Bước đầu Tìm Hiểu Về Hát Dô ở Xã Liệp Tuyết, Huyện Quốc ... - 123doc

Bước đầu tìm hiểu về hát Dô ở xã Liệp Tuyết, huyện Quốc Oai, thành phố Hà Nội

Trang 1

A PHẦN MỞ ĐẦU

1 Lý do chọn đề tài

Mỗi vùng quê sản sinh ra một loại hình dân ca khác nhau đều mang bản sắcriêng của mảnh đất đó Nếu như dân ca quan họ chỉ nảy sinh từ vùng đất Kinh Bắc,hát Xoan sinh ra ở vùng đất Phú Thọ, hát Dậm chọn quê hương Hà Nam… thì hát

Dô lại nảy sinh ở xã Liệp Tuyết, huyện Quốc Oai, tỉnh Hà Tây cũ (nay là Hà Nội) Hát Dô là một loại dân ca nghi lễ đặc sắc, gắn với tín ngưỡng thờ Tản Viênsơn thánh Lời ca của nó thể hiện sự tôn kính của nhân dân đối với vị thần đứngđầu trong tứ bất tử Việt Nam, đồng thời phản ánh nhận thức của người dân vềthiên nhiên, và ước mơ của người dân về một cuộc đời êm ấm, thời tiết thuậnhòa, mùa màng bội thu, con cháu đông đúc Hát Dô còn là tiếng ca trữ tình,nồng nàn về tình yêu nam nữ, về hạnh phúc lứa đôi của người nông dân dướichế độ phong kiến Nội dung này đã trở thành nội dung chủ đạo trong phần hát

Bỏ bộ, được tiến hành sau những diễn xướng có tính chất nghi lễ của hát Hội

Dô trong những ngày lễ hội…

Tìm hiểu về hát Dô cũng chính là một cách để chúng ta có thể thấy đượcthực trạng hiện tại của dân ca này, cũng như cách thức bảo tồn và duy trì vốnvăn hóa cổ không chỉ có giá trị với riêng Liệp Tuyết mà còn đối với nền vănhóa dân tộc

Bước vào nền kinh tế thị trường, sự giao thoa và ảnh hưởng của các nền vănhóa đang tác động mạnh mẽ đến đất nước ta Nhiều loại hình nghệ thuật dunhập và phát triển rầm rộ đang làm cho một số môn nghệ thuật truyền thốngđang đứng trước nguy cơ mai một trong đó hát Dô Việc nghiên cứu về điệu hát

cổ này đang nhận được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu Tìm hiểu về đề

Trang 2

tài “Bước đầu tìm hiểu về hát Dô ở xã Liệp Tuyết, huyện Quốc Oai, thành phố

Hà Nội” cũng là một cách tác giả đóng góp một phần của mình vào công tác

bảo tồn và giữ gìn loại dân ca đặc sắc này

Việt Nam học một khoa liên ngành nghiên cứu về đất nước, con người ViệtNam dựa trên các yếu tố như: lịch sử, văn hóa, văn học Tính chất liên ngành

đó buộc sinh viên phải không ngừng thu thập thông tin, tích cực tìm hiểu và vậndụng những gì đã học vào các nghiên cứu Nghiên cứu hát Dô cũng là dịp ngườiviết vận dụng các kiến thức về ngành học của mình như: dân tộc học, lịch sử,địa lý… để hiểu một cách cặn kẽ và toàn diện về loại dân ca “có một khônghai” này

Hát Dô là một điệu hát cổ, gắn với văn hóa và phong tục của mảnh đất LiệpTuyết Nghiên cứu điệu hát này giúp người viết không chỉ hiểu biết hơn về hát

Dô mà còn về chính những con người nơi đây

2 Lịch sử vấn đề

Là một loại hình dân ca độc đáo nhưng do thời gian mỗi lần tổ chức hát Dôcách nhau khá xa Và sau khi tổ chức thì văn bản gốc phải cất lại trong đền cònnhững bản sao thì phải đốt đi cho nên cứ liệu để nghiên cứu loại hình dân ca này làrất hạn chế Đây là một khó khăn rất lớn cho những ai muốn nghiên cứu tìm hiểu

về hát Dô Phải cho đến khi đất nước hoàn toàn thống nhất, sau 1975 mới xuất hiệnmột số những công trình nghiên cứu về hát Dô

Trước hết , đó là cuốn “Hát Dô - Hát Chèo Tàu” của tác giả Trần Bảo Hưng

và Nguyễn Đăng Hòe, viết năm 1977 Cuốn sách này, các tác giả đã viết một cáchkhá kỹ lưỡng về loại dân ca này Hơn nữa, các tác giả cũng đi sâu vào nội dung,hình thức cũng như những giá trị văn học của hát Dô

Trang 3

Tiếp theo là, cuốn “Tục ngữ ca dao dân ca Hà Tây” của Sở Văn hóa thông tin

thể thao Hà Tây, tái bản năm 1993 Cuốn sách đã không chỉ giới thiệu về các loạihình tục ngữ, ca dao Hà Tây còn giới thiệu một cách khái quát về điệu hát Dô

Cuốn “Xứ Đoài” của Kiều Thu Hoạch, viết năm 2000 là cuốn sách viết về nền

văn hóa đặc sắc của xứ Đoài Trong phần viết về hát Dô lại chủ yếu miêu tả Hội

Dô, phần về hát Dô tác giả nhắc đến không đáng kể

Đề tài tập sự “Di tích và lễ hội đền Khánh Xuân” của Phùng Văn Thành, năm

2006, lại chủ yếu phân tích và mô tả kỹ lưỡng về đền Khánh Xuân, không giandiễn ra lễ hội Dô cũng như trình bày những khái quát chung về Hội Dô

Tiếp theo là cuốn luận văn Thạc sĩ “Bảo tồn, phát huy diễn xướng dân gian hát

Dô (xã Liệp Tuyết, huyện Quốc Oai, tỉnh Hà Tây)”, năm 2008, của tác giả Đặng

Thị Hạnh Đề tài đã đề cập đến thực trạng và phương hướng bảo tồn hát Dô

Ngoài ra, còn một số những bài viết nữa của các tác giả như: Nguyễn DuyCách, Nguyễn Thị Vân đăng trên các Tạp chí dân tộc và thời đại, Báo Hà Tây, BáoNhân dân cũng giới thiệu chung về loại hình dân ca này, nhưng nó mới chỉ dừnglại ở nghiên cứu sơ bộ và khái quát Trên một số trang web cũng có những bài viết,nghiên cứu về hát Dô Điều này có thể thấy, càng ngày loại hình dân ca này càngđược chú ý và quan tâm

Trong quá trình tìm hiểu về hát Dô, chúng tôi nhận thấy, đây là một loại hìnhdân ca nghi lễ hết sức độc đáo Độc đáo ở nguồn gốc xuất hiện, ở những tục hèmxung quanh nó, ở người hát và ở cả thời gian mỗi lần tổ chức hát Dô Tuy nhiên,những tài liệu nghiên cứu về hát Dô còn ít nếu không muốn nói là quá ít Các tàiliệu này chỉ đề cập một cách tản mạn, ở khía cạnh này hay khía cạnh kia của củahát Dô Hơn thế, các tài liệu chủ yếu hoặc là nói về nguồn gốc hoặc là nói về cáclàn điệu hoặc là nói về những nghệ nhân hát Dô Với đề tài “Bước đầu tìm hiểu hát

Trang 4

Dô ở xã Liệp Tuyết, huyện Quốc Oai, thành phố Hà Nội” chúng tôi muốn có cáinhìn toàn diện hơn, xem xét và đánh giá hát Dô ở các mặt khái niệm nguồn gốc,đến đặc trưng, giá trị của câu hát Dô Phân tích tình hình hiện nay của hát Dô đểđưa ra một số giải pháp bảo lưu và phát triển loại hình dân ca độc đáo này.

