Bi Kịch Tinh Thần Của Người Trí Thức Tiểu Tư Sản Trong Sáng Tác Của ...

logo xemtailieu Xemtailieu Tải về Bi kịch tinh thần của người trí thức tiểu tư sản trong sáng tác của nam cao trước cách mạng tháng tám 1945
  • pdf
  • 92 trang
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN BỘ MÔN NGỮ VĂN ………o0o……… NGUYỄN ĐẶNG ÁNH QUYÊN MSSV: 6095810 BI KỊCH TINH THẦN CỦA NGƯỜI TRÍ THỨC TIỂU TƯ SẢN TRONG SÁNG TÁC CỦA NAM CAO TRƯỚC CÁCH MẠNG THÁNG TÁM-1945 Luận văn tốt nghiệp Đại học Ngành cử nhân Ngữ văn Cán bộ hướng dẫn: Ths. HỒ THỊ XUÂN QUỲNH Cần Thơ - 2012 1 ĐỀ CƯƠNG TỔNG QUÁT BI KỊCH TINH THẦN CỦA NGƯỜI TRÍ THỨC TIỂU TƯ SẢN TRONG SÁNG TÁC CỦA NAM CAO TRƯỚC CÁCH MẠNG THÁNG TÁM-1945  A. PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 2. Lịch sử vấn đề 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1 Đối tượng nghiên cứu 3.2 Phạm vi nghiên cứu 4. Mục đích nghiên cứu 5. Đóng góp của đề tài 6. Phương pháp nghiên cứu 7. Cấu trúc luận văn B. PHẦN NỘI DUNG CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG 1.1Vài nét về cuộc đời, sự nghiệp sáng tác của Nam Cao 1.1.1 Vài nét về tác giả 1.1.2 Về sự nghiệp sáng tác của Nam Cao 1.1.2.1 Trước cách mạng tháng Tám 1.1.2.2 Sau cách mạng tháng Tám 1.2 Quan điểm và phong cách nghệ thuật của Nam Cao 1.2.1 Quan điểm nghệ thuật 1.2.2 Phong cách nghệ thuật CHƯƠNG 2: BI KỊCH TINH THẦN CỦA NGƯỜI TRÍ THỨC TIỂU TƯ SẢN TRONG SÁNG TÁC CỦA NAM CAO TRƯỚC CÁCH MẠNG THÁNG TÁM-1945 2.1 Giới thuyết về bi kịch 2.2 Những biểu hiện bi kịch tinh thần của người trí thức tiểu tư sản trong sáng tác của Nam Cao 2.2.1 Bi kịch vỡ mộng 2 2.2.1.1 Nhân vật trí thức tiểu tư sản là những người có nhiều ước mơ, khát vọng tốt đẹp 2.2.1.2 Những ước mơ, khát vọng tốt đẹp của nhân vật trí thức tiểu tư sản đều không thực hiện được 2.2.2 Bi kịch tự ý thức 2.2.2.1 Tự ý thức về nỗi đau khổ 2.2.2.2 Tự ý thức về sự bế tắc 2.2.3 Bi kịch “sống mòn” 2.2.3.1 Nhân vật trí thức tiểu tư sản chấp nhận thực tại đời sống. 2.2.3.2 Nhân vật trí thức tiểu tư sản cố chấp, nhỏ nhen và ích kỷ 2.3 Ý nghĩa ở việc thể hiện bi kịch tinh thần của nhân vật trí thức tiểu tư sản 2.3.1 Ý nghĩa hiện thực 2.3.2 Ý nghĩa nhân đạo CHƯƠNG 3: NHỮNG YẾU TỐ NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN BI KỊCH TINH THẦN CỦA NGƯỜI TRÍ THỨC TIỂU TƯ SẢN 3.1 Ngôn ngữ nghệ thuật 3.1.1 Ngôn ngữ đối thoại 3.1.2 Ngôn ngữ độc thoại nội tâm 3.1.3 Ngôn ngữ nửa trực tiếp 3.2.Kết cấu tâm lý 3.3 Thời gian và không gian nghệ thuật 3.3.1 Thời gian nghệ thuật 3.3.2 Không gian nghệ thuật C. PHẦN KẾT LUẬN TÀI LIỆU THAM KHẢO MỤC LỤC 3 A. PHẦN MỞ ĐẦU 1 Lý do chọn đề tài Nam Cao là một nhà văn lớn của dòng văn học hiện thực phê phán nói riêng và của nền văn học Việt Nam nói chung. Ngòi bút của ông hướng về hai mảng đề tài: cuộc sống người trí thức tiểu tư sản nghèo và cuộc sống người nông dân, với khối lượng truyện ngắn và tiểu thuyết được xem là khá lớn, đặc sắc, độc đáo và đầy ấn tượng, được bạn đọc ngưỡng mộ và rất nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Viết về tầng lớp tiểu tư sản, Nam Cao không chỉ miêu tả sinh động tình cảnh bấp bênh, đói khổ mà chủ yếu đi sâu khám phá những tấn bi kịch tinh thần xót xa đau đớn của họ. Hơn ai hết, Nam Cao thấu hiểu những quằn quại trong nội tâm tư tưởng của con người trí thức tiểu tư sản, diễn ra chân thực đồng thời cố gắng lý giải nguyên nhân của những nỗi bi kịch ấy. Rất nhiều nhân vật trí thức tiểu tư sản trong sáng tác của Nam Cao, ở mức độ khác nhau, mang dáng dấp của chính ông. Thành thực, dũng cảm tự mổ xẻ mình, tầng lớp mình trên những trang viết vừa đau đớn, day dứt vừa thiết tha tâm huyết, điều ấy đã làm nên thành công lớn ở đề tài này của Nam Cao. Nhận ra điều này, người viết đã chọn đề tài “Bi kịch tinh thần của người trí thức tiểu tư sản trong sáng tác Nam Cao trước cách mạng tháng Tám-1945” để nghiên cứu, đi sâu, phân tích, lí giải, một cách hệ thống và toàn diện về vấn đề này. Việc nghiên cứu sẽ giúp tôi có thêm nhiều kinh nghiệm trong việc cảm nhận cũng như phân tích các tác phẩm của Nam Cao 2. Lịch sử vấn đề Có thể nói, Nam Cao là một