CA DAO VÙNG MỎ QUẢNG NINH - 123doc

Sưu tầm và bước đầu khảo cứu ca dao Vùng mỏ Quảng Ninh trước và sau cách mạng tháng Tám 1945. Phân chia theo nội dung và thời điểm ra đời. Công trình phối hợp giữa nhiều nghệ nhân dân gian, học sinh sinh viên nhà sưu tầm và nhà khoa học.

Trang 1

CA DAO VÙNG MỎ

Sưu tầm năm 2009- 2010

Trang 2

HỘI VĂN NGHỆ DÂN GIAN QUẢNG NINH

CA DAO VÙNG MỎ

Trang 3

THÁNG 9 NĂM 2010

CÔNG TRÌNH CHÀO MỪNG ĐẠI HỘI ĐẢNG BỘ TỈNH QUẢNG NINH LẦN THỨ XIII

Trang 4

BAN TỔ CHỨC VẬN ĐỘNG SƯU TẦM

1 Nguyễn Quang Vinh (Trưởng ban)

2 Hoàng Quốc Thái

Trang 5

CA DAO VÙNG MỎ

ĐƯỢC SỰ HỖ TRỢ CỦA TẬP ĐOÀN

CÔNG NGHIỆP THAN- KHOÁNG SẢN VIỆT NAM

Trang 6

Lời nói đầu

Ca dao Vùng mỏ - tác phẩm văn hóa dân gian vô giá

Phần I: Ca dao Vùng mỏ trước cách mạng

Đói nghèo, xa quán, lìa quê

Thằng Tây rồi lại thằng cai

Làm than cực lắm ai ơi

Kiếp phu mỏ khổ đã nhiều

Ăn đói, mặc rách, ngủ lều

Ốm đau, bệnh tật, gầy mòn

Ai ơi chớ đến chốn này

Ở nơi địa ngục trần gian

Con giun xéo lắm cũng quằn

Hạ Long biển bạc, soi vào núi than

Than đen hay chính vàng đen

muôn bàn tay thợ đào lên núi vàng

Ơi anh địa chất tìm than

thương anh vất vả cơ hàn nắng mưa

Yêu anh thợ mỏ đào than

làng quê góp sức, có bàn tay em

Máy bay Mỹ đến Vùng than

Chung tao quyết bắn, cho tan xác mày!

Từ trong vất vả gian lao

Tình yêu thợ mỏ, đẹp nào đẹp hơn

Mấy lời thành thật nhắc nhau

Có sai thì sửa bền lâu nghĩa tình

Vùng than ơn Bác đời đời

Bác ơi! thợ mỏ nhớ lời Bác khuyên

6- 7 4-13

14

43 58 69 72 85 91 95 101 120

136204225

248 253 265 273288298

Trang 7

Chịu trách nhiệm xuất bản

NGUYỄN QUANG VINH

Chịu trách nhiệm nội dung

In 2.000 cuốn, khổ 15 x 22 tại Công ty in Quảng Ninh.

Giấy phẹp xuất bản số / , ngày tháng năm 2010 Sở thông tin-truyền thông Quảng Ninh Nộp lưu chiểu tháng 8 năm 2010

LỜI GIỚI THIỆU

Trang 8

Quảng Ninh là một tỉnh ở vùng Đông Bắc Tổ quốc; do điều kiện tự nhiên

và xã hội tạo nên Bởi vậy, ở nơi đây có vốn văn hóa văn nghệ dân gian rất phongphú và độc đáo Quảng Ninh hình thành bốn vùng văn học dân gian lớn: Vùngtrung du đồng bằng, vùng biển, vùng núi và vùng mỏ