3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của khóa luận là hát Dô ở xã Liệp Tuyết –huyện Quốc Oai – thành phố Hà Nội

4 Nhiệm vụ nghiên cứu

Trên cơ sở xác định đối tượng, phạm vi nghiên cứu, chúng tôi đề ra nhữngnhiệm vụ cụ thể mà khóa luận cần giải quyết:

Thứ nhất, trình bày những nét khái quát nhất về mảnh đất sản sinh loại hình dân

5 Phương pháp nghiên cứu

Để thực hiện đề tài, chúng tôi đã sử dụng một số phương pháp:

Phương pháp liên ngành kết hợp giữa nghiên cứu văn hóa với lịch sử, địa lý Phương pháp chuyên ngành như: điền dã, khảo sát, thống kê, so sánh đối chiếu,tổng hợp, phỏng vấn sâu để làm bật những nét đặc sắc của dân ca hát Dô tại LiệpTuyết

Trang 5

6 Đóng góp của khóa luận

Khóa luận thực hiện sẽ có những đóng góp sau:

Chưa có một công trình nào bóc tách các đặc trưng của hát Dô để nghiên cứu

nó như một thực thể độc lập Đồng thời đặt các đặc trưng đó trong mối quan hệ vớicác loại hình dân ca khác như: Hát Xoan, hát Chèo tàu, Ca trù… để so sánh tìm ranhững nét đặc sắc

Hiện nay, vấn đề thực trạng và bảo tồn điệu hát Dô vẫn chưa được quan tâmđúng mức Vì vậy, chúng tôi mong muốn đề tài sẽ mang một phần đóng góp nhỏ

bé với loại hình dân ca này

Khóa luận cũng sẽ là tài liệu tham khảo của không chỉ những nhà nghiên cứu vềđiệu hát Dô mà còn đối với tất cả những ai quan tâm say mê tìm hiểu điệu hát cổ

Trang 6

B PHẦN NỘI DUNG

CHƯƠNG 1: VÀI NÉT VỀ MẢNH ĐẤT SẢN SINH RA LOẠI HÌNH DÂN CA ĐỘC ĐÁO – HÁT DÔ

1.1 Về điều kiện tự nhiên và dân cư

1.1.1 Điều kiện tự nhiên

Bất kỳ một loại hình dân gian nào muốn nảy sinh đều phải có môi trường vànhững điều kiện để phát tích “Nếu như hát Xoan tập trung ở bốn thôn: Phú Đức,Kim Đới, An Thái, Thét thuộc huyện Phù Ninh (Vĩnh Phú), hát Dậm ở thôn QuyểnSơn, xã Thi Sơn, huyện Kim Bảng (Hà Nam Ninh)” [16,13], hát Chèo tàu lưutruyền ở xã Tân Hội huyện Đan Phượng thì làn điệu hát Dô cũng có quê hương của

nó Đó là xã Liệp Tuyết, huyện Quốc Oai, Hà Nội

Mảnh đất Liệp Tuyết nằm uốn khúc theo dòng Tích Giang thơ mộng, , ởphía Tây Nam của huyện Quốc Oai, là khu vực bán sơn địa

Nằm kề bên dòng sông Tích, phía Bắc của Liệp Tuyết giáp với xã NgọcLiệp, phía Nam giáp với xã Cấn Hữu, phía Đông là xã Ngọc Mĩ, phía Tây giáp xãTuyết Nghĩa và phần Đông Nam của xã giáp với xã Nghĩa Hương Có thể nói vùngnày là nhịp cầu nối liền các xã trong huyện, và nối liền giữa vùng rừng núi vớivùng đồng bằng Vì vậy, địa hình nơi đây cũng có nhiều dạng khác nhau, vừa cóđồng bằng, thung lũng lại có cả những khu vực núi Hiện nay, xã Liệp Tuyết gồm

có 6 thôn gồm: Đại Phu, Vĩnh Phúc, Bái Nội, Bái Ngoại, Thông Đạt và Đồng Sơn

Trang 7

Trước kia, từ Hà Nội muốn đến Liệp Tuyết thì phải đi khá xa và vất vả: từthị xã Hà Đông đi theo con đường 430 qua địa phận xã Đại Mỗ đi về thị trấn QuốcOai, đến hiệu sách nhân dân rẽ phải đi theo đường huyện lộ, đi khoảng 10 km là tớiđịa phận xã Liệp Tuyết

Từ khi con đường Láng – Hòa Lạc hình thành thì việc “hành hương” về LiệpTuyết trở nên dễ dàng hơn nhiều Con đường từ Hà Nội đến Liệp Tuyết khoảng 20

km, cứ theo đường Láng – Hòa Lạc đến cầu Liệp Mai, rẽ trái, đi qua địa phận xãNgọc Liệp là đến Liệp Tuyết Vị trí địa lý thuận lợi hơn cũng là cơ sở để LiệpTuyết phát triển và mở rộng giao lưu với các vùng khác trong tỉnh

Cảnh vật cùng với vị trí như vậy đã tạo nên một đời sống và sinh hoạt vănhóa hết sức phong phú Đó cũng là môi trường thuận lợi cho nhiều loại hình diễnxướng dân gian tồn tại và phát triển

1.1.2 Về dân cư

Cư dân Liệp Tuyết phần lớn đều sinh sống khá lâu đời Dân cư ở đây kháthuần nhất bởi vì đời sống của họ dựa chủ yếu vào sản xuất nông nghiệp Hơn nữa,đây là vùng không có giao thông thuận lợi nên ít có sự trao đổi buôn bán, cũngkhông phải là vùng quê trù phú, nên dân cư ở đây không có sự biến đổi về cơ cấudân số

Trải qua các thời kỳ trong lịch sử cũng chưa thấy có tài liệu nào ghi chép

về sự hình thành làng xóm ở đây, và nhân khẩu là bao nhiêu Chỉ đến giai đoạn saunày, mới có những thống kê cụ thể Theo điều tra dân số của xã năm 1957 xã LiệpTuyết có tổng số 537 hộ với 2355 nhân khẩu Cho đến năm 2005 theo nguồn niêmgiám thì xã đã có số dân gấp đôi năm 1957, với tổng số dân là 5002 người Đếnnăm 2008, số liệu điều tra của Ủy ban nhân dân xã, dân số ở Liệp Tuyết là khoảng

Trang 8

1.151 hộ với 5.170 nhân khẩu và có khoảng 20 dòng họ lớn nhỏ Thành phần dântộc chủ yếu ở đây là người Việt Trong đó có những dòng họ lớn: Kiều, Nguyễn,Phạm, Đỗ, Tạ, Đặng, Bùi… là những cư dân bản địa Vì thế tính cộng đồng rấtcao, mối quan hệ làng xã gần gũi.

1.2 Về kinh tế

Cũng như những làng quê khác trên đất nước ta, nền kinh tế chủ yếu của xã

là sản xuất nông nghiệp Tổng diện tích canh tác ở Liệp Tuyết có 1.736 mẫu (tươngđương với 6249,6 km2) [3, 9] Và, diện tích đất phù sa chủ yếu ở vùng ven sôngTích, vùng này được chia thành hai:

Vùng ngoài đê sông Tích: Đây là vùng chiếm diện tích lớn, nằm liền kề vớimiền bán sơn địa, hay nói cách khác ở đây có sự đan cài giữa những chân ruộngcao, với một số ruộng trũng lầy lội Vùng này thường phải chịu úng lụt ở nhữngruộng thấp, còn ruộng cao thì chớm nắng đã khô và thiếu nước Rất khó để có thểsản xuất nông nghiệp một cách thuận lợi

Vùng trong đê là diện tích nằm ven đê sông Tích Nó chỉ chiếm tỷ lệ rất nhỏ(diện tích này khá màu mỡ, dễ dàng cho việc tiến hành canh tác nông nghiệp) Cònlại đa số là vùng trũng, lầy lội quanh năm Đó là rốn nước của cả vùng này Xưakia, khi hệ thống thủy lợi còn kém, công tác thoát nước không tốt thì các xóm củaLiệp Tuyết đều ngập úng trong nước quanh năm, người dân ở đây đã quen vớicảnh “sáu tháng đi bằng chân, sáu tháng đi bằng tay” Vì vậy, nhân dân trong vùngluôn lưu truyền câu ca:

Ăn cơm mỗi bữa mỗi lo

Lấy chồng Liệp Tuyết chỉ lo lội đìa

Trang 9

Cuộc sống chật vật vì vậy người dân nơi đây còn phải lên rừng kiếm củi, đểbán Nhưng công việc này rất vất vả và giá thành không được bao nhiêu, chỉ đủcho một cuộc sống đạm bạc.

Ngoài ra, ở thôn Bái Nội có nghề thợ mộc, nhưng không nổi tiếng trongvùng Nhân dân ngoài những khi “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời” thì nhiềungười đi đánh đá ong, chặt giang hoặc đánh bắt tôm cá để kiếm sống

Từ khắp các đường làng, ngõ xóm, hầu như nhà nào cũng làm sản phẩm này

Và hình ảnh đầu tiên chúng tôi bắt gặp khi bước vào đầu làng chính là những sảnphẩm này được bày để phơi la liệt Đó cũng chính là những đóng góp để giúp cuộcsống của người dân có thêm những khoản thu nhu nhập cao hơn Nghề này đượclàm chủ yếu vào những lúc nông nhàn, khi mà hết mùa gặt, hoặc cấy Thu nhập từnghề này khá lớn, với mức bình quân là 3,5 triệu đồng/ năm Góp phần cải thiệnđáng kể đời sống vật chất của nhân dân Đến nay, cả 5 thôn của xã đã được côngnhận là làng nghề mây giang đan xuất khẩu, có tới 95% số hộ làm nghề, giải quyếtviệc làm thường xuyên, có thu nhập ổn định cho khoảng 2.800 lao động lúc nôngnhàn, nâng tỷ trọng công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp hàng năm từ 25 đến 30%trong cơ cấu kinh tế [29]

1.3 Về lịch sử

Xã Liệp Tuyết vốn là một vùng đất cổ, nằm ở phía tả ngạn sông Tích Nhândân quanh đó thường gọi Liệp Tuyết là “nhất xã, lục thôn, bảy trại” Cũng theothần phả Quán Cả (tức thôn Đại Phu) và câu chuyện truyền thuyết về vị quan langtên là Chiêu Công được vua Hùng Vương thứ 6 phong tước hầu, cho về cai quảnvùng đất Lạp Hạ Chiêu Công lấy vợ người làng Vĩnh Phúc (bà có tên là NguyễnThị Kim Nương) rồi xây dựng “Đại Phu cung tứ đệ”, và sinh được ba người contrai (người con cả tên là Triều; con thứ hai tên là Thần; con thứ ba tên là Gia) Về

