Bí Mật Hàn Mạc Tử (XX) | Phanxipăng

PHƯƠNG NGỮ MIỀN TRUNG

TRONG THƠ HÀN MẠC TỬ

 

 

Những sai lầm cần chỉnh sửa

Năm 1987, tại Hà Nội, NXB Văn Học ấn hành Tuyển tập Hàn Mạc Tử do Chế Lan Viên (1920 – 1989) tuyển chọn và giới thiệu. Chế sánh Hàn với sao chổi: “Trước không có ai, sau không có ai, Hàn Mạc Tử xoẹt qua bầu trời Việt Nam với cái đuôi lòa chói rực rỡ của mình.” Cùng năm ấy, Sở Văn hóa Thông tin Nghĩa Bình in cuốn Thơ Hàn Mạc Tử và Chế Lan Viên tiếp tục đề tựa: “Tử là một đỉnh cao lòa chói trong văn học thế kỷ, thậm chí qua các thế kỷ. Cho nên cũng không mất công đâu, khi vì Anh mà tìm hiểu thân thế, đời Anh.”

Hàn Mạc Tử năm 1934

Thực tế, càng ngày, thiên hạ càng tỏ ra hâm mộ Hàn Mạc Tử. Trong lẫn ngoài nước, nhiều người thích thú tìm hiểu cuộc đời Hàn tuy ngắn ngủi song chứa lắm bí ẩn, nhiều người say mê ngâm đọc thơ Hàn, nhiều người trỗi giọng hát bao ca khúc do các nhạc sĩ phổ thơ Hàn. Hát, hò, ngâm, đọc, nhưng nào phải ai ai cũng hiểu đúng ý nghĩa! Một lý do chủ chốt gây nên điều nọ: thơ Hàn sử dụng từ ngữ địa phương với khối lượng khá lớn, đặc biệt là phương ngữ miền Trung. Khổ thay, trong các tuyển thơ Hàn được xuất bản bấy lâu nay, những từ ngữ đó hoặc bị in sai, hoặc bị giải thích thiếu thỏa đáng, thậm chí có cuốn phớt lờ phần cước chú!

Ngay đôi tuyển thơ Hàn vừa dẫn, hầu hết phương ngữ (1) đều không được chua nghĩa. Ở cả hai tập sách, Buồn thu là một trong những bài xuất hiện đầu tiên với những dòng:

Ấp úng không ra được nửa lời

Tình thu bi thiết lắm thu ơi

Vội vàng cánh nhạn bay đi trớt

Hiu hắt hơi may thoảng lại rồi

Bay đi trớt là gì? Bay đi đâu? Bay ra sao? Bay thế nào? Chẳng phải bạn đọc nào cũng biết rằng dân chúng ở một số tỉnh thành miền Trung dùng chữ trớt tương tự quách / sạch / trụi / hết. Dòng thơ Vội vàng cánh nhạn bay đi trớt nghĩa là chim nhạn (2) vụt bay ráo trọi, chẳng còn một mống. Thổ ngữ vài nơi, chẳng hạn làng Nguyệt Biều, nay thuộc phường Thuỷ Biều, thành phố Huế, phát âm trớt thành trợt. Ví dụ: lủm trợt / đẩn trợt = ăn sạch; bứt trợt / lặt trợt = vặt trụi.

Cũng trong đôi tuyển vừa dẫn, bài Đàn nguyệt có cặp câu đề:              

Hỏi chơ mấy tuổi? Đáp mười lăm

Non nước từng phen nổi tiếng tăm

Hỏi chơ là hỏi ai? Hỏi cái gì? Thật ra, trong câu hỏi trổng mang tính khẩu ngữ kiểu miền Trung kia, chơ chỉ là một ngữ khí từ nghi vấn, tương tự chứ (miền Bắc) và chớ (miền Nam). Đáng tiếc rằng trong Tuyển thơ Hàn Mạc Tử do NXB Văn Học tái bản tại Hà Nội năm 2001, trang 58, chơ bị in thành chợ, khiến bạn đọc thấp thỏm phỏng đoán địa điểm: Đồng Xuân? Nhật Lệ? Đông Ba? Gò Găng? Phú Trinh? Bến Thành?

