Cà đắng – Wikipedia Tiếng Việt

Cà đắng
ChiSolanum
Nguồn gốc xuất xứvùng Tây nguyên, Việt Nam

Cà đắng là một loài cây lâu năm thuộc họ Cà mọc hoang dại nhưng được trồng lấy quả sử dụng làm rau ăn quả rất rộng rãi ở các vùng đồng bào dân tộc Tây nguyên.[1]

Mô tả

[sửa | sửa mã nguồn]

Cây thân thảo nhẵn nhụi, mọc thẳng hay leo, cao tới 1,5 m với thân màu tím đen, hóa gỗ ở gốc. Các lá hình mác thuôn dài, kích thước 10-30 x 4–15 cm, hoa từ trắng đến tím, quả hình cầu hay tròn dài, kích thước 5–6 cm x 7–8 cm, màu thường là trắng, tím, vàng hoặc xanh, trong ruột có nhiều hạt nhỏ đặc biệt cuống quả khi già có gai nhọn.[1]

Sử dụng

[sửa | sửa mã nguồn]

Sử dụng như là rau ăn quả

[sửa | sửa mã nguồn]

Quả thường được chế biến dưới dạng nấu, hoặc ăn sống nhưng thường dùng nhất vẫn là nấu chín. Kết hợp: Người dân tộc bản địa Tây nguyên thường nấu cà đắng với cá khô, cá suối hoặc các loại phủ tạng động vật nhất là của bò. Quả cây cà đắng được dùng để chế biến nhiều món ăn như cà đắng giã, cà đắng kho cá khô, cá đắng nấu với lươn, ếch…[2] Khi nấu cà đắng chú ý gia vị không thể thiếu là ớt thật nhiều và lá lốt xắt chỉ.

Hiện tại món cà đắng đã trở thành món ăn đặc sản và dễ tìm thấy trong hầu hết các nhà hàng ở Tây Nguyên.

Dược lý

[sửa | sửa mã nguồn]

Hoạt tính chống oxy hóa (HTCO) thực hiện theo phương pháp dập tắt gốc tự do DPPH (2,2-diphenyl-1-picrylhydrazyl) trên đĩa 96 giếng cho thấy quả xanh có hoạt tính tốt hơn các bộ phận dùng khác: lá, thân, quả chín. Cao quả xanh chiết cồn 50% có HTCO cao nhất với IC50 là 48,19 µg/ ml, yếu hơn 13,8 lần so với quercetin (IC50 = 3,36 µg/ml). Các kết quả này sẽ là cơ sở để bước đầu tiêu chuẩn hoá dược liệu và nghiên cứu thành phần hóa học theo định hướng sinh học.[1]

Lưu ý trong nghiên cứu dược lý

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Hiện chưa có nhiều nghiên cứu khoa học rộng rãi, lâm sàng về tác dụng cụ thể của cà đắng. Do vậy mọi công dụng như “giải độc, hỗ trợ gan, giảm cholesterol, giảm cân, chống viêm...” hiện vẫn mang tính gợi ý, dân gian.
  • Có thể có tác dụng phụ nếu dùng quá mức — như nhiều cây thuộc chi Solanum có hợp chất alkaloid hoặc glycoalkaloid (tùy loài). Do vậy không nên xem cà đắng là “thần dược” mà nên sử dụng với mức độ hợp lý.

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b c Trần Thị Minh Tâm, Lê Thị Thu Hồng, Nguyễn Thị Hồng (2023). "Nghiên cứu đặc điểm thực vật và hoạt tính chống oxy hóa của cây cà đắng (Solanum incanum) tại Đắk Lắk". TẠP CHÍ KHOA HỌC TÂY NGUYÊN. Số 61. tr. 17. doi:10.5281/zenodo.10117131.{{Chú thích tạp chí}}: Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
  2. ^ "Ăn cà đắng mới hiểu lòng người Êđê". Tuổi Trẻ online. ngày 27 tháng 10 năm 2016.
Stub icon

Bài viết liên quan đến Bộ Cà này vẫn còn sơ khai. Bạn có thể giúp Wikipedia mở rộng nội dung để bài được hoàn chỉnh hơn.

  • x
  • t
  • s

Từ khóa » Cà đắng Wiki