Ca Dao Ngụ Ngôn Người Việt 3

Trích từ: Ca Dao Ngụ Ngôn Người Việt - Triều Nguyên - Nhà Xuất Bản Thuận Hóa 21 . CHÊ NHAU Con Chó chê Khỉ lắm lông, Khỉ lại chê Chó ăn dông ăn dài. Lươn ngắn lại chê Trạch dài; Thờn Bơn méo miệngchê Trai lệch mồm. Ghi theo NASL IV: 46a, ĐNQT: 99b, CDNĐ: 34, TNPD II: 42 và TC8Dl: 322. Sách LHCD: 27a ghi hai cặp lục bát làm thành hai bài riêng (với vài khác biệt nhỏ). Các sách ít: 226, VNP7: 95, NGCK: 183b ghi cặp lục bát sau thành bài độc lập. Bài ca dao có thể được tách làm hai phần mỗi phần là một cặp lục bát, cách là một văn bản độc lập. Dẫu vậy, khi ghép chung, chúng bổ sung cho nhau để tạo nên ý nghĩa khái quát hơn Ở cặp lục bát đầu, Khỉ bị Chó chê lắm lông", nó chê lại Chó là "ăn dông ăn dài". Sự thật, thì Chó có thể không nhiều lông bằng Khỉ, nhưng vẫn thuộc loài lông lá che thân (sự phủ lông này trở thành dấu hiệu chỉnh, để nhận diện chúng; “Con mèo con chó có lông; Bụi tre có mắt, nồi đồng có quai" [TNPI I: 68]); Khỉ không "ăn dông ăn dài" như Chó, nhưng cũng không phải là loại ăn theo bữa, đúng giờ giấc nhất định. Nghĩa khi bị Chó chê "lắm lông", Khỉ có thể chê lại Chó lông không ít (và khi bị Khỉ chê ăn dông ăn dài,”Chó cũng cóthể lấy chuyện ăn lai rai của Khỉ để chê lại). Khỉ từng làm điều ấy với chuộtChù: Chuột Chùchê Khí rằng hôi. Khỉ lại trảlời “Cả họ mày thơm! [NASL IV Và 45bl] Cách trả miếng này vừa bớp chát vừa sâu sắc, bởi nó hàm ý, khi nói lên cái xấu củangười khác. người nói đồng thời cũng nhận ra cái xấu ở bản thân, khác với kẻ không thấy được khuyết điểm của mình (như Chuột Chù không biết mình hôi hôi như chuột chù nên đã đi chê khỉ). Ở cặp lục bát sau cũng tương tự, Lươn nghĩ mình ngắn nênchê Trạch. Thờn Bơn cho miệng mồm mình thẳng ngay, nên chê Chai. Và một loạt những chê bai kiểu này mà ca đao đãtừng nêu; dụ: Cú lại chêbai vọ rằng hôi, Giẻ cùi chêKháchdàiđuôivật vờ 1 TNPD I : 69 ] Thường thì con người hay mắc một số khuyết điểm nhất định; điều mà người khác mắc, mình cũng có thể mắc phải. Đây cũng là một đặc điểm chung của loài người (mà không có chúng, hay giải trừ được chúng, con người sẽ biến thành một sự vật mới mang dáng vóc người - Thần, Phật chẳng hạn), có khác nhau chăng, cũng chỉ mức độ (phụ thuộc nhiều vào hoàn cảnh, môi trường sống) mà thôi. Cho nên, phải thận trọng, cân nhắc khi xem xét khuyết điểmcủa người; còn như việc chê cười, khinh thị người khác, thì lại càng cẩn trọng hơn, hoặc tốt nhất là không nên, như ca dao có bài nêu: Ai ơi chớ vội cười nhau; Cười người hôm trước, hôm sau người cười. [HT: 1226]

<a href="http://cadaotucngu.com/giaithich/cadaongungon3.htm#21">Chê Nhau</a>

[Trở về Trang Đầu] [Trang Trước] [Trang Sau] [Trang Cuối]