Loạt tuyển thơ Hàn do NXB Đồng Nai ấn hành khổ vừa lẫn khổ nhỏ xíu suốt nhiều năm qua còn sai trầm trọng hơn. Chẳng hạn trong tập Thơ Hàn Mạc Tử kích cỡ 6 x 9cm in năm 1998 và kích cỡ 10 x 18cm in năm 2000, câu thơ của Hàn bị “xử lý” vầy:

Hỏi chơi mấy tuổi? Đáp: Mười lăm

Cũng trong hai tập thơ nọ do NXB Đồng Nai biên tập, bài Em đau của Hàn có câu:

Một trộ mưa hoa trút cánh lờ

“Người biên soạn” Kiều Văn cước chú: “Câu này chưa tìm rõ nghĩa, xin tạm hiểu là: một trận mưa hoa trút những cánh hoa.” Nếu am tường phương ngữ miền Trung, biết trộ là cơn, là đợt (ví dụ: trộ mưa / mưa trộ) và lờ là mờ, là nhạt (ví dụ: mắt lờ / màu lờ), ắt lời giải thích của Kiều Văn hết bị… lờ!

Bài Trường tương tư nổi tiếng của Hàn mở đầu thế này:

Hiểu gì không, ý nghĩa của trời thơ?

Của hương hoa trong trăng lờn lợt bảy

Của lời câm, muôn vì sao áy náy

Hiểu gì không, em hỡi! Hiểu gì không?

Hai tập thơ mang “mác” NXB Đồng Nai in cước chú: “Bảy (tiếng Huế): bay đi nhẹ nhàng”. Thế nhưng, vẫn bài thơ Trường tương tư, trong một cuốn sách khác là tập Đôi hồn do Kiều Văn “biên soạn” và cũng NXB Đồng Nai cấp giấy phép ấn hành năm 1995, dòng thơ thứ nhì bị đổi thay:

Của hương hoa trong trăng nhờn nhợt bấy

Từ nhàn nhạt / nhờn nhợt có biến thể ngữ âm là lờn lợt. Đây chính là từ ngữ do Hàn dùng, bất tất phải thay đổi. Còn bảy mà hóa ra bấy nhầy nhầy, eo ôi, hãi quá! Lưu ý rằng bảy chính là biến thể ngữ âm của từ phổ thông bay, nên đi kèm với lờn lợt mới phù hợp. Hãy nghe người dân quê ở Bình Trị Thiên nói: “Gió bảy cấy lịp cời choa văng đưới rọọng ló.” Nghĩa: “Cái nón rách của tôi bị gió thổi tung xuống dưới ruộng lúa.”

Theo thời gian, do ảnh hưởng của xu thế chuẩn hóa tiếng Việt, cộng với mối giao lưu mạnh mẽ giữa các vùng miền, nhiều ngôn từ dần chuyển biến, nhất là đối với khu vực đô thị, song động từ bảy hiện vẫn được sử dụng rộng rãi chẳng những tại Thừa Thiên – Huế, Quảng Trị, Quảng Bình, mà cả Hà Tĩnh, Nghệ An, lẫn Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định.

Vậy nhưng,  trong bài viết mang nhan đề Chỗ ông Hàn Mạc Tử hơn người! in vào sách Trà dư tửu hậu (NXB Đà Nẵng, 1995), Đông Trình (3)đưa ra nhân vật “cụ Tú Lệ Mỹ” bạo mồm phán những câu xanh rờn như:

– Tôi tin, chưa ai nói ra điều này: không nghiên cứu lời ăn tiếng nói Quảng Bình (từ cái làng Lệ Mỹ) thì không thể hiểu thơ Hàn Mạc Tử một cách thấu đáo!

Hoặc:

– Trong thơ Hàn Mạc Tử, tôi cho là lời ăn tiếng nói của quê hương ông (Lệ Mỹ, Đồng Hới, Quảng Bình) chiếm không dưới 50%.

Nhân vật “cụ Tú Lệ Mỹ” của Đông Trình trưng những từ hiện hữu trong thơ Hàn, bao gồm nằm gắng, ngâm tràn, lốm đốm, thây, não cân, mê man, chết điếng, máu vọt, ngất ngư, nắm, siết, sượng, mớ, trửng giỡn, lờn lợt bảy rồi tấm tắc khen:

– Quảng Bình không chê vào đâu được!

Cuối cùng, “cụ Tú Lệ Mỹ” kết luận:

– Chỗ ông Hàn Mạc Tử hơn người là cái chỗ này: ông ta múc ngôn ngữ thơ mình từ… cái Bàu Tró (4) bé tí tẹo mà rưới lên cả và thiên hạ, làm cho cả và thiên hạ ngất ngây, ai cũng tưởng mưa ong xuống từ bầu trời bao la vô tận!

