEO Ebbers chịu nhiều áp lực từ các ngân hàng buộc phải trang trải các khoản tài chính dành cho những mảng kinh doanh khác. Trong lúc đó, lợi nhuận WorldCom lại bị tác động tiêu cực khi bị buộc phải từ bỏ thương vụ Sprint.

Trong năm 2001, Ebbers đã thuyết phục ban giám đốc WorldCom cung cấp cho ông các khoản vay và bảo đảm có tổng trị giá hơn 400 triệu USD. Tháng 4-2002, Ebbers mất chức CEO. WorldCom cũng nợ đến 41 tỷ USD từ các vụ thôn tính rầm rộ, mà các chủ nợ lớn nhất bao gồm những đại gia ngân hàng như JPMorgan Trust (17,2 tỷ USD), Mellon Bank (6,6 tỷ USD), CitiBank (3,3 tỷ USD).

Worldcom - ông trùm viễn thông và vụ bê bối tài chính gây chấn động nước mỹ - Hình 1

Bắt đầu từ năm 1999 kéo dài tới tháng 5-2002, WorldCom đã dùng những phương pháp kế toán mờ ám để che giấu tình trạng tài chính suy yếu, giả tạo tăng trưởng tài chính và lợi nhuận nhằm nâng giá cổ phiếu. Tháng 6-2002, ban kiểm toán nội bộ WorldCom phát hiện che giấu khoản chi phí 3,8 tỷ USD kể từ năm 2001, đồng thời, lợi nhuận 1,4 tỷ USD năm 2001 và 130 triệu USD trong quý I-2002 đều là báo cáo sai.

Giám đốc Tài chính Scott D. Sullivan bị sa thải. Ủy ban Chứng khoán và Hối đoái (SEC) buộc tội WorldCom gian lận và Bộ Tư pháp bắt đầu một cuộc điều tra hình sự các hành vi của WorldCom.

Trong khi đó, Công ty Arthur Andersen kiểm toán cho WorldCom (và cả Enron) cho biết khi Andersen phát hiện các chi phí đã được báo cáo láo thành vốn đầu tư, Andersen đã báo động cho ban kiểm toán nội bộ của WorldCom rằng báo cáo tài chính 2001 không đáng tin cậy, Andersen có đủ sổ sách chứng tỏ mình minh bạch trong vụ bê bối này.

Giá trị cổ phiếu WorldCom từ đỉnh 63,5USD/cổ phiếu vào ngày 18-6-1999 đã lao dốc xuống 6,74USD/cổ phiếu và tiếp tục giảm chỉ còn 20 cent cho đến ngày WorldCom tuyên bố phá sản. WorldCom đêm 21-7-2002 đã nộp hồ sơ phá sản. Hồ sơ WorldCom liệt kê hơn 107 tỷ USD tài sản, vượt xa Enron (Những vụ án kinh tế chấn động - Kỳ 2), lập kỷ lục vụ phá sản lớn nhất trong lịch sử Hoa Kỳ tính đến thời điểm đó. Việc nộp đơn của WorldCom đã được dự báo từ khi công ty thừa nhận vào cuối tháng 6 rằng họ đã gian lận hơn 3,8 tỷ USD.

Các cổ đông WorldCom từ chỗ sở hữu một trong những công ty lớn nhất thế giới với vốn hóa thị trường 180 tỷ USD ở thời kỳ đỉnh cao bỗng chốc gần như trắng tay. Quyền kiểm soát WorldCom về tay các ngân hàng và trái chủ. WorldCom sụp đổ đã khiến các thị trường tài chính hoảng hốt, gây chấn động nền kinh tế rộng lớn hơn, các ngân hàng, nhà cung cấp và các công ty điện thoại khác phải đề ra các chiến lược để đối phó.

Năm 2003, WorldCom đổi tên thành MCI, và hoàn tất thủ tục phá sản 1 năm sau đó. Ngày 13-7-2005, cựu CEO Bernie Ebbers bị tuyên án 25 năm tù giam với tội danh lừa đảo chứng khoán, gian lận sổ sách. Liên quan đến vụ bê bối gian lận ở WorldCom, nhiều cựu lãnh đạo khác của WorldCom như CFO Sullivan, kiểm soát viên David Myers, Giám đốc Kế toán Buford Yates... cũng bị buộc tội hình sự.

Ngoài tổn thất cho công ty, vụ bê bối WorldCom xói mòn niềm tin vào thực lực tài chính của các công ty lớn, khiến hàng triệu người chùn tay đầu tư, làm kinh tế Hoa Kỳ thiệt hại nhiều tỷ USD.

Theo người thành công, cafeland

Nhà tiên tri nổi tiếng thế giới Nostradamus dự báo về năm 2020 Nhà tiên tri nổi tiếng thế giới Nostradamus dự báo về năm 2020Từ khủng hoảng kinh tế, trượt dốc chính trị - xã hội đến quan điểm về nhu cầu thanh lọc và cân bằng lại Trái đất dẫn đến bão, lũ lụt, động đất và phun trào núi lửa. Nostradamus đã nhắc đến việc năm 2020 sẽ là một kỷ nguyên mới bắt đầu, cả về mặt thời gian cũng như thực tế. Theo...

Từ khóa » Enron Bê Bối