Bé Cái Lầm - Saigon Ocean

Bé Cái Lm

Li Th Mơ

Khi dân Bắc Kỳ bảo bé cái lầm, tức là cái lầm của bạn không có gì ghê gớm, cái lầm kiểu trông gà hóa cuốc. Chứ không phải cái lầm mà nhạc sĩ Lam Phương đã phải rên rỉ: tôi đã lầm đưa em qua đây, nghe não nề ảo não.

Lầm đường lạc lối đưa cả dân tộc đến chỗ lầm than, lại không phải là bé cái lầm. Chẳng hiểu tại sao người ta bảo bé cái lầm đồng nghĩa với tưởng bở. Đáng lẽ phải nói là tưởng chắc mới đúng, vì chắc thì bền, còn bở thì dĩ nhiên là dễ bể, không chắc.

Cũng như các anh chàng trồng cây si, ráng kiên nhẫn, khi thấy người mình yêu còn bé bỏng, chưa tỏ tình được:

- Thương em chín đợi mười chờ (năm)

- Tới năm mười một, em phát lờ anh (đi)

Vừa toi công dã tràng, mà còn bị hứ “đũa mốc đòi chòi mâm son”. Anh đã bị bé cái lầm, tưởng ráng làm tò vò, o bế cô em nhện bé bỏng. Nào ngờ nhện bỏ nhện đi. Tò vò ngồi khóc tỉ tê. Nhện ơi! nhện hỡi nhện đi đường nào?

Còn cái vụ thương thầm nhớ trộm, bị tẽn tò, bé cái lầm vô cùng “nghiêm trọng” trong văn chương VN, ai cũng biết đó là chuyện Trương Chi Mị Nương.

Trương Chi nhà nghèo, kiếm ăn và sinh sống ở ven sông. Chàng có biệt tài thổi sáo, đêm đêm tiếng sáo của chàng vẳng tới lầu son của công chúa Mị Nương. Tiếng sáo du dương, réo rắt trầm bổng của anh chàng đánh cá, đã làm công chúa tương tư mơ mộng. Cô tưởng tượng ra hình ảnh một chàng trai tuấn tú, đẹp như tiếng sáo tuyệt vời, đêm đêm đưa cô vào chốn thiên thai. Cô thầm yêu trộm nhớ nên sầu cảm tương tư, thương nhớ đêm ngày. Công chúa sống trong lầu son gác tía, chẳng hề tiếp xúc với bên ngoài. Tiếng sáo réo rắt đã làm trí tưởng tượng đưa cô đến mơ mộng. Một chàng trai tuấn kiệt với tiếng sáo thiên thai. Cô chẳng hề biết Trương Chi có khuôn mặt gớm ghiếc, cuộc sống bần hàn, chỉ biết gởi lòng vào tiếng sáo.

Người ta thường nói “trâu đi tìm cột”, ý nói con gái không bao giờ dám thú nhận lòng mình, mà phải đợi con trai nói trước! Bởi vậy mới có bản nhạc “nụ tầm xuân”.Sao anh không  hỏi những ngày còn không. Ngày xưa con gái đi lấy chồng vì gia phong lễ giáo,cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy, chứ không yêu, trong bài thơ “hai sắc hoa ti- gôn” của TTKh là lời than thở não lòng của người con gái không lấy được người mình yêu:

- Tôi vẫn đi bên cạnh cuộc đời

- Ái ân lạnh lẽo của chồng tôi

- Và từng Thu chết từng Thu chết

- Vẫn giấu trong tim bóng một người

Cô Mị Nương không thể giấu trong tim được. Nhưng  sợ mang tiếng “cột đi tìm trâu”. Cô trở nên âu sầu ủ rũ, cuối cùng vua cha cũng biết,vua đành phải mang Trương Chi đến cho cô gặp người trong mộng.

