BÚT TRE | Canhquangtrinh
Có thể bạn quan tâm
Bút Tre là cái tên được nhắc đến nhiều nhất khi người ta nói đến thơ Việt Nam trào phúng và châm biếm. Ông tên thật là Đặng Văn Đăng (1911-1986), sinh tại xã Văn Lang, huyện Hạ Hoà, tỉnh Phú Thọ – chiếc nôi của nói Trạng; bởi thế dân gian mới có câu “dân Văn Lang cả làng nói phét”. Ông sáng tác chính xác bao nhiêu bài thì không ai rõ, nhưng phong cách của ông được người ta học hỏi nhiều và đặt ra một dòng thơ “Bút Tre” rất độc đáo và mạnh bạo trong ngôn từ, hàm ý. Người bảo thanh, kẻ chê tục; xin cứ trích đăng các đoạn sưu tầm được để rộng đường dư luận.
(Chống chỉ định những người không thích đùa và trẻ em dưới 18 tuổi)
Con chó ngồi nghịch cái que Sau đây tiết mục Bút Tre bắt đầu.
Quê hương tôi đẹp tuyệt vời Ở dưới có nước trên trời có mây. Xin mời các bạn về đây Để thăm quê tớ mỗi ngày một sang. Con đò dịch đít sang ngang Xa xa có một cái làng thò ra. Đằng kia là một vườn na Đằng này thì có mấy bà chổng mông. Cây lúa cao sản ngoài đồng Đến mùa thu hoạch nhà nông vui cười. Quê tôi thế đấy bạn ơi Nhờ có đổi mới nên đời thêm xuân. Con gái giờ chẳng mặc quần… Mà mặc váy ngắn hở chân hở đùi Ngày hội mới thật là vui…
Hoan hô đại tướng Vő Nguyên Giáp ta thắng trận Điện Biên trở về Hoan hô anh Tạ Đình Đề Trước đi theo địch nay về với ta Hoan hô anh Lê Quảng Ba Trước đi theo phỉ nay ra hàng mình Hoan hô đồng chí Trường Chinh Trước thân Trung Quốc nay hình như thôi Hoan hô chị Nguyễn Thị Bình Được mời ngồi với bác Chinh bác Đồng Hoan hô bác Vő Chí Công Cho làm khoán hộ ruộng đồng tốt tươi Hoan hô bộ trưởng Đỗ Mười Tác phong chậm chễ mọi người vẫn khen.
Hoan hô đồng chí Trần Hoàn Lên làm Bộ trưởng chiếu toàn phim hay.
Hoan hô anh Nguyễn Chí Thanh Anh về phân bắc, phân xanh đầy đồng.
Hoan hô cục trưởng Hà Đăng Ấn cho tàu chạy băng băng như rùa
Hoan hô anh La Văn Cầu Cánh tay bị đứt nhưng đầu vẫn nguyên.
Chị em nô nức đặt vòng Hoa mộ liệt sĩ tỏ lòng biết ơn.
Đường vào lăng bác âm u Chị em bộ đội ngửa mu (mũ) ra chào.
Anh đi công tác Pờ Lây Cu dài dằng dặc biết ngày nào vê Họp xong anh ghé Buôn Mê Thuột xong một cái rồi về với em.
Anh đi công tác Cam Pu Chia chiến lợi phẩm ở tù ba năm
Anh đi công tác bản Muờng Tè xong một cái lên đường về quê.
Hoan hô các cụ trồng cây Mười cây chết chín một cây gật gù Tụi bay có mắt như mù Mười cây chết cả gật gù nỗi chi.
Trung thu là tết thiếu nhi Mà sao người lớn lại đi là nhiều Đi nhiều rồi lại làm liều Làm liều rồi lại có nhiều thiếu nhi.
Bà con toàn thể xã ta Ðồng tâm phấn khởi giồng cà dái dê Dái dê to mập dài ghê Năm sau ta cứ dái dê ta trồng.
Bướm đồng động đến thì bay Bướm nhà động đến lăn quay ra giường Chim đồng bóp cái chết ngay Chim nhà mà bóp càng ngày càng to.
Chưa đi chưa biết Ðồ Sơn Ði về mới biết chẳng hơn đồ nhà Ðồ nhà tuy xấu tuy già Nhưng là đồ thật hơn là Ðồ Sơn.
Chưa đi chưa biết Cà Mau Đi rồi mới thấy đứng sau cà nhà Cà nhà tuy có hơi già Nhưng mà cà chậm hơn là Cà Mau.
Không vô không biết bút tre Vô rồi mới biết muốn tè ra ngay
Chưa ăn chưa biết cu đơ Ăn rồi mới biết nó đờ cu ra
Chưa đi chưa biết Cửa Ông Đi rồi mới thấy toàn mông với giò.
Chưa đi chưa biết Cửa Lò Đi rồi mới thấy toàn giò với mông.
Chưa đi chưa biết Sài gòn Đi rồi mới biết chẳng còn một xu Về nhà mới biết là ngu Thằng lớn tiêu ít thằng cu tiêu nhiều.
Số tôi số chẳng ra gì Vợ thì đời cũ, ti vi đời đầu Đời đầu nên chẳng có râu Xoa mông vỗ đít mà mầu chẳng lên Ti vi hàng xóm nhà bên Chưa sờ đến núm đã lên ầm ầm Ước gì trời nổi cơn giông Để tôi sang đó ôm nhầm ti vi.
Bần tăng chẳng xin cơm chay Chỉ xin thí chủ “ba ngày ba đêm”.
Chị em phụ nữ chơi cầu Lông bay vùn vụt qua đầu thanh niên.
Tiễn anh lên bến ô tô Đêm về em khóc tồ tồ cả đêm.
Lâu rồi mình chẳng yêu ai Lâu rồi cũng chẳng có ai yêu mình.
Ta đi bầu cử tự do Chọn người xứng đáng mà cho vào hòm
Hội trường yên ắng ngủ say Thuyết trình vừa dứt, vỗ tay ra về.
Nhớ quê ra đứng đỉnh đèo Bỗng đâu thấy một chú mèo gâu gâu Dừng chân đứng lại trên cầu Bỗng đâu thấy một con trâu vàng vàng.
Anh em chuẩn bị ra đồng Chị em đã vội đi trồng dưa leo.
Hôm nay đài nói vui thay Người ở dưới đất, chó bay lên trời.
Hôm nay trên quốc lộ hai Thể nào cũng có một vài ô tô.
Nghệ an nổi tiếng gió Lào Trẻ già trai gái người nào cũng đen.
Thằng nhỏ mặc quần hở mông Vẫn hơn con nhỏ còn không mặc quần.
Trẻ em thường thích ở trần, Nhưng mà người lớn có phần thích hơn.
Rừng xanh núi đỏ um tùm Thương anh địa chất cưỡi hùm lên non Chiều về ngựa phóng bon bon Tay anh nắm chặt hai hòn thạch anh.
Tình yêu đâu phải phân trâu, Mà anh lại sợ để lâu hóa bùn. Tình yêu đâu phải con lươn Mà anh lại sợ nó trườn khỏi tay.
Anh đi giường chiếu lặng câm Anh về giường chiếu reo ầm cả lên.
Chọn mãi mới được một ngày Gặp em để quyết giãi bày yêu thương Hai đứa ngồi trên bờ mương Công nông thì chạy trên đường, bụi ghê! Cứ thế mà buôn dưa lê Mãi không đề cập vấn đề trọng tâm. Anh liền nói chuyện lòng vòng Đợi em sơ ý là cầm tay luôn. Ngờ đâu anh chộp đã nhanh Em rút tay lại còn lành nghề hơn Mất đà anh lộn xuống mương Bò lên đã thấy em chuồn từ lâu. Vừa về anh vừa lầu bầu: “Biết thế bố bỏ từ lâu cho rồi!”
Anh đi công tác Sông Đà Vướng phải tai nạn ở phà sông Gianh Tay chân thì vẫn nguyên lành “Cần tăng dân số” tan tành khói mây.
Tiến lên, ta quyết tiến lên Tiến lên, ta quyết tiến lên hàng đầu Hàng đầu không biết đi đâu Đi đâu không biết hàng đầu cứ đi.
Đinh Thuỷ (Sưu tầm)
Hôm qua học tập chính tri (chính trị)
Cán bộ ngồi ì, chẳng chịu phát biêu(biểu)
Cơm ăn chẳng được bao nhiêu
Đảng uỷ lại bắt phát biêu cả…buồi(buổi)
Hoan hô anh Võ Chí Công
Làm chủ tịch nước mà không nói gì
Ghế thì ít, đít thì nhiều
Cho nên đấu đá là điều tất nhiên
Giỏi a đồng chí Trường Chinh
Làm việc thì ít xuất tinh (tỉnh) thì
nhiều (Hay đi…
Anh đi em nắm cái tay
Anh về em nắm cái này…cái kia
Giỏi a! Ðồng chí Ðỗ Mười
Lớp ba chưa đỗ đã ngồi bí thư.
Chị em du kích tài thay
Bắn tàu bay Mỹ rơi ngay cửa (nhà) mình
Không đi không biết Tam Đao (Tam Đảo)
Đi thì không biết chỗ nào mà ngu (ngủ)
Một giường nó nhét hai cu (cụ)
Thôi thì cố nhịn đến chu nhật về…
Phụ nữ thường rất hay lười
Riêng em anh thấy là người cần… cu.
Bắc Ninh có cậu Nguyễn-Trùng-
-Dương vật khỏe quá cả vùng thất kinh
Tin đâu như sét đánh ngang
Bác Hồ đang sống chuyển sang từ trần
Tin đâu như sét đánh gần
Bác Hồ đang sống từ trần chuyển sang
Việt kiều ai thấy có kinh…
Nghiệm về xây dựng nước mình thành công
Tin buồn noan báo trên đài
Xe tăng bác nái nật hai ba nần!
Đi cơ sở cố ‘ba cùng’…
Quyết tâm bám sát quần chùng nhân dân
Ngọt ngào bóc múi em ra
Mời nhau cặp bưởi, chút quà Hùng Đoan
…………………………………………..
