Bình Ngô Đại Cáo Và Hịch Tướng Sĩ | Đọt Chuối Non
Có thể bạn quan tâm
Bình Ngô Đại Cáo
Nguyễn Trãi Bản dịch của Ngô Tất Tố
Thay trời hành hóa, hoàng thượng chiếu rằng, Từng nghe: Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân, Quân điếu phạt trước lo trừ bạo; Như nước Đại Việt ta từ trước, Vốn xưng nền văn hiến đã lâu, Nước non bờ cõi đã chia, Phong tục Bắc Nam cũng khác; Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần; bao đời xây nền độc lập; Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên; mỗi bên hùng cứ một phương; Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau, Song hào kiệt thời nào cũng có. Cho nên: Lưu Cung tham công nên thất bại; Triệu Tiết chí lớn phải vong thân; Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã Việc xưa xem xét. Chứng cứ còn ghi. Vưà rồi: Nhân họ Hồ chính sự phiền hà Để trong nước lòng dân oán hận Quân cuồng Minh thưà cơ gây loạn Bọn gian tà còn bán nước cầu vinh Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ Dối trời lừa dân đủ muôn ngàn kế Gây thù kết oán trải mấy mươi năm Bại nhân nghĩa nát cả đất trờị Nặng thuế khóa sạch không đầm núi. Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, Ngán thay cá mập thuồng luồng. Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, Khốn nỗi rừng sâu nước độc. Vét sản vật, bắt dò chim sả, chốn chốn lưới chăng. Nhiễu nhân dân, bắt bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt. Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ, Nheo nhóc thay kẻ góa bụa khốn cùng. Thằng há miệng, đứa nhe răng, Máu mỡ bấy no nê chưa chán, Nay xây nhà, mai đắp đất, Chân tay nào phục dịch cho vừa ? Nặng nề những nổi phu phen Tan tác cả nghề canh cửi. Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội, Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi! Lòng người đều căm giận, Trời đất chẳng dung tha; Ta đây: Núi Lam Sơn dấy nghĩa Chốn hoang dã nương mình Ngẫm thù lớn há đội trời chung Căm giặc nước thề không cùng sống Đau lòng nhức óc, chốc đà mười mấy năm trời Nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối. Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh, Ngẫm trước đến nay, lẽ hưng phế đắn đo càng kỹ Những trằn trọc trong cơn mộng mị, Chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi Vừa khi cờ nghĩa dấy lên, Chính lúc quân thù đang mạnh. Lại ngặt vì: Tuấn kiệt như sao buổi sớm, Nhân tài như lá mùa thu, Việc bôn tẩu thiếu kẻ đở đần, Nơi duy ác hiếm người bàn bạc, Tấm lòng cứu nước, Vẫn đăm đăm muốn tiến về Đông, Cỗ xe cầu hiền, Thường chăm chắm còn dành phía tả. Thế mà: Trông người, người càng vắng bóng, Miịt mù như nhìn chốn bể khơi. Tự ta, ta phải dốc lòng, Vội vã hơn cứu người chết đói. Phần vì giận quân thù ngang dọc, Phần vì lo vận nước khó khăn, Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần, Lúc Khôi Huyện quân không một đội. Trời thử lòng trao cho mệnh lớn Ta gắng trí khắc phục gian nan. Nhân dân bốn cõi một nhà, Dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới Tướng sĩ một lòng phụ tử, Hòa nước sông chén rượu ngọt ngào. Thế trận xuất kỳ, lấy yếu chống mạnh, Dùng quân mai phục, lấy ít địch nhiều. Trọn hay: Đem đại nghĩa để thắng hung tàn, Lấy chí nhân để thay cường bạọ Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật, Miền Trà Lân trúc chẻ tro bay. Sĩ khí đã hăng quuân thanh càng mạnh. Trần Trí, Sơn Thọ nghe hơi mà mất vía, Lý An, Phương Chính, nín thở cầu thoát thân. Thừa thắng đuổi dài, Tây