Bộ đề Thi NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ - O₂ Education

Các dạng đề thi Người lái đò sông Đà

  • Dạng 1: Nghị luận ý kiến bàn về văn học. Có những nội dung chính cần ôn tập như: nhân vật ông lái đò,vẻ đẹp sông Đà, hoặc ý kiến bàn về giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm này.
  • Dạng 2: Dạng đề so sánh. Ví dụ: So sánh Huấn Cao ( Chữ người tử tù ) và ông lái đò. Ví dụ khác: So sánh hai đoạn văn miêu tả sông Đà và Sông Hương ( Ai đã đặt tên cho dòng sông– Hoàng Phủ Ngọc Tường)
  • Dạng 3: Cảm nhận về đoạn trích văn xuôi. Ví dụ: Đề bài trích dẫn đoạn văn miêu tả dòng sông, hoặc đoạn miêu tả cuộc chiến của ông lái đò với dòng sông, và yêu cầu học sinh nêu cảm nhận.Một số đoạn trọng tâm:
    • Cảm nhận đoạn văn: “Hùng vĩ của Sông Đà không phải chỉ có thác đá… gậy đánh phèn”
    • Cảm nhận đoạn văn: “Thạch trận dàn bày vừa xong…Thế là hết thác”. (Đoạn này chủ yếu phân tích cảnh vượt thác của người lái đò.
    • Cảm nhận đoạn: “Con sông Đà tuôn dài…nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”. (Chủ yếu là vẻ đẹp trữ tình)
  • Dạng 4: Cảm nhận về hình tượng Sông Đà, hình tượng ông lái đò.

Với tác phẩm này, các em chú ý phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân, đây cũng là nội dung cơ bản thường xuất hiện trong đề thi, như đề Đề Văn Nam Định 2022 lớp 12 đợt 1.

Mở bài NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ

  • MB1: Pautopxki từng nói “Niềm vui của nhà văn chân chính là niềm vui của người dẫn đường đến xứ sở cái đẹp”. Hơn ai hết, Nguyễn Tuân chính là nhà văn như thế. Ông là người theo chủ nghĩa duy mĩ với quan niệm cuộc đời là một cuộc hành trình đi tìm cái đẹp và “Suốt đời tôn thờ và phụng sự cái đẹp”. Mỗi tác phẩm của ông là một bài ca về cái đẹp của con người, của cuộc sống với tình cảm, sự gắn bó sâu nặng với quê hương, đất nước. Nguyễn Tuân được người đọc đặc biệt chú ý về phong cách nghệ thuật rất riêng và rất độc đáo mà phong cách ấy được gắn với chữ “ngông” và sự tài hoa, uyên bác. Nếu như trước cách mạng, văn học của Nguyễn Tuân chạm đến lòng người bởi vẻ đẹp tài hoa của những con người “một thời vang bóng” như Huấn Cao thì sau cách mạng, ông khiến người đọc rung cảm bởi sự tinh tế và tài năng trong việc vẽ nên những nét đẹp gân guốc nhưng gần gũi, bình dị của thiên nhiên và đời sống con người. “Người lái đò sông Đà” là tác phẩm tiêu biểu cho sáng tác của Nguyễn Tuân sau cách mạng.
  • MB2: Từ Vang bóng một thời (1940) đến Sông Đà (1960), con đường sáng tạo văn chương cùa Nguyễn Tuân đã trải qua 20 năm tròn. Tùy bút Sông Đà làm cho chân dung văn học của Nguyễn Tuân thêm tươi sáng, rạng rỡ. Với 15 tùy bút và một bài thơ phác thảo, Sông Đà đã khẳng định vị trí vẻ vang của Nguyễn Tuân trong lịch sử văn học Việt Nam hiện đại, tô đậm một phong cách nghệ thuật uyên bác, độc đáo và tài hoa để ta thêm yêu mến tự hào.Người lái đò Sông Đà rút trong tập tùy bút Sông Đà thể hiện cá tính sáng tạo của Nguyễn Tuân trên một tầm cao phát triển mới. Là nhà văn của những tính cách phi thường, Nguyễn Tuân phát hiện, miêu tả con người Tây Bắc mang bao phẩm chất tuyệt đẹp mà ông gọi đó là “chất vàng mười” của tâm hồn. Là một con người yêu thiên nhiên tha thiết, ông nói về cảnh sắc sông Đà với những phát hiện hết sức tinh tế và độc đáo về núi và sông, về cây cỏ trên một vùng đất nước bao la, hùng vĩ và thơ mộng.

Kết bài NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ

Nhà phê bình người Nga Bêlinxki viết: “Tác phẩm nghệ thuật sẽ chết nếu nó miêu tả cuộc sống chỉ để miêu tả, nếu nó không phải là tiếng thét khổ đau hay lời ca tụng hân hoan, nếu nó không đặt ra những câu hỏi hoặc trả lời những câu hỏi đó”. Và quả thực tùy bút “Người lái đò Sông Đà” của Nguyễn Tuân là một tác phẩm như thế! Trong suốt quá trình dài của thời gian, “Người lái đò Sông Đà” của Nguyễn Tuân vẫn luôn vẹn nguyên và sống mãi trong lòng người đọc về một tác phẩm cũng như một nhà văn đa tài đã làm tôn lên vẻ đẹp của thiên nhiên của xứ xở Tây Bắc nói riêng và thiên nhiên đất nước nói chung.

Nguyễn Tuânlà nhà văn có một cuộc đời lao động nghệ thuật khổ hạnh, một trí thức tâm huyết với nghề. Người đọc yêu hơn, trân trọng hơn phẩm chất, cốt cách của con người đáng quý này.

Bộ đề Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân

Đề bài Người lái đò sông Đà số 1

Hùng vĩ của sông Đà không phải chỉ có thác đá. Mà nó còn là những cảnh đá bờ sông, dựng vách thành, mặt sông chỗ ấy lúc chỉ đúng ngọ mới có mặt trời. Có vách đá thành chẹt lòng Sông Đà như một cái yết hầu. Đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách. Có quãng con nai con hỗ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia. Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào vửa tắt phụt đèn điện.

Lại như quãng mặt ghềnh Hát Loóng, dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ suýt bất cứ người lái đò Sông Đà nào tóm được qua đấy. Quãng này mà khinh suất tay lái thì cũng dễ lật ngửa bụng thuyền ra.

Lại như quãng Tà Mường Vát phía dưới Sơn La. Trên sông bỗng có những cái hút nước giống như cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu. Nước ở đây thở và kêu như cửa sống cái bị sặc. Trên mặt cái hút xoáy tít đáy, cũng đang quay lừ lừ những cánh quạ đàn. Không thuyền nào dám men gần những cái hút nước ấy, thuyền nào qua cũng chèo nhanh để lướt quãng sông, y như ô tô sang số ấn ga cho nhanh để vút qua một quãng đường mượn cạp ra ngoài bờ vực. Chèo nhanh và tay lái cho vững mà phòng qua cái giếng sâu, những cái giếng sâu nước ặc ặc lên như rót dầu sôi vào. Những bè gỗ rừng đi nghênh ngang vô ý là những cái giếng hút ấy nó lôi tụt xuống. Có những thuyền đã bị cái hút nó hút xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông đến mươi phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới. Tôi sợ hãi mà nghĩ đến một anh bạn quay phim táo tợn nào muốn truyền cảm giác lạ cho khán giả, đã dũng cảm ngồi vào một cái thuyền thúng tròn vành rồi cho cả thuyền cả mình cả máy quay xuống đáy hút Sông Đà-từ đây cái hút nhìn ngược lên vách thành hút mặt sông chênh nhautới một cột nước cao đến vài sải. Thế rồi thu ảnh. Cái thuyền xoay tít, những thước phim màu cũng quay tít, cái máy lia ngược contre-plonggée lên một cái mặt giếng mà thành giếng xây toàn bằng nước sông xanh ve một áng thuỷ tinh khối đúc dày, khối pha lê xanh như sắp vỡ tan ụp vào cả máy cả người quay phim cả người đang xem. Cái phim ảnh thu được trong lòng giếng xoát tít đáy, truyền cảm lại cho người xem phim kí sự thấy mình đang lấy gân ngồi giữ chặt ghế như ghì lấy mép một chiếc lá rừng bị vứt vào một cốc pha lê nước khổng lồ vừa rút lên cái gậy đánh phèn.

(Người lái đò sông Đà, Nguyễn Tuân)

Cảm nhận của anh/ chị vẻ đẹp hình tượng sông Đà ở đoạn trích trên đây. Từ đó, nhận xétvề cách nhìn mang tính phát hiện về dòng sông Đà và cái Tôi của nhà văn Nguyễn Tuân.

I. MỞ BÀI

– Giới thiệu tác giả, tác phẩm: Tk Mở bài chung

– Đoạn trích sau đây trong “Người lái đò Sông Đà” thể hiện rõ cách nhìn mang tính phát hiện của nhà văn Nguyễn Tuân về dòng sông Đà: “Hùng vĩ… đánh phèn”.

II. THÂN BÀI

1. Khái quát

– Hoàn cảnh ra đời: Tùy bút Người lái đò Sông Đà được in trong tập tùy bút Sông Đà (1960), gồm 15 bài tùy bút và một bài thơ ở dạng phác thảo. Tác phẩm được viết trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Đó là kết quả của chuyến đi thực tế của nhà văn đến Tây Bắc trong kháng chiến chống Pháp, đặc biệt là chuyến đi thực tế năm 1958. Nguyễn Tuân đến với nhiều vùng đất khác nhau, sống với bộ đội, công nhân và đồng bào các dân tộc. Thực tiễn xây dựng cuộc sống mới ở vùng cao đã đem đến cho nhà văn nguồn cảm hứng sáng tạo.

– Nội dung: Nguyễn Tuân là một nhà văn yêu nước, giàu lòng tự hào dân tộc. Tình yêu nước ấy cũng được biểu hiện trước hết ở tình yêu thiên nhiên tha thiết. Khám phá về sông Đà – dòng chảy dữ dội của núi rừng Tây Bắc là một thành công đặc sắc của ông trong tùy bút “Người lái đò sông Đà”. Chỉ có Nguyễn Tuân mới không nhọc công dò đến ngọn nguồn lạch sông, truy tìm đến tận nơi gốc tích khai sinh ra sông Đà, để biết chỗ phát nguyên của nó thuộc huyện Cảnh Đông và thoạt kì thủy, dòng sông mang những cái tên Trung Hoa khá thơ mộng: Li Tiên, Bả Biên Giang. Cũng chưa có nhà văn nào trước Nguyễn Tuân có thể kể tên vanh vách 50/73 con thác lớn nhỏ nằm lô nhô suốt một dải sông từ Lai Châu về đến chợ Bờ.

– Lời đề từ “Chúng thủy giai đông tẩu – Đà giang độc bắc lưu”: Nhà văn Nguyễn Tuân đã đặc biệt muốn nhấn mạnh cá tính độc đáo của của dòng sông. Sông Đà khác hẳn các dòng sông khác bởi nếu tất cả các dòng sông khác đều chảy về hướng đông thì riêng Sông Đà chạy về hướng bắc. Có lẽ vì con sông đặc biệt như vậy nên nó trở thành đối tượng rất phù hợp với cá tính sáng tạo của Nguyễn Tuân, nó được tác giả tìm đến để thể hiện cá tính nghệ thuật của mình.Ở lời đề từ“Đẹp vậy thay tiếng hát trên dòng sông” tác giả lạithể hiện xúc cảm mãnh liệt trước vẻ đẹp của dòng sông và con người gắn bó với dòng sông, bộc lộ rõ cảm hứng chủ đạo của tác phẩm là ngợi ca thiên nhiên và con người Tây Bắc.

Nguyễn Tuân lànhà văn theo chủ nghĩa xê dịch và ưa cảm giác mạnh. Giống như các nhà văn theo chủ nghĩa xê dịch, Nguyễn Tuân thích đi nhiều để thay đổi cảm giác cho các giác quan. Ông không thích những gì bình thường và tầm thường nên đối tượng mà ông miêu tả đã đẹp thì phải đẹp đến mức tuyệt mĩ, dữ dội phải đến mức khủng khiếp và tài năng phải đến mức siêu phàm. Con sông Đà của Tây Bắc rất phù hợp với mĩ cảm của nhà văn nên bằng quan sát tỉ mỉ, sự liên tưởng, tưởng tượng phong phú và tài năng nghệ thuật xuất sắc nhà văn Nguyễn Tuân đã xây dựng con sông Đà thành một hình tượng nghệ thuật hấp dẫn, biến nó từ vật vô tri vô giác thành một sinh thể có sức sống, có tâm trạng và tính cách. Có lẽ cũng vì thế tác giả gọi nó là “con” và viết hoa tên của nó thành Sông Đà. Con Sông Đà hiện lên trong tác phẩm với hai nét tính cách nổi bật là hung bạo và trữ tình. Hai nét tính cách tưởng chừng như đối lập nhưng lại cùng tồn tại trong một hình tượng nghệ thuật. Sông Đà rất hung dữ, hiểm ác gây tai họa cho con người nhưng cũng là một công trình nghệ thuật tuyệt vời của tạo hóa, vừa hùng vĩ vừa thơ mộng tạo nên chất men say cho con người trong cuộc sống. Đoạn trích nêu trên nằm trong phần miêu tả tính cách hung bạo của Đà giang.

2. Hình tượng conSông Đà qua đoạn trích

Nhận xét đầu tiên của nhà văn về dòng sông Đà ở đây là “Hùng vĩ của sông Đà không phải chỉ có những thác đá”. Câu văn đã khẳng định sông Đà là dòng sông hùng vĩ và hẳn là vẻ hùng vĩ ấy được thể hiện rõ nhất ở những thác đá trên sông. Nhưng hùng vĩ của sông Đà không chỉ có thế mà còn thể hiện rõ qua cảnh đá bờ sông dựng vách thành, những ghềnh sông, hút nước được miêu tả trong đoạn trích.

