BỌ LÁ - Tài Liệu Text - 123doc

Tải bản đầy đủ (.doc) (5 trang)
  1. Trang chủ
  2. >>
  3. Giáo án - Bài giảng
  4. >>
  5. Tiểu học
BỌ LÁ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (355 KB, 5 trang )

BỌ LÁHọ Bọ lá (danh pháp khoa học: Phylliidae, thường viết sai thànhPhyllidae), kích thước khoảng 5-10 cm là một họ các côn trùngsống ở vùng nhiệt đới châu Á và châu Úc, là bản sao tuyệt vời lácây mà nó sống trên đó kể cả gân. Trứng của nó lại giống nhưhạt cây này. Họ này có mặt khắp Nam Á đến Đông Nam Á vàAustralia. Hiện tại, dường như chưa có sự thống nhất trong việcphân loài nhóm này.[1]Chúng có cơ thể dài khoang 9cm,có hình dạng giống lá cây ,màuxanh . Hai cánh trên dài và rộng có màu xanh và hình cái lá, haicánh dưới hình quạt nan có nhiều gân và trong suốt . Bọ lá đẻtrứng, trứng nở ra ấu trùng có dạng như bọ trưởng thành, chỉkhác là cánh chưa phát triển,Một hóa thạch có niên đại 47 triệu năm của Eophylliummesselensis, một tổ tiên tiền sử của Phylliidae, đã cho thấy nhiều đặc điểm chung của loài côntrùng ăn lá này, cho thấy họ này đã thay đổi ít qua nhiều thiên niên kỷ.[2] Bọ lá thuộc loài côn trùnghiếm về số lượng loài và ít về cá thể , đang bị de doạ do rừng bị thu hẹp và nhiều người sưu tầmthích bẫy bắt.BỌ QUEBọ que - walkingstick, có tên khoa làDiapheromera femorata thuộc họ Bọ quePhasmatida, bộ cánh thẳng Orthoptera,lớp côn trùng Insecta. Thân mảnh, dàimột số con trưởng thành ở vùng rừng mưanhiệt đới chiều dài của chúng có thể đạt tới300mm, râu (antten) dài và dẹt, hàm nhai,chân có 6 chiếc dài, mảnh, cánh thẳng, lớpngoài được bao bọc bởi chất kittin cứng,cánh trong có màu trắng , hồng hoặc đỏ ởgốc cánh. Chân sau của chúng rất phát triểnnhằm thích nghi với những bước đi nhảynhư ở một số loài cào cào, châu chấu trongbộ cánh thẳng Orthoptera. Một số loài ở vùng Bắc mỹ thường không có cánh. Là loài côn trùng cổđược tìm thấy từ hậu kỷ Triassic, một trong những loài côn trùng được các nhà phân loại sinh họchết sức quan tâm. Đây là loài loài điển hình của sự tiến hoá bởi những chọn lọc tự nhiên mà còntồn tại cho đến ngày nay. Tên họ (family) của loài Bọ que Phasmatida là từ được lấy theo tiếngLatin (phasma) có nghĩa là ma thuật, bóng ma. Để thu mẫu loài này trong hoang dã rất khó đốingay với cả những chuyên gia về sưu tập và phân loại. Đối với hoá thạch của loài này còn cực kỳquí hiếm hơn – do vậy một số mẫu hoá thạch ít ỏi của loài này chỉ có trong các bảo tàng viện lớntrên thế giới. Đặc điểm chính của loài côn trùng này trông rất giống với cành cây khô. Đây là một sự ngụytrang, bắt trước, thích nghi rất hoàn hảo của loàicôn trùng nhỏ bé này để tìm kiếm thức ăn và lẩntrốn kẻ thù. Những nghiên cứu mới nhất về sinh sản của loàiBọ que được ghi nhận là loài lưỡng tính. Một sốloài đơn tính hoặc sinh sản không hoàn toàn đơntính. Những loài đơn tính chúng thường kết đôivà làm tổ đẻ trứng vào đầu mùa mưa. Cũng giốngnhư hầu hết các loài côn trùng khác chúng có tậptính đa thê (nhiều cá thề đực giao phối với một cáthể cái và một cá thể đực cũng có thể giao phốivới nhiều cá thể cái). Về vòng đời và ấu trùng củaBọ que được ghi nhận là khoảng từ 1 đến 2 năm,tùy loài khác nhau, nhưng chưa có tài liệu nghiêncứu chi tiết nào. Thức ăn của loài này chưa được ghi nhận cụ thể,nhưng có thề chúng ăn lá cây, thảm mục thực vậtnhư một số loài côn trùng “hàm nhai - mouthpartschewing” khác. Có khoảng 30 loài Bọ que ở vùng Bắc Mỹ và hơn2000 loài đã được tìm thấy và định danh trênkhắp thế giới trong 4 họ Bọ que gổmPhasmatida, Phasmatoptera, Phasmatodea vàCheleutoptera. Nơi sống chủ yếu của loài này ởrừng mưa nhiệt đới, cận nhiệt đới. Ở Việt NamBọ que có mặt hầu khắp cả nước và có khoảng 25loài đã được tìm thấy và định danhSâu đục thân 2 chấmTên khoa học: Scirpophaga incertulasHọ: PyralidaeBộ: LepidopteraTriệu chứng gây hại Ký chủ chính là lúa, ngoài ra còn phá hại trên mía, bắp.