Kết luận thế e quá vội vàng và thiếu sức thuyết phục. Cụm từ lờn lợt bảy, như tôi đã trình bày, và từ lừng (biến âm của chừng) không chỉ của riêng Quảng Bình, mà phạm vi sử dụng trải dài từ Nghệ An đến Thừa Thiên – Huế. Các từ trửng / trửng giỡn và mớ (nói mê lúc ngủ mơ) cũng vậy. Loạt từ còn lại, chắc mọi người đều quen thuộc vì quá phổ biến trong ngôn ngữ toàn dân. Các từ điển tiếng Việt phổ thông đều ghi nhận những từ lốm đốm, não cân / cân não, ngất ngư, thây (thi thể / xác người) mà chẳng hề ghi chú là phương ngữ, vậy lẽ gì “cụ Tú Lệ Mỹ” vơ quàng là của riêng Quảng Bình nhỉ?

“Cụ Tú Lệ Mỹ” thực sự ngộ nhận khi phát biểu:

– Tôi và Hàn Mạc Tử là người cùng quê. (…) Cũng may là còn thơ ông Hàn Mạc Tử. Còn Tử là còn… Lệ Thanh!

Lệ Thanh, một bút danh của Hàn, vốn được cấu tạo bằng cách ghép sinh quán với chánh quán. Nơi chào đời của Hàn: làng Lệ Mỹ, tổng Võ Xá, phủ Quảng Ninh (5), nay là phường Đồng Mỹ, thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình. Quê cha đất tổ của Hàn: làng Thanh Tân, nay là ấp Thanh Tân, xã Phong Sơn, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên – Huế. Thế mà “cụ Tú Lệ Mỹ” tự nhận cùng quê với Hàn, làm sao tránh khỏi khiêng cưỡng?

Bài viết về Hàn do Đông Trình chấp bút quá yếu kém & nhầm lẫn. Ảnh: Phanxipăng

Bài viết về Hàn do Đông Trình chấp bút quá yếu kém & nhầm lẫn. Ảnh: Phanxipăng

Tuy nhiên, tôi tán thành ý kiến của Đông Trình (và / là “cụ Tú Lệ Mỹ”) rằng nên biên soạn Từ điển thơ Hàn, tương tự Từ điển Truyện Kiều của Đào Duy Anh (6) hoặc Từ điển truyện Lục Vân Tiên của Nguyễn Quảng Tuân và Nguyễn Khắc Thuần (7). Chắc chắn Từ điển thơ Hàn chứa đựng một lượng khá lớn từ địa phương. Điều quan trọng, theo nhà ngôn ngữ học Võ Xuân Trang từng nhấn mạnh trong bài Tiếng địa phương với vấn đề sưu tập văn học dân gian Bình Trị Thiên (8), ở chỗ: “Cần phải phân biệt đâu là từ địa phương; đâu là cách phát âm địa phương; đâu là cách phát âm có tạo ra từ địa phương và cách phát âm không tạo ra từ địa phương.”

Vận dụng thành tựu nghiên cứu trước nay về phương ngữ học tiếng Việt, nhất là phương ngữ miền Trung, chúng ta có thể hiểu đúng hơn, cảm thụ tốt hơn bao áng thơ của Hàn Mạc Tử.

Mấy nét về phương ngữ Bình Trị Thiên

Là một bộ phận của ngôn ngữ học, phương ngữ học (dialectologie / dialectology) đặt nhiệm vụ nghiên cứu các biến thể ngôn ngữ theo địa phương. Phương ngữ học tiếng Việt được khởi đầu với công trình khảo tả Phonétique annamite: dialecte du Haut-Annam (Ngữ âm tiếng Việt: phương ngữ Bắc Trung Bộ) của Léopold Michel Cadière (1869 – 1955) công bố tại Paris, thủ đô nước Pháp, năm 1902 (9). Hơn một thế kỷ hình thành và phát triển, phương ngữ học tiếng Việt đã đạt được những thành tựu khả quan, cung cấp nhiều cứ liệu giúp chúng ta tìm hiểu về lịch sử tiếng Việt, về chuẩn hóa Việt ngữ, về sắc thái vùng miền thể hiện trong các tác phẩm văn chương lẫn báo chí, v.v.

