Bệnh Parvovirus ở Chó

Do một loại virus có tên Canine par-vovirus (CPV) gây ra năm 1978. Trong những năm qua, Parvovirus chó đã đột biến thành hai chủng khác nhau và có bằng chứng của một hiện chủng thứ ba tại Ý, Tây Ban Nha và Việt Nam. Hiện tại, chủng gây bệnh phổ biến nhất toàn thế giới là CPV-2b.

Biểu hiện quan trọng viêm ruột xuất huyết gây tiêu chảy phân có lẫn máu, niêm mạc đường tiêu hóa và viêm cơ tim.

Mục Lục

  • 1 Đặc điểm
  • 2 Cách lây lan và sinh bệnh
  • 3 Các thể bệnh và triệu chứng
    • 3.1 Thể tim
    • 3.2 Thể đường ruột
  • 4 Chẩn đoán
  • 5 Điều trị
  • 6 Ví dụ
  • 7 Phòng bệnh
  • 8 Các Bài Viết Liên Quan

Đặc điểm

Chó trên 6 tháng tuổi thường có một đề kháng tự nhiên với Parvovirus. Nhiều con trong số này chỉ biểu hiện tiêu chảy thoáng qua.

Chó 1-2 năm tuổi có thể bị bệnh nhưng thường rất nhẹ và thường không đáng chú ý.

Một lý do không rõ, Doberman Pinchers, Rottweilers… thường dễ suy sụp bởi bệnh này.

Cách lây lan và sinh bệnh

Virus này tồn tại trên quần áo, thức ăn, sàn nhà, lồng nuôi có thể đến 5 tháng và lâu hơn trong các điều kiện thuận lợi. Nên việc vuốt ve cũng là một nguy cơ lớn để bệnh lây lan.

Côn trùng và động vật gặm nhấm cũng có thể là nguyên nhân truyền bệnh đóng vai trò quan trọng. Sự lây lan bệnh qua đường ruột là chủ yếu do con vật nuốt phải mầm bệnh. Số lượng virus nhiễm vào cơ thể cũng rất cần thiết, đó cũng là một yếu tố để gây bệnh lâm sàng. Việc tiếp xúc với chó mang virus ở tần số và cường độ cao cũng làm tăng khả năng mắc bệnh này.

Ban đầu virus cư trú trong các mô bạch huyết ở cổ họng, từ đó vào máu. Các triệu chứng ở đường ruột xảy ra khi virus tấn công tủy xương, nhanh chóng phân chia tế bào và cư trú trong đường ruột và các hạch bạch huyết, gây tổn thương và hoại tử tế bào.

Quý khách có nhu cầu sử dụng các dịch vụ cho chó con có thể tham khảo các dịch vụ sau:

  1. đỡ đẻ & mổ đẻ cho chó mèo
  2. tiêm phòng cho chó mèo
  3. bảng giá thú y
  4. triệt sản cho chó mèo
  5. cấp cứu chó mèo
  6. siêu âm chó mèo
  7. chữa ghẻ viêm da chó mèo

Các thể bệnh và triệu chứng

Triệu  chứng  thường  biếu  hiện  trong  vòng  3-10  ngày  kể  từ ngày nhiễm bệnh. Bao gồm: mệt mỏi, ủ rũ, bỏ ăn, nôn mửa, sốt và các triệu chứng điển hình của mỗi thể bệnh.

Thể tim

Các mẫu tim bị nhiễm trùng thường được tìm thấy trong chó đang bị nhiễm bệnh hoặc chó con ngay sau khi sinh. Đây là hình thức của bệnh rất ít phổ biến so với thể đường ruột. Bệnh thường rất nặng, làm viêm và hoại tử cơ tim gây khó thở và chết non (<8 tuần) của chó. Chó con tồn tại được sẽ có sẹo trong cơ tim.Thể bệnh này có thể hoặc không đi kèm với các dấu hiệu và triệu chứng của thể đường ruột. Tuy nhiên thể này bây giờ đã hiếm thấy trên thế giới.

Thể đường ruột

Virus phân chia trong các tế bào biểu mô ruột, gây hoại tử bong tróc các tế bào niêm mạc vì thế gây tiêu chảy – xuất huyết. Niêm mạc thường theo phân ra ngoài, hợp lại với các chất khác tạo ra một mùi hôi tanh khó chịu. Điều này có thể để mở cửa cho nhiễm trùng thứ cấp khi các vi khuẩn đường ruột như Salmonella, C. perfringens, E. coli, Campylobacter, coronavirrus và các ký sinh trùng khác có thể xâm nhập vào mạch máu nhiều hơn qua những vùng niêm mạc bị bong tróc, để bắt đầu một quá trình nhiễm trùng thứ cấp nghiêm trọng.

Hầu hết chó bị ảnh hưởng (85%) ở lứa tuổi 6-20 tuần tuổi. Có ý kiến cho rằng tỷ lệ tử vong khoảng 91% và nếu được điều trị đúng mức thì tỷ lệ sống sót có thể đến 80-95%.

Bệnh thường có triệu chứng tiêu chảy nặng gây mất nước, điện giải, máu và nhiễm trùng thứ cấp. Do đó, con vật có biểu hiện vô thần, sụt cân nhanh, đau đớn, shock do mất máu…Chó thường sẽ không chết do virus, nhưng thường chết do nhiễm trùng thứ cấp.

