Biểu Tượng Con Thuyền - 123doc

5. Kết cấu luận văn

2.2.2. Biểu tượng con thuyền

Trong suốt hàng nghìn năm tồn tại và phát triển, đất nước ta đã xây dựng nên một nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc. So sánh với các nền văn hóa khác trên thế giới, chúng ta tự hào rằng văn hóa của dân tộc ta vô cùng phong phú, đa dạng. Và trong suốt tiến trình lịch sử ấy, dân tộc ta đã có rất nhiều những biểu tượng, biểu trưng mang đầy ý nghĩa như: biểu tượng Chùa Một Cột, biểu tượng hoa Sen, biểu tượng Rồng Thăng Long… Đặc biệt, trong số đó có một biểu tượng rất giản dị, mộc mạc, nhưng rất đậm nét, khắc sâu trong tâm thức người Việt ta, đó chính là biểu tượng Con thuyền.

Đọc thơ Tố Hữu, người đọc sẽ nhận thấy hình ảnh quen thuộc này được lặp đi lặp lại nhiều lần trong 7 tập thơ. Con thuyền vừa là một hình tượng vừa là một biểu tượng đầy sức ám ảnh trong thơ ông. Nói đến con thuyền người ta sẽ nghĩ ngay đến sự chuyên chở trên sông biển, con thuyền cũng chính là ngôi nhà ở với một số người vùng sông nước; hay như theo thuật phong thủy, thì con thuyền buồm được coi như biểu tượng của thành công trong kinh doanh, là biểu trưng cho mong muốn vươn lên, khát vọng vươn tới những tầm cao mới… Con thuyền hay, con đò, con tàu trong thơ Tố Hữu được ông xây dựng như những biểu tượng nghệ thuật để nói lên khát vọng tiến lên vượt qua sóng gió để đến đích vinh quang.

Con thuyền là hình ảnh xuất hiện khá nhiều lần trong thơ Tố Hữu, đó có thể là hình ảnh cụ thể con thuyền trên sông, con tàu giữa biển mênh mông cũng có thể là hình ảnh mang tính trừu tượng để chỉ về con thuyền, con tàu qua người lái tàu, người chèo thuyền. Trong tập thơ Từ ấy, có 27 lần xuất hiện con thuyền hoặc con tàu, những lần xuất hiện hình ảnh đó lại gợi cho người đọc thấy được phong ba bão táp cũng như sóng gió mà người cầm chèo phải vượt qua.

Người đọc ấn tượng nhất với kiếp người trôi dạt, đầy nước mắt như trong Tiếng hát sông Hương của những phận gái giang hồ:

Trăng lên trăng đứng trăng tàn

Đời em ôm chiếc thuyền nan xuôi dòng Em đi với chiếc thuyền không

Khi mô vô bến rời dòng dâm ô?

Thuyền em rách nát còn lành được không?

Thì hình ảnh con thuyền đó khiến người ta liên tưởng đến một kiếp người trôi nổi, phiêu bạt, cuộc đời đầy bấp bênh, đau khổ. Nỗi nhục nhã cũng ngập đầy trên chiếc thuyền giữa dòng nhơ bẩn đó. Có ai không xót xa, có ai không buồn tủi khi cất lên những tiếng lòng ai oán thế.

Đó chỉ là một hình ảnh hiếm hoi nhưng cũng rất đắt trong thơ Tố Hữu khi viết về con thuyền đời của con người. Sau đó những bài thơ tiếp theo lại cho ta thấy được hình ảnh thuyền, đò, tàu mang những dấu ấn riêng. Đó là con tàu vượt trùng dương tiến tới đích, mỗi con thuyền chở một ý chí vượt lên trên sóng gió nhưng tiêu biểu nhất vẫn là những hoán dụ, ẩn dụ về người cầm chèo, điều khiển hướng con thuyền tiến lên phía trước. Nói về những chiến sỹ chiến đấu vì cách mạng vì đất nước, Tố Hữu viết bài thơ Như những con tàu:

Còn xa đất vẫn tin ngày cập bến

“Tin ngày cập bến” hay tin rằng sẽ đi tới cái đích vinh quang của cách mạng là đem lại độc lập tự do cho nhân dân. Dù rằng:

Bờ đương mờ, hải cảng hãy còn xa Có lẽ nhiều mỏm đá với phong ba Sẽ đánh đắm một đôi tàu mỏng mảnh

Để rồi ý chí quyết tiến lên vẫn mạnh mẽ hơn tất cả:

Ta hãy là đoàn chiến hạm ra đi,

Hùng dũng tiến đạp muôn đầu ngọn sóng Tương lai đó trước mặt ta biển rộng Trên đầu ta lồng lộng gió trời cao.