Trang 10

sau ba người theo Thánh Gióng đánh giặc Ân được nhân dân tôn thờ làm thànhhoàng làng, kéo theo truyền thống về quan hệ ruột thịt giữa ba thôn: Đại Phu, VĩnhPhúc, Bái Nội và Ngoại [3,4] Truyền thuyết này đã khẳng định sự lâu đời củamảnh đất này

Trong suốt chiều dài lịch sử, mỗi một thời kỳ xã Liệp Tuyết lại có địa giớihành chính khác nhau Theo sách “Các tổng trấn xã danh bi lãm (Tên làng xã ViệtNam)” do viện nghiên cứu Hán Nôm biên soạn thì vùng đất Liệp Tuyết hiện nay là

xã Lạp Hạ, tổng Lạp Thượng, huyện Yên Sơn, phủ Quốc Oai, trấn Sơn Tây Và têngọi này được mang đến tận đời vua Tự Đức thì xã Lạp Hạ được đổi thành xã LiệpTuyết Xã Liệp Tuyết (cũ) gồm có các thôn Đại Phu, Vĩnh Phúc, Thông Đạt, BáiNội, Bái Ngoại, Đồng Sơn và các trại: Đất Đỏ, Ao Sen, Đồng Thịt, Đồng Giai,Thông Đạt, Trại Quyên, Trại Trai và phù hợp với câu ca “sáu thôn bảy trại” Đếntrước năm 1955, thì Liệp Tuyết và Tuyết Nghĩa vẫn hợp nhất thành một địa danhhành chính Với tổng diện tích khi đó là khoảng hơn 681 ha Năm 1955, thì địaphận xã Liệp Tuyết ổn định với năm thôn: Đại Phu, Sơn Đồng, Vĩnh Phúc, BáiNội, Bái Ngoại và trại Thông Đạt, chiếm khoảng 60% tổng số diện tích xã LiệpTuyết cũ, còn thôn Đồng Sơn và sáu trại còn lại được tách ra hợp với xã NghĩaHương thành lập xã Tuyết Nghĩa Năm 1965, Ban thường vụ Quốc hội phê chuẩnhợp nhất Hà Đông và Sơn Tây theo Quyết định số 103/NQ/TVQH ngày 21/9/1965thì xã Liệp Tuyết thuộc về huyện Quốc Oai của tỉnh Hà Tây Năm 1976, Quốc hộilại phê chuẩn sát nhập hai tỉnh Hà Tây và Hòa Bình thành Hà Sơn Bình, xã LiệpTuyết lại thuộc về tỉnh Hà Sơn Bình Năm 1979, thì huyện Quốc Oai được cắt về

Hà Nội, xã Liệp Tuyết thuộc về Hà Nội Năm 1991, Liệp Tuyết thuộc huyện QuốcOai, tỉnh Hà Tây Và vào ngày 01/08/2008, theo quyết định của Chính phủ thì tỉnh

Hà Tây chính thức sát nhập vào Hà Nội, xã Liệp Tuyết thuộc huyện Quốc Oai

Trang 11

cũng thuộc địa phận Hà Nội Như vậy là đến hiện nay, Liệp Tuyết thuộc thành phố

Trước kia, bên cạnh đền Khánh Xuân, đình, chùa còn có văn chỉ Nơi này đểthờ riêng những bậc khoa cử trong làng, nhưng đến hiện nay những bia và văn chỉkhông còn nữa, mà chỉ thấy danh tiếng và công trạng của các vị trạng nguyên đượcông Hoàng Văn Thức (85 tuổi) cất giữ Người nổi bật mà được nhân dân gần xabiết đến nhiều nhất đó chính là Hoàng Nhị giáp Kiều Phú, người thôn Vĩnh Phúc,tên húy là Quốc Phú, tên tự là Hảo Lễ tiên sinh Ông Kiều Phú (1446 – 1503) khinhỏ sống trong gia đình nghèo khó, phải đi làm thuê Song do thông minh và hamhọc nên mẹ ông xin cho theo học Trạng nguyên Nguyễn Trực ở xã Nghĩa Hươngcùng huyện Được thầy giáo tận tình dạy dỗ và bạn bè quý mến giúp đỡ, ông đã lầnlượt thi đỗ các kỳ thi Hương đến thi Hội Trong kỳ thi Hội năm Ất Mùi (1475) cótới ba nghìn thí sinh dự thi, Kiều Phú đã đỗ “đệ nhị giáp đồng tiến sĩ xuất thân”(Hoàng giáp) Sau khi vinh quy bái tổ thì mẹ ông đau yếu và không may qua đời.Ông xin triều đình cho về quê chịu tang mẹ Ba năm sau hết tang, vua vời ông vềkinh đô, bổ nhiệm làm quan Ông từng giữ các chức Tham chính, Ngự sử rồi Trấn

ti đề hình Thái Nguyên Không những giữ trọn chữ hiếu với cha mẹ, ông còn tôn

sư trọng đạo với thầy dạy của mình Khi được hưởng bổng lộc, nhớ ơn thầy, ông

bỏ tiền mua hai đầm thả cá và cấy lúa, giao cho dân làng Văn Khê cúng giỗ thầycủa mình là Trạng nguyên Nguyễn Trực

Trang 12

Không chỉ học giỏi làm quan to trong triều nhà Lê mà khi làm việc ở kinhthành Thăng Long, ông đã cùng với Hoàng giáp Vũ Quỳnh (1453 – 1497) biênsoạn “Lĩnh Nam chích quái” là tác phẩm sưu tập văn học dân gian đầu tiên củaViệt Nam, chép tay bằng chữ Hán Tác phẩm này do tác giả Trần Thế Pháp (cũng

là một người con xứ Đoài) thời Trần khởi thảo Hai ông đã hiệu chỉnh, bổ sungthành hai quyển, gồm 22 truyện Nội dung chính của “Lĩnh Nam chích quái” lànhững chuyện cổ tích, truyền thuyết, thần thoại, dã sử từ thời thượng cổ đến thờiTrần, hoặc giải thích nguồn gốc dân tộc (truyện Hồng Bàng, truyện Mộc Tinh…),hoặc kể sự tích các anh hùng, các nhân vật tài giỏi (truyện Phù Đổng Thiên Vương,truyện Hai Bà Trưng…), hoặc giải thích phong tục tập quán (truyện bánh chưng,truyện cây cau…), hoặc có liên quan đến các di tích lịch sử văn hoá (truyện Rùavàng, truyện Như Nguyệt…) Mặc dù còn ít nhiều mang tính huyền thoại nhưng

“Lĩnh Nam chính quái” vẫn có nhiều giá trị sử liệu Từ năm 1960, tác phẩm này đã

được Nhà xuất bản văn hoá dịch ra chữ quốc ngữ và xuất bản Từ đó đến nay đã táibản nhiều lần Ông còn là một trong những tiến sĩ được khắc tên trên bia đá ở Vănmiếu Quốc Tử Giám Đây là một vinh danh của bản thân ông và quê hương LiệpTuyết

Ngoài ra, ở đây còn rất nhiều những người thành danh và có nhiều đóng gópcho quê hương Liệp Tuyết như: Thí trung tam oa, cẩm y vệ chỉ huy sứ minh lễ tên

tự là Kiều Quang Hài tiên sinh; Quốc Tử giám giám sinh giảng dụ quế dương tửtên tự là Nhã Thực, tên hiệu là Lạc Đạo, tên húy là Đỗ Trực tiên sinh; Quốc tửgiám giám sinh Thanh Hoa hiến sát sứ tựu động lại Đỗ tiên sinh; Quốc tử giámgiám sinh tên tự là Thái Sơn, tên hiệu là Tạ Phúc Nghiêm tiên Sinh, An Châu đồngtri châu tên tự là Kiều Hương tiên sinh; Quốc tử giám sinh tên tự là BànThạch, tênhiệu là Tạ Phúc Lĩnh tiên sinh; Quốc tử giám giám sinh tên tự là Lâm, tên hiệu là

Đỗ Thế Hùng tiên sinh Khoa thi năm Quý Mão, Hương cống sung quốc tử giám

Trang 13

sinh, lịch thụ nho học huấn đạp, tên tự là Đình Điều, hiệu là Đỗ Thế Hùng…Người xưa thường nói: vùng đất tạo nên con người và vùng này cũng được coi là

“đất thiêng”, nơi sinh ra rất nhiều những anh kiệt cho đất nước

Tiếp nối truyền thống hiếu học vẻ vang ấy, ngày nay thế hệ trẻ Liệp Tuyếtđang cố gắng noi gương những thế hệ đi trước Số lượng những người tham gialàm những công việc quan trọng, cũng như số học sinh đỗ đạt vào các trường đạihọc tăng lên rất nhanh, ngày càng nhiều Điều này cho thấy, truyền thống ấy vẫnhàng này được duy trì và phát triển Nó thể hiện sự “tiếp lửa” và những cố gắngkhông ngừng của các thế hệ người Liệp Tuyết