Tạo hóa trớ trêu thay, khi xưa khi chưa gặp Mị Nương, chàng Trương chỉ biết gởi lòng mình vào tiếng sáo. Chàng chưa hề yêu ai, cho tới khi thấy được công chúa. Thật bẽ bàng, bây giờ Trương Chi chính là người thất tình. Mị Nương đã hoàn toàn tỉnh mộng, quên hẳn khúc tương cầu.Từ đây thơ văn có thêm nhiều bản nhạc than thở cho chàng trai bạc phận. Những lời than trách thê lương:

-  Óan trách cuộc từ ly não nùng (Trương Chi- Văn Cao).

- Thôi đành từ đây giòng sông này vắng ta (Hận Trương Chi -  Hùng Lân).

Từ lâu ai cũng đổ tội cho các sư trẻ tâm chưa thanh tịnh, họ chế giễu :

- Ba cô đội gạo lên chùa

- Một cô yếm thắm bỏ bùa cho sư

- Sư về sư ốm tương tư

-  Ốm lăn ốm lóc cho sư trọc đầu.

Bé cái lầm, chính cái cô yếm thắm đó, thấy sư đẹp trai mà đi tu uổng quá. Cô về ốm lăn ốm lóc, rồi tự tưởng tượng sư yêu mình. Sư có biết gì đâu.

Sư đã trọc đầu trước khi cô lên chùa!

Văn thơ nhạc họa là chất xúc tác mạnh nhất cho trí tưởng tượng. Đó là món ăn tinh thần không thể thiếu trong cuộc sống con người. Vì thế khi ngắm nhìn những tia sáng đom đóm lập loè trong đêm tối, bạn có thể tưởng tượng lãng mạn về bất kỳ cái gì nên thơ. Nhưng đừng tìm cách bắt những con đom đóm giữ cho riêng mình. Vì chúng sẽ hiện rõ hình ảnh trần trụi: chỉ là những con sâu xấu xí.

Ánh sáng phát ra từ đom đóm là thơ văn, con sâu là hình ảnh thật của con người bằng da bằng thịt. Sự thật sẽ giết chết tất cả ước mơ, sẽ làm cuộc sống bạn khô cằn.

Thi sĩ Xuân Diệu là một minh chứng. Sau năm 75, một người ở Sàigon rất ngưỡng mộ thơ văn của thi sĩ, đã mời ông vào chơi và tiếp đãi rất lịch sự. Than ôi, Xuân Diệu ăn uống ngồm ngoàm, hồ hộc như chết đói lâu ngày. Ăn đến quên nói chuyện với gia chủ. Ăn xong lên ván ngủ khò và ngáy như Trư bát Giới! (Văn nghệ sĩ miền Bắc như tôi biết - Xuân Vũ).

Con người thật của Xuân Diệu là một trường hợp bé cái lầm như công chúa Mị Nương,  phần thua thiệt mang đến cho bạn: mất đi một người ngưỡng mộ, tức là mất món ăn tinh thần.Yêu thơ thì cứ thưởng thức thơ, đừng tìm hiểu cuộc sống đời thường của nhà thơ, để rồi thất vọng.

Ngày xưa trong xóm tôi có ông Tư sinh nhai bằng chạy xe xích lô máy. Ông đi chở hàng cho các bà bán rau ở chợ Cầu Muối. Mỗi sáng sớm tiếng xe nổ đinh tai nhiếc óc hàng xóm. Đến trưa hết chạy xe là tới giờ ông kéo đàn violon. Tiếng đàn của ông nghe não nuột thê lương, mà mẹ tôi thường nói “như kèn thổi đám ma”.

Quả thật tôi không hề biết, ông lại còn có tài làm thơ. Ông chính là thi sĩ Tơ Vương, người mà con bạn của tôi mê mẩn. Nó nắn nót chép thơ của thi sĩ ái mộ vào một cuốn sổ màu tím.Dùng bút mực tím, vì nó bảo trong các mầu: tím là mầu của thơ văn, còn các màu khác là màu của đời thường. Tôi nghe nó nói thì cũng ừ hử, vì tôi cũng chẳng biết đời thơ và đời thường khác nhau chỗ nào.