ĐỐ TỤC GIẢNG THANH
/ Là trái gì – Trái bắp To chừng bằng nửa cổ tay Khen ai lót ổ cho cu hắn nằm Khắp người hắn mọc đầy lông Nằm chơi chổng ngược, phơi lông ra ngoài 2/ Là cái gì?) –Lông mi Trên lông dưới cũng có lông Khi nào mệt mỏi lại lồng vào nhau
3/ Làm gì? –ăn mía Hai tay nắm lấy khư khư Bụng thì bảo dạ rằng ư đút vào Đút vào nó sướng làm sao Rập lên, rập xuống nó trào nước ra 4/ Là cái gì? -Ống thuốc lào Lòng em cay đắng quanh năm Khi ngồi, khi đứng, khi nằm nghênh ngang Các anh các bác trong làng Gặp em thì lại vội vàng nâng niu Vắng em đau khổ trăm chiều Tuy rằng cay đắng nhưng nhiều người mê
5/ Là cái gì? -Bộ ấm trà Bốn cô mới đào tạo ra Thân hình đẹp đẽ như hoa rau cần Con quan tẩn ngẩn, tần ngần Dí vòi rót thẳng vào lòng bốn cô 6/ Động tác gì?-Đầu Video Chàng thời coi thiếp là ai Chàng buồn chàng lại đút hoài không tha Hết buồn chàng lại rút ra Có ngày chàng đút tới ba bốn lần. Thiếp thì nổi tiếng cù lần Chàng cần thì đút, hết cần thì thôi Hằng ngày hàng tháng liên hồi Có ngày thiếp cũng quy hồi nghĩa trang. 7/ Hành động gì?-Bắn súng Ôm em anh dạng chân ra Anh ngắm anh bóp em la quá chừng 8/ Con gì?-Gà trống thiến Bây giờ sống cũng bầng không Thôi rồi cái kiếp làm chồng ,làm cha Cho dù có sống tới già Cho dù béo tốt cũng là công toi Bây giờ pháo đã tịt ngòi Gia tài còn lại …..một vòi nước trong 9/ Hành động gì?-Hút thuốc lào Mình tròn vành vạnh,đít bảnh bao Mân mân mó mó đút ngay vào Thủy hỏa tương giao sôi sùng sục Am dương nhị khí sướng làm sao 10/ Là cái gì?-Cục xà phòng Thân em vừa trắng vừa mềm Lúc cần anh lại úp tay anh vào Anh còn miết xuống miết lên Làm em chảy nhớt tèm lem ra ngoài
11/ Động tác gì?-Cho con bú Cục thịt đút vào lỗ thịt, Một tay sờ đít một tay sờ đầu. Đút vào một lúc lâu lâu, Rút ra cái ” chách” nhìn nhau mà cười!
12/ Là cái gì?-Hòn đá mài Tôi đang nằm ở sau hè, Xăm xăm anh tới anh đè tôi ra, Rồi anh miết liệt, miết la. Anh làm ướt cả người ta thế này. 13/ Là cái gì?-Cây quạt trần Trời nóng nên em phải ở trần Dài dài một gậy cắm vào thân Tay kia vặn núm, thân em ngoáy Quân tử sướng từ đầu đến chân .
14/ Là cái gì?-Găng tay da Trên bằng da, dưới bằng da Đút vào thì ấm rút ra lạnh lùng.
15/ Hành động gì – đánh đàn ghi ta Ôm em thật chắc vào lòng Anh lần, anh gãi – em la long trời.
16/ Là cái gì?-Hút thuốc lào Tay vê vê mắt run run Anh bịt lỗ dưới anh đè lỗ trên Cô nàng sướng cô nàng rên Vừa hại sức khoẻ vừa hao đồng tiền
17/ Là cái gì?- Miệng –răng -lưỡi Một lỗ mọc hai bờ đá, Chính giữa có cái lá hồng đơn 18/ Động tác gì? Câu cá Trên nhấp nhấp, dưới sướng run Trên mà sung sướng dưới đau vô cùng. 19/ Là cái gì? –Phin pha cà phê Bần thần vô lật váy em Giơ cần kiếm đám đen đen nhét vào Xoay xoay, ép ép lỗ nào Êm êm, ấm ấm ta trào nước ra
20/ Là cái gì?-Cục xà bông tắm Em thơm trong vòng tay Thịt da trắng căng đầy Ta, em ru tình gần Trên từng vùng xác thân Lên lên rồi xuống xuống Cho nước tình chảy tuôn. 21/ Hành động gì?Mở khoá
Lò mò tìm thấy lỗ Loay hoay nhét vội vô Lúc lắc chờ em rên Rút ra, ôi! tới bến.
22/ Là cái gì? Cái ví tiền Vừa bằng bàn tay Thịt da phơi bày Khép nép bờ khe Anh hùng banh nhẹ Nhét vô … sung sướng Rút ra … vấn vương.
23/ Là cái gì -Trái bắp luộc Dài dài như trái chuối Tây Một đầu cứng ngắc, đầu đầy lông quăn Gặm hoài bà xái cả cằm Mỏi mồm, ướt mép, tay cầm, tay lau …. 24/ Là cái gì? Con tem Để yên thì nằm im thin thít, Hể động liếm đít, thì chạy tứ tung… 25/ Hành động gì? Hai người thợ đang rèn Ngồi banh ba góc Tay thục liên hồi Lỗ trống thiệt sâu Rút ra đỏ đầu Hai người đập chát
——————————————–
Xem thêm:
Tình Dục trong Ca Dao Tình Dục là một khía cạnh văn hóa, một sắc thái rất đặc trưng, một vấn đề rất đời thường và luôn luôn hiện diện trong cuộc sống của con người. Nghiên cứu sâu về Tình Dục thì không thể bỏ qua khía cạnh văn hóa này, vì ở đó nó thể hiện được quan niệm của mỗi dân tộc, mổi sắc dân thậm chí là từng vùng nhỏ địa lý, tình dục dược nói đến trong các tác phẫn văn học nổi tiếng như Truyện Kiều, Cung Oán Ngâm Khúc, Bích Câu Kỳ Ngộ, Phan Trần, Hoa Tiên… và cũng là một đề tài vô cùng phong phú trong ca dao. Ca dao VN là một loại văn chương bình dân có một sức mô tả rất sinh động tất cả nếp sống, sinh hoạt, phong tục tập quán xã hội của đại đa số dân chúng, nó được thể hiện qua lối nói rất giản dị, thẳng thắng, trung thực không màu mè, chải chuốt,là một kho tàng bất tận để khai thác trong nhiều lãnh vực khác. Khảo sát về mặt tình dục trong ca dao VN mới thấy được những nhận xét thật uyên bác rất tinh tế của người nông dân, mới thấy được sự mô tả tâm tư, tình cảm, sự rung động về tình yêu, sự khao khát và nỗi đam mê về thân xác là rất thật, rất đời thường. Bộ mặt tình dục trong loại văn chương bình dân thể hiện theo đúng nghĩa đen lẫn nghĩa bóng của mỗi chữ, mỗi câu nói điều đó có thể làm cho một số nhà ” đạo đức ” lên án là dâm ô, tục tỉu, những chuyện không nên nói nơi chỗ đông ngườị Sự thật là: dù có chỉ trích thế nào đi nữa thì nó vẫn đã tồn tại và sẽ tồn tại vì nó là ý thức châm biếm, óc hài hước của dân tộc, của một lớp người bình dân trong suốt lịch sử tồn tạị
Hôm qua lên núi hái chè Gặp thằng phải gió nó đè em ra Em lạy mà nó chẳng tha Nó đè nó nhét cái mả cha nó vào!
Lại có câu:
Văn chương chữ nghĩa bề bề Thần L.. ám ảnh mà mê mẩn đời
Hóa ra Thần L.. chi phối cả cuộc sống, bởi vậy không lạ khi người Champa đem hai “cái ấy” Yoni và Linga đễ thờ phượng. Ngày xưa người Việt cũng như người Tàu đều có khuynh hướng sùng bái tính dục bao gồm sự sùng bái cơ quan sinh dục, sùng bái chuyện sinh nở, sùng bái vấn đề tính giaọ Cho nên trong ca dao người ta nói nhiều đến chuyện nàỵ Ông Đổng, bà Banh có thể xem là biểu tượng về tình dục trong ca dao
Có chồng từ thuở mười lăm. Chồng chê tôi nhỏ không nằm cùng tôị Đến chừng mười chín đôi mươị Tôi ngủ dưới đất chàng lôi lên giường Một rằng thương, hai rằng thương Có bốn cẳng giường gãy một còn ba!
Hết đồng anh lại pha chì Anh hàn chín tháng cô mình thụ thai Sinh ra được thằng bé con trai Về sau, giống bố gặp ai nó cũng hàn.
Tròng trành như nón không quai Như thuyền không lái như ai không chồng
Thôi thôi, tôi van câu rằng đừng Tôi lạy cậu rằng đừng Tuổi tôi còn bé chưa từng nguyệt hoa Tôi về gọi chị tôi ra Chi tôi đã lớn nguyệt hoa đã từng
Em đừng khinh quân tử nhỏ nhoi Con lươn bao lớn nó xoi lủng bờ.
Em ơi đừng thấy nhỏ mà rầu Con ong bây lớn đốt cái bầu cù queo!
Em ơi đừng thấy nhỏ mà khinh Con thằn lằn bây lớn ôm cây cột đình tổ cha!
Chú ý: Tổ cha: tiếng địa phương có nghĩa là rất lớn
Em đừng chê anh nhỏ mà lầm Hòn đá đập nằm dưới, hòn đá cầm nằm trên Chẳng thà nó nhỏ mà dài Còn hơn chụp bụp nữa ngoài nữa trong (Chụp bụp nghĩa là to mà ngắn)
Chẳng thà nó nhỏ mà cong Còn hơn tổ bố nửa trong nửa ngoài
Cồng cộc bắt cá bầu eo Chi chê tôi bé, tôi trèo chị coi
Câu đố: C.. ba chia đút vô l.. ngoáy Chãy máu ra lè lưởi liếm liền
Câu đố: Ngất nga ngất ngưỡng tựa cần câu Tay chân không có miệng trên đầu
Câu đố: Đi nhai, đứng ngậm ngồi cười.
