Bồ Tát Giới - CÕI TRẦN AI

Bồ Tát giới và con đường tịnh hóa thế gian

I. Dẫn nhập

Chất lượng của cuộc sống xã hội loài người luôn được đánh giá bằng hai yếu tố cơ bản là giá trị vật chất và giá trị tinh thần. Ở mức độ cao hơn, giá trị tinh thần có thể được xem như là đời sống tâm linh của tất cả mọi người. Hiện tại, chúng ta đang sống và chứng kiến một thời đại có sự chênh lệch rất lớn về hai giá trị cơ bản nói trên. Với sự phát triển thần tốc của khoa học kỹ thuật, đời sống vật chất của con người đã được hiện đại hóa một cách chóng mặt. Nhưng ngược lại, giá trị đời sống tinh thần lại bộc lộ rất nhiều hạn chế, đặc biệt là ở mặt văn hóa đạo đức. Sự thật là đang có một cuộc khủng hoảng về mặt đạo đức xã hội diễn ra một cách mạnh mẽ trên thế giới. Điều này đã được chứng minh qua những thông tin mà chúng ta tiếp nhận hằng ngày. Và tất nhiên, sự khủng hoảng này có tác động tiêu cực lên đời sống tâm linh của toàn nhân loại.

Đạo Phật xuất hiện ở thế gian này không ngoài mục đích mang lại hạnh phúc giải thoát cho mọi loài. Hay nói cách khác, đạo Phật là con đường, là chất liệu để nâng đời sống tâm linh của con người lên đến giá trị tột đỉnh của nó. Con đường hay chất liệu đó được xây dựng từ ba nền tảng Giới-Định-Tuệ, trong đó Giới được xem là căn bản nhất. Giới luật của Phật giáo không những có khả năng bảo vệ và duy trì sự thanh tịnh của mỗi cá nhân, mà còn có thể tịnh hóa được thế giới ô trược này. Muốn qua sông phải nương thuyền bè, muốn vượt bể khổ sanh tử luân hồi phải nương vào giới pháp. Giới luật là kim chỉ nam, là những bước đi đầu tiên cho hành giả muốn đạt đến hạnh phúc tối thượng. Do vậy, trong Phật giáo, từ phàm đến Thánh, từ người xuất gia đến người cư sĩ tại đều phải lấy giới luật làm nền tảng. Phát triển Phật giáo rộng khắp trong xã hội chính là đem Giới-Định-Tuệ thi thiết khắp thế gian này. Điều này rất khó, nhưng không phải là không có khả năng.

Nếu Thanh văn giới là Biệt giới, quy định cho từng thành phần riêng biệt khác nhau, thì Bồ Tát giới có thể áp dụng cho tất cả mọi người, miễn là sự truyền giới và thọ giới đúng như Pháp quy định. Do ý nghĩa phổ quát như vậy, nên bài viết này xin trình bày đôi nét khái quát về Bồ Tát giới và khả năng chuyển hóa của nó đối với thế giới mà chúng ta đang sống.

II. Nội dung

1. Bồ Bát với hạnh nguyện cứu độ chúng sanh

Bồ-tát_菩 薩; viết tắt của danh từ dịch âm Bồ-đề Tát-đỏa (菩 薩 薩) ; s: bodhisattva; p: bodhisatta); nguyên nghĩa là ‘Giác hữu tình’ (覺 有 情), cũng được dịch nghĩa là Ðại sĩ (大 士).

Trong Đại thừa, Bồ-tát là hành giả sau khi hành trì Ba-la-mật-đa (s: pāramitā; Lục độ) đã đạt Phật quả, nhưng nguyện không nhập Niết-bàn, khi chúng sinh chưa giác ngộ. Yếu tố cơ bản của Bồ-tát là lòng Bi (s, p: karuā), đi song song với Trí huệ (s: prajñā) Chư Bồ-tát thường cứu độ chúng sinh và sẵn sàng thụ lãnh tất cả mọi đau khổ của chúng sinh cũng như hồi hướng phúc đức mình cho kẻ khác. Con đường tu học của Bồ-tát bắt đầu bằng luyện tâm Bồ-đề (s: bodhicitta) và giữ Bồ-tát hạnh nguyện (s: praidhāna). Hành trình tu học của Bồ-tát được chia làm mười giai đoạn, Thập địa (s: daśabhūmi). Hình ảnh Bồ-tát của Ðại thừa tương tự như A-la-hán (s: arhat) của Tiểu thừa, trong đó A-la-hán tập trung vào sự giải thoát cho chính mình.

