- Trang chủ
- Chính quyền
- Giới thiệu
- Lịch sử hình thành
- Điều kiện tự nhiên
- Đơn vị hành chính
- Dân số và lao động
- Bản đồ hành chính
- Bộ máy tổ chức
- Tỉnh ủy
- Ủy ban nhân dân tỉnh
- Các sở, ban, ngành
- UBND các huyện, thành phố
- Hoạt động của Lãnh đạo
- Thông tin chỉ đạo điều hành
- Nhà đầu tư
- Thủ tục hành chính
- Hệ thống thông tin giải quyết TTHC
- Dịch vụ công trực tuyến
- Công khai thủ tục hành chính
- Sản phẩm địa phương
Thứ 7, Ngày 28/12/2024 -
- Tổng kết hoạt động năm 2024 của Hội Doanh nhân trẻ tỉnh
- Hội nghị tổng kết công tác năm 2024 ngành Nông nghiệp - PTNT
- Hội nghị lần thứ Tư, BCH Hội Nông dân tỉnh khóa IX, nhiệm kỳ 2023-2028
- Chủ tịch UBND tỉnh chỉ thị tăng cường các biện pháp bảo đảm đón Tết Nguyên Đán Ất Tỵ năm 2025
- Hội thi giao lưu sáng kiến truyền thông về thực hiện chính sách dân số kế hoạch hóa gia đình năm 2024
Đất và người Kon Tum
Bí quyết chế tác một bộ nỏ và làm mũi tên tẩm thuốc độc của người Jẻ-Triêng ở Kon Tum Ngày đăng: 26/06/2012 04:09 Đọc tin bài Xem: 15632 In trang
Mặc định Cỡ chữ Từ ngày xưa người dân tộc thiểu số luôn sống tập trung và có thói quen săn bắt, hái lượm, người Jẻ-Triêng ở Kon Tum cũng vậy, ngoài làm nương rẫy ra họ xem việc đi săn thú rừng là một hoạt động thiết yếu, dụng cụ bất ly thân chính là dao và nỏ, ở đây chỉ nói đến bộ nỏ săn bắn. Quan niệm cho rằng người đàn ông nào trong mỗi buôn làng không biết sử dụng nỏ thì coi như chưa trưởng thành, những người thợ săn tài ba nhất rất được kính trọng, tuy nhiên việc sử dụng nó rất khó chưa nói đến việc dùng để đi săn và làm ra được một chiếc nỏ nhỏ gọn nhưng có thể săn được thú lớn không phải đơn giản.
Trước tiên là công đoạn lên rừng tìm gỗ để chế tạo cánh nỏ, việc này đòi hỏi phải thật sự kiên nhẫn và tinh tường. Người đàn ông lên rừng chọn cho mình một cây gỗ thật già và chỉ sử dụng lõi, người Jẻ-Triêng thường làm cánh nỏ bằng gỗ trắc (người Xê Đăng và các dân tộc khác làm bằng một loại cây gọi là cây K’Sam, cũng màu đỏ như gỗ trắc nhưng loại gỗ này dẻo hơn có độ đàn hồi rất tốt), sau đó họ lấy dao chuyên dụng đẽo thành một khúc cây đều nhau dài khoảng 50 - 90cm tùy theo độ lớn của từng chiếc nỏ cũng như sức khỏe của từng người. Dao làm nỏ thường có một bộ gồm 3 cái một cái lớn lưỡi dài chừng 50cm, cán dài 30cm dùng để đẽo cây, dao nhỏ hơn có cán bằng mây dài khoảng 40cm dùng trong việc làm ống đựng tên và dao nhỏ nhất lưỡi chỉ bằng ngón tay trỏ nhưng cán lại dài hơn 40cm làm bằng cây mây dùng để vót mũi tên và dây nỏ, loại dao này họ rèn bằng mảnh bom nhặt trên rừng nên thép rất cứng và được bảo quản cẩn thận trong vỏ gỗ.