Trên bình diện thuần túy ngôn ngữ học (linguistique / linguistics), cũng như bình diện xã hội – ngôn ngữ học (sociolinguistique / sociolinguistics), việc phân vùng ngôn ngữ tiếng Việt hiện vẫn tồn tại lắm bất đồng trong giới chuyên môn. Dẫu chưa thống nhất quan điểm về số lượng và địa bàn phân bố các phương ngữ, khá đông nhà nghiên cứu – như Nguyễn Hưng, Hoàng Thị Châu, Võ Xuân Trang, M. V. Gordina, I. C. Buxtrov – có xu hướng chia tiếng Việt làm 3 vùng phương ngữ: Bắc, Trung, Nam. Qua công trình khảo cứu Phương ngữ Bình Trị Thiên (NXB Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 1997), tiến sĩ Võ Xuân Trang cho rằng mỗi vùng phương ngữ bao gồm nhiều phương ngữ khác nhau, mà biến thể địa phương nhỏ nhất được gọi là thổ ngữ. Theo Võ Xuân Trang, vùng phương ngữ Bắc là các tỉnh Bắc Bộ, vùng phương ngữ Trung là từ Thanh Hóa đến Thừa Thiên – Huế, vùng phương ngữ Nam kéo dài từ Đà Nẵng tới tận Cà Mau. Như thế, ranh giới các vùng phương ngữ không trùng khít với địa giới hành chính Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ.

Là một bộ phận hữu cơ của vùng phương ngữ miền Trung, phương ngữ Bình Trị Thiên lại chứa đựng rất nhiều thổ ngữ. Song, xét ngữ âm, thì giữa các thổ ngữ ấy có nhiều đồng nhất. Từ đầu thế kỷ XX, học giả Léopold Cadière từng tiến hành ghi chép, miêu tả đặc điểm nguyên âm lẫn phụ âm của các thổ ngữ từ sông Gianh đến đèo Hải Vân, đoạn rút ra nhận định về sự tương ứng ngữ âm giữa tiếng Việt phổ thông và các thổ ngữ vùng này, đáng lưu ý là hiện tượng tương ứng b-v, d-z, c-z, v.v.

Sau nhiều năm điều tra điền dã 94 địa điểm, từ xã Hương Hóa (huyện Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Bình) đến xã Lộc Vĩnh (huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên – Huế), Võ Xuân Trang đã phân tích kết quả miêu tả ngữ âm các thổ ngữ Bình Trị Thiên để phân vùng phương ngữ này thành 3 mảng: mảng bắc (toàn bộ tỉnh Quảng Bình cùng 2 huyện Vĩnh Linh và Gio Linh của Quảng Trị), mảng nam (toàn bộ tỉnh Thừa Thiên – Huế và khoảng nửa huyện Hải Lăng của Quảng Trị), mảng giữa (phần còn lại thuộc tỉnh Quảng Trị). Nét đặc trưng ngữ âm của mảng nam, tiêu biểu là giọng Huế, rất dễ nhận nếu so với hai mảng kia: không phân biệt các phụ âm cuối n / ng và t / c. Người Huế nói can chẳng khác gì cang, nói vắt y hệt vắc.

Xét từ vựng – ngữ nghĩa, cứ đưa Bảng từ vựng Bình Trị Thiên do Võ Xuân Trang sơ bộ liệt kê xấp xỉ 1.500 đơn vị từ ngữ (sđd, trang 221 – 276) cho dân cư Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên – Huế theo phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên, cũng nhận thấy rằng khả năng dùng chung vốn từ ở ba tỉnh nhằm đạt đến sự hiểu biết lẫn nhau rất lớn.

Một trong những đặc trưng về từ vựng của phương ngữ Bình Trị Thiên là lưu dấu nhiều từ Việt cổ (gốc Môn-Khmer, gốc Tày Thái, gốc Mã Lai, sau đó là gốc Hán) mà thời gian qua, các nhà nghiên cứu tiếng Việt lịch sử đã quan tâm tìm hiểu.

Những răng (sao), ri (vậy), rứa (thế), ni (này), tê (kia), mô (đâu), chi (gì) với chất giọng đặc trưng đã đem lại cho phương ngữ Bình Trị Thiên một sắc thái riêng, khó lẫn lộn. Và khi vốn từ ấy được thể hiện trong văn bản nghệ thuật với liều lượng thích hợp, tác phẩm không chỉ lấp lánh “màu sắc địa phương” mà còn bật lên phong cách độc đáo.