trong những nhà văn lớn của thế kỉ XX được nhiều người nghiên cứu. Nam Cao xuất hiện trên văn đàn khi các trào lưu văn học đã định hình và phát triển, những cây bút tên tuổi đã được khẳng định và có chỗ đứng vững vàng. Ông đã dám bước chân vào làng văn với những nét của riêng mình. Năm 1952 tác phẩm của Nam Cao đã trở thành đối tượng của khoa 4 văn học với bài “Nam Cao” của Nguyễn Đình Thi in trong Mấy vấn đề văn học – ( NXB Văn nghệ – H 1956), và từ đó đến nay đã có gần 200 công trình, bài viết về Nam Cao được công bố. Tô Hoài đã có những bài viết rất sớm về Nam Cao như Chúng ta mất Nam Cao (1954), Người và tác phẩm Nam Cao (1956) hay Những kỉ niệm Nam Cao (1991) và khẳng định “Nam Cao không che dấu, không màu mè gì hết, nói toạc cái cuộc sống cùng đường tận lối và nhơ nhớp của những người như anh” [4; 141]. Ông khẳng định tác phẩm Nam Cao luôn thể hiện những trải nghiệm từ cuộc sống của tác giả. Khi bàn về bi kịch của người trí thức tiểu tư sản trước cách mạng tháng Tám trong sáng tác của Nam Cao, hầu hết xét về phương diện nghệ thuật các nhà nghiên cứu đều có chung nhận xét: “Nam Cao tỏ ra có sở trường trong miêu tả tâm trạng quá trình diễn biến tâm lý phức tạp của nhân vật, làm nổi bật bi kịch đời thường, bi kịch nhân cách, bi kịch tinh thần của con người” [15; 42] (Bích Thu trong bài Nam Cao về tác phẩm và tác giả ) Hà Minh Đức ngoài Tuyển tập Nam Cao, ông còn có nhiều chuyên luận bàn về nghệ thuật sáng tạo tâm lý của Nam Cao, từ đó thể hiện nỗi niềm trăn trở của Nam Cao về nhân cách con người sống trong xã hội lúc bấy giờ “Nhiều nhân vật trong Nam Cao đã bị cuộc đời làm biến chất. Cuộc sống của họ là những tiếng kêu cho tình trạng cấp cứu của xã hội Nhân vật của Nam Cao có ý thức chống lại mọi trạng thái tha hóa, làm sai lạc bản chất của mình. Phải biết giữ lại một nhân cách tốt lành giữa cảnh sống tầm thường nhỏ nhặt. Phải chống lại mọi buông thả để có trách nhiệm với cuộc sống gia đình và bản thân mình. Ở mỗi nhân vật loại này của Nam Cao luôn có một đường dây chuẩn mực để đối chiếu, so sánh và tự ngẫm lại mình. Ấy là phút giây tỉnh táo trở về của lương tri và ý thức trách nhiệm Tự phân tích, phê phán với nhiều sắc thái khác nhau là một đảm bảo để nhân vật giữ lại được phẩm chất của mình chống lại mọi sự biến chất, tha hóa” [16; 75 – 76 – 77]. Lấy ví dụ như trong bài Nam Cao- Nhà văn hiện thực xuất sắc một công trình nghiên cứu khá dày dặn về các sáng tác của Nam Cao, nhà nghiên cứu phê bình văn học Hà Minh Đức đánh giá cao Sống mòn với nhận định: trong văn học công khai giai đoạn 1930- 5 1945, “Sống mòn” là một trong những tác phẩm có giá trị nhất. Ông đi phân tích về quá trình tâm lý của nhân vật Thứ và thấy được vai trò của nó trong việc thể hiện tư tưởng chủ đề của tác phẩm. Ông đánh giá Nam Cao là người có hướng đi riêng trong cách tiếp cận và phản ánh hiện thực: “Tìm tòi trong những chuyện bình thường hàng ngày ý nghĩa sâu xa của đời sống và gợi lên bên trong phần lặng lẽ nghiêm ngặt của hiện thực một cái gì sôi nổi nồng cháy”[15;171]. Ta cũng không nên bỏ qua công trình nghiên cứu của nhà phê bình Phong Lê. Hơn ba mươi năm nghiên cứu về Nam Cao, nhưng ông vẫn khiêm tốn coi các công trình của mình chỉ là Phác thảo sự nghiệp và chân dung của Nam Cao. Ông tiếp cận tác phẩm Nam Cao từ nhiều góc độ như: Nam Cao kết thúc vẻ vang phong trào văn học hiện thực, Người trí thức kiểu Nam Cao chiến thắng của chủ nghĩa hiện thực, qua đó Phong Lê đã nêu lên được mối liên quan giữa cái tôi của nhà văn Nam Cao và xã hội lúc bấy giờ “Nam Cao đã trãi nghiệm những tình huống có thể xem như là bi kịch. Một bi kịch lớn mà Nam Cao đã nhiều dịp tìm cách thể hiện trên khắp thế giới nhân vật của mình. Qua những Thứ, Hộ, Điền…Những gã hắn, y…Và trước hết qua “tôi”, kẻ đứng ngôi thứ nhất ở nhiều tình huống truyện.”