Thật sự thì khái niệm Bồ-tát đã được tìm thấy trong các kinh Tiểu thừa, nhất là khi nói về các tiền thân đức Phật Thích Ca (Bản sinh kinh). Trong Ðại thừa, khi nói đến Bồ-tát, người ta xem đó là tiền thân của các vị Phật tương lai. Ðại thừa chia làm hai hạng Bồ-tát: Bồ-tát đang sống trên trái đất và Bồ-tát siêu việt (e: transcendent). Các vị đang sống trên trái đất là những người đầy lòng từ bi, giúp đỡ chúng sinh, hướng về Phật quả. Các vị Bồ-tát siêu việt là người đã đạt các hạnh Ba-la-mật và Phật quả – nhưng chưa nhập Niết-bàn. Ðó là các vị đã đạt Nhất thiết trí, không còn ở trong Luân hồi, xuất hiện trong thế gian dưới nhiều dạng khác nhau để cứu độ chúng sinh. Ðó là các vị được Phật tử tôn thờ và đảnh lễ, quan trọng nhất là các vị Quán Thế Âm (觀 世 音; s: avalokiteśvara), Văn-thù (文 殊; s: mañjuśrī), Ðịa Tạng (地 藏; s: kitigarbha), Ðại Thế Chí (大 勢 至; s: mahāsthāmaprāpta) và Phổ Hiền (普 賢; s: samantabhadra)[1].

Theo bộBách Khoa Từ Điển Phật Giáo thì Bồ-tát có nghĩa là: một chúng sanh thiết tha đối với sự giác ngộ (bodhi). Theo từ nguyên, thuật ngữ này có thể tách biệt thành hai phần, đó là bodhi và sattva. Bodhi có gốc từ chữ budh, tức tỉnh ngộ hay giácngộ; và sattva bắt nguồn từ chữ saint, có nghĩa là sự hiện hữu hay sự tồntại. Theo nghĩa đen, sattva là một chúng sanh. Do vậy, từ này mang ý nghĩa là ‘một chúng sanh có bản chất giác ngộ, hoặc một vị Phật tương lai’[2].

Theo đây, chúng ta có thể hiểu một cách đơn giản rằng, Bồ-tát là người có khả năng tự độ và độ tha. Bằng trí tuệ và công năng tu tập của mình, vị Bồ-tát tự giải thoát cho chính mình ra khỏi mọi khổ đau, hướng đến quả vị Niết bàn tối thượng; hơn nữa, với lòng từ vô lượng, vị Bồ-tát phát ra những hạnh nguyện rộng lớn hầu mong cứu độ hết tất cả chúng sanh đang còn chìm trong bể cả luân hồi. Với trí tuệ và hạnh nguyện như vậy, Bồ-tát thật sự là một hình ảnh hết sức tiêu biểu cho Phật giáo Phát trển trên con đường mang lại hạnh phúc cho nhân loại. Bồ-tát là chiếc cầu kết nối giữa cuộc sống ở trần thế khổ đau và nguồn hạnh phúc tịch tĩnh của thế giới bất sinh bất diệt. Đây là con đường tiệm cận đến bản tánh Viên Giác hoàn toàn, sự tịnh hoá tất cả các pháp bằng nguyện lực lớn lao để đạt đến Niết bàn tối thượng.

2. Bồ Tát giới

2.1. Định nghĩa về “Giới”

Thông thường, Giới (Sìla_戒)được hiểu là phương tiện để ngăn ngừa các hành động sai lầm, chấm dứt mọi điều ác (phòng phi chỉ ác) và làm các điều thiện.

Theo từ điển của Hội Pàli-Anh ngữ, từ “Sìla” bắt nguồn từ căn ngữ “sìl” bao hàm hai ý nghĩa: Upadhàna, có nghĩa là luân lý hay đạo đức và Samàdhi, có nghĩa là thiền định. Thanh Tịnh Đạo của ngài Phật Âm (Buddhaghosa) lại cắt nghĩa rằng: “Giới (sìla) được gọi như thế vì nó có nghĩa là kết hợp”.

Chữ giới trong giới bổn Pàtimokkha (Ba-la-đề-mộc-xoa) có nghĩa là biệt giải thoát[3], xứ xứ giải thoát[4], tuỳ thuận giải thoát, giải thoát. Các ý nghĩa này điều bắt nguồn từ chữ “mokkha” rồi được kết nối với nội dung của Pàtimokkha để diễn giải[5].

Tóm lại, trong Phật giáo, chữ giới thường được dành cho hàng đệ tử xuất gia và tại gia của đức Phật thọ trì, để đem lại an lạc cho bản thân và xã hội. Giới là nền tảng, là những nguyên tắc đảm bảo cho đời sống thanh tịnh hòa hợp của Tăng già trong mọi thời đại; và là điều kiện cần có đầu tiên đem lại hạnh phúc giải thoát cho tất cả mọi người.

2.2. Khái quát về Bồ Tát giới

Bồ Tát giới hay còn gọi là Bồ Tát Tâm Địa giới, đó là giới lấy tâm làm thể, làm chỗ tu nhân, làm đức tin, làm đối tượng chuyển hóa trong quá trình tu tập của mình. Bồ Tát giới lấy tâm làm cứ điểm để xác lập Thệ và Nguyện, để quyết định mọi hành động của ba nghiệp, lấy tâm làm chủ đích hướng đến đạo quả Vô thượng Bồ đề, lấy tâm làm lãnh địa để duy trì và sinh trưởng các thiện pháp, sinh trưởng các địa vị giác ngộ của Phật và Bồ Tát.