Ấu trùng non ăn lá và bẹ lá, sau lớn đục vào thân ở phần dưới gốc, ăn mặt trong của thân làmthân lúa yếu đi, gây ra hiện tượng dảnh héo, hay bông bạc. Đặc điểm hình thái Ngài đực thân dài 8-9 mm, cánh trước màu vàng nhạt, mép ngoài cánh có 8-9 chấm nhỏ. Ngàicái thân dài 10-13 mm, cánh trước màu vàng nhạt có một chấm đen rất rõ ở giữa cánh, cuối bụng cóchùm lông màu vàng nhạt.Trứng đẻ theo ổ, có lớp lông tơ màu vàng phủ bên ngoài, mỗi ổ có khoảng từ 50-150 trứng.Ấu trùng có 5 tuổi, tuổi 1 dài 4-5mm, đầu đen có khoang đen trên mảnh lưng, thân màu xám,tuổi 2 dài 6-8 mm, đầu nâu, mình trắng sữa, tuổi 3 dài 8-12 mm, tuổi 4 dài 12-18 mm, đầu nâu, mìnhvàng xám, tuổi 5 dài 15-20 mm, đầu nâu mình vàng nhạt.Nhộng vàng nhạt, con cái có mầm chân sau tới đốt bụng thứ 5, con đực tới đốt bụng thứ 8. Đặc điểm sinh học và sinh thái * Vòng đời: 43 - 60 ngày- Trứng: 6 - 10 ngày- Sâu non: 30-40 ngày- Nhộng: 7-10 ngày- Trưởng thành: 2-5 ngàyNgài hoạt động về đêm, ban ngày ẩn nấp trong các bụi rậm gần nước, có xu tính rất mạnh vớiánh sáng, do đó dùng bẫy đèn có hiệu quả vào đêm không trăng lặng gió. Sau khi vũ hoá bắt cặp ngay,đẻ trứng thành từng ổ, có lông bao phủ màu vàng, đẻ mặt trên của lá hoặc bẹ.Sâu mới nở sống riêng rẽ ngay từ đầu, có thể nhả tơ di chuyển hoặc bò xuống dưới thân. Sâumới nở có thể ăn nhu mô lá, sau đó đục vào trong thân cắn đứt thân lúa hoặc cuống đòng làm lúakhông trỗ hoặc gây hiện tượng nõn héo khi lúa còn nhỏ và bông bạc khi lúa trỗ. Mỗi tép lúa chỉ có mộtcon.Hoá nhộng ở trong thân lúa và gốc rạ. SÂU ĐỤC THÂN 5 VẠCHĐẦU ĐEN(Tên khoa học: Chilo polychrysus MeyrikChilo polychrysa Meyrik)Thuộc: Họ: Pyralidae Bộ: LepidopteraĐặc điểm hình thái: - Trứng hình bầu dục dẹt, mới đẻ màu trắng, sauchuyển màu vàng nhạt, vàng tro; trước lúa nở 1-2 ngày thể hiện rõ điểm đen. Trứng đẻ thành từngổ theo dạng vẩy cá, thường từ 1-3 hàng, nhiều nhất 5 hàng trên mặt lá.- Sâu non đẫy sức có đầu màu đỏ đậm tối hoặc đen; mặt bụng của ngực trắng mờ xen lẫn vàngnhạt hoặc nâu nhạt; mảnh lưng ngực trước nâu đen, lưng có 5 vạch dọc. Bình thường sâu non có 5tuổi, cá biệt có 7 tuổi.- Nhộng: con cái dài hơn nhộng đực. Nhộng mới hóa có màu vàng, mặt lưng có 5 vạch dọc màunâu gụ. Lỗ thở của bụng hơi lồi, gần mép trước của mặt lưng đốt bụng thứ 5-7 có dẫy chấm nổi,cuối bùng phía lưng có 4 gai xếp thành vòng cung, phía bụng có 2 gai, các gai đều ngắn, thẳng vàkhông có lông.- Con trưởng thành:+ Ngài đực có đầu ngực màu nâu vàng có điểm màu nâu tối; bụng màu nâu xám; râu hình răngcưa; cánh trước màu vàng nâu có phẩy màu nâu đậm, giữa cánh có 4 đốm nâu thẫm óng ánh xếptheo hình ”>” và trên các đốm có pha các vảy óng ánh bạc và vàng kim; phía trong và ngoài buồnggiữa cánh có một số phiến vảy nâu ánh kim; cùng với đường vân ngoài của cánh có một vệt đairộng màu nâu, ở đường vân phụ ngoài có dãy chấm đen, nâu đậm, ở vị trí đường mép ngoài cánhcó 7 chấm đen. Cánh sau màu nâu vàng nhạt, lông viền cánh màu bạch trắng.+ Ngài cái có thân dài hơn ngài đực, râu đầu dạng sợi chỉ màu tro và màu nâu xám xen kẽ nhau;cánh trước màu vàng, có đốm nhỏ giữa cánh bé hơn so ngài đực và màu cánh nhạt hơn, các đặcđiểm khác không rõ bằng ngài đực; cánh sau tương tự ngài đực.