[12;9] Phong Lê là người đầu tiên giới thiệu “Sống mòn” trong bài Sống mòn và tâm sự của Nam Cao in trong Tạp chí văn học số 9/1968, ông đã nêu ra nhận xét về kiểu nhân vật trong tiểu thuyết của Nam Cao: “Nam Cao xác nhận một cách đau đớn bi kịch con người trí thức tiểu tư sản. Ở đây không có cái nhìn ảo tưởng, tô vẽ về họ như một số nhà văn khác cùng thời. Nam Cao đã vẽ đúng hình ảnh họ và đặt họ đúng vào vị trí của họ trong đời (…) trong Sống mòn không còn bóng dáng nhân vật nào có thể được xem là nhân vật chính diện thật sự”[12;36]. Ông cũng đã nhận ra “sự han gỉ trong tâm hồn một lớp người trí thức tiểu tư sản”, biểu hiện “một cách nhìn sâu”, cũng là “một cách nhìn dũng cảm”. Về phương diện nội dung thì trong cuốn Nam Cao- một đời người, Lê Tiến Dũng cũng đã từng nhận xét về bi kịch của nhân vật trong sáng tác của 6 Nam Cao hay cũng chính là bi kịch của các nhà văn lúc bấy giờ “Ngòi bút của ông đã run lên với bao xót đau khi viết về những trí thức nghèo của xã hội. Trong số phận của những người trí thức nghèo ta thấy có bóng dáng Nam Cao, bóng dáng cuộc đời ông, bạn bè ông. Đó là bóng dáng của những con người có tài năng, có tâm huyết, có hoài bão và khát vọng cao cả, mà lại thấy mình thừa ra giữa cuộc đời. Đó chính là bi kịch, là nỗi đau tinh thần của người trí thức một thời”[4;24] “ Tiểu thuyết Sống mòn như là một sự tổng hợp về mọi tấn bi kịch tiểu tư sản viết rải rác trên nhiều truyện ngắn của Nam Cao” Đây chính là lời nhận xét của Nguyễn Đăng Mạnh trong bài Nhớ Nam Cao và những bài học của ông. Ngoài ra ông còn cho ta thấy được rằng “Có thể nói mỗi tác phẩm của Nam Cao (viết về anh trí thức tiểu tư sản) là sự hình tượng hóa một cuộc vật lộn bên trong để tự vượt mình về một phương diện nào đó. Trăng sáng, Đời thừa… là cuộc đấu tranh trên quan điểm nghệ thuật. Truyện tình, Quên điều độ… chế giễu thái độ thèm khát hưởng lạc đến mất nhân cách của anh tiểu tư sản nghèo. Nước mắt, Cười, Nhìn người ta sung sướng… vừa thương, vừa giận cái lối sống vô lý của những gia đình tiểu tư sản…..”[14;88] Trong cuốn Nam Cao và khát vọng về một cuộc sống lương thiện xứng đáng của Nguyễn Văn Hạnh đã trình bày “Nam Cao dồn nhiều suy nghĩ, thiện cảm cho những trí thức nghèo….học vấn, hiểu biết càng làm cho họ có ý thức sâu sắc hơn về bi kịch. Bi kịch vì cuộc đời vô vị, không lối thoát của mình. Bi kịch về số phận nghiệt ngã của những người lao động nghèo xung quanh. Bi kịch vì một xã hội bất công, ngang trái, bế tắc” [9;96] Trong bài Sức sống của sự nghiệp văn chương, Bích Thu đã viết “Con người trong tác phẩm của Nam Cao cả nông dân lẫn trí thức tiểu tư sản nghèo không chỉ ôm một nỗi khổ về vật chất mà còn bị lăng nhục một cách tàn nhẫn về tinh thần”[17;30] Từ những cơ sở, nền tảng trên đã giúp cho người viết luận văn một phần nào tìm hiểu sâu sắc hơn về đề tài “Bi kịch tinh thần của người trí thức tiểu tư sản trong sáng tác của Nam Cao trước cách mạng tháng Tám-1945” 7 3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1 Đối tượng nghiên cứu Nam Cao là một nhà văn hiện thực xuất sắc, vì vậy khi nghiên cứu tác phẩm của ông có rất nhiều khía cạnh để nói đến. Nhưng ở đây tôi xin đi nghiên cứu sâu về tấn bi kịch tinh thần của người trí thức trong sáng tác của Nam Cao trước cách mạng tháng Tám và nghệ thuật thể hiện tấn bi kịch ấy. 3.2.Phạm vi nghiên cứu. Nam Cao - nhà văn hiện thực phê phán giai đoạn 1930- 1945. Trong sáng tác của mình Nam Cao đã viết hai đề tài rõ rệt: đề tài nông dân và đề tài tri thức tiểu tư sản, trước cách mạng tháng tám năm 1945. Ở đây tôi chỉ đi vào tìm hiểu đề tài người trí thức tiểu tư sản ở khía cạnh đó là “Bi kịch tinh thần của người trí thức tiểu tư sản trong sáng tác của Nam Cao trước cách mạng tháng Tám1945” Do đó tôi chỉ tiến hành tìm hiểu, phân tích những nhân vật chính, nhân vật trung tâm trong tác phẩm Nam Cao sáng tác trước CMT8/1945 đồng thời tìm hiểu những vấn đề liên quan đến nghệ thuật đã góp phần tạo dựng, khắc họa tấn bi kịch tinh thần của những người trí thức nghèo Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện đề tài để mở rộng vấn đề tôi có thể phân tích, so sánh hình tượng người trí thức trong sáng tác của Nam Cao với hình tượng người trí thức trong sáng tác của một số tác giả khác như: Nguyên Hồng, Thạch Lam….để nội dung vấn đề thêm phong phú, sâu sắc hơn. 4. Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu đề tài này để thấy được cái nhìn của tác giả về cuộc đời, nhận ra cái hay, cái sâu sắc của Nam Cao khi thể hiện những bi kịch tinh thần của người trí thức tiểu tư sản trong tác phẩm. Đồng thời, người viết có thể nhận rõ một nét tiêu biểu trong phong cách sáng tác của Nam Cao. Từ đó đánh giá 8 đúng vai trò của Nam Cao là đã góp phần làm nên sự đa dạng cho nền văn học nước nhà, giúp bổ sung cái nhìn toàn diện về những đặc sắc trong các sáng tác của Nam Cao. Bên cạnh đó nghiên cứu để củng cố kỹ năng phân tích, giúp người viết có thêm kiến thức về nhà văn Nam Cao và các tác phẩm của ông. Ngoài ra nghiên cứu đề tài này cũng giúp phục vụ cho công tác sau này tốt hơn. Đó cũng là tài liệu cho các bạn sinh viên quan tâm đến vấn đề này. 5. Đóng góp đề tài Bi kịch về con người, đặc biệt là bi kịch về tinh thần của người tiểu tư sản trí thức là một mảng nội dung quan trọng trong truyện ngắn của Nam Cao. Nghiên cứu đề tài này sẽ giúp hiểu sâu sắc hơn các tác phẩm của ông. Ngoài ra, đề tài sẽ giúp ích rất nhiều cho công tác giảng dạy sau này, giúp học sinh hiểu được nhiều khía cạnh trong truyện ngắn Nam Cao, tăng cường hiệu quả cảm thụ và phân tích tác phẩm. Bên cạnh đó, đề tài còn góp phần bổ sung cái nhìn toàn diện về những đóng góp của Nam Cao đối với nền văn học dân tộc. Đề tài thành công, có thể là tài liệu hết sức bổ ích cho các bạn sinh viên, học sinh khi cần đi sâu tìm hiểu Nam Cao và các tác phẩm của ông. 6. Phương pháp nghiên cứu Để thực hiện đề tài tiểu luận này, tôi đã sử dụng tổng hợp nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau: Phương pháp thống kê: Với phương pháp này, tác giả luận văn đã tìm kiếm, sưu tầm những tài liệu có liên quan đến đề tài cũng như những công trình nghiên cứu về tác giả về nội dung và nghệ thuật trong truyện ngắn của Nam Cao. Thống kê những truyện ngắn của Nam Cao trước CMT8/1945 viết về đề tài người trí thức. 9 Phương pháp phân tích: trên cơ sở đọc và tìm hiểu nhiều tác phẩm của Nam Cao. Người viết luận văn đã tiến hành phân tích nội dung, nhân vật trong những sáng tác ấy từ đó khái quát lên được nghệ thuật xây dựng tấn bi kịch tinh thần của người tiểu tư sản trí thức trong sáng Phương pháp so sánh đối chiếu: để thấy được nét riêng trong phong cách nghệ thuật của Nam Cao tôi tiến hành so sánh, đối chiếu những bi kịch của người tiểu tư sản trong sáng tác của một số tác giả khác như: Nguyên Hồng, Thạch Lam… Ngoài ra, tôi còn kết hợp thêm các phương pháp chứng minh, phương pháp tổng hợp kết hợp với thi pháp học. 7. Cấu trúc luận văn Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài được triển khai theo ba chương: Chương 1: Những vấn đề chung. Chương 2: Bi kịch tinh thần của người trí thức tiểu tư sản trong sáng tác của Nam Cao trước cách mạng tháng Tám-1945 Chương 3: Những yếu tố nghệ thuật thể hiện bi kịch tinh thần của người trí thức tiểu tư sản. 10 B. PHẦN NỘI DUNG Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG 1.1 Vài nét về cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của Nam Cao 1.1.1 Vài nét về tác giả Nam Cao tên thật là Trần Hữu Tri sinh năm 1915, nhưng theo giấy khai sinh ghi là ngày 29 tháng 10 năm 1917. Quê ông tại làng Đại Hoàng, tổng Cao Đà, huyện Nam Sang, phủ Lí Nhân (nay là xã Hòa Hậu, huyện Lý Nhân, Hà Nam). Ông đã ghép hai chữ của tên tổng và huyện làm bút danh: Nam Cao. Ông xuất thân từ một gia đình Công giáo bậc trung. Thân phụ ông là ông Trần Hữu Huệ, làm nghề thợ mộc và là thầy lang trong làng. Thân mẫu ông là bà Trần Thị Minh, vừa là nội trợ, làm vườn, làm ruộng và dệt vải. Trong gia đình nghèo, đông con, Nam Cao là người duy nhất được học hành tử tế những tưởng thành chỗ dựa cho mọi người về sau. Nhưng cuộc sống đói nghèo và bệnh tật đã đeo đuổi Nam Cao từ khi ông còn nhỏ. Năm 1935, sau kì thi Thành trung bị trượt, Nam Cao vào Sài Gòn kiếm sống sau đó về quê tự học lại và thi đỗ Thành trung. Ông định xin đi làm công chức, nhưng do bệnh tật không được chấp nhận. Nam Cao lên Hà Nội dạy học cho một trường tư thục của một người trong họ mở. Năm 1941, Nhật xâm lược Đông Dương, ngôi trường