1.4.2 Đời sống tín ngưỡng, tôn giáo

Có thể nói, xưa kia vị thần Tản Viên sơn Thánh đã lựa chọn nơi đây để lưutruyền một làn điệu dân ca độc đáo quả không sai Khi bước chân đến Liệp Tuyết,chúng tôi bị vẻ đẹp của dòng sông Tích Giang mê hoặc, nhìn dòng sông uốn lượn

và vẻ đẹp quyện với thiên nhiên mà không phải ai cũng có thể bước vội Đặc biệt,

hệ thống đền, chùa miếu, mạo, văn chỉ thì rất phong phú, thể hiện sự đa dạng trongđời sống tín ngưỡng, tâm linh của người dân Mỗi kiến trúc cũng có những ảnhhưởng khác nhau đến đời sống của nhân dân nơi đây

Tín ngưỡng bản địa của nhân dân nơi đây chính là tín ngưỡng thờ thần, tínngưỡng thờ thổ công Không biết do sống cạnh một dòng sông đem lại nhiều thuậnlợi hay khó khăn mà cả “sáu thôn bảy trại” không một nơi nào không có nhữngngôi đền thờ Hà Bá, là vị coi giữ gia cư, định đoạt phúc họa cho một gia đình Hơnthế, trong phạm vi làng xã thì đó là những ngôi miếu thờ ở quanh làng Đặc biệt, ởthôn Đại Phu còn có miếu thờ vị nữ thần đó là bà Trịnh Thị Ngọc Ninh Mọi việclớn nhỏ, hoặc người dân có việc gì thì đều cậy nhờ đến thổ thần, và vị thần này gắn

bó rất chặt chẽ với đời sống nhân dân

Trang 14

Ở Liệp Tuyết Phật giáo cũng đã xuất hiện khá sớm Thời gian cụ thể chúngtôi cũng chưa xác định được, nhưng có một điều chắc chắn đó là ở tất cả các thônđều có chùa Các ngôi chùa ở vùng này đều là những ngôi chùa nhỏ và có niên đạikhoảng đầu thời Nguyễn (Riêng chùa thôn Đại Phu mới được xây dựng cách đâyhơn 20 năm, bởi sự tàn phá trong chiến tranh) Cũng như những ngôi chùa làngkhác ở đất nước ta, những ngôi chùa ở Liệp Tuyết mang đặc trưng chung Trongcác làng những bà nào ngoài 50 tuổi sẽ đi quy gọi là các vãi Những người nàythường giúp công việc cho nhà chùa, và họ cũng phải ăn chay, niệm phật Trong sốnhững ngôi chùa ở đây thì có 3 ngôi chùa có sư ở Chắc bởi cuộc sống của ngườidân ở đây quá khó khăn nên ít có các sư đến Dân làng mỗi năm vào dịp “đoandương chính đán” (chữ dùng của Phan Kế Bính, Việt Nam phong tục) thì dùng lễoản chuối đến lễ Phật Còn ngày giỗ sư tổ thì dân làng có đóng góp, còn nhà chùaphải làm cỗ chay để khoản đãi nhân dân Còn phần nhà chùa thì mỗi tuần rằm.mùng một phải xin oản cúng Phật Cúng rồi chia cho các vãi, gọi là lộc Phật Cũngvậy, các vãi là những người gần gũi với nhà chùa nên mỗi khi là chùa có việc làcác vãi cũng phải có mặt để giúp đỡ nhà chùa, vào những dịp vào hè ra hè, thượngnguyên, trung nguyên, những ngày tết, nhà chùa đều làm cỗ để cúng và nhân dâncũng được hưởng.

Nếu như chùa là địa chỉ quen thuộc của những người phụ nữ thì đình lại làchốn thâm nghiêm mà chỉ những người đàn ông mới được đặt chân đến Đình lànơi thờ thành hoàng làng, người có công lớn đối với nhân dân Đình của mỗi thônđều có những kiến trúc cơ bản, nhưng vẫn có những nét đặc trưng Kiến trúc chínhcủa đình các thôn là có mặt bằng hình chữ nhật (kiểu chữ nhất), kết cấu ba gian haichái lớn, có sạp để dân ngồi họp bàn việc làng, gian giữa thường không có sập mà

kê một sàn cao làm am thờ Thành hoàng Đình làng ở các thôn được chạm trổ rất

kỹ, các vật linh, cỏ thiêng đặc biệt là những con tứ linh Đình chính là nơi hội tụ

Trang 15

của tín ngưỡng tổ tiên, là một sinh hoạt cộng đồng của người dân nơi đây Giốngnhư chùa Đại Phu, thì đình Đại Phu cũng bị tàn phá trong chiến tranh và sau nàymới được xây dựng lại

Cùng với Phật giáo, Nho giáo cũng có vị trí quan trọng trong đời sống nhândân ở đây Từ việc ảnh hưởng tới việc thờ thành hoàng làng ở đình thì ở đây còn cómột chứng tích thể hiện rất rõ sự hiện diện của Nho giáo chính là văn chỉ làng Nơiđây, xưa kia thờ đức Khổng Tử và tứ phối Đến nay, văn chỉ không còn nữa nhưngnhững bài văn tế của các vị tiên điền trong cuốn sách văn tế vẫn còn Hiện nay,những người cầu học hành đỗ đạt vẫn thường đến đây để cầu mong thi cử đỗ đạt

Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên là một nét chung của dân tộc và ở đây ngườidân cũng thể hiện rất rõ điều đó qua việc thờ cúng tổ tiên tại các gia đình, tại nơiđình làng là sinh hoạt cộng đồng, vị thần của cả làng Và ở mỗi dòng họ điều nàythể hiện ở những nhà thờ họ của các dòng họ lớn trong vùng để vinh danh nhữngngười đỗ đạt Nhà thờ của họ Kiều, Trần, Đỗ, Tạ… đều rất trang nghiêm, cổ kính.Đặc biệt là nhà thờ Kiều Phú, nơi vinh danh trạng nguyên Kiều Phú, đã được Sởvăn hóa thông tin công nhận và xếp hạng di tích lịch sử văn hóa năm 1994

Như vậy, không gian tín ngưỡng của vùng là khá phong phú Các tôn giáo,tín ngưỡng đan cài và hòa quyện với nhau làm nên một vùng văn hóa đặc trưng,tạo nên những nét riêng biệt cho vùng quê này Hơn nữa, nó cũng nằm trong hệthống chung của nền văn hóa dân tộc Điều này, chính là môi trường là cơ sở đặcbiêt để hát Dô hình thành

1.4.3 Nghệ thuật

1.4.3.1 Kiến trúc

Trang 16

Không chỉ phong phú về hệ thống tôn giáo, tín ngưỡng mà kiến trúc nơi đâycũng mang nhiều nét đặc sắc Trước hết, đó là những ngôi nhà được xây dựng tậndụng những điều kiện của tự nhiên, là những vật liệu sẵn có trong tự nhiên như:tre, nứa, rơm, đất… Nhà ở đây thường không làm to, phần nhiều đều theo hướngNam Nhà có ba gian, hai chái được xây bằng đất hoặc đá ong Còn kiến trúc củađình, chùa, đền, miếu… cũng mang những nét kiến trúc chung của dân tộc Đặcbiệt, chúng ta không thể không nhắc đến đền Khánh Xuân, một công trình lịch sửđặc sắc, một không gian kiến trúc đặc biệt, đặt tại thôn Đại Phu Đền Khánh Xuânhay còn gọi là Khánh Xuân điện hay Xuân ca Cung Theo thần tích xã Liệp Tuyếtthì ngôi đền được xây dựng từ thời kỳ Hùng Vương thứ 18, nhưng sự thực thì ngôiđền được xây dựng cách đây khoảng trên 200 năm [22,21] Nó được xây dựng vàokhoảng đầu thời Nguyễn, năm Mậu Tuất Trải qua hơn 200 năm, hiện nay, ngôiđền vẫn giữ được kiến trúc xưa cổ kính Năm 2003, đền đã được Ủy ban nhân dântỉnh Hà Tây xếp hạng di tích lịch sử văn hóa, cần được bảo tồn và gìn giữ ĐềnKhánh Xuân được xây dựng theo kiểu chữ nhị, gồm có tòa đại bái và tòa hậu cung.Tòa đại bái là ngôi nhà ngang hình chữ nhật, đây là kiến trúc riêng và đặc trưngcho vùng văn hóa xứ Đoài Tòa nhà hậu cung là nơi tòa nhà ba gian có kiến trúcđơn giản Đền Khánh Xuân thờ Tản Viên tam vị quốc trụ đại vương: Tùng Công;Cao Sơn; Quý Minh Trong đó, vị thần Tản Viên được thờ chính còn hai vị kia làphối thờ Ngoài ra, trong đền còn phối thờ trong đền: Đệ nhất lang Linh Khê đạivương (Triều lang); Đệ nhị lang Linh Khê đại vương (Thần lang); Đệ tam langLinh Khê đại vương (Gia lang) Ngôi đền theo thời gian cũng đã bị xuống cấpnhưng đã được trùng tu và sửa chữa nhiều lần Hiện nay, đến xã Liệp Tuyết chúng

ta sẽ cảm nhận được vẻ đẹp và sự thiêng liên không chỉ bởi kiến trúc đền KhánhXuân mà còn là một hệ thống kiến trúc phong phú