Đặc điểm sinh học, sinh thái và gây hại: Vòng đời của sâu đục thân bướm 5 vạch đầu đentừ 35-60 ngày tùy theo điều kiện nhiệt độ:+ Thời gian trứng: 4-7 ngày.+ Thời gian sâu non: 20-41 ngày.+ Thời gian nhộng: 4-6 ngày.+ Thời gian ngài vũ hóa đến đẻ trứng: 2-5 ngày.Ngài của sâu đục thân 5 vạch đầu đen có tínhhướng sáng yếu hơn sâu đục thân bướm 2 chấm vàvũ hóa về đêm và sau đó giao phối ngay trong đêmđó hoặc đêm sau và sau khi giao phối 1 đêm thì bắtđầu đẻ trứng . Mỗi ngài cái có thể đẻ từ tới 480 trứng trong 3 ngày, một ổ trứng có từ 7-150 quảtrứng/ổ và trứng có tỉ lệ nở rất cao. Một năm sâu đục thân 5 vạch đầu đen phát sinh 6 lứa. Điềukiện nhiệt độ ấm nóng và ẩm độ cao thích hợp cho sâu phát sinh gây hại. Sâu non xâm nhập vào bẹ lá vào thân cắt đứt đường vận chuyển dinh dưỡng làm héo đỉnh sinhtrưởng, làm chế cây ở giai đoạn lúa non hoặc bông bạc, ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất lúa.Nhộng làm ổ bên trong thân lúa và bướm vũ hóa từ đấy.Sâu đục thân 5 vạch đầu đen phát sinh gây hại nặng ở vụ lúa xuân sớm; các ruộng chân cao có xuhướng bị hại nặng hơn các ruộng chân vàn (trong vụ xuân), ruộng ẩm ướt, rậm rạp thì sâu phátsinh nhiều hơn so với ruộng hạn. Quy luật phát sinh gây hại tương tự như sâu đục thân 5 vạch đầunâu. Loại sâu này phân bố khắp các vùng trồng lúa trong nước và trên thế giới.Rầy xanh hai chấm (tên khoa học Amrasca devastans Distant) thuộc họ Bọ nhảy(Jassidea), bộCánh đều(Homoptera).Rầy xanh là một trong những loài sâu chích hút nguy hiểm nhất cho cây bông và là nhân tố quantrọng làm giảm năng xuất.Ở nước ta rầy xanh xuấthiện ở trên nhiều đối tượngcây trồng với hơn 66 loạicây thuộc 29 họ thực vậtkhác nhau như: đậu bắp, cà,ớt, dâm bụt, khoai tây,mướp tây, đậu, thuốc lá,khoai lang, lạc…Ở bông,rầy xanh phát sinh gây hạimạnh ở những chân bôngthiếu nước hoặc khô hạn.Điều kiện nhiệt độ 27-280C, ẩm độ không khí 80-85% thì thuận lợi cho rầy xanh sinh trưởng và gây hạinặng.Trứng nhỏ có hình cong và đẻ dưới mô biểu bì của thâncây, cuống lá và gân lá. Sau khi nở ấu trùng có màuxanh và nhạt dài 0,5-2 mm, có hình như con ếch. Rầyxanh di chuyển bằng cánh bò ngang như cua, vào banngày nằm dưới mặt lá, nhưng ban đêm di chuyển lên trên mặt lá. Con trưởng thành lớn hơn ấutrùng, giữ nguyên màu xanh, có cánh trong, có đặc tính nhảy và bay. Rầy xanh gây hại trong suốtquá trình sinh trưởng và phát triển của cây bông từ khi cây có lá sò đến khi thu hoạch. Cả rầy nonvà rầy trưởng thành đều hút dịch cây. Mức độ gây hại của nó tùy thuộc vào giai đoạn sinh trưởngcủa cây bông. Qua kết quả nghiên cứu nhiều năm của Viện Nghiên cứu bông và Phát triển nôngnghiệp Nha Hố cho thấy mật độ rầy tăng cao nhất ở giai đoạn cây bông khoảng 70-90 ngày tuổi. Ởvụ vụ mưa rầy phát sinh mạnh và phá hại nặng trên bông. Cuối vụ bông rầy chuyển sang sống trêncỏ dại gần nơi có nguồn nước. Rầy xuất hiện trên ruộng bông rất rớm và có mật độ tăng dần đếncuối vụ bông. Mạt độ của rầy phụ thuộc vào mùa vụ và độ kháng của giốngCây bông ở giai đoạn còn nhỏ (có 2 lá sò đến 3,4 lá thật) bị rầy xanh hại mép lá màu vàng. Trên lábông non bị hại có chấm đen nhỏ li ti, gây hại nặng làm cho lá non héo trông như bị luộc, mép láco lại, lá bị khô đen làm ảnh hưởng đến sinh trưởng cây bông. Khi cây bông đã lớn , rầy xanh gâyhại làm cho mép lá mới bắt đầu bị biến vàng và cong lại. Khi bị hại nặng thì toàn lá có màu đỏhuyết dụ, với nhiều lá bị khô cháy gọi là hiện tượng “cháy rầy”, lá trở nên khô giòn và rụng, câykhông có khả năng quang hợp và khó phục hồi. Do vậy, tất cả các tổ hợp lai đều nhiễm rầy tùytheo mức độ nặng nhẹ khác nhau.