2.1. Cảnh đá bờ sông dựng vách thành

Sông Đà ở quãng này chảy qua vùng rừng núi Tây Bắc và hình ảnh “vách thành” đã phần nào thể hiện sự vững chãi thâm nghiêm và sức mạnh bí ẩn đầy đe dọa của những vách núi bên bờ sông Đà. Tác giả đã dùng những chi tiết tưởng như bâng quơ, ngẫu nhiên nhưng lại có giá trị gợi tả gián tiếp độ hẹp của dòng sông, độ cao của vách đá. Chẳng hạn, mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời. Những vách đá dựng đứng khiến ánh sáng mặt trời ở đây chỉ có vào lúc giữa trưa, tức là khi mặt trời chiếu sáng theo phương thẳng đứng mới có thể lọt xuống dòng sông. Hoặc cách so sánh vách đá thành chẹt lòng sông Đà như một cái yết hầu – động từ “chẹt” cùng với việc đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách hoặc Có quãng con nai con hỗ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia đã đem đến ấn tượng mãnh liệt cho người đọc về độ hẹp của lòng sông với lưu tốc nước chảy mạnh khi bị vách đá chèn ép tới nghẹt thở. Nguyễn Tuân là nhà văn của những cảm giác mạnh và ông thường miêu tả thế giới sự vật thông qua cảm giác. Bằng cảm giác của xúc giác nhà văn miêu tả ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh. Ấn tượng của thị giác được thể hiện khi lấy hè phố để miêu tả mặt sông, lấy nhà cao gợi tả vách đá, truyền cho người đọc những hình dung về cái tăm tối lạnh lẽo đột ngột khi con thuyền đi từ ngoài vào khúc sông có đá hun hút dựng vách thành qua hình ảnh so sánh về một khung cửa sổ nào trên cái tầng thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện.

2.2. Mặt ghềnh Hát Loóng

Dòng sông Đà lắm thác nhiều ghềnh vốn đã từng được nhắc đến trong ca dao:

Đường lên Mường Lễ bao xa

Trăm bảy cái thác, trăm ba cái ghềnh

Nhà văn Nguyễn Tuân trong tác phẩm có thể kể vanh vách hơn bảy mươi cái thác trên sông Đà. Đáng chú ý, ở quãng Hát Loóng có những ghềnh sông mà cảnh tượng của nó rất dữ dội Lại như quãng mặt ghềnh Hát Loóng, dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm… Thông qua sự miêu tả của Nguyễn Tuân, những ghềnh sông ấy không chỉ dữ dội mà còn đầy nguy hiểm. Cách nhà văn sử dụng toàn câu ngắn, nhịp nhanh xô nhau, dồn dập, chồng chất lên nhau kết hợp với các thanh sắc, những từ ngữ trùng điệp nối tiếp thế chỗ nhau trong các cụm từ ngữ đã tái hiện sinh động quần thể những sức mạnh thiên nhiên dữ dội nhất của nước, sóng, gió, và đá sông Đà. Từ láy “gùn ghè” và hình ảnh so sánh mang đậm sắc thái nhân hóa về việc sóng gió trên mặt ghềnh Hát Loóng lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò sông Đà nào tóm được qua đấy đã thể hiện sinh động sự hung hãn lì lợm và cuồng bạo của dòng sông. Qua từ “nợ xuýt”, nhà văn đóng góp thêm vào Từ điển tiếng Việt một từ mới mẻ, độc đáo vì nợ không có vẫn đòi, không đòi bằng tiền, bằng tình mà đòi bằng mạng sống của con người. Những người lái qua đó sơ xuất tay lái thì sẽ bị lật ngửa bụng thuyền ra.

2.3. Hút nước trên sông Đà

Trên Sông Đà còn có những hút nước rất nguy hiểm. Những cái hút nước xoáy tít đáy ấy được tác giả miêu tả qua một loạt những so sánh sống động, đặc sắc. Nó giống như những cái giếng bê tông được người ta thả xuống sông để chuẩn bị xây móng cầu, với âm thanh thở và kêu như cửa cống cái bị sặc, trong âm thanh như nước bị rót dầu sôi. Các từ láy tượng hình “lừ lừ”, từ láy tượng thanh tăng nghĩa “ặc ặc” cùng biện pháp nhân hóa khi miêu tả nước thở và kêu, bị sặc… Tất cả góp phần làm hiện ra cả hình ảnh và âm thanh của hút nước như một quái vật đang giận dữ.

Sự nguy hiểm của những hút nước sông Đà được nhà văn miêu tả qua kiến thức về giao thông, giúp người đọc dễ dàng hình dung ra cảm giác hãi hùng nếu phải đi thuyền men gần hút nước đáng sợ ấy. Thuyền bè đi ngang qua đó phải đi nhanh, y như là ô tô sang số ấn ga cho nhanh để thoát khỏi quãng đường mượn cạp ra ngoài bờ vực. Nguy hiểm hơn nữa là thuyền bè đi nghênh ngang là sẽ bị nó “lôi tuột xuống” đáy hút nước. Khi bị hút vào đó, lập tức thuyền trồng cây chuối, bị dìm sống đi ngầm dưới lòng sông, mươi phút sau lại thấy xuất hiện nhưng đã tan xác ở khuỷnh sông dưới.

Dường như miêu tả bằng hình ảnh, âm thanh chưa đủ, Nguyễn Tuân còn dùng những kiến thức về điện ảnh, những liên tưởng phong phú và đặc biệt là cảm giác mạnh để miêu tả những nước trên Sông Đà. Nhà văn liên tưởng đến việc có một anh quay phim táo bạo vì muốn truyền cảm giác lạ cho người xem nên đã ngồi vào chiếc thuyền thúng tròn vành rồi cả thuyền, cả mình, cả máy quay xuống xoáy hút Sông Đà để thu ảnh. Đây hẳn là một giả tưởng li kì dẫn dụ người đọc vào trò chơi cảm giác, kéo họ xuống tận đáy hút nước xoáy tít, sâu hoắm cùng một anh bạn quay phim táo tợn. Hút nước được miêu tả bằng thủ pháp điện ảnh, hất ngược từ dưới lên một cách sống động, truyền cảm từ hình khối của một thành giếng xây toàn bằng nước cho đến màu sắc của dòng sông “nước xanh ve”, và thậm chí cho đến cả cảm giác sợ hãi rất chân thực của con người khi Cái thuyền xoay tít, những thước phim màu cũng quay tít, khi phải đứng trong lòng một khối pha lê xanh như sắp vỡ tan, bất cứ lúc nào cũng như sắp đổ ụp vào người. Những thước phim ấy truyền cảm lại cho người xem những cảm giác rất mạnh như đang lấy gân ngồi giữ chặt chiếc ghế như ghì lấy mép một chiếc lá rừng vừa bị vứt vào một chiếc cốc pha lê nước khổng lồ vừa rút lên cái gậy đánh phèn.

3. Đánh giá

3.1. Về nghệ thuật

Bằng thể tùy bút phóng túng, vốn kiến thức phong phú, đa dạng trên nhiều lĩnh vực, tác giả đã khám phá vẻ đẹp của dòng sông ở góc độ địa lí nhưng đậm chất văn chương, kết hợp với nhiều ngành nghệ thuật khác như giao thông, âm nhạc, hội hoạ, điện ảnh, đầy ấn tượng; Sự quan sát tỉ mỉ, sự liên tưởng, tưởng tượng phong phú, ngôn ngữ tài hoa, điêu luyện giàu chất thơ, chất nhạc, chất tạo hình; Cách sử dụng nghệ thuật khắc họa hình tượng tự nhiên, những ví von, so sánh, liên tưởng, tưởng tượng độc đáo, bất ngờ và rất thú vị; Từ ngữ phong phú, sống động, giàu hình ảnh và có sức gợi cảm cao; Câu văn đa dạng, nhiều tầng, giàu nhịp điệu, lúc thì hối hả, gân guốc, khi thì chậm rãi, trữ tình… tác giả đã biến con sông đà từ vô tri vô giác thành con sông có những nét cá tính riêng biệt mà không con sông nào có.

3.2. Nhận xét những phát hiện về dòng sông Đà của nhà văn Nguyễn Tuân

Tả sự hung bạo của sông Đà, tác giả không chỉ dừng lại ở hình ảnh một dòng sông ở miền đất Tây Bắc hoang sơ hùng vĩ mà nhằm làm nổi bật sông Đà như một biểu tượng về sức mạnh dữ dội và vẻ đẹp hùng vĩ, hoang sơ của thiên nhiên, đất nước. Qua cái nhìn của Nguyễn Tuân, Sông Đà không còn là con sông vô tri, vô giác mà là con sông có linh hồn, có cá tính như con người: hung bạo, dữ dằn, hùng vĩ. Sông Đà hiện lên như một công trình kiến trúc tuyệt vời mà tạo hóa dành riêng cho mảnh đất Tây Bắc. Nó còn như một sinh thể có hồn, gần gũi, gắn bó với đất và người nơi đây.

Qua hình tượng Sông Đà, Nguyễn Tuân thể hiện tình yêu mến tha thiết đối với thiên nhiên đất nước. Với ông, thiên nhiên cũng là một tác phẩm nghệ thuật vô song của tạo hóa. Cảm nhận và miêu tả Sông Đà, Nguyễn Tuân đã chứng tỏ sự tài hoa, uyên bác và lịch lãm. Hình tượng Sông Đà là trong tác phẩm có vai trò là phông nền cho sự xuất hiện và tôn vinh vẻ đẹp của người lao động trong chế độ mới.

3.3. Cái Tôi của nhà văn Nguyễn Tuân được thể hiện qua đoạntrích:

– “Cái tôi” tài hoa, tinh tế thể hiện ở những rung động, say mê của nhà văn trước vẻ đẹp hùng vĩ của thiên nhiên đất nước.

– “Cái tôi” uyên bác thể hiện ở cách nhìn và sự khám phá hiện thực có chiều sâu; ở sự vận dụng kiến thức sách vở và các tri thức của đời sống một cách đa dạng, phong phú; ở sự giàu có về chữ nghĩa. Các thuật ngữ chuyên môn của các ngành quân sự, điện ảnh, thể thao,… được huy động một cách hết sức linh hoạt nhằm diễn tả một cách chính xác và ấn tượng những cảm giác về đối tượng.

– “Cái tôi” tài hoa, tinh tế và uyên bác chính là một cách thể hiện tình yêu quê hương đất nước, lòng yêu cái đẹp của người nghệ sĩ chân chính. Đồng thời cũng cho thấy quan niệm của Nguyễn Tuân: viết văn là để khẳng định sự đọc đáo của chính người cầm bút.

———————————————

Đề bài Người lái đò sông Đà số 2

… Còn xa lắm mới đến cái thác dưới. Nhưng đã thấy tiếng nước réo gần mãi lại, réo to mãi lên. Tiếng thác nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo. Thế rồi nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng. Tới cái thác rồi. Ngoặt khúc sông lượn, thấy sóng bọt đã trắng xóa cả một chân giời đá. Đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng sông, hình như mỗi lần có chiếc thuyền nào xuất hiện ở quãng ầm ầm mà quạnh hiu này, mỗi lần có chiếc nào nhô vào đường ngoặt sông là một số hòn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền. Mặt hòn đá nào trông cũng ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó hơn cả cái mặt nước chỗ này. Mặt sông rung tít lên như tuyếc-bin thủy điện nơi đáy hầm đập. Mặt sông trắng xóa càng làm bật rõ lên những hòn những tảng mới trông tưởng như nó đứng nó ngồi nó nằm tùy theo sở thích tự động của đá to đá bé. Nhưng hình như sông Đà đã giao việc cho mỗi hòn. Mới thấy rằng đây là nó bày thạch trận trên sông. Đám tảng đám hòn chia làm ba hàng chặn ngang trên sông đòi ăn chết cái thuyền, một cái thuyền đơn độc không còn biết lùi đi đâu để tránh một cuộc giáp lá cà có đá dàn trận địa sẵn. Hàng tiền vệ, có hai hòn canh một cửa đá trông như là sơ hở, nhưng chính là hai đứa giữ vai trò dụ cái thuyền đối phương đi vào sâu nữa, vào tận tuyến giữa rồi nước sóng luồng mới đánh khuýp quật vu hồi lại. Nếu lọt vào đây rồi mà cái thuyền du kích ấy vẫn chọc thủng được tuyến hai, thì nhiệm vụ của những boong-ke chìm và pháo đài đá nổi ở tuyến ba là phải đánh tan cái thuyền lọt lưới đá tuyến trên, phải tiêu diệt thuyền trưởng cùng tất cả thủy thủ ngay ở chân thác. Thạch trận dàn bày vừa xong thì cái thuyền vụt tới. Phối hợp với đá, nước thác reo hò làm thanh viện cho đá, những hòn đá bệ vệ oai phong lẫm liệt. Một hòn ấy trông nghiêng thì y như là đang hất hàm hỏi cái thuyền phải xưng tên tuổi trước khi giao chiến. Một hòn khác lùi lại một chút và thách thức cái thuyền có giỏi thì tiến gần vào. ..

(Người lái đò sông Đà, Nguyễn Tuân)

Cảm nhận của anh/ chị vẻ đẹp hình tượng sông Đà ở đoạn trích trên đây. Từ đó, nhận xétphong cách tài hoa, uyên bác của nhà văn Nguyễn Tuân.

I. MỞ BÀI

– Giới thiệu tác giả, tác phẩm: Tk Mở bài chung

– Đoạn trích sau đây trong “Người lái đò Sông Đà” thể hiện rõ phong cách tài hoa uyên bác của nhà văn Nguyễn Tuân: “Còn xa lắm… tiến gần vào”.