Kinh quân ta chiếm lại, Tuyển binh tiến đánh, Đông Đô đất cũ thu về. Ninh Kiều máu chảy thành sông, tanh hôi vạn dặm Tụy Động thây chất đầy nội, nhơ để ngàn năm. Phúc tâm quân giặc: Trần Hiệp đã phải bêu đầu Mọt gian kẻ thù: Lý Lượng cũng đành bỏ mạng. Vương Thông gỡ thế nguy, Mà đám lửa cháy lại càng cháy Mã Anh cứu trận đánh Mà quân ta hăng lại càng hăng. Bó tay để đợi bại vong, Giặc đã trí cùng lực kiệt, Chẳng đánh mà người chịu khuất, Ta đây mưu phạt tâm công. Tưởng chúng biết lẽ ăn năn Nên đã thay lòng đổi dạ Ngờ đâu vẫn đương mưu tính Lại còn chuốc tội gây oan. Giữ ý kiến một người, Gieo vạ cho bao nhiêu kẻ khác, Tham công danh một lúc, Để cười cho tất cả thế gian. Bởi thế: Thằng nhãi con Tuyên Đức động binh không ngừng Đồ nhút nhát Thạnh, Thăng đem dầu chữa cháy Đinh mùi tháng chín, Liễu Thăng đem binh từ Khâu Ôn kéo lại Năm ấy tháng mười, Mộc Thạnh chia đường từ Vân Nam tiến sang. Ta trước đã điều binh thủ hiểm, Chặt mũi tiên phong Sau lại sai tướng chẹn đường Tuyệt nguồn lương thực Ngày mười tháng tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế Ngày hai mươi, trận Mã Yên, Liễu Thăng cụt đầu Ngày hăm lăm, bá tước Lương Minh đại bại tử vong Ngày hăm tám, thượng thư Lý Khánh cùng kế tự vẫn. Thuận đà ta đưa lưỡi dao tung phá Bí nước giặc quay mũi giáo đánh nhau Lại thêm quân bốn mặt vây thành Hẹn đến giữa tháng mười diệt giặc Sĩ tốt kén người hùng hổ Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh Gươm mài đá, đá núi cũng mòn Voi uống nước, nước sông phải cạn. Dánh một trận, sạch không kình ngạc Đánh hai trận tan tác chim muông. Cơn gió to trút sạch lá khô, Tổ kiến hổng sụt toang đê vỡ. Đô đốc Thôi Tụ lê gối dâng tờ tạ tội, Thượng thư Hoàng Phúc trói tay để tự xin hàng. Lạng Giang, Lạng Sơn, thây chất đầy đường Xương Giang, Bình Than, máu trôi đỏ nước Ghê gớm thay! Sắc phong vân phải đổi, Thảm đạm thay! Ánh nhật nguyệt phải mờ. Bị ta chặn ở Lê Hoa, Quân Vân Nam nghi ngờ, khiếp vía mà vỡ mật Nghe Thăng thua ở Cần Trạm, Quân Mộc Thạnh xéo lên nhau, chạy để thoát thân. Suối Lãnh Câu, máu chảy thành sông, Nước sông nghẹn ngào tiếng khóc Thành Đan Xá, thây chất thành núi, Cỏ nội đầm đìa máu đen. Cứu binh hai đạo tan tành, quay gót chẳng kịp, Quân giặc các thành khốn đốn, cởi giáp ra hàng Tướng giặc bị cầm tù, Như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng Thần vũ chẳng giết hại, Thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh Mã Kỳ, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền, Ra đến biển mà vẫn hồn bay phách lạc, Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa, Về đến nước mà vẫn tim đập chân run. Họ đã tham sống sợ chết mà hòa hiếu thực lòng Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức. Chẳng những mưu kế kì diệu Cũng là chưa thấy xưa nay Xã tắc từ đây vững bền Giang sơn từ đây đổi mới Càn khôn bĩ rồi lại thái Nhật nguyệt hối rồi lại minh Ngàn năm vết nhục nhã sạch làu Muôn thuở nền thái bình vững chắc Âu cũng nhờ trời đất tổ tông Linh thiêng đã lặng thầm phù trợ; Than ôi! Một cỗ nhung y chiến thắng, Nên công oanh liệt ngàn năm Bốn phương biển cả thanh bình, Ban chiếu duy tân khắp chốn. Xa gần bá cáo, Ai nấy đều hay.
Click vào ảnh Nguyễn trải dưới dây để nghe Bình Ngô Đại Cáo
Hịch Tướng Sĩ
- Dụ chư tỳ tướng hịch văn (諭諸裨將檄文), thường được gọi là Hịch Tướng Sĩ, là bài hịch của Trần Hưng Đạo. Dưới đây là bản dịch của Ngô Tất Tố trong “Việt Nam Văn Học: Văn Học Đời Trần” NXB Đại Nam, Sài Gòn, 1960.