Chẩn đoán

  • Chẩn đoán lâm sàng: chẩn đoán bệnh trước tiên phải là khám lâm sàng, xác định độ tuổi, giống và tình trạng tiêm chủng đề loại trừ.
  • Lấy mẫu phân để làm phản ứng ELISA: các phương pháp ELISA có thể thực hiện ở ngày đầu tiên của bệnh cho đến 3 hoặc 4 ngày sau đó. Các phương pháp ELISA có thể là âm tính giả nếu chạy quá sớm trong quá trình bệnh.
  • Có thể bổ sung việc chẩn đoán máu: Giảm bạch cầu thường biểu hiện trong hầu hết các chó bị bệnh này. Trong đó, giảm bạch cầu là một gợi ý quan trọng. Ngoài ra hạ albumine, natri, kali và clo máu cũng có thể biểu hiện.
  • Có thể bổ sung việc chụp X-quang: radiographs thường giúp phân biệt bệnh với các nguyên nhân khác có ói mửa và tiêu chảy.

Tuy nhiên việc bắt tay vào điều trị ngay từ khi con vật bị nghi ngờ mắc bệnh và chưa có các kết quả về chẩn đoán phi lâm sàng là điều nhất quyết phải làm.

Điều trị

Trên thế giới hiện nay chưa có thuốc đặc trị để loại bỏ virus nên việc điều trị chỉ mang tính giảm triệu chứng, hỗ trợ đề kháng cho con vật bệnh và phòng trị nhiễm trùng thứ cấp. Mục đích cuối cùng của điều trị bệnh này là giúp con vật sống một thời gian đủ để cơ thể của nó tạo ra một phản ứng miễn dịch. Tỷ lệ sống còn phụ thuộc vào sự chẩn đoán đúng và nhanh chóng được điều trị.

  • Nên ngừng cho ăn và uống trong thời gian con vật chưa có dấu hiệu hồi phục. Sau đó cho ăn nhẹ (nếu con vật có thể ăn được), nên cho ăn những thức ăn dễ tiêu như tinh bột, thịt gà… liên tục đến 7-14 ngày sau đó là tốt nhất để giảm bớt tối đa các rủi ro có thể xảy ra.
    • Điều trị ban đầu thông thường là truyền dịch, giúp bù đắp, cân bằng lại nước và chất điện giải, đồng thời bổ sung năng lượng.
    • Ngoài việc truyền dịch, việc chống buồn nôn, chống tiêu chảy, cầm máu và chích thuốc kháng sinh là điều cấp thiết.
    • Việc tiêm kháng huyết thanh chỉ có ý nghĩa khi bệnh đang khởi phát, chống shock do mất máu cũng là điều rất đáng quan tâm.
    • Sự chăm sóc đúng cách sẽ đưa lại tiên lượng tốt hơn, nhưng nếu chăm sóc không hợp lý, chó sẽ chết rất nhanh (môi trường dưỡng bệnh không tốt, tắm khi con vật đang ốm, cho ăn uống không theo chỉ định,…).

    Sự thành công trong điều trị bệnh này phần lớn là do sức sống sức chống chọi với bệnh tật của con vật. Tuy nhiên phần còn lại là do bác sỹ thú y. Ban đầu bác sỹ sẽ đưa ra một phác đồ điều trị phù hợp với từng trường hợp con vật bệnh. Nếu không làm đúng một số nguyên tắc thì đôi khi sẽ làm cho con vật chết nhanh hơn.

    Ví dụ

    • Tiêm các loại kháng sinh dễ gây độc cho con vật trong khi tình trạng mất nước của chúng đang rất trầm trọng. (Nhóm sul-famid, nhóm kháng sinh aminozid (Streptomycin, Gentamycin, Neomycin, Kanamycin..), nhóm cephalosporin: thế hệ 1 (cephalexin, cefalothin, cephazolin, cephadroxil), nhóm polimycin: Colimicin (colistin)…)
    • Sử dụng thuốc trợ tim không đúng chỉ định sẽ làm con vật nhanh chết hơn.
    • Truyền dịch không đủ sẽ không đem lại hiệu quả, truyền không đúng cách sẽ khiến con vật nhanh kiệt sức.
    • Lạm dụng các loại thuốc cầm máu và thuốc giảm co thắt tiết dịch.

    Phòng bệnh

    Hầu hết bác sỹ thú y sẽ yêu cầu các con chó phải tiêm phòng bệnh do parvovirus khoảng tám tuần tuổi. Ở Việt Nam, vaccine này thường có sẵn trong vaccine đa giá. Tiêm nhắc lại sau một tháng và hằng năm.

    Người nuôi chó không nên tiêm phòng bệnh quá sớm cho chó con vì không đủ khả năng để đáp ứng miễn dịch.

    Việc phòng bệnh bằng cách không cho tiếp xúc với mầm bệnh thường không đem lại hiệu quả cao.

    Mong muốn của tôi với người nuôi chó là: nên tiêm phòng cho cún của mình nếu không muốn nó bị chết một cách oan uổng do bệnh truyền nhiễm hoặc điều trị tốn kém khi con vật bị bệnh.

Bệnh Parvovirus ở chó5 (100%) 1 vote

Các Bài Viết Liên Quan

  • Khi nào thì nên tắm cho chó?Khi nào thì nên tắm cho chó?
  • Dịch Vụ chữa bệnh sùi mào gà chó mèo tận nhàDịch Vụ chữa bệnh sùi mào gà chó mèo tận nhà
  • Loạn sản khung xương ở chóLoạn sản khung xương ở chó
  • Bệnh care ở chó (bệnh sài sốt)Bệnh care ở chó (bệnh sài sốt)
  • Thiết kế nhà ở cho cún cưng của bạnThiết kế nhà ở cho cún cưng của bạn
  • Bệnh rận ký sinh ở chó mèoBệnh rận ký sinh ở chó mèo

Từ khóa » Chẩn đoán Bệnh Parvo