II. THÂN BÀI

1. Khái quát

– Hoàn cảnh ra đời: Tùy bút Người lái đò Sông Đà được in trong tập tùy bút Sông Đà (1960), gồm 15 bài tùy bút và một bài thơ ở dạng phác thảo. Tác phẩm được viết trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Đó là kết quả của chuyến đi thực tế của nhà văn đến Tây Bắc trong kháng chiến chống Pháp, đặc biệt là chuyến đi thực tế năm 1958. Nguyễn Tuân đến với nhiều vùng đất khác nhau, sống với bộ đội, công nhân và đồng bào các dân tộc. Thực tiễn xây dựng cuộc sống mới ở vùng cao đã đem đến cho nhà văn nguồn cảm hứng sáng tạo.

– Nội dung: Nguyễn Tuân là một nhà văn yêu nước, giàu lòng tự hào dân tộc. Tình yêu nước ấy cũng được biểu hiện trước hết ở tình yêu thiên nhiên tha thiết. Khám phá về sông Đà – dòng chảy dữ dội của núi rừng Tây Bắc là một thành công đặc sắc của ông trong tùy bút “Người lái đò sông Đà”. Chỉ có Nguyễn Tuân mới không nhọc công dò đến ngọn nguồn lạch sông, truy tìm đến tận nơi gốc tích khai sinh ra sông Đà, để biết chỗ phát nguyên của nó thuộc huyện Cảnh Đông và thoạt kì thủy, dòng sông mang những cái tên Trung Hoa khá thơ mộng: Li Tiên, Bả Biên Giang. Cũng chưa có nhà văn nào trước Nguyễn Tuân có thể kể tên vanh vách 50/73 con thác lớn nhỏ nằm lô nhô suốt một dải sông từ Lai Châu về đến chợ Bờ.

– Lời đề từ “Chúng thủy giai đông tẩu – Đà giang độc bắc lưu”: Nhà văn Nguyễn Tuân đã đặc biệt muốn nhấn mạnh cá tính độc đáo của của dòng sông. Sông Đà khác hẳn các dòng sông khác bởi nếu tất cả các dòng sông khác đều chảy về hướng đông thì riêng Sông Đà chạy về hướng bắc. Có lẽ vì con sông đặc biệt như vậy nên nó trở thành đối tượng rất phù hợp với cá tính sáng tạo của Nguyễn Tuân, nó được tác giả tìm đến để thể hiện cá tính nghệ thuật của mình.Ở lời đề từ“Đẹp vậy thay tiếng hát trên dòng sông” tác giả lạithể hiện xúc cảm mãnh liệt trước vẻ đẹp của dòng sông và con người gắn bó với dòng sông, bộc lộ rõ cảm hứng chủ đạo của tác phẩm là ngợi ca thiên nhiên và con người Tây Bắc.

Nguyễn Tuân lànhà văn theo chủ nghĩa xê dịch và ưa cảm giác mạnh. Giống như các nhà văn theo chủ nghĩa xê dịch, Nguyễn Tuân thích đi nhiều để thay đổi cảm giác cho các giác quan. Ông không thích những gì bình thường và tầm thường nên đối tượng mà ông miêu tả đã đẹp thì phải đẹp đến mức tuyệt mĩ, dữ dội phải đến mức khủng khiếp và tài năng phải đến mức siêu phàm. Con sông Đà của Tây Bắc rất phù hợp với mĩ cảm của nhà văn nên bằng quan sát tỉ mỉ, sự liên tưởng, tưởng tượng phong phú và tài năng nghệ thuật xuất sắc nhà văn Nguyễn Tuân đã xây dựng con sông Đà thành một hình tượng nghệ thuật hấp dẫn, biến nó từ vật vô tri vô giác thành một sinh thể có sức sống, có tâm trạng và tính cách. Có lẽ cũng vì thế tác giả gọi nó là “con” và viết hoa tên của nó thành Sông Đà. Con Sông Đà hiện lên trong tác phẩm với hai nét tính cách nổi bật là hung bạo và trữ tình. Hai nét tính cách tưởng chừng như đối lập nhưng lại cùng tồn tại trong một hình tượng nghệ thuật. Sông Đà rất hung dữ, hiểm ác gây tai họa cho con người nhưng cũng là một công trình nghệ thuật tuyệt vời của tạo hóa, vừa hùng vĩ vừa thơ mộng tạo nên chất men say cho con người trong cuộc sống. Đoạn trích nêu trên nằm trong phần miêu tả tính cách hung bạo của Đà giang.

2. Hình tượng sông Đà trong đoạn trích

2.1. Khái quát

Từ trước đến nay, khi viết về các dòng sông các nhà văn nhà thơ thường ca ngợi vẻ đẹp trữ tình, hiền hòa, thơ mộng. Cũng có một số nhà văn, nhà thơ miêu tả cảnh dữ dội, hiểm trở, trùng trùng lớp lớp của những khúc đại giang, của những cảnh thác ghềnh dữ dội như “Bạch đằng giang phú” của Trương Hán Siêu, “Bạch đằng Hải khẩu” của Nguyễn Trãi… Nhưng có lẽ chỉ đến “Người lái đò sông Đà” của Nguyễn Tuân thì sự hiểm trở, hung bạo và dữ dội của con sông mới trở nên sống động và thật khủng khiếp. Trong đoạn văn này, bậc kì tài về mặt ngôn ngữ Nguyễn Tuân khi miêu tả những thác đá trên sông Đà đã làm nổi bật lên hình ảnh con sông Đà không chỉ gập ghềnh, lởm chởm mà còn đầy nguy hiểm, sống dậy gào thét làm náo động cả lên, khiến cho người đọc phải “rùng mình, sởn gáy” (Nguyễn Đăng Mạnh).

2.2. Tiếng nước thác trên Sông Đà:

Sông Đà hung bạo không chỉ ở những cảnh đá bờ dựng vách thành, những ghềnh sông, hút nước đầy nguy hiểm mà hùng vĩ và dữ dội nhất trên sông Đà là những thác đá. Những thác đá trên sông Đà được nhà văn miêu tả chi tiết qua âm thanh, cảnh tượng và sự nguy hiểm đến kinh hoàng của nó. Trước tiên nhà văn cảm nhận nó qua âm thanh. Chủ thể miêu tả đang trong quá trình di chuyển đến gần cái thác đá, và âm thanh tiếng nước thác được miêu tả phù hợp về khoảng cách và cường độ. Ban đầu, có lẽ là nghe từ xa thì tiếng nước thác Như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo. Rồi khi lại gần, tiếng thác rống như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng. Nguyễn Tuân đã rất ngông khi dùng lửa để miêu tả nước. Nước và lửa vốn xung khắc với nhau, hủy diệt lẫn nhau nhưng ở đây nhà văn đã dùng hình ảnh và âm thanh của lửa để miêu tả nước khiến hiện ra trước mắt người đọc là cả một rừng vầu, tre nứa đang bị đốt cháy, phát ra tiếng nổ. Nhưng âm thanh đó còn chưa là gì khi trong khu rừng đang cháy ấy còn có hàng ngàn con trâu mộng to khỏe đang bị lửa hun nóng và đốt cháy. Lửa đã bén vào da của đàn trâu khiến chúng rống lên đầy đau đớn và lồng lộn muốn phá tan rừng lửa để tìm cách thoát thân. Miêu tả từ xa đến gần nên lúc đầu là tiếng “réo” còn về sau trở thành tiếng “rống”. Đây là cách dùng từ rất chính xác và bất ngờ, khiến sông Đà từ một đối tượng vô tri vô giác trở thành một sinh thể có tính cách và tâm lí, như một con người. Các sắc thái khác nhau của âm thanh tiếng “réo” của nước thác: vừa mới “oán trách” và “van xin” như một kẻ bại trận, biết mình yếu thế hơn đối thủ; ngay lập tức chuyển sang “khiêu khích” và “chế nhạo” rồi “rống” lên như một kẻ trên cơ, ra sức giễu cợt, đe dọa đối phương. Bản hợp âm khủng khiếp và đòn tâm lí chiến trở mặt như trở bàn tay ấy cho thấy sự nham hiểm, xảo quyệt của sông Đà khi sắp xung trận. Những người lái đò yếu bóng vía và non kinh nghiệm sẽ cảm thấy mất tinh thần, hồn xiêu phách lạc.

Quả thật, sức mạnh hoang dã của tự nhiên qua tài đối sánh, nhân hóa và trí tưởng tượng phong phú, độc lạ của Nguyễn Tuân đã cho người đọc một cảm giác mạnh đến tận độ. Như vậy, chỉ riêng với âm thanh của thác đá sông Đà, Nguyễn Tuân đã gây ấn tượng trong người đọc về sự dữ dội đến khủng khiếp của những thác đá Sông Đà.

2.3.Những thạch trận đá trên sông Đà

Tiếp theo là những ấn tượng từ sự quan sát trực quan của tác giả khi đã “Tới cái thác rồi”. Cảnh tượng những thác đá trên Sông Đà cũng thật dữ dội. Ngoặt tới khúc sông ấy là cảnh sóng bọt đã trắng cả một chân trời đá. Sóng nước vấp phải đá tung bọt trắng xóa. Sông Đà ở đây bao nhiêu là đá với đủ những đá to đá bé, đá hòn đá tảng… mà thằng đá nào trông cũng ngỗ ngược, xấc xược, hỗn hào, du côn và mặt cũng nhăn nhúm, méo mó hơn mặt nước ở quãng ấy. Dưới ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân, mỗi hòn đá không chỉ mang những nét chung ấy mà còn có một gương mặt riêng. Để khắc họa từng gương mặt riêng của những hòn đá trên thác đá Sông Đà, Nguyễn Tuân đã phải lao động cật lực, khổ công quan sát và tung ra trường từ vựng hết sức giàu có, phong phú. Phép liên tưởng và nhân hóa, kết hợp với những động từ, tính từ: chỉ hành động (nhổm cả dậy, vồ lấy, chặn ngang, dụ, đánh khuýp quật vu hồi, đánh tan, tiêu diệt), chỉ tính cách (ngỗ ngược), hình sắc (nhăn nhúm, méo mó, to, bé), tư thế (đứng, ngồi, nằm) khiến người đọc cảm nhận Sông Đà mang gương mặt của dân anh chị, những kẻ côn đồ chuyên đi đòi nợ thuê bặm trợn và sẵn máu giang hồ.

Sự nham hiểm quỷ quyệt của Sông Đà đối với những người lái đò được thể hiện rõ nhất ở những thế trận mà đá dàn bày. Đội quân đá ấy ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng sông. Đá sông Đà dường như không đứng, nằm, ngồi một cách tùy tiện mà Sông Đà đã giao việc cho mỗi hòn. Mỗi hòn một dáng (đứng, nằm, ngồi), mỗi hòn một nhiệm vụ (đám tảng đám hòn chia làm ba hàng chặn ngang trên sông: hàng tiền vệ là hai hòn canh một cửa đá trông như là sơ hở giữ vai trò dụ cái thuyền đối phương đi vào sâu nữa; tuyến giữa sóng nước đánh khuýp quật vu hồi lại, tuyến ba là những boong-ke chìm và pháo đài đá nổi có nhiệm vụ phải đánh tan cái thuyền lọt lưới đá tuyến trên).

Đá trên sông Đà đã giao việc cho nhau như vậy để dàn bày thành ba thạch trận đá đầy biến hóa. Mỗi thạch trận đều có rất nhiều cửa tử và chỉ có duy nhất một cửa sinh. Cửa sinh lúc ở bên tả, lúc ở bên hữu, lúc ở chính giữa. Thạch trận thứ nhất: Sông Đà bày ra năm cửa trận, có bốn cửa tử, một cửa sinh, cửa sinh nằm lập lờ phía tả ngạn sông. Thạch trận thứ hai: “Tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào, và cửa sinh lại bố trí lệch qua phía bờ hữu ngạn. Dòng thác hùm beo hồng hộc tế mạnh trên sông đá đánh khuýp quật vu hồi chiếc thuyền”. Đến thạch trận thứ ba: Ít cửa hơn, bên phải bên trái đều là luồng chết cả. Cái luồng sống ở chặng ba này lại ở ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác. Tại đây những boong-ke chìm và pháo đài đá nổi ở đầu chân thác phải đánh tan cái thuyền, tiêu diệt cả thủy thủ và thuyền trưởng trên chiếc thuyền ấy.

Có thể nói, bằng vốn kiến thức phong phú, sự tài hoa, uyên bác Nguyễn Tuân đã sử dụng kiến thức ở nhiều lĩnh vực như giao thông, điện ảnh, quân sự, võ thuật (“mai phục”, “chặn ngang”, “canh”, “đánh tan”, “tiêu diệt”, sóng: “đánh khuýp quật vu hồi”, “đánh giáp lá cà”, “đòn tỉa”, “đòn âm”)… làm hiện lên hình tượng con Sông Đà dữ dội, hung bạo đến khủng khiếp. Con Sông Đà như một loài thủy quái, hung hăng, bạo ngược, là một thứ thiên nhiên Tây Bắc với “diện mạo và tâm địa một thứ kẻ thù số một”. Con sông mà “hằng năm và đời đời kiếp kiếp làm mình làm mẩy với con người Tây Bắc và phản ứng giận dỗi vô tội vạ với người lái đò Sông Đà”. Chẳng thế mà sông Đà được gắn với câu đồng dao thần thoại Sơn Tinh Thủy Tinh:

Núi cao sông hãy còn dài

Năm năm báo oán đời đời đánh ghen.