Trang 17

1.4.3.2 Điêu khắc

Điêu khắc ở đây chủ yếu là nghệ thuật điêu khắc dân gian, với những hìnhhài chạm trổ mộc mạc nhưng cũng không kém phần sắc sảo ở trong chùa, đình,miếu hay ở nhà người dân Đó đều là những họa tiết gần gũi với cuộc sống củanhân dân như: bông hoa, chiếc lá, những mô tả cuộc sống lao động bình dị Rồi,tinh vi sắc sảo hơn đó là những chạm trổ của hình tứ linh (long, ly, quy, phụng),của những bức hoành phi câu đối thể hiện vị thế, đó còn là điêu khắc của nhữngbức tượng phật Nghệ thuật chạm khắc ở đây, thường có bốn kiểu chạm: chạmnông, chạm sâu, chạm lộng, chạm thủng Chạm nông hình khối dịu dàng khônggay gắt thường dùng cho trang trí kiến trúc Chạm sâu biểu hiện hình khối rõ ràng,

có khả năng bắt sáng mạnh Chạm lộng thể hiện các lớp lang và sự chuyển độngcủa hình khối trọn vẹn, mạch lạc, khúc chiết Chạm thủng dùng cho trang trí kiếntrúc mục đích giải quyết không gian như cửa võng đình làng, kiến trúc chùa Chạmnông, chạm sâu, chạm lộng, chạm thủng ta thường bắt gặp ở nhiều phù điêu xưa

Tiểu kết

Có thể nói, văn hóa của một cộng đồng được sinh ra từ chính mảnh đất cưtrú của cộng đồng đó Mỗi vùng khác nhau tạo nên những diện mạo văn hóa riêngcủa một cộng đồng Với người dân xã Liệp Tuyết thì đó là sự lưu giữ và bảo tồnmột làn điệu dân ca độc đáo: dân ca hát Dô - một trong những dân ca nghi lễ đặcsắc trong kho tàng văn hóa văn nghệ dân tộc Hay nói một cách khác đó chính là

“đặc sản” mà không một địa danh nào trên đất nước Việt Nam có được Chínhcảnh sắc thiên nhiên Liệp Tuyết với dòng sông Tích thơ mộng, chính con ngườicần cù, chịu khó, chính văn hóa lịch sử là môi trường căn bản là nền tảng để tạonên diện mạo của hát Dô Bởi những điều này là nội dung phản ánh chủ yếu hátDô

Trang 18

CHƯƠNG 2: NHỮNG NÉT ĐẶC TRƯNG VÀ GIÁ TRỊ CỦA

HÁT DÔ

2.1 Khái niệm và nguồn gốc hát Dô

2.1.1 Khái niệm hát Dô

Hát Dô hay còn gọi Hát Hội Dô là thể loại dân ca nghi lễ, hình thành và pháttriển trên mảnh đất Lạp Hạ xưa, nay là xã Liệp Tuyết, huyện Quốc Oai, thành phố

Hà Nội Loại dân ca này gắn liền với lễ hội tại đền Khánh Xuân diễn ra từ ngày 10đến 15, tháng Giêng, Âm lịch, phải 36 năm mới tổ chức một lần Đó là lời hát củanhững người thực hiện các hành vi nghi lễ trong các hoạt động tâm linh Tươngtruyền lời ca đó là do Tản Viên sơn thánh, vị thần đứng đầu trong tứ bất tử linhthiêng của dân tộc ta, truyền dạy cho người dân nơi đây

Có thể nói, trong kho tàng dân ca cổ truyền của dân tộc bao gồm rất nhiềuthể loại như hát Xoan, Ca trù, Quan họ… Mỗi một thể loại có khái niệm rõ ràng.Chẳng hạn như hát Xoan là “một loại hình dân ca nghi lễ ở Phú Thọ, hàng năm tổchức đón xuân ở các cửa đình Phường Xoan có trùm kép và cái đào hát với nộidung quy định: các bài hát chúc (Giáo trống, giáo pháo,, thơ nhang ); các quảcách: 14 quả cách; các dạng vật và trò chơi Xoan là tiếng xuân đọc chệch để kiêng

đi các vị thánh mẫu truyền thuyết nói hát Xoan có từ lâu đời” [24,114], hay nhưquan họ có rất nhiều định nghĩa khác nhau nhìn từ mọi góc cạnh Tuy nhiên với hát

Dô thì không có một khái niệm cụ thể được đưa ra Những tác phẩm cũng như bàinghiên cứu chưa nhiều, ngay cả trong những tác phẩm đó cũng không thấy mộtkhái niệm cụ thể Vì vậy, những điều nói ở trên cũng chỉ là hiểu biết của riêng cánhân

Trang 19

Với sự tò mò và lòng ham tìm hiểu về điệu hát độc đáo này, chúng tôi đãtiến hành thực địa tại xã Liệp Tuyết, quê hương của điệu hát này để tìm những lýgiải và thắc mắc Khi được hỏi: Hát Dô là gì? Tại sao lại gọi là hát Dô thì đa phầnmọi người (cả những cụ già cao tuổi) đều lý giải theo truyền thuyết: Chúng tôikhông biết, làn điệu này là do Thánh Tản Viên sơn dạy và Ngài đã ban cái tên cho,điều này có từ trước khi chúng tôi sinh ra, nên chúng tôi chỉ làm theo những gì đãdạy thôi Nhưng theo các nhà nghiên cứu thì sở dĩ có tên như vậy bởi trong cácchặng hát của hát Dô thường lặp đi lặp lại điệp từ: huầy dô, do các bạn nàng hát.

Cứ như thế, điệp từ này xuất hiện với tần suất nhiều và có thể người dân địaphương đã đặt tên theo cách đó, không phải dựa vào nội dung mà đặt tên căn cứvào những điệp từ nối tiếp Có một điểm đặc biệt là, phương ngữ của vùng này,không phân biệt được âm (r) với âm (d) nhiều khi nhầm lẫn giữa Rô và Dô, nên cólúc vẫn gọi là hát Rô Nhưng nguồn gốc về những điệp từ huầy dô này lại bắtnguồn từ dòng sông Tích: Với nguồn nước vô cùng lớn đó chính là điều kiện đểgiúp nhân dân nơi đây sản xuất tạo ra của cải vật chất, và nó cũng là “thủ phạm”gây nên tình trạng cư dân ở đây “sáu tháng đi bằng chân, sáu tháng đi bằng tay”,

họ phải thường xuyên chèo thuyền để đánh bắt cá, tôm… Vì vậy, tinh thần tập thể

là khá cao, nên những tiếng dô ta, dô hò xuất hiện như một sự động viên, cổ vũ.Dần dần nó trở thành những điệp từ lặp đi lặp lại Cứ như thế, điệp từ này xuấthiện với tần suất nhiều và có thể người dân địa phương đã đặt tên hát Dô theo cách

đó Và từ những hoạt động lao động sản xuất, niềm lạc quan, tin tưởng vào cuộcsống mà người dân nơi đây đã dành tặng cho chính mình một sản phẩm văn hóađộc đáo

2.1.2 Nguồn gốc của hát Dô

Dân ca Việt Nam được sáng tạo nên do nhu cầu của hiện thực đời sống lịch

sử Có những loại dân ca ra đời do sự gửi gắm niềm tin của con người vào những

Trang 20

lực lượng siêu nhiên, vào các lời ca khẩn nguyện, cầu phúc, cầu yên bình cho cuộcsống đời thường Nhưng cũng có những loại dân ca lại gắn với các hoạt động laođộng sản xuất, đó là khoảnh khắc xuất thần, sự giao hòa giữa tâm hồn với lao độngtạo ra sự phối hợp nhịp nhàng giữa các thành viên trong quá trình lao động Hay làthể loại dân ca trữ tình sinh hoạt thể hiện sự giao lưu tình cảm giữa các thành viêntrong cộng đồng Và sự xuất hiện của hát Dô cũng nằm ở một trong những mạchnguồn đó.