22. CHÌ VÀ ĐỒNG Chì khoe Chì nặng hơn Đồng, Sao Chì chung đúc nên cồng nên chiêng? Ghi theo NASL IV: 1bHT: 226. Các sách TCBD I: 405, TNPDI: 86 DCNTBl: 192 cũng có chép bài ca dao với vài khác biệtnhỏ (như 1 CBD 1 và TNPD 1 ghi t,chuông" thay vì (chiêng" Ở dỏng bát). Chì nặng hơn Đồng thật sự (tỉ khối của chì là 1 l,34; của đồng là 8,96), nên Chì có khoe thì cũng "người ta thường tình". không thể căn cứ vào chuyện nặng nhẹ để đặt điều kiện làm chất liệu cho cồng chiêng được, lập luận này thiếu logic (bởi nặng nhẹ chưa hẳn là một trong số những thuộc tính, yêu cầu của chất liệu cồng, chiêng; và giả sử đây là một thuộc tính đi nữa thì cũng là một thuộc tính không cơ bản, không thể căn cứ để đặt điều kiện tuyệt đối như vậy). Vậy thì "nặng", một đặc điểm nổi trội của Chì, được bài ca dao dùng theo nghĩa bóng (dạng tương tự cách nói "nặng kí" khi đánh giá một con người, vụ việc dùng trong khẩu ngữ hiện nay, tạm hiểu lả "tốt", hay", "giỏi", lợi",... Hiểu như vậy thì bài ca dao hợp lẽ. Và lời chất vấn (dòng bát) là một bằng chứng, một sự việc cụ thể để phản bác, phủ định sự khoe khoang của Chì. Mỗi người có những sở trường sở đoản riêng, phát huy sở trường thì dễ thành công, đối phó bằng sở đoản thì dễ thất bại; khoe sở trường của mình đã không nên, tự cho mình hơn hẳn người khác về mọi phương diện (có phần phóng đại cái sở trường kia), lạicàng không nên - chỉ có những kẻ cuồng dại mới làm như thế. Đó là ngụ ý của bài ca dao. <a href="http://cadaotucngu.com/giaithich/cadaongungon3.htm#22">Chì Và Đồng </a>

23. CHIẾC ÁO ÔNG CHỒNG VÀ NHỮNG BÀ VỢ THỢ MAY Sớm mai đi chợ Gò Vấp, Mua một xấp vải; Đem về Con Hai nó cắt, Con Ba nó may, Con Tư nó đột, Con Năm nó viền,. Con Sáu đơm nút, Con Bảy vắt khuy. Anh bước cẳng ra đi, Con Tám níu, con Chín trì Mười ơi! Sao em để vậy, còn gì áo anh! Ghi theo HHĐN: 140-141, HMN: 45, TCBDl: 220 Các sách TCBD I: 414, HT: 459, VNP1I: 163 và VNP7: 299-300 cũng có chép bài ca dao- với vài khác biệt nhỏ '1 Đây là lời kể của người chồng, ông đi mua vải để những bà vợ may áo cho mình Có sáu bà, từ bà Hai (tức đầu, cả) đến bà Bảy- được kể là có tham gia vào việc may vá. Ba bà vợ còn lại tuy không nêu ra, nhưng có thể hiểu là cũng đã góp phần hoàn thành chiếc áo. Người đàn ông mặc chiếc áo mới “bước cẳng ra đi". Nếu đi ăn cỗ, đi làm việc thì hẳn không xảy ra chuyện "níu", "trì” (lôi kéo thật mạnh về phía mình, bằng cách ngồi bệt hay nằm dài xuống) Và dù hành động “níu”, "trì" bài ca dao chỉ kể là của bà Tám, Chín, nhưng ta vẫn có thể suy luận là gồm cả những bà vợ khác, chỉ trừ một người, đó là bà Mười, người vợ duy nhất được chồng gọi bằngem với vẻ trìu mến (trong lúc các bà khác đều được gọi bằng "con"). Điều này chứng tỏ bà Mười được cưng chiều, và do đó, không cần phải có hành động giành giựt chồng như những bà kia. Ông ta đi đâu mà các bà vợ gây căng thẳng như vậy? Câu trả lời? Có thể được tìm thấy : Ông ta đi kiếm bà Mười Một! Tục ngữ có câu "Làm trai lấy vợ bé, nhà giàu tậu nghé hoa", lại có câu "Sông bao nhiêu nước cũng vừa; Trai bao nhiêu vợ cũng chưa bằng lòng.[5] Nhiều vợ được coi là một biểu hiện quan trọng về địa vị và sự giàu sang của người đàn ông. Điều này được luật pháp, tập quán phong kiến thừa nhận làm nảy sinh những ham muốn về luyến ái không cùng. Ở người đàn ông, và tạo nên những mâu thuẫn lớn trong hôn nhân và gia đình, coi khinh người phụ nữ. Bài ca dao dựng lên chiếc áo ông chồng được các bà vợ may làm biểu trưng cho địa vị và sự giàu có ấy. Nhưng cũng chính những bà vợ làm hỏng chiếc áo do chính họ tạo nên. Mâu thuẫn giữa sự giàu sang và những bà vợ cũng là mâu thuẫn giữa quyền sống, quyền được hạnh phúc của người phụ nữ với chế độ đa thê. Thể hiện sự u thuẫn này, bài ca dao nhằm lên án sự phi lí, bất công mà người phụ nữ phải gánh chịu. <a href="http://cadaotucngu.com/giaithich/cadaongungon3.htm#23">Chiếc Áo Ông Chồng và những bà Thợ May </a>