| |
Làm ra được một cánh nỏ phải trải qua sự lựa chọn rất tỉ mỉ, thanh gỗ phải là đoạn giữa thân cây được gọt hai đầu đều nhau, sau đó lấy tâm điểm của cánh nỏ làm điểm chuẩn vót nhỏ dần ra hai bên, đoạn cuối gọt hai khấc nhỏ bằng đốt ngón tay dùng để móc dây nỏ, lúc này họ lấy một sợi dây cột ở giữa treo lên như chiếc cân dây rồi từ từ chỉnh cho đều nhau đến khi hai bên phải cân xứng nằm song song với mặt đất. Một việc nữa là tạo độ cong cho cánh nỏ, việc này rất quan trọng vì nếu cánh nỏ không đều mũi tên sẽ đi không chính xác, người ta tạo ra một cái khuôn bằng gỗ cũng chỉnh độ đều phải kỹ lưỡng như làm cánh nỏ, khuôn có độ dài từ 50 đến 1m, chiều rộng tính từ đoạn giữa là 20cm, một bên được gọt cong hình cung rất đều, có đánh dấu ở tâm, tùy theo sở thích của mỗi người kiểu dáng uốn lượn cũng khác nhau, một bên để thẳng và có đẽo 4 khấc ở hai đầu. Tiếp theo họ ghép cánh nỏ đã được gọt phẳng vào khuôn sao cho tâm cánh nỏ tương ứng với tâm của khuôn, hai bên cánh họ lấy 4 sợi dây rừng buộc ép vào khuôn mẫu cho đến khi cánh nỏ được ôm sát vào khung, mỗi ngày họ níu 4 sợi dây rừng vào một ít việc này phải mất hàng tháng trời cánh nỏ mới có độ cong theo ý muốn. Công đoạn tiếp theo họ bắt tay vào làm thân nỏ (là cái báng có rãnh) có chiều dài trung bình 30 - 40 cm, mặt trên bè ra, phía dưới thu nhỏ lại và được chạm hoa văn hình chữ V, thân nỏ không cầu kỳ phải lựa chọn gỗ, thường thì họ dùng gỗ mềm dễ cho việc khoét lỗ để bỏ lẫy, nhưng đường rãnh đặt mũi tên bắt buộc phải có độ sâu và thẳng nhất định, phía cuối đường rãnh họ mài một thanh kim loại nhỏ bằng cái kim khâu nhưng ngắn khoảng 0,5cm gắn cố định để có thể giữ cho mũi tên không bị rơi ra, một số người chỉ bỏ sáp ong không dùng thanh kim loại, ở đoạn đầu họ khoét một lỗ làm sao cho bỏ lọt khít tâm của cánh nỏ, phía cuối gọt bè ra tạo điểm tựa cho tay cầm.
| |
Việc làm lẫy nỏ là yếu tố rất quan trọng không kém, nó không những phải tinh tế, cẩn thận mà còn thể hiện được bàn tay khéo léo của người làm nỏ, họ dùng dao đục một lỗ thông với 3 mặt của thân nỏ, tạo thành khe có một bên rộng hơn bên kia, tác dụng để nhét lẫy nỏ vào, sau đó lấy sáp ong trộn với tro gắn chặn phía ngoài giữ không cho lẫy bị rớt. Lẫy nỏ là một vật có hình chữ H dài 3cm, độ dày 0,3cm, đa số được làm bằng sừng hoặc xương động vật, một số thì làm bằng nhôm, có nơi làm bằng sắt nhưng lẫy nỏ của họ hình chữ J trông như cò súng, đặc biệt có những cây nỏ cổ của người dân tộc Jẻ- Triêng lẫy nỏ được làm bằng ngà voi. Công đoạn làm lẫy cũng cần phải tỉ mỉ vì nếu không đủ kích thước hay độ láng, dây nỏ sẽ bị hư hỏng nhanh và không giữ được đúng vị trí đã kéo căng, lẫy bỏ vào nỏ có một mặt sát đều với thân nỏ không được nhô lên quá và cũng không được thấp quá, một mặt nằm ngang phía dưới để có thể bóp cò khi bắn tên. Người có tay nghề cao thì dây nỏ bám rất chắc vào lẫy, có thể kéo dây gắn vào lẫy và tung lên không trung rồi bắt lại, dây nỏ vẫn nguyên vẹn trên lẫy nhưng chỉ cần lấy hai