Do vùng mỏ là nơi tập trung đông đảo nhất và sớm nhất đội ngũ công nhân

ở nước ta, lại là nơi bọn chủ mỏ thực dân bóc lột, đàn áp dã man nhất, nên vùng

mỏ cũng là nơi tiêu biểu cho nỗi khổ cực và truyền thống đấu tranh kiên cườngbất khuất của công nhân Việt Nam Ca dao vùng mỏ không những phản ánh sâusắc thực tế đó mà thực sự đã trở thành một vũ khí đấu tranh giai cấp sắc bén thời

kỳ thống trị của thực dân và bọn tay sai Chính từ ý nghĩa đó, ca dao vùng mỏ cónhững giá trị tư tưởng và nghệ thuật đặc sắc

Được lãnh đạo tập đoàn công nghiêp than- khoáng sản Việt Nam hỗ trợ.Hội văn nghệ dân gian tỉnh Quảng Ninh triển khai thực hiện sưu tầm, nghiên cứu

Ca dao Vùng Mỏ Những người làm công tác sưu tầm, nghiên cứu đã cố gắng tìmđến gặp trực tiếp các ông, bà, anh chị em là cán bộ, công nhân đã và đang làmcông tác và lao động sản xuất ở ngành than cung cấp và sưu tầm, nghiên cứu, kếthừa những tác phẩm, bài viết về công nhân mỏ qua các thời kỳ; đến ngày30/6/2010 có 1.662 người tham gia sưu tầm và được 10.620 câu, song chắc chắnvẫn chưa thể coi là đầy đủ Mong được bạn đọc xa gần gửi tiếp cho chúng tôi bàicòn sót lại và đính chính cho những chỗ còn nhầm lẫn, để tập sách được hoàn hảohơn

Chúng tôi hy vọng được in bảo tồn tài sản này, không những chỉ là tập tưliệu sinh động góp phần nghiên cứu tiến trình văn học dân gian Việt Nam mà điềuchủ yếu muốn góp phần gìn giữ những giá trị tinh thần làm nên bằng mồ hôi,nước mắt và máu của những người thợ mỏ qua các thời kỳ, nhất là trong gần mộtthế kỷ bị thực dân Pháp cai trị Ca dao Vùng Mỏ, với giá trị hiện thực sâu sắc của

nó, sẽ là một tài liệu mang tính lịch sử và tính giáo dục vô giá về truyền thống vàphẩm chất của giai cấp công nhân Việt Nam

Trang 9

Xin chân thành được cảm ơn lãnh đạo tập đoàn Công nghiệp than –khoángsản Việt Nam đã tạo điều kiện hỗ trợ kinh phí cho Hội văn nghệ dân gian QuảngNinh trong quá trình tổ chức sưu tầm, nghiên cứu Ca dao Vùng Mỏ

Cảm ơn ông Vũ Cẩm, nguyên Ủy viên Ban thường vụ tỉnh ủy, Phó Chủtịch UBND tỉnh, trưởng Ban tuyên giáo tỉnh ủy Quảng Ninh đã tham góp nhiều ýkiến cho nội dung Ca dao Vùng Mỏ;

Cảm ơn các thành viên Hội đồng thẩm định: Nhà thơ Trần Nhuận Minh,nguyên chủ tịch Hội Văn học nghệ thuật Quảng Ninh; ông Hoàng Tuấn Dương,nguyên trưởng Ban tuyên giáo Đảng ủy than Quảng Ninh; ông Phạm Ngọc Bảo,phó Ban thi đua, tuyên truyền tập đoàn Công nghiệp than-khoáng sản Việt Nam;ông Đàm Hiển nguyên trưởng Ban thơ Hội văn học nghệ thuật Quảng Ninh; ông

Tạ Kim Hùng, hội viên Hội nhà văn Việt Nam

Cảm ơn các bác, các đồng chí cán bộ công nhân cao tuổi, các hội viên CCB,người cao tuổi, các văn nghệ sĩ, học sinh, sinh viên và nhiều tổ chức đã thiết thựctham gia sưu tầm, khai thác vốn văn học dân gian của vùng mỏ, để chúng tôi xuấtbản tập sách này