Tài liệu liên quan

  • Xã hội chủ nghĩa có phải là kế hoạch hóa toàn bộ nền kinh tế Xã hội chủ nghĩa có phải là kế hoạch hóa toàn bộ nền kinh tế
    • 18
    • 423
    • 0
  • Hoàng Cầm : Người gọi đò từ những bờ bến lạ ! Hoàng Cầm : Người gọi đò từ những bờ bến lạ !
    • 5
    • 358
    • 1
  • Xóa bỏ kì thị đối với người nhiễm HIV đặc biệt là phụ nữ Xóa bỏ kì thị đối với người nhiễm HIV đặc biệt là phụ nữ
    • 18
    • 584
    • 2
  • bài 7 bở ra là biết bài 7 bở ra là biết
    • 2
    • 286
    • 0
  • Những lời khuyên cho việc lắp đặt bộ xử lý Những lời khuyên cho việc lắp đặt bộ xử lý
    • 17
    • 292
    • 0
  • Cách làm cho gương sáng bóng Cách làm cho gương sáng bóng
    • 1
    • 332
    • 0
  • BỌ LÁ BỌ LÁ
    • 5
    • 379
    • 1
  • THI HOA HẬU BÒ SỮA ( MỘC CHÂU - SƠN LA) THI HOA HẬU BÒ SỮA ( MỘC CHÂU - SƠN LA)
    • 6
    • 388
    • 0
  • Làm sao để bỏ thuốc lá Làm sao để bỏ thuốc lá
    • 3
    • 888
    • 3
  • Bai tho Linh ma em tang cac co giao co chong la bo doi Bai tho Linh ma em tang cac co giao co chong la bo doi
    • 1
    • 950
    • 1

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

(954 KB - 5 trang) - BỌ LÁ Tải bản đầy đủ ngay ×

Từ khóa » Họ Bọ Lá