Bình Dương – Wikipedia Tiếng Việt

Bài này viết về địa danh ở Nam Bộ Việt Nam. Đối với địa danh khác, xem Bình Dương (định hướng).

Bình Dương là một địa danh tại miền Nam Việt Nam. Trong lịch sử, địa danh này được sử dụng cho nhiều đơn vị hành chính khác nhau. Hiện tại, địa danh này được dùng chính thức để chỉ đến phường Bình Dương, một đơn vị hành chính cấp xã thuộc Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam.

Nguồn gốc

[sửa | sửa mã nguồn]

Có một nhà nghiên cứu Hán - Việt đã diễn giải, chiết tự theo Kinh Dịch hai chữ "Bình Dương" như sau: Chữ "Bình" có 11 nét thuộc quẻ 伻; Chữ "Dương" có 13 nét thuộc quẻ 佯 cộng lại "Bình Dương" có 23 nét là 平陽 có nghĩa là: "thuận lợi tối đa". Nếu xét về lịch sử xa xưa, thì tên gọi "Bình Dương" là cái tên phần cuối một Đại dương mênh mông của Thái Bình Dương. Ngày nay, tên gọi Bình Dương có nghĩa như sau: "Bình" nghĩa là bình minh, "Dương" nghĩa là Ánh sáng Mặt Trời; vì vậy, nên tên gọi "Bình Dương" có ý nghĩa là "ánh sáng Mặt trời trong cảnh bình minh ngày mới".

Trong lịch sử, danh xưng Bình Dương thường được sử dụng để chỉ đến vùng đất được bao bọc bởi sông Đồng Nai và sông Sài Gòn, gắn liền với Gia Định, Đồng Nai xưa. Cùng với sự phát triển ở vùng đất phía Nam, danh xưng Bình Dương được sử dụng là tên gọi của những đơn vị hành chính theo những cấp độ khác nhau (tổng, huyện, tỉnh) với những địa bàn lãnh thổ khác nhau.

Những thay đổi trong lịch sử

[sửa | sửa mã nguồn]

Đất Bình Dương thời Nguyễn

[sửa | sửa mã nguồn]

Địa danh Bình Dương lần đầu được ghi chép trong sử liệu Việt Nam với tư cách là một đơn vị hành chính, ban đầu là tên một tổng thuộc huyện Tân Bình, phủ Gia Định. Sách Đại Nam Nhất thống chí chép: "Năm Canh Tuất (1790) bắt đầu đắp thành Bát Quái ở trên gò cao thôn Tân Khai, tổng Bình Dương gọi là dinh Gia Ðịnh Kinh". Đến năm 1808, khi huyện Tân Bình được đổi thành phủ thì Bình Dương được nâng lên một trong bốn huyện của phủ này. Theo Nguyễn Đình Đầu trong bài nghiên cứu địa lý hành chánh tỉnh Bình Dương qua các thời kỳ có ghi: "Đến năm 1808, huyện Tân Bình được nâng lên thành phủ Tân Bình, có bốn huyện là Bình Dương, Tân Long, Thuận An và Phước Lộc". Trong bản đồ do Trần Văn Học vẽ khu vực Gia Định Thành vào tháng 4 năm 1815 và mô tả của Trịnh Hoài Đức qua Gia Định Thành thông chí, có mô tả một nhánh sông ở phía nam trấn Gia Định, gọi là sông Bình Dương. Đoạn sông này ngày nay có tên mới là kênh Bến Nghé. Đến năm 1834 toàn bộ Nam Kỳ được chia đặt thành sáu tỉnh, lúc ấy gọi là Nam Kỳ Lục tỉnh. Huyện Bình Dương khi đấy thuộc phủ Tân Bình, tỉnh Phiên An (đến năm 1836 được cải thành tỉnh Gia Định). Địa bàn của tổng Bình Dương, và sau là huyện Bình Dương ban đầu, được xác định nằm trên một khu vực khá rộng, bao gồm khu trung tâm Thành phố Hồ Chí Minh ngày nay (tương ứng với các khu vực Sài Gòn, Phú Nhuận, Bình Thạnh, Gò Vấp, Hóc Môn và Củ Chi sau này). Năm 1841, huyện Bình Dương lại được tách ra làm hai huyện là huyện Bình Dương (tương ứng với khu vực Sài Gòn, Phú Nhuận, Bình Thạnh, Gò Vấp ngày nay) và huyện Bình Long (tương ứng với khu vực Hóc Môn, Củ Chi ngày nay).