Ta thường nghe: Kỷ Tín lấy thân chết thay, cứu thoát được vua Cao-đế; Do Vu chìa lưng chịu giáo che chở được vua Chiêu-vương; Dự Nhượng nuốt than để trả thù cho thầy; Thân Khoái chặt tay để gánh nạn cho nước; Uất Trì Cung một viên tướng nhỏ, còn biết che đỡ Đường-chủ, ra khỏi vòng vây của Thế Sung; Nhan Cảo-Khanh là bầy tôi xa, còn biết mắng chửi Lộc Sơn, không nghe lời dụ của nghịch-tặc. Từ xưa, những bậc trung-thần nghĩa-sĩ, lấy thân theo nước, đời nào là không có đâu? Nếu mấy người kia, chăm chăm học thói dút-dát của con gái trẻ con, chẳng qua cũng đến chết dũ ở dưới cửa sổ, đâu được ghi tên vào trong thẻ tre lụa trắng, danh tiếng cùng trời đất cùng lâu bền?
Các người đời đời là con nhà võ, không biết chữ nghĩa, nghe những chuyện ấy, thảy đều nửa tin nửa ngờ. Thôi thì những việc cổ xưa, hãy để đó không nói đến nữa. Nay ta hãy đem chuyện nước Tống, giống Thát(là chuyện gần đây) kể cho các người cùng nghe: Vương công Kiên là người gì? Nguyễn văn Lập tỳ-tướng của y lại là người gì, chỉ có vòng thành Điếu-ngư nhỏ bằng cái đấu hai người ấy chống nổi toán quân trăm vạn của Mông-kha, khiến cho con dân nước Tống, đến nay hãy còn nhớ ơn. Đường ngột Ngại là người gì? Xích tu Tư tỳ-tướng của y lại là người gì? xông pha lam-chướng trên đuờng muôn dặm, hai người ấy đánh được quân Nam-chiếu trong vài tuần, khiến cho vua chúa giòng Thát nay còn để tiếng!
Huống chi ta với các ngươi, sinh ở buổi rối ren, lớn lên nhằm khi khó nhọc, chính mắt ngó thấy sứ ngụy đi lại, đường xá nghẽn-ngang, chúng múa cái lưỡi cú quạ làm nhục chốn triều-đình, chúng giơ cái thân chó dê, kiêu ngạo với quan tể-phụ; chúng nhờ mệnh lệnh của chúa Mông-Cổ, mà đòi nào ngọc nào lụa, sự vòi vĩnh thật vô cùng; chúng mượn danh hiệu của vua Vân-nam mà hạch nào bạc nào vàng; của kho đụn đã hồ hết Cung-đốn cho chúng giống như đem thịt mà liệng cho cọp đói, sao cho khỏi lo về sau?
Ta thường thì tới bữa quên ăn, giữa đêm vỗ gối, nước mắt tràn xuống đầy mép, tấm lòng đau như bị đâm, vẫn lấy cái sự chưa thể ăn thịt nằm da, nuốt gan uống máu của chúng làm tức. Dẫu cho một trăm cái thân của ta phải đem đốt ở đồng cỏ, một nghìn cái thân của ta phải đem bọc vào da ngựa, ta cũng vui lòng. Các ngươi lâu nay ở dưới cửa ta cầm giữ binh-quyền, thiếu áo thì mặc áo cho, thiếu ăn thì sẻ cơm đỡ, quan nhỏ thì cho lên chức, bổng ít cho thêm lương, đi thủy cấp thuyền, đi bộ cấp ngựa, những khi trận mạc, sự sống thác thầy chung với trò, những lúc mừng khao, tiếng vui cười ai cũng như nấy. So với Công Kiên làm chức thiên-lý, Ngột Ngại ở ngôi phó nhị, có khác gì đâu.
Thế mà các ngươi thấy chủ bị nhục chẳng lấy làm lo, gặp nước bị dơ chẳng lấy làm thẹn, làm tướng nhà nước phải hầu mấy đứa chum mường, mà không có lòng căm hờn, nghe khúc nhạc thờ đem thết một tên ngụy sứ, mà không có vẻ tức giận; kẻ thì chọi gà cho thích, kẻ thì đánh bạc mua vui, có người chỉ chăm vườn ruộng, cốt nuôi được nhà; có người chỉ mến vợ con, lấy mình làm trọng; cũng có kẻ chỉ lo làm giàu làm có, việc quân quốc chẳng thèm đoái hoài, cũng có người chỉ ham về săn-bắn mà quên việc binh, hoặc là đam mùi rượu ngọt, hoặc là mê tiếng hát hay.