Có hai truyền thuyết nói về nguồn gốc hát Dô:

Truyền thuyết thứ nhất: “Một hôm, Tản Viên đi chơi qua vùng ven sôngTích (vùng này nay là xã Liệp Tuyết, huyện Quốc Oai, thành phố Hà Nội) thấyruộng đất phì nhiêu, mới gọi dân làng đến dạy cách đắp bờ giữ nước và bày chocách chọn hạt lúa to làm giống đem gieo Khi cây mạ lên xanh thì bảo dân nhổ lêncấy vào các tràn ruộng có đất phù sa mới bồi đầy nước Tản Viên xuống ruộng làmtrước, hẹn ngày lúa chín thì về Đến mùa lúa chín, dân làng đem liềm hái ra gặt về.Thóc gạo đầy nhà, mọi người phấn khởi, chờ đón ân nhân của mình Nhưng chờmỏi mắt không thấy đâu Ba mươi sáu năm sau, ông mới quay trở lại thì thấy dânlàng đã giàu có, thóc lúa đầy nhà Ông liền cho gọi dân làng ra dạy hát, múa hộitưng bừng, mừng dân no ấm Từ đó trở đi, dân làng cho xây đền thờ để nhớ công

ơn ông và cứ ba mươi sáu năm lại mở hội múa hát một lần, gọi là hội múa Rô”.[20,95]

Nhưng một truyền thuyết khác lại nói rằng: Xưa kia, thánh Tản Viên từ núi

Ba Vì chu du khắp thiên hạ, qua vùng Lạp Hạ (tức xã Liệp Tuyết), thấy nơi đây đấtđai tươi tốt, phong cảnh hữu tình, nhìn dòng dòng sông Tích uốn khúc, cùng vớicảnh đẹp xung quanh đã hấp dẫn Ngài, nam thanh nữ tú có những giọng ca trongtrẻo, như sự hồn nhiên vốn có của họ, thích thú người bèn dừng lại và nhập cuộcnhưng lại hóa thân thành một chàng trai ngôi ngô tuấn tú Nghe thấy họ hát hay

Trang 21

múa giỏi, Ngài bèn xây dựng cho một ngôi đền có tên là Xuân Ca Cung (đềnKhánh Xuân) và gọi đám thanh niên lại dạy họ múa, hát Hơn thế, Ngài còn xintrầu của đám thợ cấy, nhưng với tính cách hài hước, hay chọc ghẹo, họ đã đưa chongài miếng cứt cò (màu giống màu vôi), làm Ngài rất tức giận Vì vậy, sau này,miếng trầu cúng Ngài không được bôi vôi Nguồn gốc hội Dô bắt đầu từ đó, lời cađiệu múa hát Dô có được là do sự truyền dạy của thần Tản Viên và được ghi rất kỹ

trong cuốn “Quốc nhạc diễn ca” Nhân dân kính trọng và cứ ba sáu năm mở hội để

cảm tạ công ơn của Ngài

Với hai truyền thuyết này, chúng ta thấy được những công trạng của thánhTản Viên với nhân dân nơi đây Ngài không chỉ là người anh hùng trị thủy, là bộtướng của Hùng Duệ Vương trong cuộc chiến tranh chống Thục, mà Ngài còn làmột vị thần văn hóa Bởi Ngài vừa giúp dân trồng lúa nước và nhiều nghề khácnữa, lại là một vị thần khai sinh ra một làn điệu độc đáo chỉ có ở nơi đây Để cómột hình thức trọn vẹn như hiện nay thì hát Dô đã phải trải qua một quá trình pháttriển từ đơn giản đến phức tạp, từ nghệ thuật nghi lễ có tính chất tổng hợp đếnphức tạp Ban đầu chỉ là những lời hát nghi lễ thành kính, nhưng dần dần nó đượcbồi đắp bằng những lời dân ca trữ tình ngọt ngào “Cũng qua hai truyền thuyết nàychúng ta thấy yếu tố nghi lễ xuất hiện sau, do đó có thể đặt giả thuyết: Hát Hội Dôban đầu vốn xuất phát từ những bài ca khẩn nguyện có từ rất xa xưa, sau này kếthợp với thần thoại về Tản Viên và trở thành một hình thức sinh hoạt văn hóa mới?Đồng thời cũng qua những truyền thuyết này chúng ta thấy rõ ràng là có sự xâmnhập ảnh hưởng lẫn nhau giữa các thể loại văn hóa dân gian ở một địa phương”.[16,21]

Hai truyền thuyết này đã khoác lên mình hát Dô một lớp vỏ thần thoại Song

có một truyền thuyết khác về hát Dô bớt tính huyền thoại hơn, đó là: Vào thời Lê(thế kỷ XV), có một ông Cống họ Đỗ, dạy học ở trường Quốc Tử Giám đã đặt raloại dân ca này và chính ông đã trực tiếp dạy cho nhân dân Liệp Hạ Có thể coi thế

Trang 22

kỷ XV là thời kỳ định hình của hát Dô và đến những thế kỷ XVIII – XIX, lời cahát Dô phát triển liên tục và hoàn thiện dần

Như vậy, từ hình thức sinh hoạt dân dã xa xưa, hát đơn giản như: hát trongnhà vào những lúc gia đình hữu sự, hát trên đồi, trên sông khi trai gái thổ lộ tâmtình Hát Dô đã được đưa vào hát thờ vị Thánh của làng và trở thành một nghi thứcthiêng liêng

Hát Dô bắt nguồn từ chính cuộc sống lao động, từ những lời ca tiếng hát nảysinh trong môi trường sinh hoạt dân gian Vì vậy, khi công xã nông thôn đã thànhlập, để phục vụ cho tín ngưỡng, người ta thấy xuất hiện những đề tài chúc tụngnhau Ấy là lối hát múa gồm hai phần, phần đầu tiến hành nghi lễ, phần sau là giaoduyên Ở phần đầu bao giờ lề lối hát và tổ chức cũng hết sức chặt chẽ thể hiệnniềm ngưỡng vọng và tin tưởng tuyệt đối Lễ hội mở ra nhằm mục đích hồi tưởnglại công lao của các thần, bày tỏ ước nguyện về một cuộc sống ấm no, giàu đủ vàbình yên Cội rễ của lễ hội ấy là hội mùa, là lễ hội nông nghiệp gắn với những tínngưỡng cổ như tín ngưỡng phồn thực, thờ thần lúa Hơn nữa, trong truyền thuyếtnhân dân cũng nói đến công lao sáng tạo ra cây lúa của Tản Viên Sơn Thánh, điềunày càng khẳng định rằng lễ hội mà có hát Dô ấy là lễ hội cầu mùa Hát Dô mangnhững đặc trưng riêng biệt, nhiều tầng văn hóa hòa quyện tạo nên nó Nhưng màusắc chủ đạo trong số đó là ước mong lớn lao của nhân dân

Hát Dô còn có một không gian biểu diễn duy nhất đó là đền Khánh Xuân.Điều này hoàn toàn khác với hát Xoan, hát Xoan là một loại hình dân ca nghi lễ ởPhú Thọ, hàng năm được tổ chức tại các cửa đình

2.2 Đặc trưng của hát Dô

Hát Dô là một loại hình dân ca nghi lễ với những nét độc đáo Để khắc họađậm nét hơn điều này trong quá trình phân tích vấn đề, chúng tôi sẽ tiến hành so

Trang 23

sánh hát Dô với các loại dân ca nghi lễ khác như: Hát Xoan, Ca trù, Hát Dậm, HátChèo Tàu…

2.2.1.Nội dung của hát

Khảo sát nội dung hát Dô chúng tôi thấy phong phú và đa dạng Cụ thểnội dung hát Dô được chia làm hai phần:

Hát Chúc: là những lời hát thuộc phần nghi lễ của diễn xướng hát Dô.

Những lời ca này chỉ được thể hiện trong đền Khánh Xuân, nơi thờ Tản Viên sơnthánh Phần nội dung bắt buộc nghi lễ chỉ chiếm phần nhỏ, nội dung cơ bản củalời ca là ước muốn của mọi tầng lớp người trong xã hội, là thăng quan tiến chức,

làm nông thuận lợi, buôn bán thuận hoà, là mừng xuân, là vui chơi, hội hè “Trong rất nhiều bài hát, chỉ riêng Hát Chúc (bài hát chỉ dùng để hát trong Cung Sơn Ca)

đã mang trong nó đủ cả 36 làn điệu”, bà Lan nói Đặc biệt, em Nguyễn Thị Phượng, một thành viên trong Câu lạc bộ hát Dô đã phát biểu rằng: “Em rất thích những bài Hát Chúc vì nó nói lên tinh thần yêu nước và tình cảm của quê hương đất nước… ” Điều này, cho chúng ta thấy mặc dù những lời ca xa xưa rất khô

cứng nhưng các em vẫn luôn cố gắng để có thể học tốt những làn điệu đó

Môi trường kinh tế xã hội đã sản sinh và nuôi dưỡng hát Dô chính là nghềtrồng lúa nước, kết hợp với làm thủy lợi Môi trường sinh thái nhân văn đã sản sinh

và nuôi dưỡng hát Dô là cộng đồng làng xã với những phong tục tập quán, nghi lễ tín ngưỡng,… Các nhân tố này kết hợp với nhau tạo nên một “hạt giống”, mộtđiểm khởi phát sáng tạo ra hát Dô Đó chính là lối hát khẩn nguyện, những bài cakhẩn nguyện giống như mở đầu của cuộc hát Dô là những lời hát chúc của ngườicái hát:

Bước chân vào tôi lạy đức Thánh Cả,

Trang 24

Bước chân ra tôi tạ Thiền quan.