Sau khi chiếm được Nam Kỳ, chính quyền thực dân Pháp đã chia Nam kỳ lục tỉnh thành 20 khu vực hành chính mới, đến năm 1900 thì gọi là tỉnh. Cơ cấu hành chính của nhà Nguyễn bị bãi bỏ. Vì vậy, huyện Bình Dương cũng không còn tồn tại với tư cách một đơn vị hành chính. Thay vào đó, địa bàn của huyện Bình Dương cũ được người Pháp chia thành thành phố Sài Gòn và tỉnh Sài Gòn (không lâu sau thì đổi thành tỉnh Gia Định).

Khu vực Bình Dương hiện đại

[sửa | sửa mã nguồn]

Khu vực Bình Dương ngày nay, vào thời nhà Nguyễn, chủ yếu thuộc địa bàn của tổng Bình An, sau là huyện Bình An, phủ Phước Long, tỉnh Biên Hòa. Địa bàn của huyện Bình An, được xác định nằm trên một khu vực khá rộng, bao gồm khu vực phía Bắc và phía Đông Thành phố Hồ Chí Minh ngày nay (tương ứng với các khu vực Bình Long, Phước Long, Thuận An, Thủ Dầu Một và Thủ Đức sau này). Năm 1837, huyện Bình An lại được tách ra làm hai huyện là huyện Bình An (tương ứng khu vực Thuận An và Thủ Dầu Một) và huyện Ngãi An (hay Nghĩa An, sau là vùng Thủ Đức).

Sau khi chiếm được Nam Kỳ, chính quyền thực dân Pháp đã phân chia lại hành chính Nam kỳ lục tỉnh. Tỉnh Thủ Dầu Một được thành lập trên cơ sở của địa bàn của huyện Bình An (nhỏ) của tỉnh Biên Hòa cũ (sau nhập thêm các vùng Dầu Tiếng, Bình Long và Phước Long sau này). Địa bàn của huyện Ngãi An được người Pháp nhập vào với địa bàn của các huyện Bình Dương (trừ khu vực thành phố Sài Gòn) và Bình Long cũ để lập thành tỉnh Gia Định. Sông Sài Gòn là ranh giới tự nhiên phân chia 2 tỉnh: Thủ Dầu Một ở về mạn đông bắc (tả ngạn) và Gia Định ở về mạn tây nam (hữu ngạn).

Ngày 22 tháng 10 năm 1956, chính quyền Việt Nam Cộng hòa đã ra sắc lệnh số 143 N/V ngày 22 tháng 10 năm 1956 thay đổi địa giới, tên gọi các tỉnh miền Nam. Theo đó, tỉnh Thủ Dầu Một bị giải thể để thành lập các tỉnh Bình Dương, Bình Long và Phước Long (có thêm phần đất của tỉnh Biên Hòa). Cái tên hành chính Bình Dương được sử dụng lại sau gần 100 năm, tuy nhiên lại được sử dụng cho một địa bàn khác hoàn toàn với thời nhà Nguyễn.

Năm 1976, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã quyết định hợp nhất ba tỉnh Thủ Dầu Một (Bình Dương), Bình Long, Phước Long để lập lại tỉnh mới rộng lớn hơn với cái tên tỉnh Sông Bé. Mãi đến 20 năm sau vào ngày 6 tháng 10 năm 1996, Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đã ra quyết định tách tỉnh Sông Bé ra làm hai tỉnh Bình Phước và tỉnh Bình Dương. Tỉnh Bình Dương mới tái lập này cũng không hoàn toàn là địa phận của tỉnh Bình Dương trước năm 1975.

Xem thêm

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Lịch sử hành chính Thành phố Hồ Chí Minh

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Bình Dương tên gọi phường xã mới gắn với địa danh xưa (kỳ 3)

Bài viết về Thành phố Hồ Chí Minh này vẫn còn sơ khai. Bạn có thể giúp Wikipedia mở rộng nội dung để bài được hoàn chỉnh hơn.

  • x
  • t
  • s

Từ khóa » Chùa An Lạc Bình Dương