L.. này L.. chẳng sợ ai Sợ thằng say rượu đ… dai đau L…
C .. to lo chi đói Cơm nhà L..vợ Sờ L..béo, đéo l… gầy Vú nẫy L.. sưng Ví phấn với vôi Ví L.. con đĩ với môi thợ kèn
Bà ba đi chợ đường quai Vừa đi vừa tỉa lá khoai bưng L..
Bà ba đi chợ đường cồn Vừa đi vừa tỉa lông L.. bán trăm
Trên trời có ông sao Rua L.. em tua tủa có thua chi nào.
Lông tơ lún phún mép L.. Lăn tăng con cá diếc lòn vào lòn ra Cây trời có cái chỉa ba Thương em thì hãy đem tra nó vào Trèo lên cây khế giữa ngày Váy thì trụt mất, lưỡi cày thò ra Lưỡi cày ba góc chẻ ba Muốn đem đòn gánh mà tra lưỡi cày
Trời mưa trời gió đùng đùng Cả bầy C.. lọ mang tơi đi tìm
Cơm ăn mỗi bửa mỗi niêu Tội gì bắt ốc cho rêu bám L..
Ví ví von von Anh cho một cái, cỏng con về nhà
Thấy L.. lạ như quạ quạ thấy gà con Trong nhà đã có đồ chơi Song le còn muốn của người thêm xinh
Kim mà đâm thịt thì đau Thịt mà đâm thịt nhớ nhau suốt đời
C.. vạy thì ngoáy L.. già Ngoáy lui ngoáy tới chết cha L.. già
C.. vạy thì ngoáy l.. già Ngoáy lui ngoáy tới nó ra nước nhờn
Gió nam non thổi lòn hang chuột Đ.. em rồi, đ.. nữa được không em
Nhiều phân tốt lúa Nhiều lụa tốt L..
L… tốt vì lụa Lúa tốt vì phân.
Vú em như quả mướp hương Tay anh phật thủ đôi đường gặp nhau
Hơn nhau tấm áo manh quần Cởi ra bóc trần ai cũng như ai
Lở khi ăn miếng trầu xanh Đêm lo ngày sợ mặt xanh như chàm
L.. vàng, bẹn ngọc, đóc san hô Chóc ngóc như đóc mồ côi
Con gái mười bảy mười ba Đêm nằm với mẹ, khóc la đòi chồng mẹ giận mẹ phát ngang hông: “Đồ con chết chủ đòi chồng thâu đêm”!
Chú ý: Đồ chết chủ, địa phương ngữ, có nghĩa là mất dạy Phát: đánh vào người bằng bàn tay xòe (phách)
Đêm bảy ngày ba vô ra không kể Bán dạ tam bôi tửu Bình minh sổ trản trà Nhất nguyệt dâm nhất độ Lương y bất đáo gia.
Dịch: Đêm tối uống vài ba chén rượu Sáng ra lót dạ mấy chung trà Một lần một tháng e vừa đủ Chắc chắn lương y khỏi tới nhà
Bảy lượt mổi ngày đòi má nó Đương nhiên y sĩ phải xông nhà ???
Cha chết không lo, lo trâu méo L…
Áo xông hơi của chàng vắt mắc Đêm em nằm em đắp lấy hơi Trời mưa gió rét kìn kìn Đắp đôi dãi yếm hơn nghìn chăn bông
Chuột kêu chút chít trong rương Anh đi cho khéo đụng giường mẹ la
Chú ý: Ngày xưa cái giường của người đàn bà nhà quê là loại giường chỏng đóng bằng tre già, lâu ngày thành xiu lỏng, đụng vào đó kêu cót két, giống như tiếng chuột kêu chút chít. Có lẽ bà mẹ của cô gái kia đã một lần chợt thức giấc vì nghe tiếng chuột kêu, hoặc nghe tiếng giường kêu
Mẹ ơi con muốn lấy chồng Con ơi mẹ cũng một lòng như con
Cô Ba, cô Bốn lấy chồng Cô Năm ở lại giật mồng tăng tăng
Xót lòng mẹ góa con côi Kiến ăn lần hồị L.. lớn bằng mo
Áo dài chẳng nệ quần thưa Bảy mươi có của cũng vừa mười lăm
Em ham giàu em lấy thằng bé tí ti Làng trên xã dưới thiếu gì trai tơ
Ngó lên gò mả, Ngó xuống gò găng Gặp chị bẻ măng, Trật quần bắt kiến Thấy tôi hay liếng, Chị bảo bắt giùm Tôi bắt một đổi, Thấy cái đùm đen thui!
Gió nam non thổi lòn hang cóc Phận em nghèo nên mồng đóc khô rang
Gió nam tốc dải yếm đào Sao anh trông thấy oán anh không vào thắp hương
Anh về sương gió lạnh lùng Ở đây chung gối chung mùng với em
Anh về để áo lại đây Đêm khuya em đắp, kẻo gió tây lạnh lùng
Đêm đông trời lạnh như đồng Mượn chi thì cho mượn, mượn chồng thì không Làm thân con gái phải lo Mùa đông rét mướt ai cho mượn chồng
Thương em đút C. qua rào Không thương rút lại gai quào rách dạ Thương em đút C. qua rào Tai nghe chó sủa, rút lại nên bị gai cào xướt dạ
Trăng lên đỉnh núi mu rùa Cho anh đ. chịu đến mùa anh trả khoai
Vú em như cái chủm cau Cho anh bóp cái có đau anh đền
Vú em đang giá một tiền Cho anh bóp cái anh đền năm quan
Nứng L … mà cạ cây vông Cạ lên cạ xuống gai châm đầy l…
Vân Tiên ngồi dựa gốc môn Chờ cho trăng lặn sờ L. Nguyệt Nga Nguyện Nga biết ý không la Vân Tiên thấy vậy sờ ba bốn lần
Mười ba mười bốn lum săng Mười lăm mưới sáu lông quăm mép L. Mười bảy mười tám thẹn thùng Hai mươi mười chín như khùng như điên
Ra đường con mắt ngó nghiêng Về nhà chui chốn buồng riêng vê mồng
Dậm chân xuống đất cái đùng Vỗ L …cái phạch chào anh hùng đến đây!
Dậm chân xuống đất kêu bon Vọc C. cho cứng chào con nứng L. Bà Đội cho chí bà Cai Bà nào hay đố chữ cũng váy ngoài L.. trong
Nứng l… đỏ mặt Nứng C… đỏ lổ tai
Sướng lỗ khu su con mắt (lỗ khu tiếng Huế là hậu môn)
Cực chi da diếc diếc da Áo em hai vạc trải ra anh nằm
Nứng C. máu Cái L. què
Trăng lên khuất bóng cây dừa Làm thân con gái phải chừa đi đêm!
Thương em không dám vô nhà Đi qua đi lại hỏi: “gà bán không?”
Em là con gái đêm hôm Anh đừng lui tới mà nam nồm tội em!
Chú ý: Nam, nồm: gió nam, gió nồm, đây ý nói tiếng đồn xấu, tiếng chì tiếng bấc.
Thương nhau nào ngại sang giàu Tối lửa tắt đèn nhà ngói như nhà tranh
Chị kia lớn mổng cao mu Lại đây cho tôi gởi con cu trọc đầu Cu tôi vừa mới đâm lông Cho mượn cái lồng nhốt đỡ vài đêm
Cu tui ăn đậu ăn mè Ăn chi của chị mà chị đè cu tui Tui chưa trách chị mà chị lại trách tui Con chị đi lên đi xuống nên con tui mang bầu
Con chị mang chín tháng không rầu Con tui mang hai hòn dái nặng đầu quanh năm
Ôi O bán cồm hai lu Đi mô tui gởi con cu về cùng Cu tui tui ấp tui bồng Chớ bỏ vào lồng mà ốm cu tui (Tiếng Huế goi O là cô )
Thấy đua, thì cũng đua đòi Thấy tỉa lông nách cũng xoi lông L..
Tham giàu lấy phải thằng Ngô Đêm nằm như thể cành khô đâm vào
Tiếc thay con gái mười ba Liều thân mà lấy ông già tám mươi Tiếc thay con ngựa bạch mà thắt cái dây cương thừng Tiếc thay con người ấy thế ma đi ôm lưng cái lão già
Tiếc thay cây mía ngọt lại sâu Tiếc con gái tốt mà cái bím bầu không lông
Hởi cô mặc yếm hoa tầm Chồng cô đi lính cô nằm với ai Cô nằm cô đẻ thằng bé con trai Chồng cô về hỏi: Con ai thế này ? Con tôi đi kiếm về đây Có cho nó gọi bằng thầy thì cho
Hởi cô cô yếm thắm bùa đeo Chồng cô cô bỏ cô theo chồng người
Hỡi nàng má đỏ hồng hồng Cổ cao, miệng rộng, lông L. vắt vai
Hát cho chó cắn, bò lồng Hát cho con gái bỏ chồng mà theo
Rung rinh nước chãy trên đèo Bà già lật đật mua heo cưới chồng
Ở đây có đứa lấy trai Cho nên trời hạn nắng hoài không mưa
Ông già ông đội nón cời Ông ve con nít ông trời đánh ông Ông ơi tôi chẳng lấy đâu Ông đừng cạo mặt nhỗ râu tốn tiền
Tiện đây mận hỏi thăm đào Vườn hồng đã có kẻ vào hay chưả Mận hỏi thì đào xin thưa Vườn hồng có lối nhưng chưa ai vào
Khứ nhật ngã đề xuân nhất tự Hà nhân lai đáo phá thành thung Lang quân bất thức lang quân hận Tọa tất xuân đề ngọa tất thung
Ngày ấy ta đề “xuân” một chữ Cớ sao ai lại phá thành “thung” Bởi chàng không rõ nên chàng giận Ngồi ắt là “xuân”, nằm ắt “thung”
Ngó vô đám bắp khô bao Muốn vô mà bẻ người ta rào tứ tung Một mai trống thủng còn vành Lấy da trâu bịt lại cũng lành như xưa
Đau bụng, lấy bụng mà chườm Nhược bằng không khỏi, hắc hương với gừng
Em ơi! Trống lũng khó hàn Dây dùng khó đứt, người khôn khó tìm
Nước chãy hòn đá lăn cù Con chị đã vậy thì bèn con em!