Một khi giặc Mông đến nơi, thì cựa con gà nòi không thể đâm thủng áo-giáp của giặc; thuật ở bàn bạc không thể đem làm mưu mẹo ở trong quân; vườn ruộng tuy giàu, tấm thân ấy nghìn vàng khôn chuộc; vợ con tuy sẳn, trong đám ba quân khó dùng, của cải tuy nhiều, không thể mua được đầu giặc; chó săn tuy khỏe, không thể đuổi được quân thù, rượu ngon không đủ để cho giặc phải mê; hát hay không đủ làm cho giặc phải điếc; lúc đó thầy trò ta sẽ cùng bị trói, đáng đau đớn biết chừng nào! Nếu thế, chẳng những là thái-ấp của ta không còn, mà bổng-lộc của các ngươi cũng bị kẻ khác chiếm mất; chẳng những là gia- quyến của ta phải đuổi, mà vợ con của các ngươi cũng bị kẻ khác bắt đi; chẳng những xã tắc của tổ tông ta sẽ bị dày xéo, mà đến mồ mả của cha mẹ ngươi cũng sẽ bị kẻ khác đào lên, chẳng những thân ta kiếp này chịu nhục, và trăm kiếp khác tiếng nhơ khôn rửa, tên xấu vẫn còn, mà gia thanh của các ngươi cũng chẵng khỏi mang tiếng là nhà bại tướng. Đã đến khi đó các ngươi muốn chơi bời cho thỏa, được chăng?
Nay ta bảo rõ các ngươi: cái chuyện dấm lửa đống củi phải lo, mà câu sợ canh thổi rau nên nhớ. Các ngươi hãy nên huấn luyện quân-sĩ, rèn-tập cung tên, khiến cho người người giỏi như Bàng Mông, nhà nhà đều là Hậu Nghệ, bêu đầu Tất-Liệt dưới cửa khuyết, ướp thịt Thoát-Hoan trong trại rơm. Như thế chẳng những là thái-ấp của ta mãi mãi là của gia truyền, mà bổng-lộc các ngươi cũng được suốt đời hưởng thụ; chẳng những gia- quyến của ta được yên giường nệm, mà vợ con các ngươi cũng được sum họp đến già; chẳng những là tông-miếu ta sẽ được muôn đời tế lễ, mà tổ tông các ngươi cũng được thờ cúng quanh năm; chẳng những thân ta kiếp này đắc chí, mà đến các người dưới trăm đời nữa tiếng thơm vẫn lưu truyền; chẳng những tên tuổi ta không bị mai một, mà đến tên họ các người cũng để tiêng thơm trong sử xanh. Khi ấy các ngươi không muốn vui chơi, được chăng?
Nay ta lựa chọn binh pháp các nhà, làm một quyển sách, đặt tên là sách “Binh-thư yếu-lược”. Nếu các ngươi biết chuyên-tập sách ấy, nghe lời dạy-bảo của ta, ấy là duyên thầy trò kiếp xưa; Nếu các ngươi bỏ bê sách ấy, trái lời dạy-bảo của ta, ấy là mối cựu thù kiếp xưa, Sao vậy? Bởi vì như vậy tức là kẻ thù không đội chung trời, thế mà các ngươi không nghĩ tới, điềm nhiên không lo đến sự rửa thẹn, không tinh; đến việc trừ hung, không nhớ đến chuyện dạy-tập quân-sĩ. Thế là giở giáo hàng giặc, nắm tay chống giặc. Rồi đây, sau khi dẹp yên quân giặc, các ngươi sẽ phải thẹn muôn đời, còn mặt-mũi nào đứng giữa khoảng trời đất che chở? Ta muốn các ngươi biết rõ bụng ta, nhân viết mấy lời đó làm hịch.