Hàn Mạc Tử (1912 – 1940). Tranh bút sắt: Tạ Tỵ

Hàn với tiếng địa phương

Ngay trong những bài thơ Đường luật đầu tay, Hàn Mạc Tử đã lưu ý sử dụng tiếng địa phương. Ví như bài Gái ở chùa rút từ Lệ Thanh thi tập:

Rừng thiền thấp thoáng dạng quần thoa

Khuê các trâm anh cũng rứa à?

Mùi tục chưa chi mà vội chán

Cuộc đời mới thế đã lo xa

Nếu thay mới thế bằng chừng nớ ắt càng đậm đà giọng miền Trung. Hoặc bài Ghẹo cô bán chè bông cỏ rặt “phong vị quê nhà”:

Buôn bán hàng chi lạ rứa tề

Làm duyên làm dáng hỡi cô ?

Giữa phương ngữ với tiếng phổ thông, đôi phen khó tìm một từ đồng nghĩa hoàn toàn. Chẳng hạn từ láy bưa bưa, nghĩa là vừa vừa; nhưng từ đơn bưa thì chưa hẳn là vừa mà chứa cả nét nghĩa chán / ngán / ớn. Ví dụ: Chộ chè mà bưa. Nghĩa là trông thấy chè, chưa ăn, đã ngán. Từ bưa được Hàn nhiều lần đem vào thơ:

Họ đã xa rồi khôn níu lại,

Tình thương chưa đã, mến chưa bưa.

Người đi, một nửa hồn tôi mất,

Một nửa hồn tôi bỗng dại khờ. (10)

Hoặc: 

Đã no nê, đã bưa rồi, thế hệ

Của phường trai mê mẩn khí thanh cao (11)

Hoặc:

Để ta dâng, ta mời, ta giải khát

Nếm cho bưa mùi vị nước tràng sinh (12)

Hàn Mạc Tử. Tranh sơn dầu: Chóe

Những biến thể ngữ âm – từ vựng như trường / tràng, nhân / nhơn, đàn / đờn xuất hiện trong tác phẩm của Hàn Mạc Tử lại cung cấp cho hậu thế dấu hiệu khả dĩ để biết thêm đôi nét về đời sống thực của thi nhân. Cụ thể là sử dụng phương ngữ Bình Trị Thiên trong văn bản, song thuở sinh thời, Hàn nói giọng nào? Giọng Quảng Bình hay giọng Quảng Trị hay giọng Thừa Thiên – Huế?

Người Huế không phân biệt các phụ âm cuối n / ng và t / c nên lắm trường hợp viết sai chính tả. Méc (biến âm của mách) bị nhiều người Huế viết mét. Tớc (nghĩa là nấc) bị nhiều người Huế ghi tớt. Đó chính là lỗi mà Hàn Mạc Tử từng mắc phải.

Trên báo Sài Gòn số ra ngày 12-11-1935, Hàn đăng bài Tởn làm thơ Đường luật, ký bút danh Lệ Thanh, với cặp câu luận:

Hoa tay tưởng khá đem đi mét

Đắc ý rằng hay mới chạy khoe

Riêng từ tớc, rất nhiều lần bị Hàn viết tớt trong các bài Lưu luyến, Vầng trăng, Say thơ, Thương và Đàn ngọc:

Dạ lan hương bừng mở cánh e dè

Trong khúc nhạc rên đều hơi gió tớt

Đàn ngọc đã rít lên chiều nã nớt

Qua sách Cảm nhận thơ Hàn Mạc Tử (NXB Thuận Hóa, Huế, 1999), dựa theo lời kể của “chú tiểu đồng” Phạm Hành, nhà giáo Mai Văn Hoan ghi: “Hàn Mạc Tử nói năng nhỏ nhẹ, giọng Quảng Bình pha Huế, hay ngâm nga một mình, tính tình ai cũng mến”. Chi tiết này chính xác chăng?

Năm 1995, tại làng Mỹ Chánh (xã Hải Chánh, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị), tôi nghe ông Phạm Hành (13) kể:

– Anh Trí nói giọng Huế rặt.