Bồ Tát giới là giới thuộc về Phật tính, có nghĩa là Bồ Tát giới không bị giới hạn về mặt thời gian, không gian và chủng tính. Bồ Tát giới còn được gọi là Đại thừa giới, thường gọi là Thông giới (chung cả xuất gia lẫn tại gia). Đại thừa giới là bản nguyên của chúng sanh, đó chính là Phật tính. Do đó Bồ Tát giới khẳng định, hết thảy chúng sanh đều có Phật tính, nghĩa là hết thảy họ đều có Bồ Tát giới tánh, nên tất cả chúng sanh đều có thể thọ và hành trì Bồ Tát giới để thành Phật. Bồ Tát giới còn có ý nghĩa là Giới pháp vô tận, Giới pháp tâm thọ, Giới pháp thuộc về công đức, Giới pháp bản nguyện và Giới pháp viên mãn cụ túc.

Vì sao Bồ Tát giới còn được gọi là Tâm địa giới? Pháp môn thìnhiều nhưng không ra ngoài tâm. Cho nên có tâm là có đủ tất cả các pháp. Tâm là bổn nguyện của Thánh và phàm, Bồ Tát vốn ngộ tâm đó nên thọ Bồ Tát giới và y theo tâm địa mà làm.

Bồ Tát giới gồm trong ba tụ tịnh giới là: Nhiếp luật nghi giới, Nhiếp thiện pháp giới và Nhiêu ích hữu tình giới.

– Một là gom tất cả gọi là “nhiếp”. Nếu có luật nghi gì thì luật này điều gom hết, gọi là Nhiếp luật nghi giới. Tụ này gồm có: Thứ nhất,Thanh tịnh về biệt giải thoát luật nghi, đó là sựu thanh tịnh về “chỉ trì” mà các điều cấm chỉ ở trong giới bổn đã quy định. Thứ hai,Thanh tịnh về căn luật nghi, đó là luật nghi có khả năng phòng hộ, khiến các quan năng khi nhận thức, không bị các trần cảnh bên ngoài khuấy động. Thứ ba, Thanh tịnh về mạng luật nghi và thứ tư là Thanh tịnh về niệm luật nghi.

– Hai là Nhiếp thiện pháp giới, là có bao nhiêu điều thiện thì giới này gom hết, lục độ vạn hạnh đều nằm trong giới này. Tụ này gồm tất cả giới thuộc về thực hành pháp thiện, do sự đình chỉ về các ác của thân, khẩu và ý mà phát sinh ra. Tụ này không những nhắm đến chỉ trì mà còn nhắm đến tác trì. Nói chung, giới này do công năng làm cho tam nghiệp thanh tịnh và đem lại lợi ích cho chúng sanh mà có.

– Ba là Nhiêu ích hữu tình, nghĩa là giới đem lại lợi lạc cho chúng sanh. Tụ này gồm tất cả giới thuộc về Thệ và Nguyện. Thệ nguyện của giới này lấy Bồ đề tâm làm nhân hạnh tu tập, lấy đạo quả Vô thượng Bồ đề làm mục tiêu hướng đến và lấy hết thảy chúng sanh làm đối tượng phục vụ. Do vậy, nếu hành trì viên mãn tụ này thì mình và tha nhân đều có lợi lạc, mở ra một thế giới thanh tịnh, hạnh phúc tối thượng.

Nhiếp luật nghi là “chư ác mạc tác”, đoạn tất cả việc ác. Nhiếp thiện pháp là “chúng thiện phụng hành”. Nhiêu ích hữu tình là lợi lạc chúng sanh. Hai việc nhiếp luật nghi và nhiếp thiện pháp tuy cũng lợi lạc chúng sanh nhưng gián tiếp, còn nhiêu ích hữu tình là trực tiếp và thể hiện tinh thần Bồ Tát cao nhất[6].

2.3. Giới tướng

Giới tướng của Bồ tát trong các Kinh và Luận nêu ra không đồng nhau về số lượng. Kinh Phạm Võng và kinh Anh Lạc thì đồng nhau về mười trọng giới, nhưng Anh Lạc không nêu rõ các khinh giới một cách rõ ràng như Phạm Võng. Trong kinh Đại Thừa Lý Thú Lục Ba La Mật thì lại nếu ra sáu mươi lăm giới tướng, trong đó mười giới trọng có nội dung là Thập thiện giới. Bồ Tát Nội Giới kinh thì có bốn mươi bảy giới tướng. Ở Thiện Giới kinh thì nêu ra tám giới trọng và các giới khinh khá cụ thể. Bồ Tát Địa Trì kinh thì nêu ra bốn giới tướng thuộc về nặng và ba mươi lăm giới tướng thuộc về nhẹ. Kinh Ưu Bà Tắc thì nếu ra sáu giới nặng và hai mươi tám giới nhẹ.v.v…

Tuy số lượng giới tướng trong các Kinh, Luận có chỗ bất đồng nhau, nhưng tất cả đều lấy ba nghiệp làm căn bản để thiết lập giới tướng. Mục đích của giới tướng là làm cho ba nghiệp của người thọ trì trở nên thanh tịnh, một sự thanh tịnh luôn tương ứng với Bồ đề Tâm, Bồ đề Hạnh, Bồ đề Nguyện và Đạo quả Bồ đế. Do đó, dù số lượng của giới tướng qua các Kinh có sai khác, nhưng chúng vẫn có tính thống nhất cơ bản và có chung ý hướng thiết lập. Trong giới tướng của Bồ Tát, chúng ta có thể phân ra giới tướng của Bồ Tát xuất và Bồ Tát tại gia:

a. Giới tướng của Bồ Tát giới xuất gia[7]

Trong Bồ Tát giới Phạm Võng, có 58 giới tướng, gồm 1o giới trọng và 48 giới khinh.