3. Đánh giá

3.1. Nghệ thuật

Nguyễn Tuân đã dùng hết bút lực để thi tài với tạo hoá. Ông dùng những câu góc cạnh, giàu tính tạo hình, những câu nhiều động từ mạnh nối tiếp nhau, dồn dập; sử dụng lối nói ví von, ẩn dụ, tượng trưng, liên tưởng đầy bất ngờ, chính xác, thú vị; vận dụng hiểu biết của nhiều ngành khác nhau: địalý,l ịch sử, hội họa, văn chương và những tri thức về tự nhiên để khắc họa vẻ đẹp của sông Đà. Cùng với nghệ thuật nhân hóa, liên tưởng phong phú, ngòi bút miêu tả độc đáo, con sông Đà từ một đối tượng vô tri vô giác, khi bước vào trang văn Nguyễn Tuân đã trở thành một sinh thể có tính cách và tâm lí rất ghê gớm, đáng sợ.

3.2. Nội dung

Đoạn trích là khúc ca ca ngợi vẻ đẹp hung bạo, đầy cá tính của sông Đà, biểu tượng cho vẻ đẹp hùng vĩ, dữ dội của thiên nhiên Tây Bắc. Đó chính là sức mạnh của thiên nhiên mà con người cần chinh phục và cũng là niềm tự hào của tác giả về Tổ quốc hùng vĩ, giàu đẹp. Qua đó ta có thể hình dung những vất vả gian lao mà những người lái đò phải vượt qua, từ đó ta càng khâm phục hơn ý chí kiên cường và tài trí của họ trong việc chinh phục con sông, bắt nó phải quy phục và cống hiến cho cuộc sống của con người.

3.3. Nhận xét về phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân

– Hình ảnh sông Đà hung dữ ở một mức độ ghê gớm, hơn tất cả mọi con sông đã được tái hiện trong văn học, là bởi vì cảm quan sáng tác của Nguyễn Tuân chỉ hứng thú với những vẻ đẹp vượt lên mức bình thường, gây ấn tượng mãnh liệt.

– Biểu hiện phong cách tài hoa, uyên bác của nhà văn Nguyễn Tuân: Ông không chấp nhận sự sáo mòn. Ông luôn tìm kiếm những cách thức thể hiện, những đối tượng mới mẻ. Nhà văn luôn tiếp cận sự vật ở phương diện văn hóa thẩm mĩ, có ấn tượng với những sự vật gây cảm giác mạnh (Sông Đà là một sinh thể như vậy). Ông có xu hướng muốn tô đậm cái cá tính, phi thường của dòng sông Đà để gây cảm giác mãnh liệt, dữ dội. Tác giả bộc lộ sự tinh vi trong mĩ cảm với trường liên tưởng phong phú, ngôn ngữ vừa phong phú vừa tinh tế. Một cái tôi uyên bác khi huy động mọi kiến thức thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau để khắc họa hình tượng sông Đà. Nét độc đáo kết hợp với sự tài hoa và uyên bác trong ngòi bút Nguyễn Tuân khiến cho hình tượng sông Đà trở nên đặc sắc và đáng nhớ.

– Phong cách nghệ thuật đã thể hiện rõ Nguyễn Tuânlà nhà văn có ý thức tự khẳng định cá tính độc đáo của mình. Chứng tỏ ông là người có một lòng yêu quê hương đất nước tha thiết, một cuộc đời lao động nghệ thuật khổ hạnh, một trí thức tâm huyết với nghề. Người đọc yêu hơn, trân trọng hơn phẩm chất, cốt cách của con người đáng quý này.

————————————————————-

Đề bài Người lái đò sông Đà số 3

…Sóng thác đã đánh đến miếng đòn hiểm độc nhất, cả cái luồng nước vô sở bất chí ấy bóp chặt lấy hạ bộ người lái đò […]. Mặt sông trong tích tắc lòa sáng lên như một cửa bể đom đóm rừng ùa xuống mà châm lửa vào đầu sóng. Nhưng ông đò vẫn cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái, mặt méo bệch đi như cái luồng sóng đánh hồi lùng, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm vào chỗ hiểm. Tăng thêm mãi lên tiếng hỗn chiến của nước của đá thác. Nhưng trên cái thuyền sáu bơi chèo, vẫn nghe rõ tiếng chỉ huy ngắn gọn tỉnh táo của người cầm lái. Vậy là phá xong cái trùng vi thạch trận vòng thứ nhất. Không một phút nghỉ tay nghỉ mắt, phải phá luôn vòng vây thứ hai và đổi luôn chiến thuật. Ông lái đã nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá. Ông đã thuộc quy luật phục kích của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này. Vòng đầu vừa rồi, nó mở ra năm cửa trận, có bốn cửa tử một cửa sinh, cửa sinh nằm lập lờ phía tả ngạn sông. Vòng thứ hai này tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào, và cửa sinh lại bố trí lệch qua phía bờ hữu ngạn. Cưỡi lên thác sông Đà, phải cưỡi đến cùng như là cưỡi hổ. Dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông đá. Nắm chặt lấy được cái bờm sóng đúng luồng rồi, ông đò ghì cương lái, bám chắc lấy cái luồng nước đúng mà phóng nhanh vào cửa sinh, mà lái miết một đường chéo về phía cửa đá ấy. Bốn năm bọn thủy quân cửa ải nước bên bờ trái liền xô ra định níu thuyền lôi vào tập đoàn cửa tử. Ông đò vẫn nhớ mặt bọn này, đứa thì ông tránh mà rảo bơi chèo lên, đứa thì ông đè sấn lên mà chặt đôi ra để mở đường tiến. Những luồng tử đã bỏ hết lại sau thuyền. Chỉ còn vẳng reo tiếng hò của sóng thác luồng sinh. Chúng vẫn không ngớt khiêu khích, mặc dầu cái thằng đá tướng đứng chiến ở cửa vào đã tiu nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng thua cái thuyền đã đánh trúng vào cửa sinh nó trấn lấy. Còn một trùng vây thứ ba nữa. Ít cửa hơn, bên phải bên trái đều là luồng chết cả. Cái luồng sống ở chặng ba này lại ở ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác. Cứ phóng thẳng thuyền, chọc thủng cửa giữa đó. Thuyền vút qua cổng đá cánh mở cánh khép. Vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được lượn được. Thế là hết thác….

(Trích Người lái đò sông Đà – Nguyễn Tuân, Ngữ văn 12, tập một)

Phân tích nhân vật ông lái đò trong đoạn trích trên đây. Từ đó, nhận xétcái nhìn mang tính phát hiện về con người của nhà văn Nguyễn Tuân.

(Có thể hỏi theo cách khác: khám phá về người lao động mới hoặc tìm thấy chất vàng mười đã qua thử lửa trong tâm hồn Tây Bắc)

I. MỞ BÀI

– Giới thiệu tác giả, tác phẩm: Tk Mở bài chung

– Đoạn trích sau đây trong “Người lái đò Sông Đà” đã làm nổi bật vẻ đẹp của nhân vật ông lái đò, thể hiện cái nhìn mang tính phát hiện về con người của nhà văn Nguyễn Tuân: “…Sóng thác đã đánh đến miếng đòn… Thế là hết thác””.

II. THÂN BÀI

1. Khái quát (Có thể lược ngắn gọn hơn)

– Hoàn cảnh ra đời: Tùy bút Người lái đò Sông Đà được in trong tập tùy bút Sông Đà (1960), gồm 15 bài tùy bút và một bài thơ ở dạng phác thảo. Tác phẩm được viết trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Đó là kết quả của chuyến đi thực tế của nhà văn đến Tây Bắc trong kháng chiến chống Pháp, đặc biệt là chuyến đi thực tế năm 1958. Nguyễn Tuân đến với nhiều vùng đất khác nhau, sống với bộ đội, công nhân và đồng bào các dân tộc. Thực tiễn xây dựng cuộc sống mới ở vùng cao đã đem đến cho nhà văn nguồn cảm hứng sáng tạo.

Lời đề từ: Hai câu đề từ của tác phẩm đã không chỉ thể hiện nguồn cảm hứng mà còn nêu lên được những ý nghĩa chủ đề của tác phẩm. Ngay từ câu để từ đầu tiên trong tác phẩm nhà văn Nguyễn Tuân đã viết: “Đẹp vậy thay tiếng hát trên dòng sông”. Có ý kiến cho rằng lời đề từ này là để ca ngợi vẻ đẹp trữ tình, thơ mộng của dòng sông Đà. Nhưng không chỉ vậy, nó còn gợi liên tưởng về hình ảnh con người lao động trên dòng sông. Tiếng hát ở đây là lời ngợi ca con người trong lao động, chinh phục tự nhiên để xây dựng cuộc sống. Lời đề từ “Đẹp vậy thay tiếng hát trên dòng sông” còn gợi hình ảnh đẹp về con người trong lao động, sản xuất mà ở đây nhà văn Nguyễn Tuân muốn nhắc đến hình ảnh ông lái đò trong tác phẩm. Câu đề từ thứ hai nhấn mạnh vẻ đẹp đầy cá tính, dữ dội của dòng sông Đà để từ đó ta có thể hình dung những vất vả gian lao mà những người lái đò phải vượt qua, càng khâm phục hơn ý chí kiên cường và tài trí của họ trong việc chinh phục con sông, bắt nó phải quy phục và cống hiến cho cuộc sống của con người.

– Giới thiệu về nhân vật trong tác phẩm: Nhân vật ông lái đò không có tên tuổi, lai lịch cụ thể mà chỉ được gọi bằng nghề nghiệp. Nhà văn đã làm mờ tên tuổi của nhân vật để khái quát vẻ đẹp của con người Tây Bắc, vẻ đẹp của những người lao động bình dị mà phi thường. Nhà văn Nguyễn Tuân giới thiệu “Ông lái đò Lai Châu bạn tôi” khoảng 70 tuổi. Ông đã làm nghề lái đò trên Sông Đà được hơn mười năm, đã xuôi ngược trên dòng sông Đà hàng trăm chuyến để trở thành da trâu, xương hổ, cánh kiến về xuôi và ông cũng đã không lái đò được khoảng 10 năm. Ở tuổi 70, ngoại hình của ông lái đò được nhà văn miêu tả: cái đầu bạc quắc thước, đôi tay dài lêu nghêu trông rất trẻ trung, đôi chân khuỳnh khuỳnh như kẹp lấy một cuống lái trong tưởng tượng. Nhãn giới vòi vọi như lúc nào cũng chờ đợi một cái bến tưởng tượng trong sương mù, giọng nói ào ào như nước mặt gềnh… Có thể nói ngoại hình của ông lái đò là ngoại hình của một người lao động trên sông nước. Trên ngực còn ông nổi một số “củ nâu” thương tích mà Nguyễn Tuân rất ngưỡng mộ gọi là “thứ huân chương lao động siêu hạng”.

Giống như hầu hết các nhân vật của Nguyễn Tuân như Huấn Cao với nét chữ rồng bay phượng múa, nói lên cái hoài bão tung hoành của cả cuộc đời con người, giống như một cụ ấm thức dậy từ tờ mờ sáng đã pha trà để nhận ra trong chén trà “có mùi thơ và một triết lý”… Hình tượng ông lái đò Tây Bắc cũng là một người nghệ sĩ trong công việc, nghề nghiệp của mình. Ông là tay lái ra hoa, là một người nghệ sĩ trong nghệ thuật vượt thác qua ghềnh, Để làm nổi bật tài hoa, trí dũng của ông lái đò, nhà văn Nguyễn Tuân đã sáng tạo ra tình huống nghệ thuật ông lái đò vượt thác Sông Đà là một một cuộc thủy chiến có một không hai trong lịch sử văn học, giữa một bên là thủy quái sông Đà với sức mạnh ghê gớm, tâm địa xảo trá và một bên là ông lái đò tuy dẻo dai, cường tráng nhưng đơn độc trong cuộc chiến gay go, quyết liệt.

2. Vẻ đẹp của ông đò trong đoạn trích

2.1. Tái hiện hình ảnh ông lái đò trong cuộc giao tranh với dòng Sông Đà

Đoạn văn đã tái hiện cuộc giao chiến của ông lái đò với dòng sông Đà một cách sinh động, đầy gay cấn. Sông Đà trong đoạn trích hiện nguyên hình là một kẻ thù số một của con người, như một bầy thủy quái rất nham hiểm, chúng bày sẵn những thạch trận đá đầy biến hóa với mục đích ăn chết cái thuyền, tiêu diệt thủy thủ và thuyền trưởng ở ngay chân thác.

Thạch trận thứ nhất: Ở thạch trận thứ nhất, Sông Đà hiện lên là một đối thủ kiên cường, lắm mưu nhiều kế: nó mở ra năm cửa trận, có bốn cửa tử một cửa sinh, cửa sinh nằm lập lờ phía tả ngạn sông. Cảnh hỗn chiến ác liệt bởi Sóng thác đã đánh đến miếng đòn hiểm độc nhất rồi lạiđánh hồi lùng, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm vào chỗ hiểm. Thác nước reo hò làm thanh viện Tăng thêm mãi lên tiếng hỗn chiến của nước của đá thác, chúng tạo ra cảnh tượng đầy đe dọa Mặt sông trong tích tắc lòa sáng lên như một cửa bể đom đóm rừng ùa xuống mà châm lửa vào đầu sóng. Một bên giao chiến nữa là ông lái đò. Trước sự tấn công đầy dữ dội của dòng sông, ông lái đò đã bị thương, mặt méo bệch đi nhưng ông cố nén vết thương, hai tay giữ chặt mái chèo, chân kẹp chặt lấy cuống lái. Bằng thể chất dẻo dai, cường tráng, sức chịu đựng phi thường và bằng sự bình tĩnh, tự tin trên chiếc thuyền sáu bơi chèo vẫn vang lên tiếng chỉ huy ngắn gọn, dứt khoát của người cầm lái ông lái đò đã vượt qua thạch trận thứ nhất một cách bình tĩnh, chủ động.