Hay khi Tố Hữu viết về những người không chết:

Anh là một thủy thủ già vững lái Tôi bên anh là bạn mới cầm chèo

Thuyền anh đã bao lần leo ngọn sóng Trôi điêu linh trên vực mặn không cùng Cánh buồm xưa kiêu hãnh gạt cuồng phong Nay tơi tả rủ dòng trên cột lỏng

Nỗi xót xa khi chứng kiến những sự hi sinh của đồng chí anh em, nhà thơ ngậm ngùi nghĩ về điều mất mát lớn lao của Đảng, của đất nước nhưng cũng thét lên:

Không! Không! Không! Anh không chết trong tôi

Sẵn sàng tiếp bước cha anh, nhà thơ đã nói hộ bao người quyết chí đứng lên:

Đường đi đó nhổ sào lên tôi lái

Chiếc thuyền tôi vui lướt giữa muôn thuyền Nào cần chi biển rộng dẫu bình yên

Hay ghê gớm nổi cồn cao sóng dữ Tôi cứ lái cho tới ngày mệt lử Một chiều kia dù lại cũng như anh Trở về đây trong mạn ván tan tành Giữa lúc những thuyền kia đang lướt tới

Điều đó đã khẳng định sức chiến đấu không có gì ngăn nổi của những người chiến sỹ chiến đấu vì lý tưởng của Đảng cộng sản Việt Nam.

Rồi những ngày bị cầm tù đau khổ Tố Hữu đã nói lên nỗi căm giận và những bức xúc của một chiến sỹ đang bị giam cầm:

Đây con tàu im lặng vượt thời gian Toa lớn nhỏ quanh năm vừa chật chỗ

Thân giam cấm như con thuyền biển rộng Sống loanh quanh trong một vũng ao tù.

(Quanh quẩn)

Cho đến Giờ quyết định cần phải vững vàng tay chèo lái:

Tay bình tĩnh cứ ghì ôm vững lái Còn bao nhiêu cứ cắm cổ bơi chèo

Bạn thuyền ơi nỗ lực bơi chèo lên!

Nhìn chung, hình ảnh con thuyền xuất hiện trong tập thơ Từ ấy chủ yếu

là để nói về ý chí của những chiến sỹ chiến đấu vì lý tưởng của mình. Người ta dễ nhận ra những nỗ lực của người chèo lái để không bị sóng đánh tung vào những mỏm đá nhô đầu.

Sang tập thơ Việt Bắc hình ảnh con thuyền xuất hiện 12 lần, với những

hình ảnh có phần vui tươi, phấn khởi hơn trong tập thơ Từ ấy. Những hình ảnh như:

Mình về ta gửi về quê

Thuyền nâu trâu mộng với bè nứa mai

Ngày mai rộn rã sơn khê

Ngược xuôi tàu chạy bốn bề lưới giăng (Việt Bắc)

Hay:

Chào những buồm nâu, thuyền câu Diêm Phố Nhớ nhau chăng hỡi Hanh Cát, Hanh Cù

(Mẹ Tơm)

Đó là con thuyền chở sang nước bạn kết giao hữu nghị Việt - Trung: “Con tàu đưa tôi đến Trung Hoa” trong bài Đường sang nước bạn.

Trong tập thơ này thuyền đã trở thành hình ảnh khơi gợi sự tiến lên trong vui tươi, trong nhịp sống rộn ràng và đầy hứa hẹn mùa vui.

Đến tập thơ Ra trận hình ảnh thuyền xuất hiện 11 lần với những hình

ảnh cụ thể và hoán dụ để người đọc tự nhận ra hình ảnh con thuyền qua hành động như lái tàu, chèo thuyền. Dấu ấn cuộc sống cứ dâng tràn trong nhưng con thuyền, con thuyền chở con người và chở bao hi vọng:

Bây chừ sông nước về ta

Đi khơi khơi lộng, thuyền ra thuyền vào (Mẹ Suốt)

Nhưng hãy còn đó bao gian nan nên tay lái tay chèo cũng cần vượt lên sóng gió, hình ảnh mẹ Suốt vững vàng tay lái:

Một tay lái chiếc đò ngang

Và con biết bao người vẫn nhẫn nại đưa đò như mẹ, không quản nhọc nhằn, nguy hiểm:

Vững ta lái. Ôi người thủy thủ Đã từng quen bốn biển lênh đênh

Và ngợi ca Bác qua hình ảnh:

Người trông gió bỏ buồm chọn lúc Nước cờ hay xoay vạn kiêu binh

(Theo chân Bác)

Nói chung hình ảnh con thuyền xuất hiện trong Gió lộng không nhiều

nhưng nó luôn gắn liền với những con người thực và những miền quê có thực trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.