– 10 giới trọng: 1. Không được tàn sát, 2. Không được trộm cướp, 3. Không được dâm dục, 4. Không được vọng ngữ, 5. Không được buôn rượu, 6. Không được nói xấu đồng đạo, 7. Không được khen mình chê người, 8. Không được tiếc lẫn tài pháp, 9. Không được giận dữ không nguôi, 10. Không được phỉ báng Tam bảo.

– 48 giới khinh: 1. Không được bất kính thầy bạn, 2. Không được uống các thứ rượu, 3. Không được ăn các thứ thịt, 4. Không được ăn đồ cay nồng, 5. Không được không khuyên sám hối, 6. Không được không cầu chánh pháp, 7. Không được không đi nghe pháp, 8. Không được phản đại thừa giới, 9. Không được không giúp bệnh tật, 10. Không được tàng trữ khí cụ, 11. Không được làm kẻ quốc tặc 12. Không được buôn bán tàn nhẫn, 13. Không được phỉ báng không thật, 14. Không được cố ý thiêu đốt, 15. Không được chỉ dạy sai lệch, 16. Không được nói pháp rối loạn 17. Không được ỷ thế ham cầu, 18. Không được mù mờ làm thầy, 19. Không được phỉ báng giữ giới, 20. Không được không cứu phóng sinh, 21. Không được giận dữ báo thù, 22. Không được kiêu ngạo không học, 23. Không được không truyền kinh giới, 24. Không được học các sách khác, 25. Không được lạm dụng gây rối, 26. Không được không đãi khách tăng, 27. Không được thọ thỉnh riêng biệt, 28. Không được thỉnh tăng riêng biệt, 29. Không được sống bằng tà mạng, 30. Không được bất kính hảo thời. 31. Không được không cứu không chuộc, 32. Không được tổn hại chúng sinh, 33. Không được tà tâm làm quấy, 34. Không được rời bồ đề tâm, 35. Không được không phát đại nguyện, 36. Không được không phát đại thệ, 37. Không được mạo hiểm tai nạn, 38. Không được ngồi không thứ tự, 39. Không được không làm lợi lạc, 40. Không được chọn lựa truyền giới, 41. Không được vụ lợi làm thầy, 42. Không được thuyết giới ác nhân, 43. Không được cố tâm phạm giới, 44. Không được không trọng kinh luật, 45. Không được không có giáo hóa, 46. Không được thuyết không đúng phép, 47. Không được kềm chế phi lý, 48. Không được phá hoại đạo pháp.

b. Giới tướng của Bồ Tát giới tại gia[8]

Kinh Ưu Bà Tắc nêu ra 6 giới nặng và 28 giới nhẹ của một vị tại gia Bồ Tát giới.

– 6 giới nặng: 1. Không giết hại, 2. Không được trộm cắp, 3. Không được nói dối, 4. Không được tà dâm, 5. Không được nói lỗi của tứ chúng, 6. Không được mua rượu.

– 28 giới nhẹ: 1. Cúng dường sư trưởng và cha mẹ, 2. Không uống rượu, 3. Thăm viếng người bệnh, 4. Bố thí cho người đến xin, 5. Cung kính các vị Tỳ kheo, Tỳ kheo Ni và các bậc trưởng lão, 6. Không được cống cao đối với những người mà giới hạnh có khuyết tật, 7. Mỗi tháng phải thọ trì trai giới và cúng dường Tam bảo, 8. Không được không đi nghe pháp, 9. Không được thọ dụng ngọa cụ và giường nằm của chư Tăng trong bốn phương, 10. Nghi nước có trùng thì không nên uống, 11. Không được đi trên đường hiểm một mình, 12. Là Ưu bà tắc thì không được ngủ một mình ở chùa Ni và Ưu bà di thì ngược lại, 13. Không được vì sinh mệnh, tài sản mà đánh đập, nhục mạ những người giúp việc và những người khác, 14. Không được đem thức ăn dư thừa mời Tỳ kheo, Tỳ kheo Ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di, 15.Không được nuôi loài mèo, chồn, 16. Khi nuôi voi, trâu, ngựa, dê… thì phải làm phép tịnh thí, 17. Không nên cất giữ y Tăng già lê, bình bát và tích trượng, 18. Không gieo lúa ở nơi nước sạch và ở nơi đất khô, 19. Buôn bán giá cả thi chỉ nói một lời nhất định, đong lường thì phải sòng phẳng, 20. Không được hành dục không đúng lúc và không đúng chỗ, 21. Buôn bán không được trốn thuế, 22. Không được phạm vào luật pháp quốc gia, 23. Nếu gặt hái lúa, dưa, quả, trái cây… đầu mùa thì phải cúng dường Tam bảo trước khi dùng, 24. Không được tự ca ngợi sự thuyết pháp của mình, 25. Nếu đi giữa đường thì không nên đi trước Tỳ kheo hay Sa di, 26. Thiết đãi Tỳ kheo Tăng thì không được thiên vị, 27. Không được nuôi tằm kéo tơ, 28. Đi giữa đường gặp người bệnh không được bỏ qua, phải tìm phương tiện giúp đỡ.