Hịch Tướng Sĩ
Bản diễn Song thất lục bát
Trong thời quân Nguyên sang xâm chiếm nước ta, sau hội nghị quân sự ở Vạn Kiếp để bàn định kế chống giặc Nguyên, Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn viết “hịch” cho phổ biến trong dân chúng để hiệu triệu các tướng sĩ và nhân dân hãy cương quyết chống xâm lăng. Nội dung bài hịch được cử nhân Nguyễn Văn Bình dịch thành lối song thất lục bát như sau:
Xưa Kỷ Tín liều thân chịu chết, Cứu Hán Vuơng thoát khỏi Hoàng Dương Do Vu cháu Sở Chiêu Vương, Giơ lưng đỡ giáo tìm đường cứu vua. Kìa Dự Nhượng thuở xưa người Tấn, Từng nuốt than lận đận phục thù. Kìa Thân Khoái một Tể Phu, Chặt tay theo nạn với vua Tề. Quan nhỏ nhưa Uất Trì Kính Đức, Giúp Thái Tông khỏi bước trùng vi. Cảo Khanh quan ở biên thùy, Già mồm chửi giặc không hề tiếc thân. Bậc nghĩa sĩ trung thần từ trước, Từng diệt thân cứu nước có nhiều. Những người kia nếu chẳng liều, Chết suông như đám nữ lưu xó nhà. Còn danh tiếng đâu mà chép lại, Cùng kiền khôn truyền mãi không ngần. Các ngươi dòng dõi vũ thần, Xưa này nào có hiểu văn nghĩa gì. Nghe câu chuyện bán nghi bán tin, Sự muôn năm nhắc đến chi vay ? Nay ta hãy nói cho hay, Thử xem Tống, Thát truyện này ra sao ? Vương Công Kiên người nào thế vậy ? Tướng Nguyễn Văn Lập ấy người nào ? Điếu ngư thằng bé tẻo teo, Chống quân Mông Cổ ồn ào trăm muôn. Khiến quân Tống thắng luôn mấy trận, Đến bây giờ dân vẫn hàm ân. Ngột Lang là tướng Đốc Quân, Với Tỳ tướng Xích là nhân phẩm nào ? Ngoài muôn dặm quản bao nước độc, Trong mấy ngày phá rốc quân Nam. Lòng vua Thát Đát đã cam, Đ^ n nay lừng lẫy tiếng thơm nhường nào ? Ta với ngươi sinh vào đời loạn, Vừa gặp bao cơn vận hạn gian nan. Sứ Nguyên lai vãng bao lần, Mọi nơi đường sá muôn vàn nôn nao. Triều đình bị cú diều soi mói, Tể tướng thì lang sói rẻ khinh. Mượn oai Hốt Liệt tranh giành, Lấy bao của báu chưa đành lòng tham. Cậy thế chúa Vân Nam nạt nã, Đòi bạc vàng hết cả kho ta. Thịt nuôi hùm đói mãi a ? Sao cho thoát khỏi lo xa sau này. Ta đây những hàng ngày quên bữa, Lúc đêm thâu ngồi dựa gối kiêu. Giọt châu tầm tã tuôn trào, Như nung gan sắt, như bào lòng son. Chí nhừng muốn moi gan lấy tiết, Lòng những toan xẻ thịt vằm da. Dù thân dầu với cỏ hoa, Dù da ngựa bọc thân đà cũng vui. Các người vốn là người môn thuộc Được trông nom mọi việc binh cơ, Áo không, ta cỡi áo cho, Cơm không, ta sẻ cơm no cho lòng. Quan nhỏ thì ta phong chức cả, Lộc ít thì ta trả lương thêm. Đi sông, ta cấp cho thuyền, Đi đường, ta cũng lệnh truyền ngựa đi. Cho cầm quân an nguy cùng lối, Cho nằm yên, vui nói cùng hàng. So Vương Kiên với Ngột Lang, Đãi chư Tỳ tướng mọi người kém chi. Nếu vua nhục ngươi thì chẳng đoái, Mà nước nguy, ngươi lại làm ngơ, Đừng hầu tướng giặc không dơ, Nghe ca thết sứ vẫn trơ táo ngồi Khi gà chọi, khi thời cờ bạc, Cuộc vui chơi, gỡ gạc đủ trò. Ruộng vườn muôn sự ấm no, Vợ con vui thú riêng cho một mình. Ham