Rộng đồng thì gió thổi luôn Khi vui cô chị khi buồn cô em
Mít ngon anh đánh cả xơ Chị đẹp em đẹp anh sờ cả đôi
Gió đưa bụi chuối sau hè Đã ve con chị lại tò vè con em!
Trông chồng mà chẳng thấy chồng Để em vắng lạnh phòng không một mình
Buồn tình cha chả buồn tình Biết ai lẻ bạn cho mình kết đôi
Quét nhà long mốt long hai Cha mẹ đi vắng dẫn trai vô nhà
Chú ý: long mốt long hai: làm dối, quét một chổi sót một chổị Đây ý nói làm thì vụng về, chỉ giỏi đường trai gáị
Chàng vông mà đậm lúa lép Rựa lụt mà cắt dép da Trai tơ mà lấy vợ già Nhai cơm mà sú thưa:”bà nuốt đi”!
Chú ý: chàng vông: chàng bằng gỗ vông, nhe..
Mèo hoang thì chó cũng hoang Một chàng ăn trộm gặp nàng nhổ môn
Chú ý: nên hiểu theo nghĩa bóng (gian phu dâm phụ)
Cầm chài mà vải bụi tre Con gái mười bảy đi ve ông già!
Một vợ mà xử không xong Còn đòi hai vợ cho cong … cái xương suờn Từ nay sống cũng bằng không Thôi rồi cái kiếp làm chồng làm cha
Cho dù có sống đến già Cho dù béo tốt cũng là phí toi Bây giờ pháo đả tịt ngòi Gia tài còn lại … một vòi nước trong
Củ lang nấu lộn củ mì Cháu lấy chồng dì kêu dượng bằng anh
Xứ tôi có núi “Xách Quần” Lấy ai thì lấy xin đừng lanh chanh Yêu anh thì giữ lấy anh Xin đừng ăn tỏi chê hành là hôi
Xách quần chạy ngược chạy xuôi Chạy mỏi cẳng rồi đứng lại bơ vơ …
Con gái chơi với con trai Coi chừng cặp vú như hai sọ dừa
Có chồng thì mặc có chồng Tôi đi ngủ dạo kiếm ít đồng mua rau!
Một hai họ nói rằng không Dấu chân ai đứng bờ sông hai người
mẹ ơi mẹ bạc như gà Con chưa lẻ mẹ, mẹ đà lẻ con
Ai về nhắn với ông câu Cá ăn không giật để lâu mất mồi
Cam đường bóc vỏ còn the Thấy em còn nhỏ anh ve để giành
Chú ý: cam đường: loại cam dại trái nhỏ, thường mọc dưới chân núi, mùi thơm như mùi cam, lá giống lá chanh, cây có gai như gai quít, trái chín ăn rất ngọt, trái xanh thì đắng và hơi chua
Thằn lằn tặc lưỡi mái tranh Đôi ta còn nhỏ để giành mai sau Bông thơm nở cạnh bìa rừng Ong ve chưa dám đậu, lũ bướm đừng lau chau!
Cô tú kẽo kẹt cậu cai Vợ chồng thuyền chài kẽo kẹt dưới sông
Con chim điểu nó biểu con chim huỳnh Biểu tổ chức, biểu nhỏ, biểu mình ưng ta Chim chuyền bụi ớt líu lo Líu lo bụi ớt đừng cho con chim chuyền
Liệu bề dát được thì đau Đừng gầy rồi bỏ thế gian họ đào
Trời sinh cái cửa ra vào Sao em lại khoe sắc tài Độc bình để trống nhành mai anh cắm vào!
Chú ý: đào (đào bới): chưởi rủa
Em ơi anh bịnh nhức dầu Hay đi đái rát lại đau ngọc hành Thuốc gì đỏ đỏ xanh xanh Thì em đi lấy cho anh một liều
Sáng trăng tôi được chồng ai Tôi cột gốc xoài ai chuộc cho tôi Ba quan tiền điếu bó mo Con heo đóng cũi tôi cho chuộc chồng
Chú ý: Đại ý: một gã chuyên “hai hoa” bị gái ngoan bắt được trói lại rồi đánh tiếng. Quan tiền điếu bó mo: tiền đúc bằng đồng điếu, tức loại đồng tiền thau. 1 quan = 10 tiền; 1 tiền = 60 đồng. Đem những đồng tiền bó vào mo cau cho dễ mang.
Những mạng thích chí ngao du Dạo chơi cho biết xuân thu thế nào Nhất lê, nhì lựu, ba đào Nhìn xem thấy cảnh muốn vào bẻ bông.
Thương cha nhớ mẹ có hồi Thương anh lúc đứng lúc ngồi không an Ước gì sông rộng một gang Bắc cầu dãi yếm cho chàng sang chơi Ước gì dãi yếm em dài Để em buột lấy những hai anh chàng
Ai ơi chơi lấy kẻo già Măng mọc có lứa người ta có thì Chơi xuân kẻo hết xuân đi Cái già xồng xộc nó thì theo sau
Chẳng ăn chẳng mặc chẳng chơi Bo bo giử lấy của trời làm chi
Bà già đã tám mươi tư Ngồi bên cửa sổ viết thư tìm chồng
Trai tơ lấy gái nạ dòng Cầm bằng uống máu làng trong làng ngoài
Cô kia má đỏ hồng hồng Cô chửa có chồng, còn đợi chờ ai
Buồng không lần lữa hôm mai Đầu xanh mấy lúc da mồi tóc sương
Cô kia cắt cỏ bên sông Cái váy thì cộc, cái lông thì dài Thuyền chài nó trả quan hai Thưa rằng chẳng bán để dài quét sân
Cổ tay em trắng lại vừa tròn Để cho ai gối đến mòn một bên
Nghiêng tai hỏi nhỏ ông Phật rằng: Trai thanh lấy gái có chồng được không?
Chơi cho thủng trống long bồng Rồi ra ta sẽ lấy chồng lập nghiêm Chơi cho thủng trống long chiêng Rồi ra ta sẽ lập nghiêm lấy chồng
Tính quen chừa chẳng được đâu Vạ làng, làng bắt mấy trâu mặc làng
Không chồng mà chửa mới ngoan Có chồng mà chửa thế gian thường tình
Em mất chồng em chẳng có lo Anh đây mất vợ nằm co một mình
Em đây là gái năm con Chồng em rộng lượng em còn chơi xuân
Có chồng càng dể chơi ngang Đẻ ra con thiếp con chàng con ai
Hai tay cầm lấy quả hồng Quả chát phần chồng, quả chín phần trai
Vú sửa mà bửa làm đôi Nữa cho con bú, nữa cho trai đem về
Đêm nằm vuốt bụng thở dài Thương chồng thì ít thương trai thì nhiều
Mày ăn cơm hay ăn khoai Một bài thơ ấy ngâm hai ba lần
Chử tình đáng giá ngàn vàng Từ anh chồng củ đến chàng là năm Còn như yêu trộm nhớ thầm Họp chợ trên bụng đến trăm con người
Đánh tôi thì tôi chịu đau Tánh tôi hoa nguyệt chẳng chừa được đâu
Lẳng lơ chết cũng ra ma Chính chuyên chết cũng chôn ra ngoài đồng Lẳng lơ cũng chẳng hao mòn Chính chuyên cũng chẳng sơn son để dành
Cau khô mà bỏ hộp đồng Mặt mi không xứng làm chồng tau mô
Chưa quen đi lại cho quen Tuy rằng cửa đóng mà then không gài
Em đang bắc nước sôi sôi Nghe anh có vợ, quăng nồi đá vung
Gặp nhau từ bến Đại Đồng Quên nhau hay đã có chồng mà quên
Đêm đêm ngồi dưới bóng trăng Thương cha nhớ mẹ không bằng thương anh Đêm nằm lưng chẳng bén giường Mong cho mau sáng ra đường gặp anh
Thương anh chẳng dám nói ra Chiều chiều đi dạo vườn hoa khóc ràn Đêm nằm khô héo lá gan Mong cho mau sáng ra đàng gặp anh
Ngó lên trăng chúc sao nghiêng Vui chung với bạn sầu riêng một mình
Ngồi buồn nghĩ càng thấm Hột cơm tấm cắn làm hai Rau lang đỡ bữa liễu với mai đừng lìa Em với anh như khóa với chìa Đừng để cho ống liệt, khóa với chìa lìa nhau
Chú ý: bụng ống khóa bị hư
Bóng trăng ngã lộn bóng tre Xin chàng đứng lại mà nghe thiếp thề
Vườn đào, vườn lựu vườn lê Bởi người lấy nhụy buớm xê ra ngoài
Nghĩ mình lại giận lấy mình Ao chưa đậu sống rập rình tra khuy
Chú ý: Đậu sống: Ao chưa may đường sống lưng
Đèn hết dầu đèn tắt Nhang hết vị hết thơm Anh đừng lên xuống đêm hôm Để thế gian đàm tiếu tiếng bấc tiếng nồm tội em
Tay cầm cọng lạc bẻ cò Lòng thương da diết, giả đò làm lơ Thương sao thương dại thương khờ Trong nhà không dám khóc, ra bụi bờ khóc than
Hai tay vin lầy đòn rồng Tội trời con chịu theo chồng con cứ theo Ra đi cha mắng mẹ rầy Không đi thì sợ ngoài này anh trông
Con cu bay bổng qua sông Hỏi thăm cô đó có chồng hay chưả Có chồng năm ngoái ngày xưa Năm nay chồng để như chưa có chồng
Đói lòng ăn trái khổ qua Nuốt vô thì đắng, nhả ra bạn cười Bạn cười thì mặc bạn cười Tháng năm đi cưới tháng muời có con
Có con nên phải thua người Mắc cho con bú, mắc cười với con.
Đang khi lửa tắt cơm sôi Lợn kêu con khóc chồng đòi tòm tem Bây giờ lửa đã cháy lên Lợn no con nín, tòm tem thì tòm
* Tục ngữ phong dao (trích “Tục Ngữ Phong Dao” của Nguyễn văn Ngọc) Ca dao
Ba bà đi chợ đường quai, Vừa đi, vừa tỉa lá khoai bưng L. Ba bà đi chợ đường cồn Vừa đi vừa tỉa lông L. bán trăm.