Sự liệt kê ở trên cũng chính là sự khác nhau giữa giới tướng của Bồ Tát giới xuất gia và tại gia.

2.4. Thọ giới và mất giới

– Có hai cách thọ giới Bồ Tát: Một là tự thệ thọ, là đối trước Tam bảo phát bốn tâm tịnh tín, đối với Phật, Pháp, Tăng và giới thanh tịnh bất hoại. Lòng tin thành tựu viên mãn và cầu chư Phật gia hộ, khi thấy tướng hảo thì đắc giới. Hai là tùng sư thọ, là do thầy truyền thọ giới Bồ Tát truyền lại. Điều kiện cho thọ giới Bồ Tát có phần dễ hơn so với Thanh văn giới. Nhưng sự trì và phạm đối với Bồ Tát giới rất tinh tế. Vì giới này căn cứ trên tâm, nhưng tâm lại không có hình tướng cụ thể, không có tướng trạng nhất định, nên đối với Bồ Tát giới khi nào và ở đâu có thiện tâm phát khởi lên tương ứng với Bồ đề thì đó là trì giới. Ngược lại, khi nào và ở đâu mà tâm nghĩ ác, thân làm ác, miệng nói ác thì đó là phạm. Kinh Pháp Cú, phẩm song yếu có dạy: “Tâm dẫn đầu các pháp. Tâm là chủ, tâm tạo tác tất cả. Nếu nói và làm với tâm ác, thì khổ đau sẽ đi kèm theo, như bánh xe bò lăn theo chân con bò” và “Tâm dẫn đầu các pháp. Tâm là chủ, tâm tạo tác tất cả. Nếu nói và làm với tâm thiện, thì hạnh phúc sẽ đi kèm theo, như bóng với hình”. Nói tóm lại, trì giới Bồ Tát có hai trường hợp là chỉ trì và tác trì. Nghĩa là thực hiện đúng các điều cấm chỉ và những điều đã hứa. Có như vậy mới đem lại sự thanh tịnh và an lạc cho mình và mọi người.

– Mất giới: Sau khi thọ giới, trường hợp, mất giới của Tỳ kheo là do năm nhân duyên: Chết, đổi hình, không tin nhân quả (đoạn thiện căn), tác pháp (nói ra lời ‘tôi không tu, không làm tỳ kheo nữa’ với bất cứ người nào nghe, hiểu được) và phạm trọng giới. Bồ Tát giới thì chỉ có hai trường hợp mất giới là phạm trọng giới do thượng phẩm phiền não trói buộc (ví dụ, cố ý sát nhân mà tâm niệm hành động sát nhân hiện hành liên tục, không biết tàm quý, đó là thượng phẩm phiền não); trường hợp thứ hai là xả Bồ đề tâm, ví dụ nói rằng: “Tôi không tin việc làm Phật, không phát tâm Bồ đề nữa”. Bồ tát mệnh chung không mất giới, vì phát nguyện thọ từ kim thân cho đến Phật thân, trừ hai trường hợp nói trên[9].

2.5. Điểm dị đồng giữa Thanh văn giới và Bồ Tát giới

Thanh văn phát tâm chán lìa sanh tử luân hồi, Bồ Tát phát tâm Bồ đề, cả hai đều cùng hướng đến mục đích giải thoát tối thượng, nhưng giữa Thanh văn giới và Bồ Tát giới có nhiều điểm khác nhau. Chúng ta có thể đưa ra tám điểm dị đồng của hai loại giới như sau:

– Thông giới và Biệt giới: Thanh văn giới là Biệt giới, vì thất chúng Phật tử đều riêng bẩm thọ mà có, như Ngũ giới của tại gia, Thập giới của Sa di và Sa di Ni, Sáu học pháp của Thức xoa Ma na ni, Cụ túc giới của Tỳ kheo, Tỳ kheo Ni. Đệ tử của đức Phật phân ra làm thất chúng do chỗ bẩm thọ giới pháp bất đồng mà có ra. Đó là do đức Phật khế cơ, khế lý tuỳ phương tiện mà chế giới cho phù hợp với tất cả mọi người. Còn Bồ Tát giới là Thông giới, bất cứ người nào có tín tâm với Phật và giáo pháp của Ngài đều có thể thọ trì, chỉ có một điều kiện đặc biệt là phải phát tâm Bồ đề.

– Nhiếp luật nghi giới và Tam tụ tịnh giới: Thanh văn thường gói gọn trong Nhiếp luật nghi giới, công dụng chủ yếu cốt để “phòng phi chỉ ác”. Hành giả đúng như pháp mà thọ giữ thì có thể được giải thoát riêng biệt, cho nên Nhiếp luật nghi giới còn gọi là Biệt giải thoát giới. Dù hành giả bẩm thọ Nhiếp luật nghi giới, không phải hoàn toàn không cần tu tập tất cả thiện pháp để làm lợi ích cho tất cả chúng sanh, nhưng không giống với sự rộng học tất cả Phật pháp của hành giả Bồ Tát. Đại thừa Bồ Tát giới mới gồm có đầy đủ Nhiếp luật nghi giới, Nhiếp thiện pháp giới và Nhiêu ích hữu tình giới. Bồ Tát nếu không khéo hộ Nhiếp luật nghi giới thì đối với Nhiếp thiện pháp giới và Nhiêu ích hữu tình giới khó có thể sanh khởi. Cho nên hành giả Bồ Tát giới phải xem trọng cả tam tụ tịnh giới để học tập và hành trì, có như vậy mới đem lại lợi ích cho số đông.