Thông tin này được xác nhận bởi nhiều người từng tiếp xúc với Hàn Mạc Tử: bà Mộng Cầm, bà Mai Đình, nhà thơ Hoàng Diệp, nhà văn Trần Thanh Địch. Đặc biệt, em ruột của Hàn Mạc Tử là ông Nguyễn Bá Tín (1915 – 2002) thuở sinh thời mấy lần khẳng định trực tiếp với tôi:

– Gia đình tôi cư ngụ nhiều tỉnh thành, nhưng cả nhà, ai cũng nói giọng Huế chay. Anh Trí và tôi đều sinh ở Đồng Hới (Quảng Bình). Năm anh Trí mới 9 tuổi, tôi lên 6, đã theo song thân vào Quy Nhơn (Bình Định), rồi tới Sa Kỳ (Quảng Ngãi). Anh Trí có thời gian về Huế học trường Pellerin, có thời gian vào Sài Gòn làm báo, cuối cùng thì mất trên đất Bình Định. Giống tôi, anh Trí đi đó đi đây nhưng vẫn nói giọng Huế.

Nguyễn Bá Tín cười:

– Mà anh Phanxipăng quan tâm giọng nói để mần chi rứa hè?

Theo tôi, giọng nói của từng tác giả, cả hệ thống phương ngữ mà họ quen sử dụng, chắc chắn để lại dấu ấn đậm nét trong các sáng tác của họ, đặc biệt là với các ngành chọn ngôn ngữ làm phương tiện biểu đạt như văn chương và báo chí.

Trong sách Tiếng Việt – văn Việt – người Việt của giáo sư Cao Xuân Hạo (NXB Trẻ, 2001), có đoạn: “Giữa tiếng nói của một dân tộc với nền văn hóa của dân tộc ấy chắc chắn phải có một mối quan hệ nhất định. Vì ngôn ngữ trực tiếp phản ánh cách tri giác và tư duy thế giới của cộng đồng dân tộc, mà văn hóa dân tộc không thể không liên quan đến cách tri giác và tư duy ấy.”

Từ đấy, suy ra: ngôn ngữ của mỗi cá nhân cũng trực tiếp phản ánh cách tri giác và tư duy của từng người. Giọng điệu, lối diễn đạt, hệ thống phương ngữ, v.v., đích thực “chùm chìa khóa” giúp hậu thế “giải mã” những “bí mật” liên quan đời và thơ Hàn Mạc Tử.

Cần thêm rằng trong tác phẩm văn chương và báo chí nói chung, thơ ca nói riêng, Hàn Mạc Tử cũng sử dụng phương ngữ miền Bắc và miền Nam song tần số chẳng thể nào bằng phương ngữ miền Trung. Điều đó có thể gây cản ngại đối với nhiều bạn đọc khi tiếp nhận thơ Hàn bởi hàng loạt lý do khách quan lẫn chủ quan. Mặt khác, điều đó lại góp phần tạo cho cây bút Hàn một khí vị riêng đạt độ hấp dẫn mà chính bản thân thi nhân lắm phen chẳng lường trước nổi:

Thơ chưa ra khỏi bút,

Giọt mực đã rụng rồi…

Lòng tôi chưa kịp nói,

Giấy đã toát mồ hôi… (14) ♥

Tác phẩm của Hàn Mạc Tử được ấn hành thành sách nhiều kích cỡ bấy lâu nay. Ảnh: Phanxipăng

Tác phẩm của Hàn Mạc Tử được ấn hành thành sách nhiều kích cỡ bấy lâu nay. Ảnh: Phúc Đường

__________________

(1)   Danh từ phương ngữ qua một số thứ tiếng: Hy Lạp ­– διάλεκτος; Latinh – dialectos; Ý – dialectto; Tây Ban Nha – dialecto; Bồ Đào Nha – dialeto; Pháp – dialecte; Anh, Scots, Hà Lan, Romania – dialect; Đức, Đan Mạch, Ba Lan, Na Uy, Thuỵ Điển – dialekt; Esperanto – dialekto; Nga – диалект; Ukraina – діалекти;  Mông Cổ – аялга; Hoa, Nhật – 方言 được Bính âm phát fāngyán còn âm Hán-Việt phát phương ngôn.

