Bệnh Giun Chỉ Bạch Huyết - Viện Sốt Rét

I. Đại cương

Bệnh giun chỉ bạch huyết hay còn được gọi là bệnh phù chân voi, là một bệnh nhiệt đới bị lãng quên (Neglected tropical disease - NTD), làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe cộng đồng ở nhiều quốc gia nhiệt đới và cận nhiệt đới trên thế giới.

Ở nước ta, bệnh giun chỉ bạch huyết thường gặp ở một số vùng. Sự lưu hành bệnh giun chỉ phụ thuộc vào mật độ ấu trùng giun chỉ trong máu người bệnh. Triệu chứng lâm sàng thường khó phát hiện trong giai đoạn đầu của bệnh.

Bệnh giun chỉ bạch huyết là một căn bệnh gây ra đau đớn và biến dạng nặng. Trong khi nhiễm bệnh thường xuất hiện lúc nhỏ, nhưng các biểu hiện có thể nhìn thấy rõ sau này trong cuộc đời. Bệnh gây ra tình trạng khuyết tật tạm thời hoặc vĩnh viễn.

Bệnh giun chỉ bạch huyết thực tế khó chẩn đoán trên lâm sàng ở giai đoạn đầu. Trường hợp bệnh nhân sống trong vùng bệnh lưu hành, có triệu chứng phù voi, tiểu ra dưỡng trấp thì chẩn đoán dễ dàng hơn. Đối với người sống ngoài vùng lưu hành bệnh, việc chẩn đoán lâm sàng gặp nhiều hạn chế. Vì vậy phải căn cứ vào kết quả xét nghiệm phát hiện ấu trùng giun chỉ.

Lịch sử phát hiện các loài giun chỉ bạch huyết: Wuchereria bancrofti (Cobbold, 1877), Brugia malayi (Brug, 1927), Brugia timori (Partono, Atmosoedjomo, Demijati và Cross, 1977)[1].

Giun chỉ bạch huyết là một bệnh nhiễm ký sinh trùng Wuchereria bancrofti, Brugia malayi hoặc Brugia timori. Ở Việt Nam chỉ gặp 2 loại là Wuchereria bancrofti và Brugia malayi, trong đó Brugia malayi chiếm đa số (trên 90%)[1].

Loài ký sinh trùng này được truyền từ người này sang người khác qua vector trung gian là muỗi, chúng nhiễm phải ấu trùng giun chỉ khi đốt người, ký sinh trùng khi đó sẽ xâm nhập vào trong da và từ đó chúng đi vào cơ thể con người, tiếp đó ấu trùng di chuyển vào hệ bạch huyết, ở đó chúng phát triển thành giun trưởng thành trong hệ thống bạch huyết của người, người là ký chủ vĩnh viễn.

II. Đặc điểm sinh học

1. Giun trưởng thành

Giun chỉ bạch huyết khi trưởng thành đều có hình dạng rất giống nhau, trông như sợi chỉ trắng sữa. Con cái kích thước 25 - 100 mm, con đực kích thước: 13 - 40 mm. Giun thường cuộn lại với nhau như đám chỉ rối trong hệ bạch huyết[1].

Miệng giun chỉ cấu tạo đơn giản, bao miệng không rõ ràng, thực quản có hình ống. Giun chỉ có các cơ quan tiêu hóa, tuần hoàn, sinh dục, thần kinh. Giun đực có hai gai giao phối, giun cái có tử cung chiếm phần lớn thân, trong có nhiều bọc chứa ấu trùng. Giun cái đẻ ra ấu trùng gọi là phôi giun chỉ[1].

Giun trưởng thành W.bancrofti. Con đực ở bên trái; con cái ở bên phải (nguồn CDC)

2. Ấu trùng giun chỉ

Ấu trùng của giun chỉ Wuchereria bancrofti có kích thước 261 - 305 x 4 - 10mm, có lớp bao bên ngoài, các nhân được trải dài trong thân của phôi nhưng phần đuôi không có nhân. Phôi giun chỉ xuất hiện trong máu ký chủ sau khi nhiễm khoảng vài tháng. Thời gian trung bình để phát hiện phôi giun chỉ Wuchereria bancrofti trong máu là khoảng một năm sau khi nhiễm[1].

Ấu trùng Brugia malayi có kích thước180 - 230 mm, có bao bên ngoài, các nhân bên trong trải dài khắp thân và đoạn cuối thân có hai nhân[1].

Từ khóa » Giun Chỉ Là Thuốc Gì