lập nghiệp, quên tình nhà, nước, Mãi đi săn, nhác việc ngăn, ngừa. Rượu chè hôm sớm say sưa, Hát hay, đàn ngọt sớm trưa thỏa lòng Đúng có lúc quân Mông, Thát tới, Cựa gà không chọc nỗi áo da, Những nghề cờ bạc tinh ma, Phải đâu kế hoạch của nhà cầm quân ? Ruộng nương nào đủ phần chuộc mạng, Vợ con nào đủ cáng quân nhu ? Của đâu chuốc được đầu thù ? Chó săn đâu đủ sức khua giặc trời ? Rượu ngon khó làm mồi bã giặc, Hát hay không làm điếc tai thù. Bây giờ chẳng sót lắm ru ? Vua tôi bị trói gô một đàn ! Tước ấp ta bị tan nát cả, Bổng lộc người cũng chẳng còn gì Gia đình ta bị đuổi đi, Vợ ngươi cũng phải đến khi nhục nhằn Tông xã ta, địch quân xéo đi, Phần mộ ngươi cũng bị quật lên. Đời ta khổ nhục liên miên, Cái tên nhơ nhuốc lưu truyền mãi sau ! Nhà các ngươi cũng đều mang tiếng, Không khỏi làm những tướng bị thua. Các ngươi đang lúc bây giờ, Muốn mong vui thích như xưa được nào ? Lời ta nhũ thấp ca ngươi nhớ, Phải coi nằm trên lửa là nguy. Kiềng canh đưa cũng thổi xùy, Luyện quân sĩ tốt tập nghề đao cung. Khiến ai nấy nức lòng mạnh mẽ, Sức Bàn Mông, Hậu Nghệ cũng ham. Bêu đầu Hốt Liệt cho cam, Phơi luôn thịt chúa Vân Nam bên đường. Tước ấp ta chăn thường ấm chỗ, Bổng lộc ngươi hưởng có trọn đời Gia đình ta được yên vui, Vợ con ngươi cũng lo đời trăm năm. Tông miếu ta nghìn năm hương lửa, Tổ tiên ngươi muôn thuở cương thường, Ta đây phỉ chí bồng tang, Các ngươi dường cũng vẻ vang vô cùng. Huy hiệu ta tôn sùng mãi mãi Tính danh ngươi ghi với sử xanh. Bấy giờ vui thú linh đình, Các ngươi đều muốn buồn tênh được nào ? Này binh pháp soạn theo đời trước, Là “Binh Thư Yếu Lược” ban ra, Các ngươi theo đúng sách ta, Ấy là thần, chủ một nhà từ xưa. Nếu bỏ sách thờ ơ lời dạy, Ấy kẻ thù đã mấy đời nay, Tại sao mà lại thế vầy ? Là thù không đội trời này được chung. Nếu các ngươi lòng không biết hổ, Không coi đều “sát Lỗ” là cần, Lại không vâng dạy luyện quân, Ấy là quay giáo, bó thân quy hàng. Giặn yên rồi còn mang tiếng mãi, Mặt mũi nào đứng với ca cao đây ? Muốn ngươi hiểu rõ lòng đây, Vậy nên thảo bức hịch nầy cho nghe.
Click vào ảnh Trần Hưng Đạo dưới đây để nghe Hịch Tướng Sĩ
Từ khóa » Bài Thơ Hịch Tướng Sĩ Của Trần Hưng đạo
-
Hịch Tướng Sĩ - Trần Quốc Tuấn
-
Trích đoạn Hịch Tướng Sĩ | Trần Hưng Đạo | Lịch Sử Việt Nam
-
Hịch Tướng Sĩ Của Trần Quốc Tuấn - VnExpress
-
Hịch Tướng Sĩ - Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn
-
Hịch Tướng Sĩ (Ngô Tất Tố Dịch) – Wikisource Tiếng Việt
-
Tran Hung Dao : Hich Tuong Si ! - Free
-
BÀI “HỊCH TƯỚNG SĨ” CỦA TRẦN HƯNG ĐẠO Ppsx - 123doc
-
Người Dịch 'Hịch Tướng Sĩ' Của Trần Hưng Đạo Ra Thơ
-
Bài Thơ Hịch Tướng Sĩ Của Trần Quốc Tuấn - Kiemvuongchimong
-
Hịch Tướng Sĩ – Wikipedia Tiếng Việt
-
Hịch Tướng Sĩ — Tiếng Việt - Radio Free Asia
-
Hịch Tướng Sĩ - Tác Phẩm Văn Học Kinh điển Của Việt Nam
-
Tác Giả Của Bài Hịch Tướng Sĩ Là Ai? Tác Dụng Của Bài Thơ Này đến Với ...