24. CHIM, CÁ MẮC CẠN THAM MỒI Chim tham ăn sa vào vòng lưới, Cá mê mồi mắc phải lưỡi câu; Ai ơi phải khắc ghi sâu. Noi gương chim cá, mai sau răn mình. Ghi theo CDĐTM: 39. Vì tham ăn, mê mồi mà Chim sa lưới. Cá mắc câu (con người đã lợi dụng đặc điểm tham ăn này của Chim, Cá để đơm, bẫy chúng).Con người cũng phải ăn mới sống được. Tục ngữ có nhiều câu đề cập đến miếng ăn, câu gây ấn tượng nhiều nhất, lẽ là: Miếng ăn là miếng tồi tàn, mất ăn một miếng lộn gan lên đầu, Cái tạo ấn tượng là đã nêu hai mặt đối lập nhau của vấn đề: vừa coi khinh, vừa coi trọng nó. Đó là miếng ăn theo nghĩa biểu vật, nghĩa trần trụi.

Nhưng lắm khi miếng ăn được hiểu theo nghĩa rộng, là lất cả những gì phục vụ cho đời sống vật chất của con người. Con người tùy hoàn cảnh, địa vị mà có thể phạm sai lầm do tham/mê miếng ăn kiểu này; như Nguyễn Gia Thiều từng nêu: -

Mồi phú quý nhử làng xa mã, Bộ vinh hoa lừa gã công khanh. (Cung Oán Ngâm Khúc" - dòng 8/-82) Chuyện "tham ăn", "mê mồi" đã hiểu theo mức độ phạm vi hay hoàn cảnh nào. ít nhiều cũng dẫn con người đến sai lạc, có thể - thành tội phạm; và bài ca dao đã lấy đó làm một lời răn đáng ghi .- nhớ.

<a href="http://cadaotucngu.com/giaithich/cadaongungon3.htm#25">CHIM, CÁ MẮC CẠN THAM MỒI</a>

25. CHIM CHÍCH GHẸO BỒ NÔNG

(1) Chim Chích mà ghẹo Bồ Nông, Đến khi nó mổ: "Lạy ông tôi chừa!" (II) Chèo Bẻo mà ghẹo Vàng Anh, Đến khi nó đánh lạy anh tôi chừa" Bài (l) ghi theo CVPD; 151 ĐNQT: 100b, LHCD: 34a, TNPDl: 87 và VNPS: 21a. sáchNASL IV: 36b cũng có chép bài ca dao với chỗ khác biệt: ghi “lại” thay vì '" Ở dòng lục. Bài (II) ghi theo TCDGBH: 90. Chim chích là loài chim nhỏ, ăn sâu bọ; Bồ Nông là loài chim lớn mỏ to và dài, cổ có bìu đựng mồi (thường là cá ), sống từng đàn ở bờ sông, biển. Chim Chích mà chòng ghẹo, chọctứcBố Nông, để Nông giận mổ cho thì rõ là nguy khốn.

Chèo Bèo là loài chim ăn sâu bọ, so với Vàngnb thoảng anh) thì không mạnh bằng, nếu chọc tức để Vàng Anh đánh cho thì khó bề chống đỡ Hai bài ca dao đang bàn là bài văn bản đồng nghĩa. Bài ca dao dưới đây cũng mang ý tương tự

Chó thấy hùm ngủ vuốt râu, Đến khi hùm dậy đầu lâu chẳng còn. TVNP8 : Trong cư xử, quan hệ với kẻ mạnh (sức vóc, thế lực lớn mạnh), người yếu cần khéo léo; thận trọng, và chớ để kẻ mạnh giương nanh vua do bị xúc phạm bởi sự thiếu chín chắncủa mình. Đó là lời khuyênđược rút ra từ hai bài ca dao.

Từ khóa » Chó Chê Mèo Lắm Lông ý Nghĩa