ngón tay kéo nhẹ cò, dây sẽ bật ra đưa mũi tên đi. Cuối cùng là việc làm dây, chất liệu là một loại cây gọi là Samlũ (loại cây này cùng họ với mây nhưng dẻo hơn, thân cây có rất nhiều gai). Họ ngâm nước để tạo độ dẻo sau đó vót cho thật nhẵn, hai đầu chẻ ra làm như hình lưỡi rắn, sau đó cắt hai đọt cây chuối gắn ngập vào hai đầu này, để chừng một giờ đồng hồ cho nước đọt chuối ngấm vào, lúc này hai đầu rất dẻo và vặn như vặn lạt gói bánh chưng, làm tơi ra lúc này bện dây vào nhau như bện tóc đuôi sam, cột một đầu vào đuôi cánh nỏ lấy độ chuẩn, sau đó bện lại thành vòng tạo thành một móc tròn, đầu dây bên kia cũng làm như vậy nhưng bện thu vào cách chiều dài của cánh nỏ khoảng 1cm để khi tra dây vào dây có độ căng tuyệt đối. Công việc chế tác một chiếc nỏ để săn bắn của người Jẻ-Triêng đòi hỏi rất nhiều thời gian và sức lực nhưng sử dụng và gìn giữ nó rất quan trọng không kém, một cây nỏ tốt khả năng bắn xa đến 500m. Để bảo quản, người Jẻ-Triêng có thói quen sau khi bắn xong họ thường tháo dây ra để cánh nỏ luôn có một lực nhất định cũng là tạo cho dây nỏ không bị giãn, nơi cất giữ duy nhất là trên giàn bếp cũng có tác dụng tránh được mối mọt.
| |
Để đi săn dài ngày, đồng bào Jẻ-Triêng chuẩn bị rất nhiều mũi tên, vì vậy việc làm hộp đựng tên là rất cần thiết nhưng phải đảm bảo được độ kín giữ cho mũi tên luôn luôn thẳng và không bị mất. Hộp đựng tên thường làm bằng lồ ô già, người ta chọn một đoạn thân cây thật tròn và thẳng có 2 đầu mắt bịt kín, đường kính ống khoảng 10cm, chiều dài ống khoảng 50cm, họ cắt thành 2 khúc, khúc ngắn hơn dùng làm nắp đậy. Sau đó dùng dao gọt một đầu cho nhỏ tạo miệng ống, sau đó lấy một vật tự chế bằng kim loại có đầu nhọn bẻ vuông góc với thân cho vào phía trong ống làm nắp, gọt xung quanh làm sao khi úp vào nhau nắp và ống thật khớp. Công việc nữa rất quan trọng đó là phải gọt hết lớp vỏ lụa ngoài của thân cây lồ ô, việc này có tác dụng khi bỏ trên gác bếp, khói sẽ nhanh ngấm sâu vào thân, khi đã đạt được độ khô nhất định họ lấy dây mây rọ lại ống nắp theo kiểu tết sam, giữ cho ống không bị nứt. Đó là các bước để có một ống tên theo ý muốn, tuy nhiên ở đồng bào người Jẻ-Triêng có một điểm đặc biệt quan trọng và đáng chú ý đó là ống đựng tên thường có bọc một đoạn đuôi của một con vật được săn về, thường là đuôi Sơn dương hoặc nai, hoẵng. Con vật được cắt bỏ đoạn đuôi, lột lấy da và nhét phần ống tên vào, đoạn phía gần miệng ống được dùi những lỗ nhỏ xung quanh rồi lấy những đoạn tre dài 1cm có đầu nhọn chêm gắn liền da với ống lại với nhau như ta chêm mặt trống, phía cuối ống tên, dùng dây mây quấn túm lại giữ không cho da bị nhăn, sau đó đem đi hun khói, một thời gian sau da và ống gần như ôm khít vào nhau trông rất thẩm mỹ và chắc chắn. Ngoài ống họ có gắn thêm một ống lồ ô nhỏ bằng ngón tay, chiều dài bằng đoạn ống dưới, tác dụng bỏ mũi tên dự phòng trước khi bắn. Thường thì những ống tên có bọc da kiểu này họ chuyên để đựng những mũi tên tẩm thuốc độc để săn thú lớn.