Thạch trận thứ hai: Không được nghỉ tay nghỉ mắt, ông lái đò bước vào ngay thế trận thứ hai. Thế trận này tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào, và cửa sinh lại bố trí lệch qua phía bờ hữu ngạn, vẫn chỉ có một cửa sinh còn lại đều là luồng chết. Thác nước Sông Đà được so sánh với sức mạnh của hổ báo và chúng tấn công những người lái đò một cách quyết liệt với dòng thác hùm beo hồng hộc tế mạnh trên sông đá. Nhưng bằng nghệ thuật lái đò điêu luyện, ông lái đò chủ động thế tấn công, ông cưỡi lên sóng thác sông Đà như là cưỡi hổ, “Nắm chặt lấy bờm sóng”, “ghì cuống lái”, “lái biết một đường chéo để phóng nhanh vào cửa sinh”. Hàng loạt động từ được nhà văn huy động như một đội quân ngôn ngữ hùng hậu để miêu tả khí thế xung trận của ông đò: Nắm, ghì, phỏng, lái, tránh, ráo, đè, chặt… Dù ông đò đã bẻ gãy những đợt tấn công của chúng, nhưng bọn đá sông Đà vẫn chưa chấp nhận chịu thua nên bốn năm thủy quân cửa ải xô ra để hòng lôi thuyền vào tập đoàn cửa tử nhưng ông đò sớm đã nhận ra dã tâm của chúng, đứa thì ông tránh mà rảo bơi chèo, lúc thì ông chặt đôi ra để mở đường tiến, khiến thằng đá tướng đứng chiến ở cửa đá này mặt xanh lè, tiu nghỉu vì thất trận.

Thạch trận thứ ba: Thạch trận thứ ba ít cửa hơn. Nhưng bên phải bên trái, bên tả bên hữu đều là cửa chết. Những thế trận mà sông Đà dàn bày quả thực đầy biến hóa, vừa khiêu khích, dụ dỗ vừa đầy mưu cao kế hiểm. Ở trùng vi thạch trận này, tác giả miêu tả không nhiều song vẫn làm nổi bật lên được sự nham hiểm của đá thác Sông Đà và tài nghệ của ông lái đò. Một loạt các động từ lại được nhà văn sử dụng để miêu tả cách đánh của ông đò: Phóng, chọc thủng, xuyên qua, xuyên nhanh, lái lượn được.. phối hợp phép điệp “cánh mở, cánh khép”, “cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng”, âm thanh “vút vút” tạo nên sự thần tốc trong cách đánh. Quả đúng như Phan Huy Đông đã từng nhận định, “Đọc Người lái đò Sông Đà, ta có ấn tượng rõ rệt về sự tự do của một tài năng, một đấng hóa công thực sự trong nghệ thuật ngôn từ”. Cách đánh nhanh thắng nhanh đã giúp người lái đò vượt qua các trùng vi một cách phi thường. Đến đây, người lái đò đã khiến nhà văn, khiến người đọc và có lẽ là cả đội quân đá trên sông Đà phải hoàn toàn tâm phục khẩu phục. Ông đã bộc lộ hết tài năng của mình, thể hiện một trình độ chèo lái điêu luyện, dạn dày, siêu phàm như đua tài cùng tạo hóa. Tài nghệ đến mức điêu luyện của ông đã khiến việc lái đò như biến thành một môn nghệ thuật: Thuyền vút qua cổng đá cánh mở cánh khép. Vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được lượn được. Thế là hết thác….

=> Có thể nói quy luật trên Sông Đà là một quy luật khắc nghiệt chỉ cần thiếu bình tĩnh, một chút nghỉ tay, nghỉ mắt, lỡ tay là phải trả giá bằng cả mạng sống. Tuy nhiên, trong cuộc chiến không cân sức giữa một bên là thiên nhiên dữ dội với một bên là ông lão đơn độc chỉ có mái chèo là vũ khí duy nhất, chiến thắng đã thuộc về con người.

2.2. Đánh giá về đẹp của ông lái đò

“Nếu Xuân Diệu xem tình yêu là tôn giáo thì Nguyễn Tuân xem cái đẹp như là tôn giáo của mình” (Gs Trần Đình Sử). Thật vậy, Nguyễn Tuân là một người nghệ sĩ tài hoa, suốt đời đi tìm cái đẹp, là người nghệ sĩ ý thức đầy đủ về thiên chức sáng tạo. Trong hành trình sáng tạo nghệ thuật, ông luôn tìm mọi cách để kiếm tìm và phát hiện cái đẹp, cái thật, cái mới lạ, độc đáo “xưa nay chưa từng có”. Rõ ràng qua cách miêu tả đến tột cùng sự dữ dội của con sông và cuộc giao chiến giữa những người lái đò với dòng sông hung bạo, Nguyễn Tuân nhằm đến một mục đích lớn là ca ngợi vẻ đẹp của ông lái đò, ca ngợi sự dũng cảm, tài trí và chiến thắng vĩ đại của ông.

Tài hoa: Nguyễn Tuân quan niệm “mỗi trang đời là một trang nghệ thuật”, con người trong tác phẩm của ông dù làm bất cứ công việc gì, ở tầng lớp nào đều là bậc nghệ sĩ trong công việc, nghề nghiệp của mình. Qua sự miêu tả của Nguyễn Tuân, công việc lái đò đã trở thành một nghệ thuật và trình độ lái đò của ông lái đò đã đạt đến sự siêu phàm. Tài hoa của ông lái đò được thể hiện rõ:

+ Ông lái đò rất am hiểu về dòng sông Đà Ông lái đã nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá. Ông đã thuộc quy luật phục kích của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này, ông cũng nhớ mặt của từng thằng đá với những âm mưu của chúng Ông đò vẫn nhớ mặt bọn này nên rất ung dung chủ động. Hình ảnh ông lái đò vì thế được đánh giá “trên thác hiên ngang người lái đò sông Đà có tự do, vì người lái đò ấy đã nắm được cái quy luật tất yếu của dòng nước Sông Đà”.

+ Ông lái đò đã trở thành một nghệ sĩ điêu luyện trong nghệ thuật vượt thác qua ghềnh, một tay lái ra hoa. Việc đưa con thuyền tìm đúng luồng nước, vượt qua bao cạm bẫy của thạch trận sông Đà quả thực là một nghệ thuật cao cường từ một tay lái điêu luyện.

Nhà văn đã sử dụng ngôn từ có tính nghệ thuật cao để miêu tả tài năng của ông lái đò như “Ông lái đò ghì cương lái”, lái miết một đường chéo”, “đè sấn lên”, “chặt đôi ra để mở đường tiến”, “thuyền như một mũi tên xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái lượn được”…

+ Hình tượng ông lái đò in đậm dấu ấn phong cách Nguyễn Tuân bởi ông chính là kiểu người tài hoa, nghệ sĩ, biết nâng nghề nghiệp của mình lên thành một môn nghệ thuật. Và điều đáng chú ý ở đây là những con người tài hoa, nghệ sĩ được miêu tả không phải là những con người vĩ đại, phi thường mà là những con người bình dị, thậm chí vô danh.

Trídũng: Để làm nổi bật vẻ đẹp trí dũng của ông lái đò, nhà văn đã sáng tạo một đoạn văn tràn đầy không khí trận mạc, đã tưởng tượng ra cuộc chiến đấu ác liệt giữa người lái đò với “bầy thủy quái” Sông Đà. Sông Đà dữ dội, hiểm độc với trùng trùng, lớp lớp dàn trận bủa vây, có sự hợp sức của nhiều thế lực: sóng, nước, đá…còn ông đò là một viên tướng dũng cảm tả xung hữu đột, tỉnh táo nhanh nhẹn, quyết đoán chỉ huy và điều khiển con thuyền qua nhiều vòng, nhiều cửa và cuối cùng ông lái đò đã chiến thắng. Nhà văn Nguyễn Tuân cũng tung ra những kiến thức về quân sự, võ thuật, thể hiện một vốn kiến thức rất phong phú uyên bác để làm nổi bật vẻ đẹp như một anh hùng trên sông nước của ông lái đò.

3. Đánh giá về đoạn trích

3.1. Về nghệ thuật:

Với tình huống đầy thử thách giúp nhân vật bộc lộ phẩm chất, lối dựng cảnh đặc sắc, giàu giá trị tạo hình, cách kể chuyện kịch tích, các phép liên tưởng tưởng tượng độc đáo, đầy bất ngờ và thú vị, các biện pháp tu từ so sánh, nhân hóa, điệp ngữ, sử dụng tri thức ở nhiều lĩnh vực như điện ảnh, võ thuật, thể thao; nghệ thuật xây dựng nhân vật chú trọng tô đậm nét tài hoa nghệ sĩ; ngôn ngữ sống động, biến hóa phong phú, những câu văn co duỗi nhịp nhàng, giàu hình ảnh và sắc thái, mà nói như nhà thơ Phạm Tiến Duật là những câu nói “tỉa tót mà vẫn mạch lạc góp phần miêu tả cuộc chiến hào hùng và khẳng định vẻ đẹp tài hoa, trí dũng của nhân vật.

3.2. Cách nhìn mang tính phát hiện về con người của nhà văn Nguyễn Tuân.

– Qua nhân vật ông lái đò, Nguyễn Tuân có cách nhìn mang tính phát hiện về người lao động mới: Ông đò chính là biểu tượng cho vẻ đẹp tâm hồn của người lao động miền Tây Bắc âm thầm, giản dị, bình thường, nhỏ bé nhưng đã làm nên những kì tích lớn lao trong công cuộc chiến đấu với thiên nhiên hung dữ. Hình tượng ông lái đò nơi thác sông Đà hoang vu, khuất nẻo là bản anh hùng ca ca ngợi con người, là bức tượng đài sừng sững về con người trong công việc lao động chính phục tự nhiên để giành lấy miếng cơm manh áo. Thông qua hình tượng ông lái đò, nhà văn Nguyễn Tuân thể hiện sự trân trọng, cảm phục, ca ngợi con người Tây Bắc với chất vàng mười đã qua thử lửa trong tâm hồn, đồng thời thể hiện rõ sự tin tưởng của nhà văn với công cuộc xây dựng đất nước.

– Qua nhân vật ông đò cho thấy sự thay đổi trong cách tiếp cận con người của Nguyễn Tuân sau cách mạng: Trước cách mạng, con người Nguyễn Tuân hướng tới ca ngợi là những “con người đặc tuyển, những tính cách phi thường”. Sau cách mạng, nhân vật tài hoa của Nguyễn Tuân có thể tìm thấy ngay trong công cuộc chiến đấu, lao động hàng ngày của nhân dân.

– Nhà văn bộc lộ quan niệm về con người, tài hoa nghệ sĩ và anh hùng

+ Với Nguyễn Tuân con người dù làm bất cứ nghề nghiệp, công việc nào nếu đạt đến trình độ thành thạo và điêu luyện thì đều rất đáng quý đáng trọng vì khi đó ở họ bộc lộ sự tài hoa nghệ sĩ.

+ Những người tài hoa nghệ sĩ không chỉ có ở những lĩnh vực có tính nghệ thuật mà còn có ở trong những lĩnh vực tưởng không liên quan đến nghệ thuật. Người nghệ sỹ không chỉ là người sáng tạo ra cái đẹp mà còn là người biến công việc lao động của mình trở thành một nghệ thuật…Như ông lái đò trong tác phẩm đã trở thành người nghệ sĩ trong nghệ thuật vượt thác qua ghềnh và biến công việc lái đò thành một nghệ thuật.

+ Những người anh hùng không chỉ có ở nơi chiến trường mà còn có ngày ở trong cuộc sống hằng ngày trong cuộc vật lộn với tự nhiên để giành lấy cuộc sống.

3.3. Phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân

– Đoạn văn góp phần thể hiện phong cách Nguyễn Tuân tài hoa, uyên bác với thể tuỳ bút vừa giàu tính hiện thực, vừa tràn ngập cái tôi phóng túng đầy cảm hứng, say mê…

– Biểu hiện phong cách tài hoa, uyên bác của nhà văn Nguyễn Tuân:Ông không chấp nhận sự sáo mòn. Ông luôn tìm kiếm những cách thức thể hiện, những đối tượng mới mẻ. Nhà văn luôn tiếp cận con người ở phương diện tài hoa, nghệ sĩ. Tác giả bộc lộ sự tinh tế trong mĩ cảm với trường liên tưởng phong phú, ngôn ngữ vừa phong phú vừa điêu luyện. Một cái tôi uyên bác khi huy động mọi kiến thức thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau để khắc họa hình tượng. “Người lái đò sông Đà” tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân sau cách mạng.

—————————————————————

Đề bài Người lái đò sông Đà số 4

Con Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân. Tôi đã nhìn say sưa làn mây mùa xuân bay trên Sông Đà, tôi đã xuyên qua đám mây mùa thu mà nhìn xuống dòng nước Sông Đà. Mùa xuân dòng xanh ngọc bích, chứ nước Sông Đà không xanh màu xanh canh hến của Sông Gâm Sông Lô. Mùa thu nước Sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về. Chưa hề bao giờ tôi thấy dòng Sông Đà đen như thực dân Pháp đã đè ngửa con sông ta ra đổ mực Tây vào mà gọi bằng một cái tên Tây láo lếu, rồi cứ thế mà phiết vào bản đồ lai chữ.

Đã có lần tôi nhìn Sông Đà như một cố nhân. Chuyến ấy ở rừng đi núi cũng đã hơi lâu, đã thấy thèm chỗ thoáng. Mải bám gót anh liên lạc, quên đi mất là mình sắp đổ ra Sông Đà. Xuống một cái dốc núi, trước mắt thấy loang loáng như trẻ con nghịch chiếu gương vào mắt mình rồi bỏ chạy. Tôi nhìn cái miếng sáng lóe lên một màu nắng tháng ba Đường thi “Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu”. Bờ Sông Đà, bãi Sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm trên Sông Đà. Chao ôi, trông con sông, vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng. Đi rừng dài ngày rồi lại bắt ra Sông Đà, đúng thế, nó đằm đằm ấm ấm như gặp lại cố nhân, mặc dầu người cố nhân ấy mình biết là lắm bệnh lắm chứng, chốc chốc dịu dàng đấy, rồi chốc lại bẳn tính và gắt gỏng thác lũ ngay đấy.