– Thanh văn giới thì bắt buộc phải từ nơi Thầy mà thọ giới mới được; còn Bồ Tát giới thì có thể tự thệ thọ, miễn là phải phát tín tâm và Bồ đề tâm thật dõng mãnh và nhờ sự gia hộ của chư Phật.

– Thanh văn giới thuộc về tân đắc giới, vì trước vốn không có giới, sau khi như pháp thọ trì mới được giới thể, khi kết thúc một thân mạng thì giới thể cũng tự mất theo. Đến đời sau muốn được giới thể thì phải thọ nhận lại. Còn Bồ Tát giới là pháp tánh sẵn có của tự tâm, không phải là pháp sau khi thọ mới có được, do vậy Bồ Tát giới thuộc về huân phát.

– Giới Thanh văn không được nghe đọc giới, giới Bồ Tát có thể được nghe đọc giới.

– Sự khác nhau về giới điều (như sự trình bày trong phần giới tướng).

– Thanh văn giới đợi duyên đức Phật mới chế lập; Bồ Tát giới không cần có duyên mới chế định.

– Điều kiện để được thọ giới của Thanh văn và Bồ Tát khác nhau: Điều kiện để được thọ giới Thanh văn có những quy định nghiệm mật mà không phải người nào cũng được thọ giới, nhất là việc thọ giới của người xuất gia. Những người có các thứ bệnh hủi, cùi, lác, ung thư, điên cuồng… hay sáu căn không đầy đủ, người hoàng môn nhị hình, phi nhơn hoặc súc sanh.v.v…điều không đủ điều kiện để thọ Cụ túc giới của Thanh văn. Trái lại, Bồ Tát giới không có những quy định quá nghiêm khắc như vậy. Kinh An Lạc nói: “Chúng sanh trong lục đạo đều được thọ giới, chỉ cần hiểu được lời của Pháp sư thì đắc giới không mất”.

3. Con đường tịnh hóa thế gian bằng Bồ Tát giới

Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, và tất cả chúng sanh đều có thể thành Phật. Chúng sanh muốn thành Phật thì cần phải phát tâm Bồ đề rộng lớn và tu tập Giới-Định-Tuệ đến chỗ rốt ráo viên mãn. Trong đó, giới là căn bản của sự giải thoát. Bồ Tát giới là Tâm địa giới của tất cả chúng sanh, nên chúng sanh muốn thành Phật thì phải thọ trì và tu tập Bồ Tát giới. Giới là cội gốc của Vô thượng Bồ đề, kinh Anh Lạc nói: “Tất cả chúng sanh khi vào trong bể Tam bảo, phải dùng lòng tin làm cơ bản, khi đã an trụ trong nhà Phật thì lấy giới làm cội gốc”. Đại thừa Bồ Tát giới phải lấy phát tâm Bồ đề làm cơ bản, tức là lấy tâm Bồ đề làm giới thể của Bồ Tát giới. Chí hướng của đạo Phật cốt ở sự lợi tha, nếu không phát tâm Bồ đề thì đâu có thể phổ biến lợi ích cho tất cả chúng sanh. Do vậy, muốn đem lại sự thanh tịnh, an lạc, hạnh phúc cho thế gian này, cần phải lấy Bồ Tát giới làm điểm tựa vững chắc.

Người thọ Bồ Tát giới cần phải phát nguyện và hành trì theo bốn thệ nguyện lớn sau:

Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ

Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn

Pháp môn vô lượng thệ nguyện học

Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành.

Theo đó, Bồ Tát muốn thành đạo nghiệp lớn, trước hết phải phát nguyện cứu độ hết thảy chúng sanh. Muốn cứu độ chúng sanh thì trước tiên tự mình phải đoạn hết phiền não. Bồ Tát đoạn muốn đoạn phiền não phải nương tựa vào căn bản Giới-Định-Tuệ để hành trì. Bồ Tát phải song hành hai quá trình tự độ và độ tha trong đại nguyện từ bi của mình mới làm tròn bổn phận và trách nhiệm của mình. Giới Bồ Tát là con đường, là phương tiện cần thiết và hiệu quả nhất để hành giả có thể thực hiện được đại nguyện đó. Chúng ta điều biết, công năng của giới Bồ Tát không những đem lại sự thanh tịnh, chứng quả cho chính người hành trì mà còn mang lại hạnh phúc lợi lạc cho tha nhân. Bởi Bồ Tát giới cũng như hạnh nguyện của Bồ Tát đều dựa trên nền tảng của Tâm địa giới, Tâm đại từ đại bi bao la vô lượng. Do vậy, ý nghĩa của Bồ Tát giới là ý nghĩa của sự thực hành Bồ Tát đạo. Kinh Đại Bát Nhã nói: “Tịnh giới vô lậu của hàng Thanh văn, Độc giác, chỉ hồi hướng đến Niết bàn để cầu tự lợi, còn tịnh giới của Bồ Tát là vì độ thoát vô lượng chúng sanh mà hồi hướng đến Vô thượng Bồ đề. Do đó, tịnh giới của hàng Bồ Tát siêu việt hơn tịnh giới vô lậu của hàng Nhị thừa”. Một hành giả từ nơi Bồ đề tâm mà phát khởi hạnh nguyện để thọ và trì giới Bồ Tát, vị ấy hiện hữu giữa cuộc đời như là đại diện của chư Phật mang lại đầy đủ chất liệu từ bi và trí tuệ để đem lại hạnh phúc cho muôn loài.