(2)   Nhạn 鴈 / 雁 có tên khác là mòng. Biên soạn Từ điển Truyện Kiều (NXB Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 1974), học giả Đào Duy Anh giải thích mục từ nhạn: “Giống chim tựa như ngỗng, tức là ngỗng trời là một hậu điểu.” Kỳ thực, trong văn chương tiếng Việt lẫn tiếng Hoa, nhạn trỏ lắm loài chim mà ngành phân loại động vật học xếp vào chi Ngỗng có tên khoa học Anser Brisson, thuộc họ Vịt Anatidae. Chẳng hạn hồng nhạn / đại nhạn là ngỗng thiên nga, được định danh khoa học Anser cydognoides; đậu nhạn / đại nhạn là ngỗng đậu Anser fabalis; sa nhạn / hôi nhạn là ngỗng trời Anser anser; đế nhạn / hoàng nhạn là ngỗng hoàng đế Anser canagicus; tuyết nhạn / khảo nhạn / bạch nhạn là ngỗng tuyết Anser caerulescens; bạch đầu  nhạn / ban đầu nhạn là ngỗng Ấn Độ Anser indicus; v.v. Cũng có trường hợp, nhạn trỏ khá nhiều loài chim dạng sẻ thuộc họ Nhạn còn gọi họ Én có tên khoa học Hirundinidae. Chẳng hạn nhạn cánh ráp đuôi vuông Psalidoprocne nitens; nhạn cánh ráp đầu trắng Psalidoprocne albiceps; nhạn cánh ráp đen Psalidoprocne pristoptera; nhạn phao câu xám Pseudhirundo griseopyga; nhạn lưng trắng Cheramoeca leucosternus; nhạn đầu đen Notiochelidon pileata;nhạn bụng nâu Notiochelidon murina; nhạn chân nhạt Notiochelidon flavipes; nhạn sọc trắng Atticora fasciata; nhạn vòng cổ đen Atticora melanoleuca; nhạn đùi trắng Neochelidon tibialis; nhạn đầu vàng hung Alopochelidon fucata; nhạn bụng trắng / nhạn nhàHirundo rustica; nhạn ngực đỏ Hirundo lucida; nhạn ngực hạt trai Hirundo dimidiata; nhạn cánh đen trắng Hirundo leucosoma; nhạn họng trắng Hirundo albigularis; nhạn đuôi đen / nhạn Thái Bình Dương Hirundo tahitica; nhạn vằn lớn Cecropis cucullata; nhạn vằn nhỏ Cecropis abyssinica; nhạn ngực hung Cecropis semirufa; nhạn bụng vằn Cecropis striolata; nhạn bụng hung Cecropis badia; nhạn bụng xám / nhạn phao câu đỏ Cecropis daurica; nhạn họng đỏ  Petrochelidon rufigula; nhạn họng sọc Petrochelidon fluvicola; nhạn cổ nâu dẻ Petrochelidon rufocollaris; nhạn rừng Petrochelidon fuliginosa; nhạn hang Petrochelidon fulva; nhạn vách đá Petrochelidon pyrrhonota; nhạn Hồng Hải Petrochelidon perdita; nhạn Nam Phi Petrochelidon spilodera; v.v.

(3)   Đông Trình có họ tên Nguyễn Đình Trọng, chào đời năm Nhâm Ngọ 1942 tại làng Nam Phúc, xã Nam Trạch, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình. Năm Mậu Thân 1968, tốt nghiệp Đại học Sư phạm và Đại học Văn khoa Huế. Làm Trưởng ban điều hành, rồi Uỷ viên ban điều hành, rồi Hiệu phó trường cấp III Phan Châu Trinh ở Đà Nẵng giai đoạn 1975 – 1977. Đã xuất bản các tập thơ Khi mùa mưa bắt đầu (1967), Lót ổ cho đại bác (1968), Rừng dậy men mùa (1972), Tên gọi mới của hạnh phúc (1982), Lấm tấm hạt đau (1990), Những chiếc xe màu lửa (1992), Rừng và hoa (1993), Nếm mật (1995), Mất và tìm (1996), Giữa thực và mơ (2009); trường ca Từ chiếc tao đời mẹ ru (1996); tiểu luận và tạp văn Giữa vòng tay thân hữu (1974), Trà dư tửu hậu (1995), Ngoài vô tận tìm kẻ xa lòng (1995), Vườn đời lá vẫn xanh cây (1996), Khéo dư nước mắt (1998). 

(4)   Là hồ nước ngọt ở thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình, Bàu Tró đã được các nhà khảo cổ Pháp và Việt Nam khai quật loạt hiện vật thời đại đồ đá mới có niên đại cách nay 5.000 năm.

(5)   Quý bạn đọc xem thêm cước chú (1) nơi chương Nguyễn Trọng Trí gốc họ… Phạm đã đăng tạp chí Thế Giới Mới 417 (18-12-2000) rồi đưa vào sách này.

(6)   NXB Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 1974. Từ điển Truyện Kiều sau đó được tái bản nhiều lần; chẳng hạn NXB Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 1989; NXB Văn Hoá Thông Tin, Hà Nội, 2006; NXB Giáo Dục, Hà Nội, 2009.