Trang 10

BAN BIÊN SOẠN

Nguyễn Quang Vinh

Trang 11

MỤC LỤC CA DAO VÙNG MỎ

II Ca dao Vùng Mỏ - Tác phẩm văn hóa dân gian vô giá 4

III Phần I: Ca dao Vùng Mỏ trước Cách mạng

IV Phần II: Ca dao Vùng Mỏ từ sau Cách mạng (25/4/1955)

LỜI GIỚI THIỆU

Trang 12

Quảng Ninh là một tỉnh ở vùng Đông Bắc Tổ quốc, nơi vốn văn hoá vănnghệ dân gian rất phong phú và độc đáo Quảng Ninh hình thành bốn vùng vănhọc dân gian lớn: Vùng trung du đồng bằng, vùng biển, vùng núi và vùng mỏ.

Do vùng mỏ là nơi tập trung đông đảo nhất và sớm nhất đội ngũ công nhân

ở nước ta, lại là nơi bọn chủ mỏ thực dân bóc lột, đàn áp dã man nhất, nên vùng

mỏ cũng là nơi tiêu biểu cho nỗi khổ cực và truyền thống đấu tranh kiên cườngbất khuất của công nhân Việt Nam Ca dao vùng mỏ không những phản ánh sâusắc thực tế đó mà thực sự đã trở thành một vũ khí đấu tranh giai cấp sắc bén thời

kỳ thống trị của thực dân và bọn tay sai Chính từ ý nghĩa đó, ca dao vùng mỏ cónhững giá trị tư tưởng và nghệ thuật đặc sắc

Hội Văn nghệ dân gian tỉnh Quảng Ninh phối hợp với Tập đoàn Côngnghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam triển khai thực hiện Đề tài sưu tầm xuất bảnnhững tác phẩm văn học dân gian vô giá đó Những người làm công tác sưu tầm,nghiên cứu đã tìm đến các ông, bà, anh chị em là cán bộ, công nhân đã và đanglàm công tác và lao động sản xuất ở ngành than qua các thời kỳ Đến ngày30/6/2010 đã có được 1.462 người tham gia sưu tầm và được 10.620 câu, songchắc chắn vẫn chưa thể coi là đầy đủ Mong được bạn đọc gần xa gửi tiếp chochúng tôi bài còn sót lại và đính chính cho những chỗ còn nhầm lẫn, để tập sáchđược hoàn hảo hơn trong các lần tái bản sau

Chúng tôi hi vọng tập sách này không những chỉ là tập tư liệu sinh độnggóp phần nghiên cứu tiến trình văn học dân gian Việt Nam mà điều chủ yếu làmuốn góp phần gìn giữ những giá trị tinh thần làm nên bằng mồ hôi, nước mắt vàmáu của những người thợ mỏ qua các thời kỳ, nhất là trong gần một thế kỷ bịthực dân Pháp cai trị Ca dao vùng mỏ, với giá trị hiện thực sâu sắc của nó, sẽ làmột tài liệu mang tính lịch sử và tính giáo dục vô giá về truyền thống và phẩmchất của giai cấp công nhân Việt Nam

Xin chân thành cám ơn các bác, các đồng chí cán bộ công nhân cao tuổi,các hội viên Hội Cựu chiến binh, các văn nghệ sĩ, học sinh, sinh viên, các thànhviên trong Hội đồng thẩm định: Nhà thơ Trần Nhuận Minh, Đàm Hiển, các ôngHoàng Tuấn Dương nguyên Trưởng Ban Tuyên giáo Đảng ủy Than Quảng Ninh,Nhà văn Tạ Kim Hùng, Phạm Ngọc Bảo và nhiều tổ chức đã thiết thực tham giasưu tầm, khai thác vốn văn học dân gian của vùng mỏ giúp chúng tôi ra mắt tậpsách này