Trong hoạt động dùng nỏ săn bắn của người Jẻ-Triêng, rất nhiều điều chúng ta luôn thắc mắc đó là tại sao chỉ cần một đoạn cây mây (samlũ) có thể trở thành một sợi dây nỏ vô cùng dẻo dai đến thế và tại sao họ không dùng những dây khác như bện dây dừa hay ruột mèo như những nơi khác thường làm,... Nói tóm lại là cũng từ kinh nghiệm, từ những dụng cụ thường có sẵn trong tự nhiên nơi họ đặt chân đến, họ có thể thay thế dây bất cứ lúc nào cần. Một điều ngạc nhiên hơn cả đó là tại sao một vật nhỏ bé như vậy lại có thể giết được một con thú lớn cả trăm kilogam, điều này là nhờ vào những mũi tên, đầu mũi tên được tẩm một thứ thuốc gọi là thuốc độc nhưng con người có thể ăn thịt thú mà không bị ảnh hưởng đến sức khỏe. Trước tiên phải nói đến việc vót tên, mũi tên của người đi săn thường thẳng tắp, được lựa chọn từ những thân tre già nhất, vót thật nhẵn hình bầu dục, trên dưới thân phải tạo độ vát để có thể gắn khớp vào rãnh nỏ, mũi tên thường có độ dài bằng ½ cánh nỏ, đoạn cuối có gắn một đoạn lá cọ đã được xé đều khoảng 1cm xếp hình thoi tạo cho mũi tên không bị lệch hướng. Việc quan trọng nhất đó là đầu mũi tên, tùy thuộc vào từng chuyến đi săn, săn sóc, chuột có thể vót thông thường cho thật nhọn, đi săn thú lớn hơn một chút thì vót như kiểu đầu nhọn to dần để khi tên găm vào con vật bị vướng rất khó chạy, đặc biệt mũi tên sẽ không bị rơi ra. Để săn thú hung dữ hơn, bắt buộc phải có đầu tên tẩm thuốc độc, đầu mũi tên có thể bằng đá hoặc bằng sắt được mài nhọn hai bên có hai móc, ở giữa dài ra gắn vào thân mũi tên tre. Khi con vật trúng tên nhưng vẫn chạy được, thân và cánh mũi tên có thể rơi ra nhưng đầu mũi tên độc nằm sâu dưới lớp da, người thợ săn lần theo dấu vết đến khi con vật bị đầu tên thuốc độc làm tê liệt, vết thương bị phân hủy lúc đó con vật không còn sức để chạy, việc đi săn này thường phải mất rất nhiều thời gian của người Jẻ-Triêng. Cuối cùng là chúng ta tự hỏi, vậy thuốc độc họ làm như thế nào và làm từ chất gì mà con người ăn thịt động vật trúng độc mà vẫn không có gì xảy ra?! Có những điều vô cùng bình thường và gần gũi quanh ta nhưng chỉ có những người thợ săn chuyên nghiệp của núi rừng mới nhận thấy được. Thuốc để tẩm mũi tên thường làm bằng một loại lá (gọi là Lanauobor) và rất nhiều thứ khác, nhưng người đồng bào Jẻ-Triêng lại có cách làm thuốc độc đơn giản hơn. Trong cuộc sống giữa con người với thiên nhiên, họ nhận thấy có những động vật tiết ra những chất độc rất nguy hiểm khi chúng cắn vào cơ thể người như rắn, rít, ong vò vẽ v.v.. và họ chợt nghĩ sao ta không thử lấy chất độc từ con người như nước bọt chẳng hạn. Ta thấy rằng, người Jẻ-Triêng họ làm thuốc độc tẩm vào mũi tên săn bắn của mình từ nước bọt con người. Cách tạo ra một lọ thuốc độc cho mũi tên là mỗi sáng thức dậy khi chưa giao tiếp với ai, họ nhổ một ít nước bọt vào lọ và cứ thế hàng tháng trời, mỗi buổi sáng một ít họ sẽ có một lọ nước rất độc mà không cần pha chế hay lấy từ bất cứ nơi nào về. Còn rất nhiều điều để chúng ta phải tìm tòi nghiên cứu trong cuộc sống cũng như trong văn hóa tín ngưỡng dân gian của người Jẻ-Triêng. Có một điểm rất đặc biệt đối với những người thợ săn Jẻ-Triêng đó là mỗi lần bắt được một con