(Ngữ văn 12, Tập một, NXB Giáo dục, 2008, tr.191-192)

Cảm nhận vẻ đẹp hình tượng con sông Đà trong đoạn trích trên đây. Từ đó nhận xét về chất thơ trong đoạn trích.

I. MỞ BÀI

– Giới thiệu tác giả, tác phẩm: Tk Mở bài chung

– Đoạn trích sau đây ca ngợi vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của sông Đà thể hiện chất thơ trong sáng tác của Nguyễn Tuân “Con sông Đà tuôn dài…ngay đấy”.

II. THÂN BÀI

1. Khái quát

– Hoàn cảnh ra đời: Tùy bút Người lái đò Sông Đà được in trong tập tùy bút Sông Đà (1960), gồm 15 bài tùy bút và một bài thơ ở dạng phác thảo. Tác phẩm được viết trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Đó là kết quả của chuyến đi thực tế của nhà văn đến Tây Bắc trong kháng chiến chống Pháp, đặc biệt là chuyến đi thực tế năm 1958. Nguyễn Tuân đến với nhiều vùng đất khác nhau, sống với bộ đội, công nhân và đồng bào các dân tộc. Thực tiễn xây dựng cuộc sống mới ở vùng cao đã đem đến cho nhà văn nguồn cảm hứng sáng tạo.

Lời đề từ: “Chúng thủy giai đông tẩu – Đà giang độc bắc lưu”: Nhà văn Nguyễn Tuân đã đặc biệt muốn nhấn mạnh cá tính độc đáo của của dòng sông. Sông Đà khác hẳn các dòng sông khác bởi nếu tất cả các dòng sông khác đều chảy về hướng đông thì riêng Sông Đà chạy về hướng bắc. Có lẽ vì con sông đặc biệt như vậy nên nó trở thành đối tượng rất phù hợp với cá tính sáng tạo của Nguyễn Tuân, nó được tác giả tìm đến để thể hiện cá tính nghệ thuật của mình.Ở lời đề từ“Đẹp vậy thay tiếng hát trên dòng sông” tác giả lạithể hiện xúc cảm mãnh liệt trước vẻ đẹp trữ tình của dòng sông và con người gắn bó với dòng sông ấy, bộc lộ rõ cảm hứng chủ đạo của tác phẩm là ngợi ca thiên nhiên và con người Tây Bắc.

Nguyễn Tuân lànhà văn theo chủ nghĩa xê dịch và ưa cảm giác mạnh. Giống như các nhà văn theo chủ nghĩa xê dịch, Nguyễn Tuân thích đi nhiều để thay đổi cảm giác cho các giác quan. Ông không thích những gì bình thường và tầm thường nên đối tượng mà ông miêu tả đã đẹp thì phải đẹp đến mức tuyệt mĩ, dữ dội phải đến mức khủng khiếp và tài năng phải đến mức siêu phàm. Con sông Đà của Tây Bắc rất phù hợp với mĩ cảm của nhà văn nên bằng quan sát tỉ mỉ, sự liên tưởng, tưởng tượng phong phú và tài năng nghệ thuật xuất sắc nhà văn Nguyễn Tuân đã xây dựng con sông Đà thành một hình tượng nghệ thuật hấp dẫn, biến nó từ vật vô tri vô giác thành một sinh thể có sức sống, có tâm trạng và tính cách. Có lẽ cũng vì thế tác giả gọi nó là “con” và viết hoa tên của nó thành Sông Đà. Con Sông Đà hiện lên trong tác phẩm với hai nét tính cách nổi bật là hung bạo và trữ tình. Hai nét tính cách tưởng chừng như đối lập nhưng lại cùng tồn tại trong một hình tượng nghệ thuật. Sông Đà rất hung dữ, hiểm ác gây tai họa cho con người nhưng cũng là một công trình nghệ thuật tuyệt vời của tạo hóa, vừa hùng vĩ vừa thơ mộng tạo nên chất men say cho con người trong cuộc sống. Đoạn trích nêu trên nằm trong phần miêu tả tính cách trữ tình, thơ mộng của Đà giang.

2. Hình tượng conSông Đà qua đoạn trích: Sông Đà có vẻ đẹp trữ tình, thơ mộng

– Điểm nhìn nghệ thuật: Văn chương luôn đòi hỏi người nghệ sĩ phải tìm tòi những điều mới lạ. Bởi chính sự mới lạ là một trong điều cần có dẫn đến sự thành công trong sáng tác của người nghệ sĩ. Vẫn quan sát con sông Đà ở chiều không gian, nhưng trong tùy bút “Người lái đò Sông Đà”, Nguyễn Tuân đã tạo ra sự mới lạ khi ông quan sát và miêu tả Sông Đà với một điểm nhìn khác biệt là nhìn từ trên cao nhìn xuống. Nếu trước đó nhà văn viết rằng mình ngồi trên máy bay mà quan sát sông Đà Tôi có bay tạt ngang qua sông Đà mấy lần, và cũng là thêm cho mình một góc độ nhìn một cách nhìn về con sông Tây Bắc thì trong đoạn văn này tác giả vẫn thể hiện điểm nhìn ấy: Tôi đã nhìn say sưa làn mây mùa xuân bay trên Sông Đà, tôi đã xuyên qua đám mây mùa thu mà nhìn xuống dòng nước Sông Đà.

– Con sông Đà mang vẻ đẹp của một mĩ nhân: Từ điểm nhìn đặc biệt đó, tác giả đã cho người đọc thấy Sông Đà thật mềm mại, thướt tha chảy dọc trên mảnh đất Tây Bắc rộng lớn. Tác giả còn nhìn thật sâu vào dòng Sông Đà để thấy “con Sông Đà tuôn dài, tuôn dài như một áng tóc trữ tình. Hai từ “tuôn dài” được lặp lại hai lần cho ta thấy được dòng chảy của Sông Đà dường như nó vô cùng, vô tận như không có điểm dừng cùng với nhịp câu toàn là thanh bằng đã phần nào diễn tả sự chảy trôi của con sông sao nó chậm rãi êm đềm đến như thế! Nó thật khác so với sự cuồn cuộn của “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió” của mặt ghềnh Hát Loóng phần thượng nguồn. Không chỉ thế ta còn bắt gặp được sự tài hoa, cái chất “ngông” của Nguyễn Tuân trong cách bỏ dấu câu khiến cho dòng sông nó cứ chảy trôi, chảy trôi êm ả giữa miền đất rộng lớn Tây Bắc. Nhà văn còn so sánh Sông Đà như “một áng tóc trữ tình” làm cho dòng Sông Đà giống như một làn tóc mây thướt tha, bồng bềnh và mang vẻ đẹp của người thiếu nữ kiều diễm. Từ “áng” vừa có sự quen thuộc bởi ta thường bắt gặp từ “áng” ở áng văn, áng thơ vừa có sự mới lạ vì ở đây nó được Nguyễn Tuân gắn với tóc thành “áng tóc trữ tình”. Cả cụm từ ấy đã bộc lộ vẻ đẹp đầy chất thơ, sự trẻ trung và mềm mại đầy nữ tính của con sông Tây Bắc.

– Sông Đà ẩn hiện giữa thiên nhiên Tây Bắc đầy thơ mộng: Sông Đà như mái tóc của người thiếu nữ kiều diễm mà đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân. Vẻ đẹp của dòng sông được tác giả điểm tô như mái tóc được cài lên những những bông hoa đầy sắc màu như màu trắng tinh khôi của hoa ban, màu đỏ thắm của hoa gạo trong tiết tháng Ba. Ngoài ra, dòng sông còn mang vẻ đẹp ấm áp, mơ màng khi nó ẩn hiện giữa mù khói Mèo đốt nương xuân. Vẻ đẹp của dòng sông hài hòa với núi rừng Tây Bắc, được núi rừng điểm tô thêm cho nhan sắc thêm mĩ miều. Có thể nói những câu văn đầu tiên trong đoạn văn này của Nguyễn Tuân xứng đáng được xếp vào những câu văn đẹp được coi là “tờ hoa”, “trang hoa” trong văn học Việt Nam.

– Vẻ đẹp trữ tình của sông Đà được thể hiện qua màu sắc nước: Nhà văn còn có sự quan sát theo chiều thời gian để thấy rõ sự biến đổi khôn lường của màu nước Sông Đà theo mùa. Khi miêu tả sắc nước Sông Đà Nguyễn Tuân đã bộc lộ sự mê hoặc trước khi miêu tả sắc nước Sông Đà trong hai mùa: xuân và thu: “Tôi đã nhìn say sưa làn mây mùa xuân bay trên Sông Đà, tôi đã xuyên qua đám mây mùa thu mà nhìn xuống nước Sông Đà”. Về mùa xuân sông Đà hiện lên với màu “xanh ngọc bích” – đó là một màu xanh vừa trong vừa sáng, đầy hấp dẫn. Ta như bắt gặp màu xanh này trong bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” của nhà thơ Hàn Mạc Tử khi miêu tả khu vườn thôn Vĩ: “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”. Điểm độc đáo ở đây của cả hai tác giả đều lựa chọn sắc xanh ngọc bích để tăng thêm vẻ đẹp của đối tượng miêu tả. Nhưng có lẽ việc sử dụng màu xanh ngọc bích để miêu tả sắc Sông Đà của Nguyễn Tuân vào mùa xuân như đang là tăng thêm sự quý giá của Sông Đà như “chất vàng” mà Nguyễn Tuân luôn tìm kiếm. Không chỉ thế Nguyễn Tuân còn khẳng định sự khác biệt về màu sắc của Sông Đà không “xanh như màu xanh canh hến của sông Gâm sông Lô”. Đến đây ta nghĩ đến lời nhận xét của TS. Trịnh Thu Tuyết: “Việc so sánh màu ngọc bích của Sông Đà với màu xanh canh hến của sông Gâm, sông Lô không phải chỉ là biểu hiện quen thuộc của một nhà văn thị tài, thích khoe tài, khoe uyên bác mà còn là một sự thiên vị của một niềm yêu”. Có lẽ Nguyễn Tuân yêu Sông Đà quá nhiều nên bất cứ con sông nào với ông cũng không đẹp như sông Đà.

Mùa xuân qua đi mùa thu lại đến sắc nước Sông Đà có sự biển đổi đầy rõ nét không chỉ còn là sắc xanh ngọc bích đầy hấp dẫn đấy nữa mà thay vào đó là màu “lừ lừ chín đỏ”. Phải chăng là màu đỏ của “Những dòng sông đỏ nặng phù sa” mà Nguyễn Đình Thi miêu tả? Và như để giải thích rõ hơn về màu đỏ của nước sông Đà nên sau đó tác giả đã miêu tả và so sánh sắc đỏ ấy với hai đối tượng khác nhau là khiến người đọc dễ hình dung hơn là “lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bỗi gì mỗi độ thu về” hay “như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa”. Nhà văn đã sử dụng thành công biện pháp tu từ so sánh màu sắc của con sông với sắc thái, tâm trạng của con người lúc “bất mãn”, “bực bội” khi mỗi đợt thu về đã làm cho con sông Đà hiện lên không còn vô tri, vô giác nữa mà khiến nó trở nên có hồn và có cảm xúc. Ngoài ra ta còn thấy được cái tài của Nguyễn Tuân khi đặt hai màu của hai mùa khác nhau trong năm, xanh và đỏ ở cạnh nhau cũng vô cùng tinh tế. Hai màu đó tuy đối chọi nhau giờ lại hài hòa, êm dịu một cách lạ thường… Như vậy bên cạnh vẻ đẹp duyên dáng thì Sông Đà còn có vẻ đẹp đầy biến ảo linh hoạt, hấp dẫn không lặp lại mình. Nếu như vào mùa xuân sắc nước gợi lên sự êm dịu trong trẻo thì sang mùa thu sắc nước chuyển mình đỏng đảnh ẩn chứa nhiều sức mạnh tiềm tàng của nó.

Với cái nhìn của tình yêu và tinh thần dân tộc nên trong đoạn văn, Nguyễn Tuân còn thể hiện sự am hiểu tường tận về dòng sông hơn nữa. Ông khẳng định chưa bao giờ, sông Đà có màu đen như “thực dân Pháp đã đè ngửa con sông ra đổ mực Tây vào rồi gọi bằng một cái tên láo lếu, rồi cứ thế mà phết vào bản đồ lai chữ”.

– Cách nhìn nhận của tác giả về dòng sông Đà: Nguyễn Tuân đã nhìn dòng sông Đà không đơn thuần với quan hệ giữa nhà văn và đối tượng miêu tả mà còn là quan hệ giữa những người bạn tri âm tri kỉ. Bởi vậy, tác giả không chỉ dừng lại trên bề mặt để ghi lại chất thơ của dòng sông mà còn đi sâu vào tâm hồn để nhận thấy chất trữ tình trong tính cách, trong quan hệ của dòng sông với con người. Tác giả dùng từ “cố nhân” rất gần gũi, thiêng liêng để gọi sông Đà. Trong văn hóa của người Việt Nam thì “cố nhân” dùng để chỉ những tình bạn thân thiết, gắn bó, những tình bạn đã được tạo nên từ sự đồng điệu tri âm, đã được thử thách bởi những thăng trầm của thời gian. Hơn nữa, từ “cố nhân” còn gợi lên cảm xúc bâng khuâng, da diết của một nỗi nhớ đậm sâu về người cũ, xa cách lâu ngày. Và như vậy, khác hẳn với con thủy quái hung dữ luôn tìm cách đe dọa, tiêu diệt con người ở thượng nguồn, về đến hạ nguồn sông Đà bỗng trở nên dịu dàng và đằm thắm, trở thành đối tượng chia sẻ mọi buồn vui với con người. Bởi vậy khi phải xa cách dòng sông, Nguyễn Tuân nhớ dòng sông như nhớ một người bạn thân thiết .