đó bị đóng cửa. Nam Cao phải sống chật vật bằng nghề viết văn, dạy thuê…..Cuối cùng cũng không thể tồn tại được ở chốn đô thành, Nam Cao đành về quê ăn bám vợ. 11 Tháng 4/1943, Nam Cao gia nhập Hội Văn hóa cứu quốc và là một trong số những thành viên đầu tiên của tổ chức này. Bị khủng bố, ông phải lánh về quê và tham gia Tổng khởi nghĩa tại đó. Năm 1945, Cách mạng tháng Tám thành công. Nam Cao tham gia cướp chính quyền ở phủ Lý Nhân, rồi ông được cử làm Chủ tịch xã của chính quyền mới ở địa phương. Trong công tác, Nam Cao là một người chu đáo, có tránh nhiệm. Sau Cách mạng Tháng Tám, nhiều bạn bè đã nhìn thấy ông làm việc rất hăng say. Khi làm báo, làm việc ở xưởng in bên cạnh anh em công nhân, ở chiến dịch biên giới, hay trong đoàn cán bộ vào vùng địch hậu, người ta như bắt gặp một Nam Cao khác, không phải một Nam Cao rụt rè, nhút nhát, mà một Nam Cao dũng cảm, xông xáo, xung phong đi đầu trong khó khăn. Năm 1946, Nam Cao có mặt trong đoàn quân Nam Tiến vào đến Nam Trung Bộ. Năm 1950 Nam Cao chuyển sang làm việc ở Hội Văn nghệ Việt Nam, làm việc trong toà soạn tạp chí Văn nghệ. Tháng 6, ông thuyết trình về vấn đề ruộng đất trong hội nghị học tập của văn nghệ sĩ, sau đó ông được cử làm Ủy viên tiểu ban văn nghệ của Trung ương Đảng. Trong năm đó, ông tham gia Chiến dịch Biên giới. Tháng 5 năm 1951, Nam Cao và Nguyễn Huy Tưởng về dự Hội nghị văn nghệ Liên khu 3, sau đó hai nhà văn cùng vào công tác khu 4. Nam Cao trở ra tham gia đoàn công tác thuế nông nghiệp, vào vùng địch hậu khu 3. Trên đường đi công tác, ông bị quân Pháp phục kích và bắn chết vào ngày 28 tháng 11 năm 1951 (30 tháng Mười âm lịch), tại Hoàng Đan (Ninh Bình) do bị địch phục kích. Về con người Nam Cao: Bề ngoài, Nam Cao vụng về, ít nói, lạnh lùng, nhưng đời sống nội tâm luôn sục sôi, căng thẳng: ông thường lấy làm xấu hổ 12 những tư tưởng mà ông tự thấy là tầm thường, hèn kém của mình, đồng thời muốn khắc phục những tư tưởng ấy để sống xứng đáng với danh hiệu Con Người. Trong tâm hồn Nam Cao, thường xuyên diễn ra xung đột gay gắt giữa lòng nhân đạo và thói ích kỷ, giữa dũng cảm với hèn nhát, giữa chân thực với giả dối, giữa khát vọng cao cả và dục vọng tầm thường. Nam Cao rất giàu ân tình đối với những người nghèo khổ bị áp bức và bị khinh miệt. Theo ông, không có tình thương với đồng loại thì không đáng được gọi là con người. Những tác phẩm ông viết về người nông dân nghèo là một thiên trữ tình đầy xót thương đối với những kiếp sống lầm than. Nam Cao luôn suy tư về bản thân, cuộc sống, đồng loại từ thực tế mà để rút ra những khái quát triết lí sâu sắc. 1.1.2 Sự nghiệp sáng tác của Nam Cao. 1.2.1.1 Trước cách mạng tháng 8 Đề tài nông dân: Phần lớn những truyện ngắn về đề tài người nông dân của Nam Cao ra đời năm 1940-1945. Cái dấu ấn của thời kì đen tối để lại khá sâu nặng trong các truyện ngắn với chủ đề quen thuộc “ thóc cao gạo kém” con người phải vật lộn để kiếm sống nhưng trong tác phẩm của Nam Cao cái đói như có sức mạnh vô hình quấn chặt lấy họ .Từ “ Nghèo, Một đám cưới, Lão Hạc, Chí Phèo…”, đến “Quái dị,…” ta thấy nhà văn dựng lên một bức tranh chân thực về nông thôn Việt Nam trước 1945 nghèo đói, xơ xác tiêu điều “ Nhà cửa lưa thưa. Toàn những nhà tre úp súp giữa những khu vườn rộng lớn nhưng xấu lắm: Mía đốt như lau hoặc khẳng khiu như chân gà, chuối lè tè như những cây rau diếp ngỗng đến cây ráy cũng không mọc được. Người xấu xí và rách rưới. cái số trẻ con bụng rỏng mắt toét ngoài đường sẵn lắm (Quái dị). Chính hoàn cảnh xã hội ấy đã đẩy người dân lao động đến con đường phá sản, bần cùng, hết sức thê thảm; càng hiền lành, càng nhẫn nhục thì càng bị 13 chà đạp, hắt hủi, bất công, lăng nhục tàn nhẫn; người nông dân bị đẩy vào con đường tha hóa, lưu manh hóa. Nam Cao không hề bôi nhọ người nông dân, trái lại, đã đi sâu vào nội tâm nhân vật để khẳng định nhân phẩm và bản chất lương thiện ngay cả khi bị vùi dập, cướp mất cả nhân hình, nhân tính của người nông dân. Kết án đanh thép cái xã hội tàn bạo đó trước 1945. Thái độ thương cảm, lòng trắc ẩn của ông dành nhiều cho những người cùng khổ, những người “dưới đáy” của xã hội những người hiền lành chất phác, nhưng đời sống quá vất vả, cơ cực, số phận hết sức hẩm hiu (Nghèo, Dì Hảo, Lão Hạc, Một bữa no, Từ ngày mẹ chết, Ở hiền). Một loại nhân vật khác phần lớn cũng từ nông dân lao động nghèo mà ra, nhưng do những hoàn cảnh đặc biệt đưa đẩy, đã trở thành những tay trộm cướp, lưu manh, những con người bị tha hóa, bị què quặt cả về thể xác và tinh thần. Những con người ở bên lề xã hội hay phá phách này, cùng với những người điên, những người câm, những người dị dạng kỳ quặc đủ loại, càng tô đậm thêm bộ mặt cùng quẫn, bế tắc, mất nhân tính của xã hội (Chí Phèo, Đôi móng giò, Lang Rận, Tư cách mõ…) Một số tác phẩm tiêu biểu về đề tài người nông dân trước cách mạng tháng Tám: Chí Phèo, Tư cách mõ, Lão Hạc,….. Đề tài trí thức: Nam Cao miêu tả sâu sắc tấn bi kịch tinh thần của người trí thức nghèo trong xã hội đương thời trước 1945, những "giáo khổ trường tư", những nhà văn nghèo, viên chức nhỏ. Đó là những trí thức có ý thức sâu sắc về giá trị sự sống và nhân phẩm, có hoài bão, tâm huyết và tài năng, muốn xây dựng một sự nghiệp tinh thần cao quý, nhưng lại bị gánh nặng áo cơm và hoàn cảnh xã hội ngột ngạt làm cho "chết mòn", phải sống như "một kẻ vô ích, một người thừa". Thông qua số phận bi đát của người trí thức tiểu tư sản, Nam Cao như gợi lên thực trạng của xã hội thực dân nửa phong kiến ngột ngạt, phi nhân đạo đang bóp nghẹt sự sống và tàn phá tâm hồn con người Với trái tim nhân đạo và cái nhìn bao dung, trong khi miêu tả con người bị đẩy vào tình trạng ngả nghiêng, chao đảo có lúc đã có những hành động tàn 14 nhẫn với những người xung quanh mình, nhân vật của Nam Cao không phải không có lúc, nhưng cuối cùng đều đứng vững trên lập trường nhân đạo, vẫn giữ vững được cái lẽ sống tình thương cao cả của mình.( Mặc dù bế tắc, khổ đau nhưng Hộ trong Đời thừa vẫn không chấp nhận sự tàn nhẫn và không thể vứt bỏ tình thương: “Hắn có thể hi sinh tình yêu, thứ tình yêu vị kỷ đi; nhưng hắn không thể bỏ lòng thương…”) Cuối cùng, Nam Cao thể hiện niềm khát khao một lẽ sống lớn, một cuộc sống sâu sắc, mãnh liệt, có ích, có ý nghĩa. Những con người mang hoài bão lớn hầu như lâm vào cảnh “chết mòn”, nhưng dẫu bị “áo cơm ghì sát đất”, họ vẫn chưa hoàn toàn cạn hết niềm tin, niềm hi vọng, vẫn khao khát được sống, được cống hiến, được phát triển. Nam Cao đòi hỏi để cho mỗi cá nhân được phát triển đến tận độ với một ý thức đầy trách nhiệm và trong mối quan hệ mật thiết với sự phát triển chung của xã hội. Tư tưởng nhân văn mới mẻ và sâu sắc đó chưa từng có trong nền văn học hiện đại Việt Nam trước Cách mạng. Đó là một tư tưởng lớn vượt ra ngoài cả thời đại Nam Cao. Một số tác phẩm tiêu biểu về đề tài tiểu tư sản trí thức: a.Truyện ngắn -Đời thừa (Đăng tiểu thuyết thứ bảy số 490 (4-12-1943)) -Sao lại thế này ( Tiểu thuyết thứ bảy số 457 (26-61943)) -Cười (Tiểu thuyết thứ bảy số 477 (4-9-1943)) với tên truyện là Bực mình sau đổi thành Cười và đăng trong tập chuyện Cười. -Quên điều độ (Tiểu thuyết thứ bảy số478 (11-9-1943)) -Nước mắt (Tiểu thuyết thứ bảy số 488 (20-11-1943)) -Bài học quét nhà (Tiểu thuyết thứ bảy số 473 (7-8-1943)) -Xem bói (Tiểu thuyết thứ bảy số 479 (18-9-1943)) 15 b.Tiểu thuyết -Sống mòn –Viết xong tại Đại Hoàng (1-10-1944). 1.2.1.2 Sau cách mạng tháng 8 Sau cách mạng tháng Tám nhà văn tích cực tham gia vào kháng chiến có sự thay đổi trong quan niệm nghệ thuật và nhìn nhận hướng đi mới cho nhân vật. Những tác phẩm văn chương của Nam Cao đã trở thành những tuyên ngôn nghệ thuật cho giới nghệ sĩ đương thời. Tiêu biểu phải nói đến tác phẩm Đôi mắt. Đọc Đôi mắt ta hiểu ngay vấn đề cách nhìn quần chúng và cuộc kháng chiến khác nhau giữa những người nghệ sĩ có quan điểm lập trường khác nhau, được thể hiện qua Hoàng và Độ là hai nghệ sĩ, hai nhân vật trung tâm của tác phẩm Bằng đôi mắt của mình, Hoàng cảm nhận người nông dân tham gia kháng chiến toàn là những người vừa ngố vừa nhặng xị, hầu hết đều ngu độn, lỗ mãng, ích kỉ. Tất yếu Hoàng không bao giờ tin vào quần chúng nhân dân mà lực lượng chủ yếu là nông dân sẽ đưa cuộc kháng chiến