thú bất kể nhỏ hay lớn, họ đều dùng máu và ít lông của con thú đó bôi lên cánh nỏ, nên có những cây nỏ cổ hiện nay vẫn còn một lớp trông như lớp nhựa trộn với lông thú bám chặt vào nỏ. Họ xem cây nỏ như một vị thần linh đi theo để bảo vệ và nuôi sống cả gia đình họ, nên khi săn được một con thú, được thưởng thức đầu tiên chính là chiếc nỏ, như thể hiện một sự tôn kính với bề trên của mình. Hàng năm, ngành văn hóa-thể thao Kon Tum thường tổ chức rất nhiều cuộc thi bắn nỏ được diễn ra trong toàn tỉnh, thường số điểm cao nhất vẫn nằm trong danh sách những chàng trai Jẻ-Triêng. Thế Phiệt Về trang trước Gửi email
Tin tức liên quan
- Trải nghiệm văn hóa Giẻ-Triêng tại Làng du lịch cộng đồng Đắk Răng (27/08/2024)
- Gặp gỡ những người trở về từ Chiến thắng Đăk Pék (16/05/2024)
- Di tích lịch sử Chiến thắng Đăk Pek được xếp hạng di tích quốc gia (15/05/2024)
- Kon Tum - Chuyển đổi số để tăng tốc phát triển du lịch cộng đồng, du lịch nông thôn (26/03/2024)
- Huyện Đăk Hà: 30 năm xây dựng và phát triển (13/03/2024)
Giới thiệu
- Lịch sử hình thành
- Điều kiện tự nhiên
- Đơn vị hành chính
- Dân số và lao động
- Bản đồ hành chính
Bộ máy tổ chức
- Tỉnh ủy
- Ủy ban nhân dân tỉnh
- Các sở, ban, ngành
- UBND các huyện, thành phố
Chính quyền số
- Hệ thống theo dõi CĐĐH
- Hệ thống thông tin giải quyết thủ tục hành chính
- Hệ thống đánh giá Bộ chỉ số phục vụ người dân và doanh nghiệp.
- Hệ thống quản lý VB&ĐH
- Văn bản chỉ đạo điều hành
- Thư điện tử công vụ
- Lịch công tác UBND tỉnh
- Tài liệu họp
Thông tin báo cáo thống kê
- Báo cáo hiện trạng môi trường và Bộ chỉ thị môi trường
- Báo cáo kinh tế - xã hội
Dự án đầu tư
- Dự án hoàn thành
- Dự án đang triển khai
- Dự án chuẩn bị đầu tư
- Dự án kêu gọi đầu tư
- Đấu thầu, mua sắm công
Quy hoạch & Phát triển
- Quy hoạch xây dựng, đô thị
- Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất
- Quy hoạch thu gom, tái chế, xử lý chất thải
Chương trình & Đề tài
- Chương trình, đề tài khoa học
- Kết quả nghiệm thu
- Đề tài/Dự án đã đăng ký thực hiện nhiệm vụ KH&CN
Liên kết website Website Tỉnh, Thành phố Tỉnh An Giang Tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu Tỉnh Bạc Liêu Tỉnh Bắc Giang Tỉnh Bắc Ninh Tỉnh Bến Tre Tỉnh Bình Dương Tỉnh Bình Định Tỉnh Bình Phước Tỉnh Bình Thuận Tỉnh Cà Mau Tỉnh Cao Bằng Thành phố Hà Nội Thành phố Hải phòng Thành phố Hồ Chí Minh Website Bộ, Ngành Bộ Công thương Bộ Giao thông Vận tải Bộ Khoa học và Công nghệ Bộ Nội vụ Bộ Quốc phòng Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Thanh Tra Chính phủ Ủy ban Dân tộc Văn phòng Chính phủ Liên kết khác Tạp chí Cộng sản Đảng cộng sản Việt Nam Quốc hội Chính phủ
- Trang chủ
- Liên hệ
- Góp ý
- Sơ đồ cổng
- RSS
CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ TỈNH KON TUM Giấy phép số 08/GP-TTĐT do Sở Thông tin và Truyền thông tỉnh Kon Tum cấp ngày 20/12/2019 Quản lý kỹ thuật: Trung tâm Phục vụ hành chính công tỉnh Kon Tum, số 70 Lê Hồng Phong, phường Quyết Thắng, thành phố Kon Tum, tỉnh Kon Tum. Chịu trách nhiệm chính: Ông Nguyễn Đăng Trình - Chánh Văn phòng UBND tỉnh. Điện thoại hỗ trợ: 0260.3797799; Email: bbtcongttdt@kontum.gov.vn
Đang truy cập: 95 . Tổng lượng truy cập: 98.519.186