Vì tác giả dành cho dòng sông nỗi nhớ da diết, mãnh liệt nên khi được gặp lại con sông yêu thương, nhà văn có cảm giác “đằm đằm, ấm ấm” và niềm vui vỡ òa và tràn ra trên bề mặt câu chữ. Niềm vui được tác giả diễn tả bằng những hình ảnh so sánh độc đáo liên tiếp đặt cạnh nhau:“Chao ôi, trông con sông, vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nổi lại chiêm bao đứt quãng”. Có thể nói đây là hai hình ảnh so sánh rất lạ. Cách so sánh giúp tác giả diễn tả chính xác niềm vui căng tràn, mãnh liệt của mình. Trong đó, Vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm gợi ra niềm vui vì sự mong đợi đã được thỏa mãn vì sự thay đổi theo chiều hướng lạc quan, tươi sáng. Vui như nối lại chiêm bao đứt quãng lại gợi ra được niềm vui hiếm hoi nhưng vô cùng mãnh liệt, vì mãnh liệt nên nó có thể nối lại được những giấc mơ đã đứt.

Khi gặp lại Sông Đà, với một cái nhìn rất gần nhà văn nhận ra vẻ đẹp mang đầy chất thơ của nó. Vẻ đẹp hồn nhiên, trong sáng của nước Sông Đà gợi nhớ đến một trò chơi của con trẻ “trước mắt thấy loang loáng như trẻ con nghịch chiếu gương vào mắt mình rồi bỏ chạy”. Vẻ đẹp của nắng sông Đà lại gợi nhớ đến thế giới Đường thi “tôi nhìn cái miếng sáng lóe lên một màu nắng tháng ba Đường thi “Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu”” (Xuôi thuyền về Dương Châu giữa tháng ba, mùa hoa khói). Vẻ đẹp của bờ bãi sông Đà lại gợi nhớ đến thế giới thần tiên, kì ảo trong khu vườn cổ tích: Bờ Sông Đà, bãi Sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm trên Sông Đà. Ở đây, Nguyễn Tuân sử dụng những câu văn ngắn, giữa các vế có sự trùng điệp về cấu trúc tạo nên nhịp điệu nhanh, dồn dập, cụm từ “sông Đà” được điệp lại liên tiếp thể hiện tình cảm ấm nóng như đang cố gắng mở rộng tất cả biên độ của mình để ghi lại tất cả những gì là đẹp đẽ, thơ mộng dị nhất của sông Đà.

3. Đánh giá về đoạn văn

3.1. Đánh giá về nội dung và nghệ thuật

Bằng những cảm nhận tinh tế tài hoa của mình, Nguyễn Tuân đã phác thảo hình sắc của nước Sông Đà bằng những đường nét uyển chuyển, bằng những màu sắc biến ảo lung linh. Nếu ví sông Đà là một sản phẩm nghệ thuật thì đây là một tác phẩm hội họa tuyệt mỹ. Và để làm rõ vẻ vẻ đẹp trữ tình của dòng sông Đà, Nguyễn Tuân đã miêu tả từ nhiều thời điểm: mùa xuân, mùa thu, từ nhiều góc độ: khi thì ngồi trên trực thăng để bao quát toàn cảnh, khi thì xuôi thuyền dọc theo sông Đà thậm chí có khi còn dừng hẳn lại để chiêm ngưỡng và miêu tả một cách cặn kẽ, kĩ càng. Việc làm đó của Nguyễn Tuân vừa cho thấy con sông Đà mang trong mình một vẻ đẹp đa chiều, phải soi ngắm từ nhiều phương diện, góc độ mới có thể thấy hết cái thơ mộng trữ tình của nó, vừa cho thấy tinh thần lao động nghiêm túc ở Nguyễn Tuân.

Nghệ thuật là lĩnh vực của cái độc đáo vì vậy nó đòi hỏi người viết sự sáng tạo phong cách mới lạ, thu hút người đọc. Thì đối với Nguyễn Tuân ở đây cũng vậy. Ông đã sử dụng kiến thức hội hoạ, thơ ca để miêu tả; Vận dụng nhiều những biện pháp nghệ thuật như so sánh, nhân hóa, những ví von, liên tưởng, tưởng tượng độc đáo, bất ngờ và rất thú vị; Từ ngữ phong phú, sống động, giàu hình ảnh và có sức gợi cảm cao; Câu văn đa dạng, nhiều tầng, giọng điệu mượt mà, sâu lắng; Lời văn bay bổng, phóng túng – viết không theo nguyên tắc các dấu chấm, dấu phẩy, bỏ đi để tạo nên sự dịu dàng uyển chuyển liền mạch của dòng chảy Sông Đà. Cùng với việc sử dụng nhiều thanh bằng tạo một con sông êm ả giống như một thiếu nữ Tây Bắc rất mực nữ tính mà vẫn hùng vĩ lớn lao.

3.2.Nhận xét chất thơ thể hiện trong đoạn trích

– Chất thơ là sự pha trộn những đặc điểm của thơ ca vào tác phẩm văn học thuộc thể loại khác. Chất thơ trong văn xuôi nói chung được tạo nên khi nhà văn chú ý khai thác và biểu hiện một cách tinh tế cái mạch cảm xúc, tâm trạng, tình cảm của nhân vật hoặc của chính mình trước thế giới bằng những chi tiết, hình ảnh đầy gợi cảm và một lối văn trong sáng, truyền cảm, phù hợp với nhịp điệu riêng của cảm xúc, tâm hồn.

– Biểu hiện của chất thơ trong đoạn trích:

+ Cảm nhận của tác giả về vẻ đẹp trữ tình của dòng sông: Sông Đà như một người gái đẹp của núi rừng Tây Bắc với mái tóc dài, thật dài, mượt mà, tha thướt, gài buông lơi những bông hoa ban trắng ngần hay những bông gạo đỏ rực, thấp thoáng ẩn hiện giữa núi rừng mùa xuân mù sương khói…Vẻ trữ tình của dòng sông mang vẻ đẹp của Đường thi khi nó gợi nhớ câu thơ của Lí Bạch.

+ Ở xúc cảm tinh tế của tác giả trước dòng sông thơ mộng, trữ tình: cảm giác đằm đằm ấm ấm và niềm vui như gặp lại cố nhân sau chuỗi ngày chia biệt. Đặc biệt, thán từ chỉ cảm xúc “Chao ôi” được nhà văn sử dụng để bày tỏ tình cảm với con sông thương nhớ.

+ Ở phương diện nghệ thuật: điểm nhìn nghệ thuật khác biệt, những biện so sánh, liên tưởng thú vị độc đáo của Nguyễn Tuân: Sông Đà như một người con gái đẹp, như một cố nhân, nước Sông Đà đổi màu liên tục qua mỗi mùa trong năm, cách sử dụng ngôn từ giàu xúc cảm…Để tôn thêm tính trữ tình của dòng sông, nhà văn sử dụng nhiều hình ảnh trong sáng gợi cảm và đầy chất thơ. Nhịp điệu câu văn khi thì chậm rãi, lúc thì hối hả, mau lẹ do cách ngắt câu và diễn đạt theo lối điệp (bờ sông Đà, bãi sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm trên sông Đà) để diễn tả niềm sung sướng đang trào dâng trong lòng tác giả. Vốn văn hóa, vốn từ vựng giàu có, trí tưởng tượng bay bổng của nhà văn thả sức tung hoành, tạo nên những đoạn văn mượt mà như những lời thơ. Từ ngữ chọn lọc, độc đáo, sử dụng kiến thức hội hoạ, thơ ca để miêu tả… Tất cả đã giúp Nguyễn Tuân tái hiện được sức sống mãnh liệt của mỹ nhân sông Đà thơ mộng và trữ tình.

3.3. Nhận xét về cái tôi trữ tình của Nguyễn Tuân

– Trong đoạn trích, người đọc cảm nhận được cái tôi uyên bác, tài hoa nghệ sĩ của một người suốt đời rong ruổi đi tìm cái đẹp. Nguyễn Tuân luôn nhìn nhận mọi sự vật,sự việc dưới phương diện thẩm mỹ, luôn đi tìm cảm hứng trong sáng tạo nghệ thuật, tô đậm những cái phi thường để tạo cảm giác mãnh liệt gây ấn tượng.

– Một cái tôi am tường và đầy suy tư trước vẻ đẹp của thiên nhiên, đất nước là cái tôi yêu nước mà sau cách mạng đã tìm thấy sự hòa nhập với cuộc sống mới, con người mới.

Đề bài Người lái đò sông Đà số 5

Thuyền tôi trôi trên Sông Đà. Cảnh ven sông ở đây lặng tờ. Hình như từ đời Lí đời Trần đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi. Thuyền tôi trôi qua một nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa. Mà tịnh không một bóng người. Cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp. Một đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm. Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa. Chao ôi, thấy thèm được giật mình vì một tiếng còi xúp-lê của một chuyến xe lửa đầu tiên đường sắt Phú Thọ – Yên Bái – Lai Châu. Con hươu thơ ngộ ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương, chăm chăm nhìn tôi lừ lừ trôi trên một mũi đò. Hươu vểnh tai, nhìn tôi không chớp mắt mà như hỏi tôi bằng cái tiếng nói riêng của con vật lành: “Hỡi ông khách Sông Đà, có phải ông cũng vừa nghe thấy một tiếng còi sương?”. Đàn cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt sông bụng trắng như bạc rơi thoi. Tiếng cá đập nước sông đuổi mất đàn hươu vụt biến. Thuyền tôi trôi trên “Dải Sông Đà bọt nước lênh bênh – Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình” của “một người tình nhân chưa quen biết” (Tản Đà). Dòng sông quãng này lững lờ như nhớ thương những hòn đá thác xa xôi để lại trên thượng nguồn Tây Bắc. Và con sông như đang lắng nghe những giọng nói êm êm của người xuôi, và con sông đang trôi những con đò mình nở chạy buồm vải nó khác hẳn những con đò đuôi én thắt mình dây cổ điển trên dòng trên.

(Trích Người lái đò Sông Đà – Nguyễn Tuân, sách Ngữ văn 12, Tập 1,

NXB Giáo dục 2014, tr.191-192)

Phân tích vẻ đẹp của hình tượng con Sông Đà trong đoạn trích trên đây. Từ đó, nêu ngắn gọn phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân qua tuỳ bút “Người lái đò Sông Đà”.

I. MỞ BÀI

– Giới thiệu tác giả, tác phẩm: Tk Mở bài chung

– Đoạn trích sau đây nằm ở đoạn cuối của tác phẩm, ca ngợi vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của sông Đà và góp phần thể hiện rõ phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân “Thuyền tôi trôi…dòng trên”.

II. THÂN BÀI

1. Khái quát

– Hoàn cảnh ra đời: Tùy bút Người lái đò Sông Đà được in trong tập tùy bút Sông Đà (1960), gồm 15 bài tùy bút và một bài thơ ở dạng phác thảo. Tác phẩm được viết trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Đó là kết quả của chuyến đi thực tế của nhà văn đến Tây Bắc trong kháng chiến chống Pháp, đặc biệt là chuyến đi thực tế năm 1958. Nguyễn Tuân đến với nhiều vùng đất khác nhau, sống với bộ đội, công nhân và đồng bào các dân tộc. Thực tiễn xây dựng cuộc sống mới ở vùng cao đã đem đến cho nhà văn nguồn cảm hứng sáng tạo.

– Lời đề từ: “Chúng thủy giai đông tẩu – Đà giang độc bắc lưu”: Nhà văn Nguyễn Tuân đã đặc biệt muốn nhấn mạnh cá tính độc đáo của của dòng sông. Sông Đà khác hẳn các dòng sông khác bởi nếu tất cả các dòng sông khác đều chảy về hướng đông thì riêng Sông Đà chạy về hướng bắc. Có lẽ vì con sông đặc biệt như vậy nên nó trở thành đối tượng rất phù hợp với cá tính sáng tạo của Nguyễn Tuân, nó được tác giả tìm đến để thể hiện cá tính nghệ thuật của mình.Ở lời đề từ“Đẹp vậy thay tiếng hát trên dòng sông” tác giả lạithể hiện xúc cảm mãnh liệt trước vẻ đẹp trữ tình của dòng sông và con người gắn bó với dòng sông ấy, bộc lộ rõ cảm hứng chủ đạo của tác phẩm là ngợi ca thiên nhiên và con người Tây Bắc.

Con sông Đà của Tây Bắc rất phù hợp với mĩ cảm của nhà văn nên bằng quan sát tỉ mỉ, sự liên tưởng, tưởng tượng phong phú và tài năng nghệ thuật xuất sắc nhà văn Nguyễn Tuân đã xây dựng con sông Đà thành một hình tượng nghệ thuật hấp dẫn, biến nó từ vật vô tri vô giác thành một sinh thể có sức sống, có tâm trạng và tính cách. Con Sông Đà hiện lên trong tác phẩm với hai nét tính cách nổi bật là hung bạo và trữ tình. Hai nét tính cách tưởng chừng như đối lập nhưng lại cùng tồn tại trong một hình tượng nghệ thuật. Sông Đà rất hung dữ, hiểm ác gây tai họa cho con người nhưng cũng là một công trình nghệ thuật tuyệt vời của tạo hóa, vừa hùng vĩ vừa thơ mộng tạo nên chất men say cho con người trong cuộc sống. Nếu ở thượng lưu, con sông Đà được nhà văn khắc họa với vẻ đẹp hung bạo, quanh năm làm mình làm mẩy với người dân Tây Bắc, thì ở đoạn chảy về hạ lưu, sông Đà lại trở nên hiền hòa, thơ mộng, trữ tình.