Đức Thánh Cả vâng chạ cho an,

Tả hữu Thiền quan vâng lấy chúng tôi an lành

Hoặc có những bài mang rõ dấu vết của những lời ca khẩn nguyện thời xaxưa Biểu hiện trong đó là lòng biết ơn đối với vị thánh của làng, cầu mong chobản thân, gia đình, dòng họ, cộng đồng sự bình an, sinh sôi nảy nở của con ngườilẫn tạo vật:

Thánh về ngự đám Tản CâuThánh vâng đồng chạ sống lâu sang giàuThánh về hiến tửu hiến giàu

Thánh vâng đồng chạ bạc đầu như tơCũng có những bài mô tả những sinh hoạt lao động với giọng điệu xa xưa

Chèo chầu tôi xá chèo tầuChúc cho đồng chạ sống lâu an lành Chèo quỳ tôi xá chèo quỳ

Chúc cho đồng chạ sớm đi tối về

Với hát Xoan nội dung diễn tả lại khác, trong các bài bản cổ thì đối tượngđược nhắc đến với tần suất nhiều đó chính là vua, đại vương Đó là mong muốn sựche chở giúp đỡ của lực lượng siêu nhiên, tôn vinh và cảm ơn những công đức củavua đối với cuộc sống này của nhân dân:

Tiệc này tôi giả đức đại vương

Trang 25

Hộp trầu vò nước nén nhang

Của tôi thành kính dâng vua ngự lên linh sàng

Đọc ca thần chúc để tôi kêu thử

Bách đái vạn thần tất hưởng

Tôi chào vua cả người sang đất này

Bước đến tôi bái tôi chào

Vua về nghe hát bảo quốc hộ dân

Vậy mới vào tai vua ưng

(Tràng mai)

Văn bản hát Dô được hình thành từ thế kỷ XV, ban đầu là những bài hátmang tính chất nghi lễ, phục vụ cho sự thỏa nguyện lòng mong mỏi của nhân dânđến với thần linh Nhưng do yêu cầu đổi mới, do đòi hỏi của xã hội dần dần nhữngbài ca giao duyên ra đời Chính vì thế, hát Dô được bổ sung thêm nội dung củanhững bài ca Bỏ bộ rất phong phú

Hát Bỏ bộ: là phần lời ca mang đậm chất trữ tình hơn cả Tình yêu nam

nữ được thể hiện tinh tế và rõ nét Lời ca điêu luyện, thấm đượm chất trữ tình.Sức sống lâu bền của diễn xướng hát Dô chính là giá trị hiện thực mang lại chocon người Nội dung lời ca Bỏ bộ rất phong phú, mỗi bài có một ý nghĩa riêngcho nên việc đặt tên cũng dễ dàng hơn Có những bài ca ngợi cảnh đẹp củathiên nhiên, vẻ đẹp của bốn mùa, của cây cỏ hoa lá… Khi được hỏi, trong tất cảcác phần hát thì thích phần hát nào nhất, hầu hết các em tham gia hát Dô đều

Trang 26

thích những phần hát Bỏ bộ, bởi theo các em nó không bị khô cứng và vẫn cónhịp điệu, lời ca lại gần gũi “Em rất thích những lời ca trong hát Bỏ bộ Emthích nhất là bài “Muỗi đốt tứ (tí) tung”, vì nó rất hay và lời ca cũng gần gũi”,

em Kiều Thị Hoài, thành viên Câu lạc bộ hát Dô xã Liệp Tuyết, đã nói như vậykhi hỏi về mức độ yêu thích hát Dô Điều này, càng cho chúng ta thấy rằng các

em không quay lưng lại với những làn điệu dân ca truyền thống mà đang cùngvới những người dân vùng này bảo tồn những giá trị văn hóa độc đáo

Chúng ta có thể thấy tính chất tươi vui, sự lạc quan vào cuộc sống quanhững bài hát ca ngợi mùa xuân, kể chuyện cây cỏ chim muông, hát về bốn mùa và

ca ngợi các loài hoa:

Nông kia làm ruộng phải thì

Lúa mạ tươi tốt bốn bề vui xuân

Trang 27

Với nền nông nghiệp thô sơ, cha ông ta đã sống dựa vào thiên nhiên vànghiệm ra rằng, mùa xuân hoa lá tươi màu, cây cối đâm trồi nảy lộc, cầm thú nhảynhót tươi vui, vạn vật đua nở Mùa xuân ấm áp thiên nhiên như đang thai nghén,chuyển động, mọi người đều đang chờ đón lấy điềm lành, góp sức mình cùng thiênnhiên xây dựng một năm mới, hoặc tạo cho mình một niềm tin: năm mới sẽ làm ănphát đạt hơn.

Đặc biệt, cảnh sắc bốn mùa được thể hiện rất tinh tế và sâu sắc:

Tháng tư nghe một tiếng veTrăm cây nghìn mãn đi về phô trươngHoặc:

Tháng tám nước chảy hây hâyChàm xanh nước biếc da trời giống nhau

Cứ như vậy, quy luật cũng như những đặc trưng của bốn mùa được thể hiệnrất rõ qua các lời ca Tháng giêng thời tiết đẹp, đón những sự tươi trẻ của mùaxuân; tháng tư trời bắt đầu nóng bức chuyển sang hè; tháng tám trời lại dịu nhẹ,những cơn gió thoảng qua như làm say lòng người; đến tháng mười gió lạnh thổi

về, hoa lá úa cành; tháng tám thì cây cối đi “ngủ đông” và con người cũng “baonhiêu lá đỏ màu tang trên người”

Người dân luôn cầu mong một cuộc sống ấm no hạnh phúc, mưa thuận gióhòa:

Các quan nhà cháo

Trang 28

Vâng lúa hộ dâu

Sức khỏe bò trâu

Là nên dâu tằm

Ngoài ra còn là những lời ca ca ngợi cuộc sống lao động, với ước mơ về mộtcuộc sống tốt đẹp hơn Đặc biệt, những câu hát Dô luôn làm hấp dẫn người nghe,không chỉ bởi tình yêu thiên nhiên mà còn giữa người với người:

Đã tới mùa đông

Cửa thiếp còn không

(Ơ hơ) đợi chàng

Cũng như các loại hình dân ca khác, phần Bỏ bộ bao giờ cũng phong phú vàhấp dẫn Bởi không chỉ có lời hát mà còn có cả những phần múa, xướng họa, tạonên không khí tươi vui Chẳng hạn như: khi hát tới lời ca xe chỉ thì các bạn nàng

có hành động ngồi xuống làm như đang xe chỉ, luồn kim Hay trong hát Bỏ Bộ còn

có những lời ca giao duyên hết sức mặn mà, tình tứ:

Cởi áo lại đây

Chàng về cơi áo lại đây

Áo thời thiếp đắp gối mât đợi chờ

Những bài ca thể hiện sự giao lưu giữa hát Dô với các loại dân ca giaoduyên khác như: Quan họ…

Trang 29

Trúc trúc mai mai,Dẫu dãi nắng mưaCòn duyên kẻ đón người đưaHết duyên đi sớm về trưa mặc lòng

Phạm vi miêu tả đã được mở rộng Cảm hứng trữ tình trở nên bao trùm, trởthành chủ đạo, mọi so sánh liên tưởng đều được sử dựng, được huy động để phảnánh tâm trạng Nhìn một chiếc cầu tre người ta cũng liên tưởng tới người thương:

Cầu tre ai khéo bắc dối

Nó lệch chênh chếch

Nó lệch chênh chênhChàng đi khéo ngã lấm mình chàng ơi

Những lời ca trong hát Bỏ bộ hầu hết khá điêu luyện, trong sáng và uyểnchuyển Rất nhiều câu đã trở thành tài sản chung của kho tàng dân ca trữ tình,chứng tỏ sự giao lưu và bổ sung giữa các loại dân ca

Hát Dô là một thể loại dân ca nghi lễ trước hết hướng vào việc thờ cúng,vào việc ca ngợi các vị thần thánh ở trong đền Nhưng dần dần ta thấy phongcảnh thiên nhiên, sản xuất và đời sống của các làng, chạ Việt Nam lại được thểhiện rõ nét Điều này phản ánh ước vọng người dân cày làm ra “của ngọc thực”

và dù cuộc sống nhiều nhọc nhằn, gian nan nhưng sự lạc quan, tin tưởng vàotương lai là không thể phủ nhận Nói như vậy, hát Dô không chỉ là dân ca nghi

lễ mà chất trữ tình, giao duyên cũng thấm đượm

Trang 30

Chúng tôi đã tiến hành khảo sát, phân loại 22 bài hát Dô trong cuốn “Hát

Dô – Hát Chèo Tàu” do tác giả Trần Bảo Hưng – Nguyễn Đăng Hòe và thấy

rằng điệu hát Dô trong 22 bài này đã phản ánh cuộc sống của người dân nơi đâytrên cả 3 phương diện: Đời sống vật chất, đời sống tinh thần và đời sống tâmlinh

Trước hết về đời sống tâm linh, theo thống kê thì có 12 bài trên tổng số

22 bài bao gồm: Hát Chúc (3 bài), Giáo hương, Hái hoa (2 bài), Chơi qua bãicát, Thẳng cánh cung ra, Chèo thuyền, Xuân sang hè, Sang thu, Chúc thơ Nộidung chủ yếu của các bài hát này là cầu mong sự bình yên che chở của vị Thánh

mà họ ngưỡng mộ, mong muốn một năm làm ăn phát đạt, gặp nhiều may mắn.Tiếp đó là những câu hát về bốn mùa, về các loài hoa, nói lên khát vọng của conngười trong việc nhận thức về thế giới tự nhiên Như vậy, hát Dô vẫn là mộtloại hình dân ca nghi lễ đậm đặc, đối tượng hướng đến chủ yếu trong các bài làThánh Tản Viên sơn