Bồ Tát giới thuộc về Bản nguyên tự tánh thanh tịnh, là bảo vật vô giá của hết thảy chúng sanh, nên chúng sanh cần phải trở về để thọ và trì. Khi mỗi chúng sanh ai cũng làm được điều này thì thế giới của chúng ta sẽ trở nên thanh tịnh, dần dần thế gian này sẽ biến thành tịnh độ. Con đường này phải được thực hiện một cách triệt để dưới hai góc độ cá nhân và xã hội mới mong thành tựu:

a. Góc độ cá nhân: Mỗi người con Phật chúng ta (xuất gia lẫn tại gia), khi thọ Bồ Tát giới phải phát Bồ đề tâm một cách dõng mãnh, tinh tấn tu trì tịnh giới để sớm thành tựu phần tự ngộ. Phát tâm thọ giới Bồ Tát là phát tâm cầu đạo Vô thượng Bồ đề để cứu độ tất cả chúng sanh. Do vậy, tự độ và độ tha vừa là trách nhiệm, vừa là bổn phận của người thọ Bồ Tát giới. Đây là ý nghĩa của hạnh nguyện thượng cầu Phật đạo, hạ hóa chúng sanh. Tự thân mỗi người phải luôn hành trì Tam tụ tịnh giới để vững bước trên con đường con đường hướng đến giải thoát giác ngộ. Mỗi chúng ta phải luôn luôn ý thức về con đường học đạo và tu đạo của mình, từ đó tự sách tấn mình trên con đường về bến giác. Thật ra, giáo pháp giải thoát nhiệm mầu đã được đức Như Lai nói ra một cách rõ ràng và hết sức cụ thể, vấn đề còn lại là chúng ta có chịu tinh tấn để bước đi trên con đường mà Ngài đã chỉ dạy không thôi. Như trong kinh Di Giáo, đức Bổn Sư nhấn mạnh rằng: “Thể hiện lòng đại bi, Như Lai đã nói chánh pháp ích lợi một cách cứu cánh. Các thầy chỉ còn nỗ lực mà thực hành… Hãy cố gắng một cách thường trực, tinh tấn mà tu tập, đừng để đời mình sẽ chết đi một cách vô ích, và sau này phải lo sợ hối hận. Như Lai như vị lương y, biết bệnh mà chỉ thuôc, còn uống hay không, không phải lỗi của lương y. Lại như người dẫn đường rất tốt, chỉ dẫn đường tốt cho người, nhưng nghe rồi mà không đi, thì không phải lỗi của người dẫn đường”[10]. Nói chung, ở góc độ cá nhân, mỗi hành giả phải luôn nghiêm trì tịnh giới, tấn tu phạm hạnh để đạt được Thánh giới thanh tịnh sáng suốt, liễu giải sanh tử luân hồi.

b. Góc độ xã hội: Giới hạn tu tập của Bồ Tát giới không chỉ dừng lại ở mỗi cá nhân, mà phải phổ biến rộng khắp ra ngoài xã hội. Đương nhiên, khi mỗi cá nhân thực hành trọn vẹn Bồ Tát giới thì sẽ tạo ra một xã hội an lạc, thanh tịnh. Nhưng không phải ai cũng có cơ duyên với Phật pháp, không phải ai cũng có tín tâm với tịnh giới. Con đường tịnh hoá thế gian chính là con đường đem Phật pháp, nhất là Bồ Tát giới đến với tất cả mọi người trong xã hội, rộng ra nữa là muôn loài chúng sanh. Đó chính là hạnh nguyện của Bồ Tát, là giới của Bồ Tát. Ở đây, nổi trội lên giá trị và ý nghĩa độ tha trong con đường thực hành Bồ Tát đạo. Do vậy, vai trò của những người con Phật đã thọ Bồ Tát giới trong con đường tịnh hóa thế gian là rất quan trọng. Bản lĩnh, khả năng và kết quả hành trì Bồ Tát giới của mỗi cá nhân được thể hiện rõ trên tổng thể hiệu quả ứng dụng của nó khi đi vào thế gian.