2. Hình tượng conSông Đà qua đoạn trích: Sông Đà có vẻ đẹp trữ tình, thơ mộng

2.1. Điểm nhìn nghệ thuật

Đoạn văn được bắt đầu bằng câu văn “Thuyền tôi trôi trên sông Đà”. Câu văn ngắn chỉ gồm 6 âm tiết, mà lại đều là thanh bằng, gợi sự nhẹ nhàng êm ái đã tạo nên không gian nghệ thuật như ru khách sông Đà vào giấc mộng phiêu du, dẫn họ đến một không gian nên thơ, cổ tích. Mặt khác, nó cũng cho thấy Nguyễn Tuân là người ưa những điều mới lạ và muốn khám phá một cách tường tận vẻ đẹp của dòng sông Đà. Nhà văn muốn quan sát và miêu tả dòng sông Đà từ nhiểu điểm nhìn khác nhau nên nếu ở đoạn văn trước đó, ông cảm nhận vẻ trữ tình thơ mộng của dòng sông từ điểm nhìn trên cao là từ tàu bay nhìn xuống, hay cái nhìn gần hơn là khi đi từ rừng ra bắt gặp sông Đà thì ở đoạn văn này, điểm nhìn còn gần hơn nữa là ngồi trên con thuyền trôi chầm chậm trên sông để quan sát và miêu tả về dòng sông mà ông thương nhớ như cố nhân.

2.2. Vẻ đẹp tĩnh lặng và hoang dại

Ngay từ đầu đoạn trích, Nguyễn Tuân đã gieo vào tâm trí người đọc về vẻ đẹp ấn tượng của sông Đà ở dọc đôi bờ sông. Không dữ dội như quãng ở thượng nguồn, cảnh vật thiên nhiên sông Đà ở đây thật tĩnh lặng và hoang sơ. Sự tĩnh lặng của không gian cảnh vật sông Đà được nhà văn miêu tả “Cảnh ven sông ở đây lặng tờ. Hình như từ đời Lý, đời Trần, đời Lê quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi”. Ngồi trên khoang đò ở quãng ấy, nhà văn có cảm giác mình đang đi ngược về quá khứ xa xưa trở về thời Lí, thời Trần, thời Lê. Nhắc đến các triều đại ấy là tác giả muốn gợi lại lịch sử dựng nước, giữ nước và thể hiện lòng tự tôn dân tộc, cũng là một cách để nhà văn tô đậm vẻ đẹp nguyên sơ của dòng sông. Cảnh vật tĩnh lặng đến mức nhà văn chợt ao ước có một âm thanh của cuộc sống con người, khao khát được cảm nhận những thành tựu của con người trong công cuộc chinh phục thiên nhiên, xây dựng cuộc sống mới trên Tây Bắc:“Chao ôi thấy thèm được giật mình vì một tiếng còi xúp lê của một chuyến xe lửa đầu tiên đường sắt Phú Thọ – Yên Bái – Lai Châu’’.

Cảnh vật bờ bãi sông Đà không chỉ tĩnh lặng mà còn hoang sơ đến lạ kỳ. Sự tĩnh lặng, hoang sơ của dòng sông hiện lên rõ nét hơn qua các nét phác họa “tịnh không một bóng người”, “bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử”, “bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”. Có thể nói, qua phép so sánh đầy sức gợi và các nét tả của Nguyễn Tuân, dòng sông Đà ở hạ lưu vẫn giữ nguyên vẻ đẹp nguyên sơ như thể hàng ngàn năm, vạn năm hay hàng tỷ năm nay nó vẫn nguyên sơ như thế. Với cách liên tưởng và ví von ấy, tác giả dường như muốn cho ta thấy sông Đà còn có vẻ đẹp của một con sông bền bỉ chạy qua tháng năm lịch sử, mang dấu tích văn hóa ngàn xưa của dân tộc. Đặc biệt, hai câu văn “bờ sông hoang dại …bờ sông hồn nhiên…” khiến ta tưởng đây là hai vế của một câu song quan trong bài phú lưu thủy. Nghệ thuật điệp cấu trúc đã kết dính hai câu thành một bè thơ gợi cảm, bồng bềnh, vấn vương cảm xúc hoài cổ mà ta đã bắt gặp ở người nghệ sĩ một thời vang bóng này. Nguyễn Tuân đã tìm về vẻ đẹp xưa trong cái ngày hôm nay để từ đó bộc lộ tình yêu quê hương xứ sở.

2.2. Thế giới thiên nhiên sinh động, kì ảo và thi vị

Không bằng lòng với cái đẹp nhợt nhạt, Nguyễn Tuân đã vận dụng tối đa bút lực để phác họa bức tranh cảnh vật sông Đà, hệt như một người họa sĩ tài hoa. Thế giới thiên nhiên Sông Đà qua sự miêu tả của ông thật sinh động, kỳ ảo, lý thú nhưng cũng tràn đầy sức sống. Những hình ảnh về “một nương ngô mới nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa”, “cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp”… cho thấy cảnh vật được miêu tả qua vẻ đẹp của sự non tơ, tươi mới và tràn đầy sức sống, kéo dòng sông từ thuở hồng hoang trở về gần với thực tại. Giữa không gian thơ mộng, tĩnh lặng đó là hình ảnh một đàn hươu “cúi đầu ngốn búp cỏ tranh đẫm sương đêm”. Tác giả đã cảm nhận hết vẻ tinh khôi, thần thái tràn trề sức sống của cảnh vật và bắt trọn từng khoảnh khắc và mọi chuyển động: “Con hươu thơ ngộ ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương, chăm chăm nhìn tôi lừ lừ trôi trên một mũi đò”, rồi “hươu vểnh tai”… Cuộc đối thoại giữa ông khách sông khách sông Đà và con vật “lành” đích thực là một bài thơ trữ tình, nó chập chờn chơi vơi. Hươu hỏi người hay người tự hỏi một giả định vừa thực vừa ảo. Hình ảnh đầy chất thơ này gợi cho chúng ta nhớ đến chú nai vàng trong những câu thơ nổi tiếng của tác giả Lưu Trọng Lư:

“Con nai vàng ngơ ngác

Đạp trên lá vàng khô”

Thiên nhiên sông Đà với sự sống nguyên sơ còn được miêu tả qua hình ảnh đàn cá dầm xanh trong sự ví von, so sánh tinh tế và độc đáo: “Đàn cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt sông bụng trắng như bạc rơi thoi”, “Tiếng cá đập nước sông khiến đàn hươu vụt biến”. Câu văn “Đàn cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt sông bụng trắng như bạc rơi thoi” là một câu văn đẹp, có âm thanh, có màu sắc, có cái nghe thấy, có vật nhìn thấy, có điều cảm thấy. Hình ảnh so sánh “đàn cá bụng trắng như bạc rơi thoi” đầy chất thơ vừa gợi tả sắc trắng (như bạc), vừa chỉ rõ dáng hình thon dài (như thoi) của đàn cá dầm xanh. Biện pháp nghệ thuật so sánh cùng với nghệ thuật lấy động tả tĩnh gợi lên không gian tĩnh mịch đến độ người ta có thể nghe thấy cả tiếng cá quẫy đuôi làm đàn hươu phải giật mình và ông khách sông Đà cũng chợt tỉnh mộng để quay về thực tại.

2.3. Vẻ đẹp trữ tình, giàu chất thơ

Nghệ thuật trùng điệp với cụm từ và cấu trúc “Thuyền tôi trôi…” được lặp lại lần nữa để nhấn mạnh vẻ đẹp tĩnh lặng mà thơ mộng của sông Đà. Từ trên còn thuyền trôi chầm chậm trên sông, nhà văn phát hiện ra sông Đà mang vẻ đẹp tình tứ lãng mạn, đậm đà bản sắc văn hóa như nó được miêu tả trong câu thơ rất mực tài hoa của thi sĩ Tản Đà “Dải sông Đà bọt nước lênh đênh – Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình” của “một người tình nhân chưa quen biết”. Ở đây ta lại bắt gặp một nét phong cách quen thuộc của nhà văn họ Nguyễn là ông luôn nhìn sự vật dưới phương diện văn hóa, lịch sử, thẩm mĩ.

Càng về xuôi, sông Đà càng rộng thêm ra, dòng sông mênh mông hơn, êm nhẹ hơn. Nhìn dòng sông nước chảy “lững lờ”, nhà văn cảm thấy nó “như nhớ thương những hòn đá thác xa xôi để lại trên thượng nguồn Tây Bắc”. Dòng sông vẫn “lững lờ” êm trôi “như đang lắng nghe những giọng nói êm êm của người xuôi, và con sông đang trôi những con đò mình nở chạy buồm vải nó khác hẳn những con đò đuôi én thắt mình dây cổ điển trên dòng trên”, “Con đò mình nở chạy buồm vải”, “Con đò đuôi én thắt mình dây cổ điển”, là nhận xét, là cách tả, là cách dùng từ rất độc đáo của Nguyễn Tuân. Mỗi câu, mỗi chữ đều phả linh hồn vào dòng sông, vào con đò, vào cảnh vật. Những so sánh ẩn dụ, những nhân hóa trong đoạn văn này cho thấy một tình yêu sông núi thiết tha, một cái nhìn đằm thắm nồng hậu, một cái lắng nghe trìu mến yêu thương. Nguyễn Tuân như đang mở rộng lòng mình, tâm hồn mình với dòng sông để cùng với nó mà “lắng nghe”, mà nhớ thương, những âm vang, những nhịn sống ấm ấp của cuộc đời. Ta cảm thấy có một dòng sông đang êm trôi, đang lững lờ trong tâm hồn mình, bát ngát mênh mông… Văn Nguyễn Tuân không chỉ đem đến cho ta bao nhã thú mà còn để lại nhiều dư vị, dư ba là vậy.

3. Đánh giá

3.1. Nội dung và nghệ thuật

Chất tài hoa, tài tử, cái bề thế độc đáo, sắc sảo và uyên bác của phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân để lại dấu ấn trên “trang hoa”, “tờ hoa” này. Vốn văn hóa, vốn từ vựng giàu có, trí tưởng tượng bay bổng của nhà văn thả sức tung hoành, tạo nên những đoạn văn mượt mà như những lời thơ. Nhịp điệu chậm rãi, như tãi ra để diễn tả cái vắng lặng rất nên thơ của con sông. Ngòi bút nhiều khám phá, sáng tạo và kiến tạo trong tạo hình dựng cảnh, trong dùng chữ, đặt câu; những so sánh, ẩn dụ và liên tưởng rất gợi khiến đoạn văn trở thành một đoạn hay và đẹp về quê hương, đất nước.

Đoạn văn trên đây chỉ là một đoạn ngắn trong bài tùy bút Người lái đà Sông Đà, chỉ nói về một nét đẹp – vẻ đẹp thơ mộng – của Đà Giang. Tuy vậy, ta vẫn cảm thấy được cái hay, cái đẹp trong văn Nguyễn Tuân. Đọc đoạn văn, người đọc như cảm thấy mình trở thành “ông khách sông Đà” đang cùng con thuyền nhẹ trôi trên Đà Giang cùng với bác Nguyễn say mê ngắm cảnh đẹp của hương núi, hoa ngàn và lắng nghe tiếng cá dầm xanh quẫy trên cái lững lờ cùa dòng sông “dải sông Đà bọt nước lênh bênh…”.

3.2. Nhận xét về phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân trong đoạn văn

Đoạn văn đã thể hiện rõ nét những nét chính trong phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân. Nguyễn Tuân lànhà văn theo chủ nghĩa xê dịch và ưa cảm giác mạnh. Giống như các nhà văn theo chủ nghĩa xê dịch, Nguyễn Tuân thích đi nhiều để thay đổi cảm giác cho các giác quan. Ông không thích những gì bình thường và tầm thường nên đối tượng mà ông miêu tả đã đẹp thì phải đẹp đến mức tuyệt mĩ, dữ dội phải đến mức khủng khiếp và tài năng phải đến mức siêu phàm. Ông là người tài hoa, luôn nhìn nhận, đánh giá cảnh vật và con người ở phương diện cái đẹp và góc độ mĩ thuật. Sông Đà hiện lên với vẻ đẹp kì vĩ và là một công trình nghệ thuật tuyệt vời của tạo hoá. Khi miêu tả sông Đà, nhà văn đã vận dụng những tri thức ở nhiều lĩnh vực như lịch sử, địa lí, thi ca… để viết về con Sông Đà trữ tình, thơ mộng. Hơn nữa, đoạn văn cũng thể hiện văn phong Nguyễn Tuân phóng túng, ngôn ngữ điêu luyện và phong phú, hình ảnh giàu liên tưởng bất ngờ, độc đáo. “Người lái đò Sông Đà” thể hiện sở trường ở thể loại tuỳ bút của ngòi bút Nguyễn Tuân. Đọc “Người lái đò Sông Đà” người đọc càng thêm quý trọng tài năng và tấm lòng của con người suốt đời đi tìm cái đẹp, làm giàu có đời sống tinh thần của tất cả độc giả chúng ta.

Đoạn văn trích cho ta thấy được vẻ đẹp thơ mộng tiềm tàng sức sống của sông Đà, xúc cảm rất chân thành của người ngắm cảnh và một lần nữa, buộc ta phải khâm phục, ngưỡng mộ ngòi bút tài hoa tài tử của Nguyễn Tuân, những chữ nghĩa, ví von có hồn có mắt được nâng niu, cẩn thận góp nhặt qua “hàng trăm tuần trà, hàng ngàn lần dạo phố Hà Nội, đi Đông đi Tây chắt lọc lại, giữ lại cho chúng ta”.

Từ khóa » đề Thi Người Lái đò Sông đà