đến thành công. Tuy vậy, anh ta lại tin vào tài năng của cụ Hồ, “cứ cho rằng dân mình có tồi đi nữa. Ông cụ xoay quanh rồi cũng cứ độc lập như thường” điều này chứng tổ bằng cách nhìn phiến diện, Hoàng đã tạo nên một sự đối lập giữa lãnh tụ và quần chúng. Và việc anh “đóng cửa suốt ngày không đi đâu nữa” cũng hoàn toàn có thể giải thích bằng “đôi mắt’’ nói trên. Đối lập với Hoàng là Độ. Trước hết, Độ cũng không thấy ít những điểm yếu của những người nông dân : răng đen, mắt toét, phần đông dốt nát, nheo nhếch, nhác sợ, nhịn nhục một cách đáng thương … Nhưng điều quan trọng hơn, Độ nhìn thấy được nét chủ yếu trong con người họ . Đó là bản chất tốt đẹp của người nhà quê . Theo anh họ có thể làm cách mạng , mà bằng chứng hùng hồn nhất là lúc ra trận, giáp mặt với cái chết, chính anh cũng thấy họ xung 16 phong can đảm lắm . Tin vào sức mạnh của nông dân, cũng có nghĩa là Độ tin vào tương lai của cuộc kháng chiến . Như vậy, bằng truyện ngắn Đôi mắt, Nam Cao đã khắc họa hai cái nhìn khác hẳn nhau. Nhà văn biểu dương “đôi mắt’’ đúng đắn của Độ - người nghệ sĩ gắn sự nghiệp của mình với quần chúng, tích cực tham gia kháng chiến; phê phán “đôi mắt’’ phiến diện, chán nản của Hoàng - một kiểu trí thức ích kỷ, tách mình ra khỏi sự nghiệp chung của dân tộc. Qua đó Nam Cao khẳng định : Nhà văn trước hết phải đứng trên lập trường của người công dân có trách nhiệm với cuộc kháng chiến, phải đặt lợi ích dân tộc lên trên hết, kể cả văn chương nghệthuật, và có cái nhìn mới về người lao động - những con người bình thường nhưng vĩ đại. Đồng thời, nhà văn muốn viết đúng phải có “đôi mắt’’ nhìn nhận đúng; muốn nhìn nhận đúng phải có tấm lòng nhân ái. Truyện ngắn Đôi mắt là đỉnh cao trong sự nghiệp sáng tác của Nam Cao sau cách mạng tháng Tám. Đó là tác phẩm ưu tú của văn học Việt Nam thời kì đầu kháng chiến . Tác phẩm không chỉ đơn thuần phản ánh đôi mắt của cá nhân mà còn lớn hơn, khẳng định vấn đề lập trường quan điểm của văn nghệ sĩ . Điều đó đã nâng tác phẩm lên một tầm cao mới, xứng đáng là bản tuyên ngôn nghệ thuật cho cả một thế hệ nhà văn sau cách mạng tháng Tám-1945 Một số tác phẩm tiêu biểu về người tiểu tư sản trí thức khác trong sáng tác của Nam Cao sau cách mạng tháng Tám-1945 như “Nhật kí ở rừng”, “Đường vô nam”… Trước cách mạng tháng Tám và sau cách mạng tháng Tám-1945 Nam Cao đều có cái nhìn thể hiện thái độ, cảm thông, chia sẻ, trân trọng đối với những nhân vật của mình dù họ là nông dân hay người trí thức 17 1.3 Quan điểm và phong cách nghê thuật 1.3.1 Quan điểm nghệ thuật Trong cuộc đời cầm bút, Nam Cao luôn suy nghĩ về vấn đề Sống và Viết. Thời gian đầu lúc mới cầm bút, chịu ảnh hưởng của văn học lãng mạn đương thời. Dần dần, ông nhận ra thứ văn chương đó xa lạ với đời sống lầm than của người lao động; chính vì vậy, ông đã đoạn tuyệt với nó và tìm đến con đường nghệ thuật hiện thực chủ nghĩa. Tác phẩm Giăng sáng (1942); phê phán thứ văn chương thi vị hóa cuộc sống đen tối, bất công. Đó là thứ "ánh trăng lừa dối". Nam Cao nhận thức nghệ thuật phải gắn bó với đời sống, nhìn thẳng vào sự thật "tàn nhẫn", phải nói lên nỗi khốn khổ, cùng quẫn của nhân dân và vì họ mà lên tiếng. Đời thừa (1943); khẳng định một tác phẩm có giá trị là tác phẩm phải vượt lên trên tất cả các bờ cõi và giới hạn, phải là một tác phẩm chung cho cả loài người. Nó phải chứa đựng được một cái gì lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn, lại vừa phấn khởi; ca tụng tình yêu, bác ái, công bằng. Và "Văn chương không cần đến sự khéo tay, làm theo một cái khuôn mẫu. Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo ra cái gì chưa có". Ông đòi hỏi nhà văn phải có lương tâm, có nhân cách xứng với nghề; và cho rằng sự cẩu thả trong văn chương chẳng những là bất lương mà còn là đê tiện. Và quan niệm nghệ thuật của ông là " Nghệ thuật vị nhân sinh ( nghệ thuật phải viết về con người và hướng đến những điều tốt đẹp của con người); ông phê phán quan niệm " nghệ thuật vị nghệ thuật". Như trong tác phẩm “Trăng sáng” Nam Cao đã bọc lộ rõ về quan niệm nghệ thuật của ông “Chao ôi! Nghệ thuật không cần là ánh trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dối; nghệ thuật có thể chỉ là tiếng đau khổ kia, thoát ra từ những kiếp lầm than…” 18 Sau 1945, tham gia kháng chiến chống Pháp, sẵn sàng hy sinh thứ nghệ thuật cao siêu với ý nghĩ: lợi ích dân tộc là trên hết. Nhật ký Ở rừng (1948) - là tác phẩm có giá trị của văn xuôi thời kỳ đầu kháng chiến chống Pháp, thể hiện quan niệm "sống đã rồi hãy viết" và "góp sức vào công việc không nghệ thuật lúc này là chính để sửa soạn cho tôi một nghệ thuật cao hơn". 