Mục đích lớn nhất của đạo Phật là đem lại hạnh phúc cho muôn loài chúng sanh. Bồ Tát giới là một trong những phương tiện, con đường hữu hiệu để thực hiện mục đích đó. Bồ Tát giới thể hiện rõ tinh thần của Phật giáo phát triển khi đi vào xã hội. Bằng nhiều cách, chúng ta phải có bổn phận đưa Bồ Tát giới áp dụng một cách rộng rãi vào trong thế giới này. Hiệu quả ứng dụng Bồ Tát giới trong xã hội càng cao thì mức độ thanh tịnh, an lạc và hạnh phúc ở thế gian càng lớn. Điều này đòi hỏi tinh thần và trách nhiệm cao ở mỗi người con Phật trong vấn đề tu tập và hoằng hóa độ sanh. Tịnh hóa thế gian thật chất là tịnh hóa phẩm chất giới hạnh của mỗi cá nhân ở mức độ cao. Một khi Bồ Tát giới thật sự đi vào thế gian một cách có hiệu qủa thì đạo đức xã hội sẽ được phục hồi, đời sống tâm linh của nhân loại được tăng trưởng. Khi đó thế giới sẽ dần bớt đi khổ đau, hạnh phúc sẽ tràn ngập khắp muôn nơi.

III. Kết luận

Ý nghĩa và công năng của Bồ Tát giới là bất khả tư nghị. Tu tập Bồ Tát giới là phát tâm hành trì hạnh nguyện thệ độ hết thảy chúng sanh và nguyện thành Phật đạo. Tất cả muôn công đức lành đều dựa trên giới này mà phát khởi. Tất cả các thiện pháp, các địa vị Thánh quả cũng từ nơi giới này mà phát sinh. Mọi quốc độ thanh tịnh với Y báo và Chánh báo trang nghiêm cũng từ giới này mà thành tựu, Cuối cùng, con đường viên mãn Phật đạo cũng do đây mà được xác lập. Do đó, Giới kinh xác định rằng:

Chúng sanh thọ Phật giới

Tức nhập chư Phật vị

Vị đồng đại giác dĩ

Chơn thị chư Phật tử

Nghĩa là:

Chúng sanh thọ Phật giới

Chính vào địa vị Phật

Vị đã đồng đại giác

Đích thị là Phật tử.

Y cứ trên đây, chúng ta có thể khẳng định, con đường tịnh hóa thế gian bằng Bồ Tát giới là điều hoàn toàn có thể. Vì mỗi người thọ và trì Bồ Tát giới là họ đang làm công việc chuyển hóa cấu uế thành thanh tịnh, luân hồi thành Niết bàn, phiền não thành Bồ đề dựa trên cơ sở làm sạch ba nghiệp hoàn toàn. Vấn đề còn lại là khả năng hành trì Bồ Tát giới của chúng ta được bao nhiêu và phổ biến tịnh giới này vào trong thế gian được chừng nào. Để chuyển hóa thế gian ô trược này thành tịnh độ là chuyện quá khó, khó như hạnh nguyện cứu độ hết thảy chúng sanh trong địa ngục của ngài Địa Tạng. Khó, nhưng không phải là không làm được nếu mỗi chúng ta ai cũng tinh tấn thọ trì Bồ Tát giới một cách rốt ráo.

Tài liệu tham khảo

1.HT Thích Trí Tịnh, Kinh Phạm Võng, Thành Hội PG Tp. Hồ Chí Minh, 1997

2.Kinh Bồ Tát thiện giới, Phẩm Trì giới độ

3.Kinh Di Giáo, bản dịch của HT Thích Trí Quang, Nxb Tôn Giáo, 2006

4.HT Thích Thiện Siêu, Cương yếu Giới Luật, Nxb Tôn Giáo, 2002

5.HT Thích Phước Sơn, Luật học tinh yếu, Nxb Phương Đông, 2006

6.Thích Minh Thành, Giáo trình luật học cơ bản, tập III, Thành Hội PG Tp. Hồ Chí Minh, 1993

7.Thích Viên Trí, Ý nghĩa Giới Luật, Nxb Tôn Giáo, 2004

8.Thích Viên Trí, Khái niệm về Bồ-tát Quán Thế Âm, Nxb Tôn Giáo, 2005

[1] Theo Từ điển Phật học, trang nhà Thư Viện Phật Học

[2] Xem, Thích Viên Trí, Khái niệm về Bồ-tát Quán Thế Âm, Nxb Tôn Giáo, 2005, tr 54.

[3] Sự giải thoát tuỳ thuộc vào số giới điều được tuân giữ.

[4] Sự giải thoát tuỳ vào tâm của hành giả hướng đến quả hữu vi hay vô vi

[5] Xem Thích Viên Trí, Ý nghĩa Giới Luật, Nxb Tôn Giáo, 2004, tr 33-34

[6] Xem HT Thích Thiện Siêu, Cương yếu Giới Luật, Nxb Tôn Giáo, 2002, tr 191

[7] Theo kinh Phạm Võng

[8] Theo kinh Ưu Bà Tắc

[9] Xem HT Thích Thiện Siêu, Cương yếu Giới Luật, Nxb Tôn Giáo, 2002, tr 193

[10] Kinh Di Giáo, bản dịch của HT Thích Trí Quang, Nxb Tôn Giáo, 2006

Share this:

  • Facebook
  • X
Like Loading...

Related

Từ khóa » Bồ Tát Giới Có Bao Nhiêu Giới