Sau những bài ca phản ánh đời sống tâm linh là loạt bài thể hiện rất

rõ đời sống vật chất và tinh thần Trong đó, những bài như “Chèo thuyền”,

“Trồng chuối”, “Hát chúc” chúng ta thấy nền kinh tế chủ yếu của họ là sản

xuất nông nghiệp Điều này thể hiện những khó khăn trong cuộc sống lao động

Nhưng ở lĩnh vực tinh thần thì hoàn toàn khác, những bài hát như “Xuân sang hè”, “Tập trận”, “Hái hoa”… ta cảm nhận được sự lạc quan, niềm tin vững

chắc vào cuộc sống Đó không chỉ là những sinh hoạt dân gian, cảnh sắc thiênnhiên thơ mộng, mà còn là những bài giao duyên trữ tình, đằm thắm Như vậy,chúng ta thấy sự hoàn thiện dần của nội dung hát Dô

Mặc dù mang những nét đặc sắc riêng nhưng hát Dô vẫn có những điểmtương đồng với các loại dân ca nghi lễ khác như: Hát Xoan…

Trang 31

Dưới đây chúng tôi so sánh một số sự tương đồng giữa hát Dô với hát Xoan:

Trang 32

giáo được đề cao ở nước ta Ở văn bia khắc Bài ký đề tên Tiến sĩ khoa Quý Mùi(1463) niên hiệu Quang Thuận thứ tư, do Hàn lâm viện thị giảng Đông các Hiệuthư Đào Cử soạn năm Giáp Thìn (1484), niên hiệu Hồng Đức thứ 15, đã nhận xétkhái quát về vị trí ngày càng được đề cao của Nho giáo dưới thời vua Thái Tông,Nhân Tông như sau: "Đức Thái Tông, Văn Hoàng đế mở mang thêm quy mô, tậphợp hết anh tài, đặt khoa thi chọn người giỏi, tiến cử bậc Nho gia chân chính đểphụ giúp việc trị nước " Chính vì thế, lúc này các làn điệu được lưu truyền trongdân gian được ghi lại thành văn bản cụ thể Điều này giải thích tại sao Quốc nhạcdiễn ca và Ca xoan cách ghi lại những làn điệu đặc sắc Và cùng nằm trong mạchdân ca nghi lễ nên những lời ca của cả hai loại dân ca này giống nhau Chẳng hạnnhư: Chúc mừng trong Quốc nhạc diễn ca với Hát chúc trong Ca xoan cung cùngnói lên những khẩn nguyện (cầu chúc các vị thần, cầu chúc mùa màng và sự thịnhvượng của làng xã), hay miêu tả những sinh hoạt lao động (Chèo thuyền, Thuyềnchèo cách), ca ngợi cảnh đẹp bốn mùa (Tứ mùa cách, Mùa xuân, Mùa hạ…) vànhững cảnh giao duyên Duy có một điểm khác biệt và đây cũng là đặc sắc của hát

Dô là, nếu như hát Bỏ bộ trong hát Xoan vẫn thuộc vào dân ca nghi lễ thì hát Bỏ

bộ trong hát Dô lại là phần hát giao duyên Sở dĩ tại sao chúng tôi nói là cách tân,đổi mới bởi ban đầu đây là những văn bản cố định chỉ dùng trong nghi lễ, còn phần

Bỏ bộ là phần tiếp thu và mở rộng

2.2.2 Về người hát.

Bất kỳ một loại hình văn hóa dân gian nào cũng có những quy định riêng,phù hợp với những đối tượng mà nó phản ánh Với hát Dô thì yêu cầu về người hátcũng có nhiều điểm đặc biệt Nếu như trong Ca trù một chầu hát cần có ba người,

đó là một nữ ca sĩ (gọi là "đào" hay "ca nương") những đào nương này có thể làngười được học hát từ nhỏ và hát đến khi không thể tiếp tục được nữa mới thôi,Người học hát rất khổ luyện, dù thông minh đến mấy cũng phải ba bốn năm ròng

Trang 33

mới cầm được lá phách ra hát, còn thì nếu chỉ chuyên cần học tập cũng mất khoảng

5 năm Khi việc học đã thành thục, để được đi hát, đào nương phải làm lễ để có thểthành nghề và ra hát Còn một nhạc công là nam giới (gọi là "kép") chơi đàn đáyphụ họa theo tiếng hát của ca nương Với nhạc công thì không quy định tuổi tác, vàyêu cầu về ngoại hình chỉ cần họ có thể chơi được đàn đáy Một người nữa đó làngười thưởng ngoạn (gọi là "quan viên", thường là tác giả bài hát) đánh trống chầuchấm câu và biểu lộ chỗ đắc ý bằng tiếng trống Như vậy, trong Ca trù thì yêu cầu

về những người hát là quan trọng nhưng không có quy định cụ thể về độ tuổi hayhoàn cảnh gia đình, mà dường như nó đã trở thành một nghề kiếm sống Ca nươngchỉ được đánh giá cao khi giọng hát hay và có sức lôi cuốn Cách chọn người hát

Dô trong lễ hội Dô cũng có phần khác với hát Xoan trong hội Xoan, cũng là mộtloại dân ca nghi lễ được biểu diễn trong lễ hội ở đầu xuân Với hát Xoan thì nhữngngười hát bao giờ cũng gồm cả một phường Xoan Một phường Xoan ấy bao gồm:một ông trùm, bốn hay năm kép, từ 12 đến 15 đào Ông trùm là một người đứngtuổi, được dân làng tín nhiệm, thuộc bài bản và đọc được các bản Xoan nôm Ôngtrùm hướng dẫn các đào kép học tập làm điệu múa hát, quản lý phường và giaodịch với các phường khác Kép thì tiêu chuẩn chọn có thể là người đứng tuổi, đã có

vợ con nhưng bất kỳ một phường nào cũng có một hay hai “kép con” từ 10 đến 15tuổi để múa hát Đào Xoan lại là những cô gái xinh xắn, được lựa chọn rất kỹ, cógiọng hát hay tuổi từ 15 đến 20 Con gái đã có gia đình thường không theo phườngXoan nữa Hàng năm, phường Xoan họp nhau, tập rượt từ rằm tháng một đến cuốitháng Chạp Giữa các phường luôn có sự giao lưu trao đổi với nhau

Việc chọn người hát trong hát Dô là một vấn đề hết sức quan trọng và cónhiều điểm khác với Ca trù, hát Xoan, họ chính là đại diện cho bộ mặt cả làng.Theo truyền thuyết những người tham gia hát Dô phải là những trai thanh gái lịch;trai chưa vợ, gái chưa chồng; hát hay múa giỏi:

Trang 34

Con hát tuổi hạn hai mươi

Nếu qua độ ấy thì thôi hát hò

Bao giờ đến hội hát Dô

Thì còn phải kiếm gái tơ chưa chồng…

Truyền thuyết còn nói đến một lời nguyền hết sức cay độc rằng: nếu trai đãlấy vợ, gái đã lấy chồng mà vẫn đi hát Dô thì sẽ bị câm điếc hoặc ốm rồi chết…Luật lệ của Đức Thánh Tản đặt ra với những người dân Liệp Tuyết là rất khắt khe:

để hát phải đủ số người quy định, con gái là trinh nữ được gọi tên bạn nàng và mộtngười con trai cũng chưa có vợ có tên cái hát Vì số lượng nam ít hơn nữ, mỗi cuộchát chỉ có một nam, cho nên người con trai được chọn trong số trai làng phải làngười có diện mạo khôi ngô nhất, có tiếng hát trong nhất và thường ở độ tuổi mườisáu đến mười tám Trong đó, người cái hát dẫn đầu tốp bạn nàng từ tám đến mườihai người Số bạn nàng là con gái chưa chồng, độ tuổi mười ba đến mười bảy mớiđược đi hát Nếu số lượng lớn sẽ được chia thành nhiều tốp, tùy theo lứa tuổi màgọi là bạn nàng, khi vào hát trong đền đều phải “quang quẻ” tức là phải trong sạch,không có tang trở hoặc việc buồn nào Mọi người rất say sưa ca hát, họ thấy đượcvinh dự của mình Không phải gia đình nào cũng có người được chọn đi hát Dô.Bởi vậy khi đã được chọn thì gia đình cảm thấy rất vui và tự hào Cụ Kiều ThịHạnh (thôn Vĩnh Phúc) khi phỏng vấn còn nói: “Không phải ai cũng được đi hát vàkhông phải gia đình nào cũng có con được đi hát Xưa kia, vì muốn cho tôi đi hát

mà cha mẹ tôi đã phải bán rất nhiều thóc để có tiền may quần áo” Điều này chothấy tầm quan trọng của cuộc hát cũng như niềm hứng thú say mê ca hát của ngườidân nơi đây

Sau khi tập luyện thành thục thì đội hát sẽ được hát trong chính hội Hátxong, toàn bộ sách vở được sao ra để dạy hát đều được đốt bỏ, chỉ giữ lại một cuốnsách gốc được cất trong chiếc hòm gỗ ở đình làng Sau hội, bạn nàng và cái háttuyệt đối không được hát những bài hát này nữa Đặc biệt hơn, phải đúng 36 năm,

Từ khóa » Hát Dô Quốc Oai