Nước nóng đổ lọ bình vôi Tôi ngồi tôi nghĩ bố tôi, tôi buồn Bố tôi dở dại dở khôn, Say mê cái L. bỏ mẹ con tôị
Câu đố: Ba bà mà giang chân ra Một ông đứng giữa mà tra C. vàọ (ba ông đầu rau và nồi cơm)
Ba ông ngồi ghế Một ông cậy thế, Một ông cậy thần Một ông tần ngần đút C. vào bếp. (Bể thổi lửa)
Bì bà, bí bạch chân cò Bí ba bí bách, nằm co giữa giường Đoạn rồi sờ vú sờ sườn Sờ sao cho nó đỡ buồn mà thôị (Bánh dầy)
Bốn chân chong chóng, hai bụng kề nhau Cắn giữa phau câu, nghiến đi nghiến lại. (cối xay)
Bốn chân mà lại có đuôi Đầu như đầu c., lưng lại gù lưng. (con chuột)
Cái gì vừa quả vừa hoa, Con nít cũng thích ông già cũng mê Ra đường dù thấy tràn trề Ngắm nhìn thì được, mân mê thì đừng (hai “quả đào tiên”).
Cái hoa tim tím, cái nhị điều đều, Đàn ông đâm nhiều, đàn bà đâm ít. (cái máy khâu)
Canh một thì trải chiếu ra, Canh hai bóp vú, canh ba sờ l. Canh tư thì lắc om sòm Canh năm cuộn chiếu ẳm con ra về. (Người kéo vó)
Chấm chấm mút mút đút vào lỗ trôn, Hai cái lông l. cái dài cái ngắn. (xỏ kim)
Chưa chết đã đem đi chôn Chưa ra đầu ngõ, vạch lồn xem ghe. (Người cầm bó rơm xin lửa)
Chưa hỏi đã cưới liền tay Bức chí ta nên phải lấy mày Đêm nằm tơ tưởng sờ cùng mó Mó đến mày, lại sướng đến ta. (cái quạt)
Gầy gò có bốn cái xương Cái giải thòng thơng vướng anh c. dàị (Quả nhãn)
Già thì đặc bí bì bì Con gái đương thì rỗng toách toành toanh. (cau lúc già và lúc là cau hoa)
Lồm xồm hai mép những lông Ở giữa có lỗ đàn ông chui vào Chui vào rồi lại chui ra Năm thì mười họa đàn bà mới chui. (Cái áo tơi)
Già ăn với cà kheo Lại thêm c. lõ, lại đèo nắm lông. (Miếng giầu thuốc)
L. già da dính tận xương Váy xanh mỏng mảnh lại thương c. dài. (Cối giã gạo)
Lù lù như mu l. chị Lị xị như đầu c. tôi Ngày n_ đi khắp mọi nơi Đến đêm lại chui vao mu l. chi.. (Con rùa)
Lưng tròn đít lại bảnh bao Mân mân mó mó đút n_ vào Thủy hỏa âm dương sôi sình sịch Âm dương nhị khí sướng làm saọ (điếu thuốc lào)
Mình bằng quả chuối tiêu L. bằng vỏ trấu, lổ bằng niêụ (Con chuột)
Mình tròn, da lại trắng tinh Hể nóng đến mình thì ưỡn vú ra Ăn phải thịt gà lại tịt vú đị (bánh đa sát-kê)
Mình tròn trùng trục, đầu toét toè loe Đút vào con gái, cô con gái nghe, Đút vào bà lão, bà lão lắc. (đôi hoa tai)
Người thì cao lớn trượng phu Đóng mười lần khố, trật cu ra ngoàị (cây chuối có hoa)
Rành rành ba góc, giữa con cóc ngồi Hai bên thiên lôi, hai bên địa võng. (hai cái vú)
Rau âm phủ nấu với mủ l. tiên Ngựa cửa quyền nấu với ả l. tranh. (Măng nấu với rươi, cua nấu với khế)
Thoạt vào thì vén váy lên Cái dưới mấp máy, cái trên gật gù (dệt cửi)
Trên lông dưới lông, tối lồng làm một (con mắt)
Vừa bằng cổ tay đâm n_ vô l. Gặp ông quan ôn, bỏ l. mà chạỵ (Con chuột và con mèo)
Tục ngữ phong dao
Anh em bất nghĩa chi tồn Anh đánh miếng l. em đánh miếng gh. Anh em bất nghĩa chi khoèo Anh thì đ. mèo, em lại cầm đuôị
Bủng người tươi đ. Ba chiếc sóng cồn, mấy cái lông l. rụng sa.ch.
Bà cốt đánh trống long tong Nhảy lên nhãy xuống con ong đốt l.
Bà đội cho chí bà cai Bà nào hay đố chữ cũng l. ngoài, váy trong.
C. ai vừa mũi người ấy.
Của l., l. đòi, của c., c. quên.
Có l. thì giữ, C. ông hay chữ đi đêm.
Con mày con nuôi chẳng bằng con c. làm ra
Chơi no bỏ gio vào đ. Chồng chết còn chửa hết tang L. đà ngấm ngáp như mang cá mè.
Đánh đĩ gặp năm toi c. Đĩ có tông, ai giồng nên đĩ Đủn đỡn như đĩ được cái đanh. Đẻ con khôn mát l. rời rợi Đẻ con dại thảm hại cái l.
Đi sau ăn rau bà đẻ, Ăn giẻ chùi trôn, ăn l. chấm muốị
Đĩ xơ, đĩ xác, đĩ xạc, đĩ xờ Đĩ ở trên bờ, đĩ lặn xuống aọ
Gà Tò, lợn Tó, vó Vạn Đồn, l. Cổ Am, c. Hành Thiện.
Gái đâu có gái lạ đời, Chỉ còn thiếu một ông trời không chim.
Giữ được đằng trôn, đằng l. quạ mổ. Trai thấy l. lạ như quạ thấy gà con.
Già thì già tóc, già tai, Già răng già lợi, đồ chơi không già.
L. rằng l. chẳng sợ ai, Sợ thằng say rượu, đ. dai đau l.
Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo l. không cạp, l. méo làm bạ
Mưu con đĩ, trí học trò. May hơn khôn, lớn l. hơn đẹp. Nuôi con chẳng biết tính con Hể vú gai gạo thì l. chớp đông.
Nứng c. thì vặc đến nhà L. còn đau mắt không ra đến ngoàị
No cơm ấm cật dậm dật mọi nơi Quần áo tả tơi mọi nơi chẳng dật.
Nằm đất hàng hương còn hơn nằm hàng cá L. cô hàng cá còn nhẵn hơn má anh chàng hương.
Nhăn nhở như l. lở sơn. Quang không lành, mắng giành không trơn L. không lành, mắng quanh hàng xóm. Rền rĩ như đĩ phải tim lạ
Ra đường ai nói thế nào Về nhà lấy thớt lấy dao băm l. Thấy đua thì cũng đua đòi Thấy tỉa lông nách, cũng xoi lông l.
Trân trân như l. trần không đáỵ Uống rượu ngồi dai, dái mài xuống đất.
Văn chương chữ nghĩa bề bề, Thần l. ám ảnh cũng mê mẫn nguờị Xót lòng mẹ góa con côi Kiếm ăn lần hồi, l. lớn bằng mo.
[Sưu tầm]
—————————————————
VỀ HAI “CÁI ẤY” VÀ “CHUYỆN ẤY” TRONG CA DAO, TỤC NGỮ
Mạc Thực Thái Doãn Chất
Faxuca: Mạc Thực Thái Doãn Chất là giáo viên văn, hưu trí ở huyện Diễn Châu, Nghệ An. Ông là hội viên Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam, hội viên Hội VHNT Nghệ An. Ông viết nhiều thể loại và khá nổi tiếng với dòng thơ châm biếm. Tuy nhiên, ông cũng là người nghiên cứu về văn hóa dân gian, với cái nhìn rất tươi tắn, sâu sắc về nhiều vấn đề tưởng rất đời thường. Ông có gửi đến Chuyên san Khoa học Xã hội & Nhân văn Nghệ An (Thuộc Sở KH&CN Nghệ An) bài viết này. Xét thấy nếu đăng ở Chuyên san KHXH&NVNA e chưa thật thích hợp, chúng tôi đã đề nghị ông cho đăng lên blog Tạp hóa Faxuca. Được ông đồng tình, Tạp hóa Faxuca xin giới thiệu bài viết rất đặc sắc, nhưng cũng đầy “tế nhị” này với bạn đọc.
Không phải ngẫu nhiên mà từ ngàn xưa hai “cái ấy” và “chuyện ấy” đã hiện hữu trong văn chương bác học và văn chương bình dân, trong đó có ca dao, tục ngữ. Đó là đề tài muôn thưở, là thứ “vàng ròng” (Chữ dùng của nhà thơ Trần Hữu Thung), làm cho con người vui vẻ, khỏe khoắn, ham sống, ham chiến đấu và trẻ trung hơn. Nếu không có nó thì “ mặt trời sẽ tắt”! Và cuộc đời của mỗi con người sẽ giảm phần hứng thú, ý vị.
Trước hết nói về hai cái ấy. Thông thường thì “của ai nấy dùng”, thường đi riêng, nhưng cũng có khi C..và L..đi sóng đôi nhau như bóng với hình.