Cho đến một ngày, tôi nghe có tiếng quát tháo ầm ĩ từ nhà ông Tư. Bà vợ của ông vừa hét vừa xé quăng ra cửa bao nhiêu là giấy vụn. Bà gầm lên như một con sư tử, còn ông thì im thin thít trước cơn thịnh nộ của bà chằng.

Lúc đó tôi mới vỡ lẽ, ông chính là thi sĩ Tơ Vương mà con bạn tôi ái mộ. Thơ xanh thơ hồng của các bà các cô gởi về tới tấp. Họ cảm thương cho người bị tình phụ, anh biết em đi chẳng trở về như trong thơ ông than thở.

Bao nhiêu cánh nhạn sẵn sàng xin kề gối mộng cho thi nhân lẻ bóng.Thơ bốn phương gởi về tới tấp, bà vợ vốn buôn bán hàng xén ngoài chợ. Bình thường để tiết kiệm tiền, bà dùng những lá thư hồng thư xanh đó để gói tôm khô. Có lẽ sự nghiệp thơ văn của ông đã đến lúc lụi tàn, mới xui khiến hôm đó chợ ế. Bà tò mò ngồi tẩn mẩn mang một tờ ra đọc và tức tốc dọn hàng về, hỏi tội ông chồng đã gieo tiếng xấu cho bà: bỏ nhà theo trai. Dù ông hết sức phân bua: chỉ là thơ thôi mà.

Cả xóm đã chứng kiến một cảnh cười ra nước mắt. Người trong xóm đã đổi tên ông Tư thành ông .

Còn tôi thì không dám hé môi, khi bạn tôi cứ thắc mắc về sự biến mất không kèn không trống của nhà thơ ngưỡng mộ.

Bé cái lầm cũng được nhắc nhở trong ca dao tục ngữ của cha ông chúng ta:

- Chớ thấy áo rách mà cười

-  Những giống gà nòi, lông nó lưa thưa.

Hoặc:

- Nực cười châu chấu đá xe

- Tưởng rằng chấu ngã, ai ngờ xe nghiêng.

Với sự bùng phát của technology thời nay, mọi thứ hư hư thực thực người ta post lên FB, đã khiến không biết bao nhiêu người bé cái lầm, cắt dán ghép hình loạn xạ, tới khi gặp mặt thì hỡi ơi. Rồi tới phong trào chuyển giới ở VN cũng là đề tài cho rất nhiều chuyện cười ra nước mắt. Chồng mới cưới, chỉ tấm hình của một thanh niên treo trong phòng, hỏi cô dâu “anh của em hả?”. Câu trả lời “không, đó là em ngày xưa”, đã làm cho người chồng hụt hẫng.

Ngoài lãnh vực thơ văn, trong đời thường cảnh trông gà hóa cuốc đầy rẫy khắp nơi. Nhất là mua bất kỳ thứ gì của mấy chú Ba...Tàu. Mua made in China về, bạn tưởng chắc (ăn) vì giá quá rẻ, quá hời. Đừng tưởng bở, dù giá chỉ 1 xu, bạn cũng đã mất 1xu. Tất cả hàng hóa made in China đều cùng được sản xuất từ công ty Qui đăng, tức là quăng đi.

Và cái bé cái lầm cuối cùng, là khi bạn đọc bài này. Bạn tưởng nó cũng dài dài, ai dè nó cụt ngủn. Trăm nghe không bằng mắt thấy. Đọc xong mới mình cũng bị bé cái lầm. Xin hãy qui đăng .

Bắc Kỳ thì nói lôi thôi dông dài bé cái lầm. Lại chẳng giải thích tại sao gọi như thế.

Riêng Nam Kỳ đơn sơ mộc mạc, khi biết không đúng như mình nghĩ. Họ chỉ kêu lên “ủa! dzậy hả”, chèng đéc ơi!

Lại Thị Mơ

Từ khóa » Cái Lam