(7)   NXB TP.HCM, 1989; NXB Thanh Niên, Hà Nội, 2004.

(8)   Đăng tập san Văn Hóa Bình Trị Thiên số 9-1979.

(9)   Ecole Français d’Extrême-Orient (EFEO: Viện Viễn Đông Bác Cổ Pháp) ấn hành, Paris, 1902.

(10)    Trích khổ giữa bài thơ Những giọt lệ gồm 3 khổ trong thi tập Đau thương của Hàn.

(11)    Trích bài thơ Đêm xuân cầu nguyện trong thi tập Xuân như ý của Hàn.

(12)    Trích kịch thơ Duyên kỳ ngộ của Hàn.

(13)    Quý bạn đọc có thể tham khảo chương Đi tìm chú tiểu đồng thuở nọ của Phanxipăng đăng trên tạp chí Thế Giới Mới 422 (5-2-2001) rồi đưa vào sách này.

(14)    Trích khổ đầu bài thơ Mùa thương gồm 3 khổ của Hàn Mạc Tử mà tác giả chưa đưa vào thi tập nào. Các thư tịch Hàn Mạc Tử – tác phẩm, phê bình và tưởng niệm do Phan Cự Đệ thực hiện (NXB Giáo Dục, Hà Nội, 1993 & 1998; NXB Văn Học, Hà Nội, 2002) và Thơ Hàn Mạc Tử do Mã Giang Lân tuyển chọn (NXB Văn Hoá Thông Tin, Hà Nội, 2001) ghi nhận vậy. Tuy nhiên, rất nhiều sách như Thơ Hàn Mạc Tử do Hà Giao, Quách Giao, Trần Thị Huyền Trang sưu tuyển (Sở Văn hoá và Thông tin Nghĩa Bình, 1987 & 1988), Thơ Hàn Mạc Tử do Lữ Huy Nguyên tuyển chọn (NXB Văn Học, Hà Nội, 1993); Hàn Mạc Tử thơ và đời do Lữ Huy Nguyên sưu tuyển (NXB Văn Học, Hà Nội, 1993 & 1995 & 2005 & 2008 & 2010 & 2011), Thơ Hàn Mạc Tử do Kiều Văn biên soạn (NXB Đồng Nai, 1998 & 2000), Thơ Hàn Mạc Tử do Ngô Văn Phú tuyển chọn (NXB Hội Nhà Văn, Hà Nội, 2000 & 2002), Thơ và văn xuôi Hàn Mạc Tử do Xuân Tùng sưu soạn (NXB Văn Hoá Thông Tin, Hà Nội, 2001) lại tách khổ đầu bài thơ Mùa thương thành bài ngũ ngôn tứ tuyệt mang nhan đề Rụng rồi và xếp mở đầu thi tập Xuân như ý.

Đây, bài thơ Mùa thương của Hàn:

 

Thơ chưa ra khỏi bút,

Giọt mực đã rụng rồi…

Lòng tôi chưa kịp nói,

Giấy đã toát mồ hôi…

 

Thương là thương da diết,

Tôi hiểu nghĩa buồn chưa?

Trăng. Trăng là ánh sáng,

Tương tư đã bốn mùa…

 

Cách xa không vói được,

Cắn áo để tức mình.

Khóc cho trào máu mắt,

Ôm mộng để làm thinh…

Tượng thạch cao “Hàn Mạc Tử” do Âu Như Thuy tạc năm 1994. Ảnh: Phanxipăng

  • Để tham khảo đầy đủ chuyên luận này, quý bà con vui lòng chờ đợi sách Bí mật Hàn Mạc Tử của Phanxipăng sắp xuất bản. Sách gồm chính văn & phụ lục được biên soạn cẩn thận, kỹ lưỡng, khúc triết; với chuỗi ảnh, tranh, tượng đặc sắc phù hợp.
  • Mời quý bà con thưởng thức ca khúc Trút linh hồn do Phạm Duy phổ các bài thơ Bút thần khai, Mùa thương, Trút linh hồn của Hàn Mạc Tử, qua giọng Tuấn Ngọc:

http://www.nhaccuatui.com/nghe?M=WVw3Pc4B6F

Chia sẻ:

  • Facebook
  • X
Thích Đang tải...

Có liên quan

Từ khóa » Tìm Hiểu Hàn Mạc Tử