Nó hay vì nhiều lẽ. Bắt đầu từ hai cái tên. Bắt đầu, ta nói về C. C..là cái tên nôm, tên “cúng cơm” ngàn đời của nó. “Trâu thì lấy mũi mà dắc (dắt)/ Người thì lấy C mà lôi”. Và, “C. gãy mà bạy L troi”. Hay: “Hát ghẹo mà đẽo cổ cò/ C. anh mà gãy ba o phải đền”. Rồi đến tên phái sinh, tên tượng hình, tên ẩn dụ, tên lóng…Đó là B.: “Nên không bay nói một lời/ Không thì choa sẽ dí b. choa đi”. Là thằng cu “Em như khế ngọt sân chùa/ Cho choa, choa không lấy,/ Bán choa, choa không mua/Nhưng vì thằng cu nhà choa hắn dại dại nên thấy của chua hắn thèm”. Là chim: “Người thì bé bằng cái kim/ Chim thì to bằng cái chày”. Là củ khoai từ: “Anh đây có củ khoai từ/ Em có cái rãnh cho anh dư lấy nòi”. Là cái gộc chè chuôm: “Ả có cái ao trưởng tộc / anh có cái gộc chè chuôm”. Là con cá tràu , khi con gái hỏi: “Tương phùng bạn với tương tri / Cá nằm dưới cỏ, cá chi rứa chàng?”. Thi bên con trai đáp: “Tương phùng bạn với tương tri/ Cá nằm dưới cỏ có khi cá tràu”. Là cái cần tăng dân số: “Anh có cái cần tăng dân số/ Ả có cái hố tăng cá nhân/ Hai bên phấn đấu chuyên cần/ Thì dân số nước sẽ tăng ào ào”. Là cái cuống đuôi: “Tình cờ gặp buổi chợ Sò / Ả khoe con mực tuộc, anh thò cái cuống đuôi”. Là cái cán dao: “ Anh H có cái cán dao/ Em mô (nào) ưng ý bỏ vào vừa ngay”. Là khúc trầm hương. Một cô gái ở thôn Hoàng Lao đến thăm chị gái lấy chồng về thôn Cự Phú, thấy một chàng trai đang cồng lưng đan rổ, bèn hát: “ Đất Hoàng Lao chữ lao là nhọc/ Đất Cự phú, chữ phú là giàu/ Em đến đây cũng muốn chị trước, em sau / Nhưng mùi trầm hương em nỏ chộ, mà chi chộ màu khói mây”’. Đã được một chàng trai Cự Phú đáp lại: “Giàu là giàu nơi hương hào dịch mục /Nhọc là nhọc nơi tú cử, trâm bào/ Khúc trầm hương anh còn để trong bao/ Em có đưa cái lò hương đi đó, để anh bỏ vào cho nó thơm”. Là cái dé: “Người bé, dé to”. Là “Đồ lề”: “Người cặp cách, đồ lề tráng hạng”.vv…
Tỷ lệ của nó so với thân chủ thì có khi thuận, có khi nghịch. Thuận thì: “Người to của nậy”. Nhưng có khi ngược lại: “Anh kia người thì nhom nhom (gầy gò, yếu ớt) / Người chôn tiểu, C. chôn hòm mà kinh !”.
C. có một số mặt nổi trội so với các cơ phận khác. Nó rất mẫn cảm đối với phía bên kia: “Ra đường gặp ả hồng nhan / Thằng cu nghển cổ nóng ran cả người”. Nó là cái máy i on nhạy vô kể: “ Đút vô be thì nghe nóng nóng/ Đút vô móng thì nghe nôn nôn / Đút vô L. thì nghe đễ chịu”. Nó rất thích của lạ: “Cái gì không mắt, không tai/ Cổ đeo hai bị, tóc dài ngang lưng / Của nhà thấy cứ lừng khừng / Hễ thấy của lạ bừng bừng xông lên”. Hoặc: “Cái gì chỉ có một đầu / Có mồm không mắt, đeo râu xồm xoàm / Khỏe đứng thẳng, nhọc nằm ngang/ Thất thường tính khí họ hàng không ưa/ Của lạ xài mấy cũng vừa / Của nhà thì cứ dây dưa khất lần”. Đọc qua, ai cũng biết đó là cái C..
Kích thước, hình thù của nó cũng mỗi người mỗi khác. Vì thế, mới có chuyện: Ba chị đi chợ về đố nhau: “Của cánh đàn ông thế nào thì sướng?”. Chị thì nói ngắn, chị thì nói dài, chị thì nói cong. Chẳng ai chịu ai. Cuối cùng cả ba kéo nhau đến gặp một ả có tiếng lẳng lơ, mới được “bật mí” như thế này: “Ngắn sướng ngoài, dài sướng trong / cong cong sướng chính giữa”. Vì nó sướng thế nên phiá bên kia đã “cương quyết chiến dấu” để “không cho chúng nó thoát”: “Nhịn ăn, nhịn mặc, không ai nhịn C.. cho ai”. Và C.. được đề cao trên cả sự giàu có: “Bền C. lọ, hơn đỏ nhà lim !”
Chuyển sang cái L. L. là tên cúng cơm ra đời trước nhất. Nhiều câu ca dao nói tới “của quí” này. “Nửa đêm thức dậy đâm xay / Khải (gãi) L. xoạc xoạc lông bay đầy nhà”. “Chiều chiều xách mủng xuống đồn/ Cậu cho bát gạo, banh L. cậu coi”. “Mẹ em cứ bảo không L./ Cái chi dưới háng như cồn cỏ may”. “Hai bà đi hái lộc mưng / Trèo lên rớt xuống đau lưng đấm L.”.vv. Tiếp đến là bướm: “ Bướm đồng động đến thì bay / Bướm nhà động đến lăn quay ra giường”. Là cái khuôn đúc tượng. Một chàng trai thấy một cô gái đẹp liền hát: “Hỡi người đi đó xinh thay / Có khuôn đúc tượng, cho anh đây đúc cùng”. Cô gái đã trả lời rất tình tứ: “Người sao ăn nói lạ lùng / Khuôn ai nấy đúc, đúc cùng ai cho!”. Là cái ngã ba: “To đàng cấy, nậy ngã ba”. Là con mực tuộc (xem C). Là cái ao trưởng tộc (xem C). Là cái lộ lù trong phát ngôn sau: Một cô gái dùng lối nói lái để hỏi cánh thợ đắp tượng: “Anh đi đắp phượng, đắp cù / Đố anh đắp được bốn cái lộ lù nhà em”. Liền bị một chàng trai “đập” lại: “Bốn cái lộ lù kính chú em ba / Đắp công, đắp phượng mới là tay anh”. Là:“Cây luồng mà bỏ u rê”.Bây giờ có người gọi nó là“đám ruộng ba bờ” v v Màu da của nó cũng thay đổi. Thông thường thì màu trắng: “Cái L. trắng bảnh, trắng banh /L. ăn C. sống có tanh không L.?”. Có khi là màu đen do môi trường lao động vất vả, nặng nhọc: “Lộ cộ có lộ tiền chôn / Cái răng mốc thếch cái L. đen thui”. Hoặc do sự cọ xát của “thớt trên”. Có một cô gái ngây thơ hỏi chị dâu khi cả hai “chị em rủ nhau tắm đầm/ Của em sao trắng, chị thâm thế này?”. Đã được cô chị dâu cho biết nguyên nhân: “Nó thâm bởi tại anh mày / Xưa kia chị cũng hạt chay đỏ lòm”
Sự cân đối so với các cơ phận khác cũng mỗi người mỗi vẻ. Thông thường thì tỷ lệ thuận: “To đường cấy, nậy ngả ba”. Hoặc: “Em là con gái Phú Đa/ Con người phốp pháp, ngã ba to đùng”. Nhưng cũng có khi ngược lại: “Em là con gái chợ Cồn/ Người thì bé bé cái L. lại to !”. Rồi diện mạo của nó thế nào? Một chàng trai hỏỉ: “Cô kia, cô kỉa, cô kìa/ Người cô thế ấy, cái kia thế nào?”. Đã được phía bên kia trả lời thật tuyệt vời: “Nó xinh, nó xỉnh, nó xình/ Nó cũng như mình, nó đã có ria!.” Nó giống mồm anh. Đau hơn hoạn !
Nó cũng có độ sâu chết người. Bởi thế có khách qua sông đã hỏi cô lái đò: “Sông này sâu cạn thế nào /Lại đây anh thả một cơn sào hỡi em”. Đã bị đối phương giáng trả: “Sông này chỗ cạn chỗ sâu/ Sa chân thì ngập cả đầu đó anh!”. Lại có chuyện: Ba anh chàng đi học về, thấy một chị nông dân đang cấy dưới ruộng, xúc cảnh sinh tình, liền đố nhau:“Của chị ấy thế nào?”. Anh nói tròn, anh nói méo, anh nói vuông. Chẳng ai chịu ai, bèn kéo nhau vào huyện đường nhờ quan phân xử. Quan phán: “ Mai gọi thị ấy xuống đây, rồi ta phân xử cho”. Về nhà, ba anh biện ba món quà để “ hối lời” chị ta. Sáng hôm sau kéo nhau vào huyện đường. Lập nghiêm, quan hỏi: “Thị kia ! Của mày thế nào mà để ba thầy đây đi học về đố nhau: Thầy nói tròn, thầy nói méo, thầy nói vuông?”. Được quan cho phép, chị nông dân lễ phép thưa :“Bẩm quan, cả ba thầy đều đúng ạ!” Quan ngạc nhiên. Chị ta nói tiếp: “Khi con đi, thì của con méo/ khi chồng con đến đéo, thì của con tròn/ Những khi ngồi đòn, thì của con vuông!” Có người còn vẽ hình hài nó như thế này: “Đi nhai, đứng ngậm, ngồi cười/ Vô phúc mạt đời, mọc cái răng nanh !”.
L. có sức mạnh hơn cả ma quỷ: “ Ma hớp hồn, không bằng L. rút ruột”. Vì nó mà có kẻ mất hết cả trí tuệ: “Khoe anh lắm khéo, lắm khôn/ Qua cửa nhà L. bảy vía, còn ba !” Đến những bậc văn nhân,tài tử mà dính lấy nó thì cũng trở nên đần độn: “Văn chương chữ nghĩa bề bề/ Thần L. ám ảnh thì mê mẩn đời !”. Nó làm cho các víp, các sếp đến mê mệt mất cả tỉnh táo: “ Cây luồng mà bỏ u rê/ các vip, các sếp đều mê cây luồng”. Kì diệu hơn, nó có thể tái sinh sự sống. Bởi thế mới có chuyện: một ả đi cày thách đố một chàng trai: “Đưa chàng một nắm ngô rang/ Chàng đúc vô cho nó mọc, thiếp theo chàng về ngay”. Anh ta đã trả lời thật hóm hỉnh: “Nơi nào mà nắng không khô/ Mà mưa không ướt đúc vô, mọc liền !”. Có khi nó trở thành “tiêu chuẩn”để đo sự trưởng thành của một đấng tu mi nam tử: “Làm trai cho đáng nên trai/ Mồm thơm mùi rượu, tay khai mùi L.”. Đến các bậc quân tử cũng có khi “gương mẫu” như thế này: “Tưởng là quân tử nhất ngôn/ Ai ngờ quân tử rờ L. hai tay”. Bởi thế, mới có kẻ tuyên bố: “Quân tử nhất ngôn là quân tử dại/ Quân tử nói lại, là quân tử khôn/ Quân tử rờ L. là quân tử giỏi !”. Thật là hết chỗ nói ! Lắm anh chàng nổi tiếng khôn cũng bởi do biết :“Làm trai như thế mới khôn/ Ăn cơm dùng đũa, rờ L. dùng tay”. Rồi khi thiếu vắng nó, thì cả bọn “dùng sức mạnh tập thể” cất công đi tìm: “L. lông bay bổng lên trời/ Một bầy C. lọ mang tơi đi tìm”.