Đến tập thơ Máu và hoa con thuyền cũng xuất hiện 11 lần thì chủ yếu là những con thuyền mang ý nghĩa tả thực cụ thể, thuyền bè xuôi ngược nối liền những miền quê, chở niềm vui san sẻ mọi miền:

Thương em chín đợi, mười chờ Con thuyền nay lại đỏ cờ sang sông

Thuyền về cửa Việt ra khơi

Thuyền lên Ái Tử, thuyền bơi Đông Hà…

Phù Lai ba bến con đò

Thanh Lương quê ngoại câu hò còn chăng? (Nước non ngàn dặm) Bây giờ nước lớn thuyền lên

Bắc Nam mình lại nối liền thịt da (Bài ca quê hương)

Niềm vui của một người dân được sống tự do trên quê hương, những phương tiện đi lại cũng dễ dàng hơn, đi vào miền Nam, nhà thơ viết:

Trông vời Đồng Tháp mênh mông

Mấy con thuyền ngược dòng kênh nặng hàng Sóng Tiền Giang gọi Hậu Giang

Có ai về đó ta sang cùng về

Hay khi nhìn những con thuyền rời bến đến một nơi khác nhà thơ cũng muốn góp chung tiếng nói tự hào:

Thác, bao nhiêu thác, cũng qua

Thênh thênh là chiếc thuyền ta trên đời (Nước non ngàn dặm) Bến nghèo xưa chuyến đò ngang

Nay cầu chống Mỹ, xe sang dập dìu. (Bài ca quê hương)

Một tiếng đờn là những trải nghiệm của nhà thơ khi đất nước hòa bình,

cuộc sống bình yên đã đến với nhân dân, những chuyến thăm thú quê hương đã khiến nhà thơ cất lên những vần thơ giản dị nhưng đầy tâm sự. Đó là niềm vui khi thấy quê hương đang đi lên, người người tấp nập bán mua:

Sông rạch Mỏ Cày xúm xít thuyền ghe (Một khúc ca) Bây giờ mùa gặt vàng thơm

Mênh mông mặt nước cá tôm đầy thuyền (Quảng Xương)

Không quên ngày khói lửa, không quên những người đã hi sinh để có cuộc sống ấm no hạnh phúc hôm nay, Tố Hữu bùi ngùi nhớ những người anh hùng dân tộc:

Chiến thuyền giấu bến, cây rừng giấu binh (Luy Lâu)

Rồi hồn thơ cũng bay lên theo cánh buồm, ngọn sóng:

Biển vui sóng giỡn mạn thuyền Mát chân lối cát chẳng quên ngõ về

(Lộc) Nhà ai má đỏ đôi bờ

Thuyền bay cuốn cả hồn mơ theo thuyền (Một thoáng Cà Mau)

Thuyền xuất hiện không nhiều trong tập thơ này, chỉ có 8 lần nhưng cả 8 lần đều gắn bó với cuộc sồng đời thường đầy đổi mới và một lần nữa đẩy con thuyền thơ của nhà thơ lên đến bờ bến mới của cảm xúc.

Tập thơ Ta với ta là lời tâm tình cuối trong chặng thơ của Tố Hữu, số

lượng bài thơ cũng ít hơn những tập thơ trước nên con thuyền cũng xuất hiện ít hơn, chỉ có 3 lần.

Vững niềm tin với Đảng nhà thơ tìm thấy điều hạnh phúc nhất là vẫn trung thành với một con thuyền ước mơ:

50 năm buổi đầu đánh giặc

Ngược dòng Lô một chiếc thuyền con (Về chiến khu xưa)

Thấy đất nước đổi sắc thay da và trên biên giới đến đảo xa đều bừng bừng khí thế của thời đại mới:

Vịnh Mốc trườn ra biển Cồn Cỏ đảo tiền tiêu Ngày đêm thuyền tiếp viện Cha cùng con lái chèo.

Con thuyền trong thơ Tố Hữu vừa mang ý nghĩa tả thực vừa mang ý nghĩa biểu tượng, đó vừa là con thuyền chuyên chở con người, hàng hóa, con thuyền ngược xuôi trong trên những dòng sông cũng đồng thời là con thuyền mang nghĩa biểu tượng của con thuyền đời, con thuyền thơ nhà thơ. Cuộc sống đã chắp thêm hồn thơ cho nhà thơ Tố Hữu, cánh buồm thơ lộng gió thời đại đã đưa nhà thơ đi đến đỉnh vinh quang của một con người sống hết mình vì đất nước, vì nhân dân.

Từ khóa » Hình ảnh Con Tàu Ra Khơi