1.3.2 Phong cách nghệ thuật Mỗi nhà văn có một hoàn cảnh sống, có những tâm tư ước vọng riêng, một tâm tính riêng. Tất cả những yếu tố đó góp phần tạo nên phong cách truyện ngắn Nam Cao. Nhưng yếu tố trực tiếp tạo nên phong cách, bút pháp chính là quan điểm nghệ thuật của nhà văn. Nguyễn Khải đã nhận xét về Nam Cao như sau: “ Đó là một nhà văn chân chính , phải sống và làm việc như con người ấy”. Còn Hà Minh Đức cũng khẳng định “Sáng tác của Nam Cao giàu sức khám phá sáng tạo với phong cách độc đáo”. Nam Cao được coi là đại diện của văn học hiện thực phê phán trong giai đoạn cuối. Điều đó càng chứng minh rằng chính ông là người đã hoàn chỉnh bức tranh của văn học hiện thực cả về mặt phản ánh xã hội cũng như khả năng biểu hiện nghệ thuật. Trước Nam Cao có một Vũ Trọng Phụng tả chân sắc sảo, một Nguyễn Công Hoan trào phúng đôi khi pha chút kịch hề, một Thạch Lam trầm lặng, tinh tế, và cùng thời với ông là một Tô Hoài thiên về những nét sinh hoạt phong tục. Ông góp vào đấy một phong cách riêng, một chất giọng riêng. Có thể nói phong cách Nam Cao được định hình từ rất sớm và mang những đặc điểm riêng biệt. Một trong những đặc điểm đầu tiên phải kể đến là: Ông thường đề cao con người tư tưởng, đặc biệt chú ý tới hoạt động bên trong của con người, coi đó là nguyên nhân của những hoạt động bên ngoài – Đây là phong cách rất độc đáo của Nam Cao. Quan tâm tới đời sống tinh thần của con người, luôn hứng thú khám phá "con người trong con người". Về mặt ngôn ngữ, Nam Cao thường viết những câu rất ngắn cộc giọng đặc sệt miền Bắc, và dường như không thể rút ngắn hơn. Chẳng hạn: 19 “Chà! Thích quá!... Giàu bạc vạn! Hắn ra về hể hả. Bụng chắc không đói nữa. Người hắn không mệt nữa. Ảo tưởng lóa mắt hắn... (Xem bói). Ngay cả khi viết câu dài, những câu ấy cũng được ngắt vụn ra. Câu ngắn làm cho mạch văn đi nhanh, giọng văn đanh lại. Đọc Nam Cao ít khi gặp giọng văn mềm mỏng, âu yếm. Ngay cả lúc diễn tả nỗi đau thương hay cảnh ngọt ngào, câu văn, giọng văn Nam Cao cũng cộc như vậy “ Thế là xong. Anh chết rồi đấy nhỉ? Không lẻ tôi lại vui khi được một cái tin như thế. Nhưng tôi cũng không biết có nên buồn không đấy, có người bảo sống khổ đến”. Chúng ta tưởng như Nam Cao không có tình cảm, hay mọi thứ tình cảm điều bị khô kiệt chỉ còn lại cái chất suy nghĩ khô khốc của lý trí. Câu văn của Nam Cao khô khốc gần như bốp chát. Điều này đã làm nên chất giọng riêng của Nam Cao. Trước hết là cái giọng “nói chan chát như bâm, như bổ vào mặt người ta”. Đôi khi ngôn ngữ Nam Cao trở nên tàn nhẫn vầ khắc nghiệt. Hãy nghe Nam Cao diễn tả tình yêu “Từ yêu chồng bằng một thứ tình yêu rất gần với tình yêu rất gần với tình yêu của một con chó đối với người nuôi” ( Đời thừa). Ông diễn tả tính hiền lành: “Bao giờ Nhi chả dễ bảo như một con chó xiếc” (Ở hiền), diễn tả nỗi đau của người phụ nữ khi tình nhân chết: “ và khi trông thấy tình nhân, mụ rú lên. Mụ vật vã người, rống lên như một con chó chưa quen xích” (Lang Rận). Chất giọng Nam Cao, trong khi “ nói tạc ra”, trong khi “ băm bổ” vẫn hàm chứa những yếu tố hài, những cung bậc, sắc điệu của chất giọng, có khi chất hài thể hiện ở trong từ ngữ. Chẳng hạn: “Ngay cái tên cũng khó nghe rồi. Thà cứ là Kèo, là Cột hay là Hạ, là Đông. Là gì cũng dễ nghe. Nhưng hắn ta lại là Trạch Văn Đoành. Nghe như súng thần công. Nó chọc vào lỗ tai” (Đôi móng giò). Nam Cao đem đến cho đọc giả tiếng cười nhưng sau tiếng cười ấy là một chuỗi xót xa, đau đớn và sự suy gẫm về cuộc đời. Chất giọng chính trong truyện 20 Tải về bản full

Từ khóa » Tô Hoài Nhận Xét Nam Cao Là Người Trí Thức