Giờ nói đến chuyện ấy. Đó là chuyện “ giao lưu” của một cặp tình nhân muôn đời. Có nhiều cách để gọi sự giao lưu ấy. Thông thuờng thì gọi là đ. Khi thì gọi là “mần”, là “ấy”: “Thấy ai ai, ta cũng ai ai/ Ai ai ấy thì ta cũng ấy” (Trần Lê Vĩ)…Nhưng phổ biến nhất vẫn là đ. Từ xa xưa, tạo hóa đã bắt C. và L. phải làm bạn với nhau. Ai không có bạn “ thân mến” ấy là bất hạnh, là vô phúc ! Bởi thế một cô gái mới đem “của mình” ra để đố bạn trai: “ L. vàng, bẹn ngọc, đóc sơn son/ Trai nam nhi đối được, thiếp theo non về dừ”. Bạn trai của cô ta đã đối lại khá chuẩn: “Lông mun, dái trắc, C. xà cừ/ Anh đây đối được, em cho dừ hay mai ?”. Rõ ràng là cái chắc đã ngoắc lấy cái đẹp. Và cái đẹp đã kẹp lấy cái chắc! Ca dao phồn thực còn cho ta biết: “Con gái 17/ vú cảy L. sưng/ Hai mắt trập trừng/ Hình như muốn đ..” Vì thế đến tuổi dậy thì, mới có chuyện con trai trách con gái: “Tổ cha ba đứa có L./ Không cho choa đ. để L. mần chi?”. Liền được phía con gái trả lời: “Bay hỏi thì choa xin thưa / L. choa đang nhỏ, chưa vừa C. bay”. Có khi lấy ngoại cảnh để nói chuyện ấy: “Con cò ăn bên tê hói/ Con cói ăn bên ni sông/ O kia ơi, có phải đạo vợ chồng/ Sang bên ni ta kè coọc”. Nó còn cho biết chuyện ấy sẽ xẩy ra khi nào: “No thì L. .L., C. C./ Đói thì hục hặc chuyện ăn”. Con người khác với loài vật ở chỗ nào: “ Chó mùa thu, tru (trâu) mùa hè/ Người thì nhè bát tiết”. Nghĩa là quanh năm .
Trong ca dao chuyện ấy ít nói bóng, nói gió. Đa phần là nói thẳng. Cho nên có anh chàng nào đó đã đề nghị: “L. em tủm hủm mu rùa/ Cho anh đ. cái, đến mùa lấy khoai”. Thì bên kia nói ngay: “Khoai khoai cha tổ là khoai / Cho anh đ.. cấy đến mai lấy tiền/ Tiền tiền cha tổ là tiền/Cho anh đ.. cấy L.. liền lộ khu! ”. Có khi là chuyện “động trời” làm cho cả làng phát khiếp.: “Trai đại hạn, gái loạn canh/ Đ. chắc một bữa khiếp xanh cả làng !”.Có khi phái yếu ở trong tư thế sẵn sàng “chiến đấu”: “Nửa đêm nghe chuột khoét dần/ Tưởng chồng đến đ. trương gân banh L. !”. Có người còn so sánh, đề ra ‘tiêu chí” thế nào là cha thương con, vợ thương chồng: “Cha thương con làm nhà tứ trụ/ Vợ thương chồng cho đ. suốt đêm”. Có chỗ còn nói tới tác hại của nó khi vượt ngưỡng: “Hay ăn thì béo, hay đéo thì gầy”. Trong khi văn chương bác học nêu lên cách tẩm bổ và hành lạc như thế này: “ Bán dạ tam bôi tửu/ Bình minh nhất trản trà/ Tam nguyệt giao nhất độ/ Lương y bất đáo gia”. Nghĩa là: “Nửa đêm ba chén rượu/ Sáng mai một chén trà/ Ba tháng “ấy” một cái/ Thầy thuốc đếch tới nhà”. Thì tục ngữ dân gian nói: “Đêm bảy ngày ba, vô ra không kê”. Để giữ được nhịp độ đó, người xưa bày cho: “Thương chồng nấu cháo cu cu/ Chồng ăn chồng đ. như tru (trâu) phá ràn”. “Thương chồng thì nấu cháo lươn/ Chồng ăn chồng đ. cho trườn ra sân”. “Thương chồng thì nấu cháo gà/ Chồng ăn chồng đ. gấp ba ngày thường”. “Thương chồng thì nấu cháo gà/ chồng ăn, chồng đ. cửa nhà rung rinh”. Thật là khủng khiếp! Lại còn bày cho cách tiến hành thế nào để đạt đến cực điểm của sự khoái lạc: “Kéo gỗ thì cốt bỏ đà/ Đ. chắc thì cốt đàn bà nắt lên”. Ca dao còn cho biết trong chuyện ấy, thành phần nào, lứa tuổi nào là khỏe nhất: “Lính về, lính đ. ba ngày/ Bằng anh dân cày đ. trong ba tháng”. Hoặc: “Ba năm du kích cận kề/ Không bằng lính chiến hắn về một đêm”. Đúng là: “Ăn thì đi rú, đ. thì đi lính”, hoặc “lính về thì đ., rú về thì ăn”. Rồi hình dung bề ngoài như thế nào, thì khỏe khoản ấy. Nào là: “Tóc loăn quăn, bạo ăn, bạo đ./ Tóc lụ xụ bạo đ., bạo ăn”. Nào là: “Người gầy thầy đ.”. Hoặc : “Trai tơ mà đ. gái tơ/ Hắn sướng trong bụng hơn mơ được vàng”. Còn lớp người “trên bảo dưới không nghe” thì: “Ông già mà đ. bà già/ Cũng bằng bốc trấu mà xoa giữa L.”. Và đây là cách chơi của kẻ tra (người già): “Đứt ú thì quàng lấy sừng/ Già thì dụt dặt, xin đừng bán đi”. Hoặc: “Trẻ đâm xay, già dụt dặt”. Hoặc coi đây là một phép dưỡng sinh cực kỳ quí giá: “Trẻ thì lấy con, lấy cái/ Già thì thông đái, ngon cơm”. Nhưng cũng có khi: “Càng già càng dẻo, càng dai”, như cái chuyện đã xẩy ra ở một xã, tại huyện nọ: “Q.L lại có chuyện cười/ Dưỡng sinh, sinh dưỡng mới lòi đuôi ra/ Cụ ông mà đ. cụ bà/ Người già L., C. chưa già, vơ bay !”. Nhiều khi nó có giá trị như một liều thuốc “cải lão hoàn đồng”: “Cụ già tuổi dã tám mươi/ Nghe nói chuyện đ. trong người nóng ran”. Hay: “Lâu ngày đ. cái khỏe ra/ Mặt mày trẻ lại, cái già mất tiêu”. Bởi thế nhịn “khoản ấy” là con người trở nên tiều tụy, phờ phạc: “Nhịn ăn mười bữa chưa gầy/ Nhịn đ. một bữa mặt mày xanh xao”. Nhiều kẻ giàu có, vì chuyện ấy mà khuynh gia bại sản: “Anh kia tan cửa nát nhà/ Vì một cái đ. nên ra thế này”. Hoặc: “Tan cửa nát nhà, cũng vì ba cái đ.!”. Người ta có nhiều cái khổ. Một trong những cái khổ ấy là vợ mất sớm. Vợ mất sớm là một trong ba “nhân sinh tam khổ”: “Tuổi trẻ mất cha/ về già mất con/ Trung niên mất vợ/ Héo hon vô cùng”. Vì thế vợ chết, hoặc vợ đi đâu lâu ngày, lắm người đã khổ và bức xúc như thế này: “Vợ chết mới được ba ngày/ Cái C. đã ngỏng như chày đâm vưng (vừng)”. Hoặc : “Vợ chết mặt còn rầu rầu/ Cái C. đã nóng như đầu hỏa xa”. Hay: “ L. đi giữ cháu ba ngày/ Ở nhà C. nhớ C. gầy trơ gân !”.
Còn phía bên kia thì sao? Cũng khổ không kém ! “Chồng chết sang ngày thứ tư/ Cục đú hắn dựng y như hòn lèn”. Hoặc: “Đàn bà chồng chết ba năm/ Được một cái đ. sướng rân tháng tròn”. Hoặc:“Chồng chết thì chưa đoạn tang/ Cái L. ngáp ngáp như mang cá mè”. Cho nên có trường hợp đã phải tìm cách “phá bỏ gông xiềng nô lệ !”. Nếu xa vợ lâu ngày quá thì: “Vợ rồi thì mặc vợ rồi/ Lâu ngày đại hạn, sang ngồi với em”. Nếu xa chồng lâu ngày quá thì: “Có chồng thì mặc có chồng/ Lâu ngày vắng vẻ, “tơ hồng” cứ xe”. Thậm chí có chị vừa ru con, vừa thông báo hoàn cảnh của mình cho láng giềng biết: “Bố cháu lâu nay không nhà/ Muốn xuân một tý la cà sang đây !”.
Còn trường hợp sau đây thì không biết là “khổ” hay là “sướng”, phản đối hay không phản đối: “Hôm qua em đi hái chè/Gặp thằng phải gió hắn đè em ra/ Em xin mà hắn không tha/ Hắn đè, hắn nhét cái xương cha hắn vào /Đêm về lòng những khát khao/Ngày mai em lại đồi cao hái chè !”. Hoặc “ trực trần kỳ sự” như cái ông chết vợ này: “Ai có L. thì giữ/ C. bọ hoe Lự đi kiếm ăn !”.
Tóm lại, hai cái ấy và chuyện ấy sớm được đề cập trong ca dao, tục ngữ. Nó trở thành của “gia bảo”, “liều thuốc vạn năng” để người lao động có thêm sức lực vượt qua những “chướng ngại vật” trên đường đời. Bởi thế, mất gì thì mất, nhưng những câu ca dao , tục ngữ nói về hai cái ấy và chuyện ấy,thì dù không được bày, dạy vẫn “thừa sức” lướt qua phong ba bão táp của thời gian; chỉ cần một lần thoảng qua cái lỗ tai là găm lại trong trí nhớ. Nó trở thành “tiềm lực” trong con người, đặc biệt là những người lao động chân tay. Ca dao xưa có câu: “Chàng làng chèo chẹt nỏ mần (chẳng làm) chi ai/ Chim cu ngẩm ngẩm, ăn hết đậu, hết khoai nhà người”. Một số người, nhìn bề ngoài có vẻ “đạo mạo, nghiêm túc”, nhưng bên trong lại là những tay “thợ giác, thợ khoan” “nổi tiếng”! Vì thế, người xưa đã lớn tiếng tố cáo,vạch mặt: “Bộ Binh, bộ Hộ, bộ Hình/ Ba bộ đồng tình bóp vú con tôi”. Hoặc: “Ban ngày quan lớn như thần/ Ban đêm quan lớn tần mần như ma” đó sao? Còn ngày nay nếu chịu khó sưu tầm cũng không phải là “của hiếm”.
Trong ca dao, tục ngữ, cũ và mới, nếu “săn lùng” cho hết thì còn phờ râu trê! Người viết “chân ngắn quá, không đi cùng trái đất”, có chỗ nào chưa đủ, mong bạn đọc bổ sung cho phong phú thêm. Có chỗ nào “vui quá hóa…dại”, lỡ lời, lỡ bút, mong bạn đọc xa gần lượng thứ. Xin thành thật cảm ơn !
Nguồn: http://faxuca.blogspot.com/2012/06/ve-hai-cai-ay-va-chuyen-ay-trong-ca-dao.html
————————————————–
Hậu Bút Tre
Tùng Vũ
Thứ bẩy ngày 2 tháng 3 năm 2013 8:19 PM
Vẫn cái cười “ngay vào mũi mình” nhưng lại vơ vào mà không ngượng, không “dơ””
– Ngày xưa như sắt như đồng Như đinh đóng cột như rồng phun mưa Bây giờ như cải muốn dưa Mười thang Minh Mạng vẫn chưa phục hồi Vợ thì lo đứng lo ngồi Lo tìm bác sĩ phục hồi chức năng Bác sĩ tủm tỉm phán rằng Cứ thay mái mới lại căng dây đàn Vẫn cái mạch thơ ngắt dòng, anh em liên tưởng: – Anh đi công tác Pờ lây cu dài dằng dặc biết ngày nào ra Còn em ở lại Buôn Ma Thuột đi thuột lại thằng cha láng giềng
Hay “chế” cái mới cũng đáo để:
– Anh đưa em đến mũi Dung Quất nhau một cái ta cùng làm quy hoạch xong rồi chúng ta đi ra dầu ra khí ra gì thì ra.
Nhại lại cái câu quen thuộc: “Không đi không biết Đồ Sơn”…: Cái cười còn lan suốt từ Bắc vào Nam:
– Không đi không biết Quảng Ninh, Đi rồi mới thấy cửa mình mở ra, Hàng Nhật cho chí hàng Nga, Hàng Tầu hàng Mỹ đều qua cửa mình, Xuất thô thì thấy lình sình, Xuất tinh cứ đến cửa mình xuất ngay.
– Không đi không biết Cửa Lò, Đi rồi mới thấy cái lo đang tồn, Phòng khi nắng dập mưa dồn, Chị em tranh thủ mang tay ra phơi.
– Không đi không biết Củ Chi, đi rồi mới thấy củ gì cũng hay, – Không đi không biết Cà mau, Đi về mới thấy còn lâu (mới bằng) cà nhà Cà nhà tuy có hơi già Nhưng mà cà chậm không là cà mau
Và trở về với Đồ Sơn:
– Không đi không biết Đồ Sơn, Đi rồi mới thấy hay hơn đồ nhà, Đồ nhà bằng cái lá đa, Đồ Sơn bằng cái bàn là Liên Xô, Hỏi rằng cái đồ nào to, Có một cái thước biết đo đồ nào?
Ngay các sự kiện chính trị vừa hé cái “chưa phải” đã có Bút Tre châm luôn: Cái vụ Hà Tây một đêm thành Hà Nội:
– Nghị quyết Quốc hội thật hay, Hà Tây cửa ngõ đặt ngay cửa mình, Bà con cô bác đồng tình, Sáng ra đã thấy cửa mình rõ to.
– Chó mèo thì phải có lông, Hà Nội phải có Hà Đông nhập vào, Trên trời phải có ông sao, Việt Nam phải có nước Lào hoan hô…
Cái việc tăng lương tưởng chừng cải thiện, nâng cao đời sống người dân, thì thực tế ngược lại, biết hỏi ai bi giờ:
– Giá ơi lương hỏi mấy lời, Giá lên như thế lương thời sống sao? Giá rằng sao lại hỏi tao, hỏi thằng đầy tớ chứ tao biết gì!
Sau khi ồn ào, to tiếng tưởng chừng làm nên các sự kiện, tên tuổi, mấy vị Bộ trưởng mới lại im hơi, lặng tiếng theo đóm ăn tàn. Dân gian lại có thơ rằng:
– Thằng B, thằng H, thằng Th, Ba thằng chuyên trị nói nhăng nói càn, Khi miệng chưa bị bịt vàng, Tưởng ba thằng ấy cùng hàng nhân dân
Ấy cũng như cái sự sinh hoạt hàng ngày, nên coi là “phình phường” thôi, như kiểu:
– Của người đêm bảy ngày ba Của mình sao cứ mở ra đậy vào Cũng cá ngựa cũng yến sào Mà sao lại cứ đậy vào mở ra
Cũng là cái đau nhưng vận vào mình nghe nó “chua chát” làm sao:
Khốn khổ cho cái thân mi Vợ thời đời cũ ti vi đời đầu Ti vi lại chẳng có râu Xoay ngang xoay dọc mà mầu chẳng lên Chẳng bù cho cái nhà bên Mới sờ một tí mầu lên ầm ầm Đêm nằm lòng những ước thầm Ước gì mình được sờ nhầm ti vi
Ngày trước cụ Nguyễn Công Trứ buồn đời mà viết:
– Ngồi rồi lại trách ông xanh Khi vui lại khóc buồn tênh thì cười Kiếp sau xin chớ làm người Làm cây thông đứng giữa trời mà reo.
Con cháu Bút Tre mượn cái câu của cụ Trứ mà thêm vào:
– Kiếp sau xin chớ làm người Làm con gà trống suốt đời vô lo Sáng dây thì gáy o… o… Ngày đi đạp mái không lo trả tiền Lúc chết lại được tắm tiên Các cụ kính cẩn đặt lên bàn thờ.
Chỉ nội cái chuyện chúc mừng ngày 8-3 cũng ối chuyện. Mà toàn chuyện chị em có nghe cũng chỉ biết cười trừ:
– Hôm nay mùng Tám tháng Ba Tôi giặt hộ bà cái áo của tôi Nếu bà mà nói lôi thôi Thì tôi mặc kệ áo tôi cho bà.
Kẻ chép những sự này đích tai nghe một Bút tre ứng khẩu khi được hỏi mùng 8-3 bác tặng bác gái cái chi? – Tặng mấy câu thơ. Người đó đáp rồi đọc luôn:
– Hôm nay mùng Tám tháng Ba Tôi thay mặt bà chúc sức khỏe tôi Đời tôi nếu có lôi thôi Thì tôi mặc kệ đời tôi cho bà Đời tôi nếu có trăng hoa Thì xin bà chớ rầy rà với tôi Nếu không tôi kiếm chỗ ngồi Tôi trông mâm cỗ xem ruồi nó xơi.
Chí Phèo đến thế là cùng!!! Một dạo om lên cái vụ thi chọn quốc hoa, có một vị GS khả kính hiến kế nên chọn hoa mào gà, lại nghe được một câu oái oăm hơn:
Cụ Nguyễn Tiên Điền hẳn phải cải cái câu “Bất tri tam bách dư niên hậu, Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như” thành “Thiên hạ hà nhân tiếu Tố Như” mà ngậm cười nơi chín suối.
—————————————–
Bùi Hoàng Tám : Nói về Thơ
Vợ tôi nửa tỉnh nửa mơ Hôm qua nó bảo dí thơ vào l., Vợ tôi nửa dại nửa khôn Hôm nay nó bảo dí l. vào thơ…
——————————————
Chia sẻ:
- X
Có liên quan
Từ khóa » Phấn Mà đòi Bì Với Vôi
-
Lắt Léo Chữ Nghĩa: Bì Phấn Với Vôi - Báo Thanh Niên
-
Rõ Là Bì Phấn Với Vôi | Ca Dao Mẹ
-
Rõ Là Bì Phấn Với Vôi, Bì Lồn Con đĩ Với Môi Thợ Kèn
-
Từ Điển - Từ Bì Phấn Với Vôi Có ý Nghĩa Gì - Chữ Nôm
-
Ví Phấn Với Vôi , Ví L... Con đĩ Với Môi Thợ Kèn - VinaBase
-
Ca Dao Tục Ngữ Thời Hiện đại (phần 51) - VnExpress
-
Tình Dục Trong Ca Dao - Nguyenkynam
-
CHỬI - -Yo- Cống Rãnh Mà đòi Sóng Sánh Với đại Dương Kênh...
-
Thư Giãn Cuối Tuần: SÁT THỦ ĐẦU MƯNG MỦ - Tễu Việt
-
Ca Dao | Ca Dao, Tục Ngữ Việt Nam | Trang 3
-
FLC Mà đua đòi Với VIC | Diễn đàn Chứng Khoán
-
Nghĩa Của Từ Bì Phấn Với Vôi - Từ điển Việt - Tratu Soha
-