BAN CHẤP HÀNH HỘI VĂN NGHỆ DÂN GIAN QUẢNG NINH

CA DAO VÙNG MỎ

Trang 13

-NHỮNG TÁC PHẨM VĂN HỌC DÂN GIAN VÔ GIÁ

1 Việc sưu tầm, nghiên cứu Ca dao Vùng Mỏ.

Ngay sau ngày Vùng Mỏ được giải phóng (25/4/1955), trong không khí

“ôn nghèo kể khổ”, Sở Văn hoá - Thông tin khu Hồng Quảng đã cho xuất bản mộttập tài liệu tuyên truyền có tựa đề “Đời sống thợ mỏ thời Tây qua một số bài cadao…” (Người soạn là Hoàng Anh Vân, một tác giả thơ, biên tập viên tạp chí Vănnghệ Vùng Mỏ) Với 20 trang in, đây là một bài viết chuyên đề điểm lại các nỗikhổ cực, tủi nhục của đời phu mỏ và những tội ác đàn áp, bóc lột dã man của bọnthực dân chủ mỏ Chỉ có điều đặc biệt là các nội dung đó được dẫn giải, đượcminh chứng bằng những câu, những bài ca dao rất chân thực, rất sinh động Mấytrang cuối của tập tài liệu là những bài ca vận động đấu tranh của các chiến sĩcộng sản Chưa thể gọi là một chuyên khảo nhưng người soạn đã cho thấy Vùng

Mỏ có nhiều bài ca dao đặc sắc do chính những người thợ mỏ sáng tác Sự thật thìbài viết cũng không được coi là một phát hiện bởi hồi đó những bài ca dao nàyđang còn được lưu truyền rất rộng rãi Và thế rồi năm tháng cứ qua đi…

Những năm 1960, 1970, ca dao đang là một thể loại có vị thế hơn nhữngnăm sau này Các cơ quan, xí nghiệp, trường học dán đầy ca dao trên báo tường.Các báo trung ương, địa phương luôn có chuyên mục ca dao Báo Văn Nghệ tổchức cuộc thi sáng tác ca dao có tiếng vang Trong trào lưu coi trọng ca dao, bacây bút Lý Biên Cương, Trần Nhuận Minh, Sỹ Hồng đã cùng nhau sưu tầm cácbài ca dao có chủ đề “chống Mỹ, cứu nước” Với 160 bài sưu tầm chủ yếu từ các

hầm mỏ, nhà máy của ngành than, có thêm một số bài của các tác giả trẻ, tập “Ca

dao Vùng Mỏ (chống Mỹ cứu nước)” với 120 trang in (khổ 13 x 18cm) Ty Văn

hoá Quảng Ninh xuất bản năm 1969 đã kịp thời tập hợp và phổ biến những sángtác mà đến nay mới càng thấy quý công sức và tâm huyết của nhóm sưu tầm

Giữa những năm 1970, trong điều kiện hoà bình, Hội Văn học Nghệ thuậtQuảng Ninh được củng cố và tăng cường hoạt động Tiểu ban nghiên cứu – lýluận – phê bình của Hội xác định trách nhiệm cho mình là phải chủ động tổ chứcsưu tầm, nghiên cứu kho tàng văn học dân gian rất phong phú của tỉnh nhà Trong

đó, ca dao công nhân mỏ trước Cách mạng đang có nguy cơ mai một bởi lớp côngnhân già hiếm dần, bao loại hình văn hoá - nghệ thuật mới cuốn hút lớp trẻ, cadao - nhất là ca dao kể về những buồn tủi, đắng cay của cuộc đời xưa cũ, ít đượcnhắc tới… được đặt lên hàng đầu Nhóm sưu tầm gồm ba người: Tống Khắc Hàichủ biên, Khắc Lương (Cán bộ Ty Văn hoá Thông tin vừa nghỉ hưu được Hội mờicộng tác), Vũ Thị Gái (sinh viên mới về công tác ở Hội) đã chia nhau toả đi các

Trang 14

khu cư dân đông công nhân mỏ ở Cẩm Phả, Cửa Ông, Mông Dương, Hà Tu, HàLầm, Vàng Danh, Mạo Khê và sang cả Kinh Môn, Thuỷ Nguyên để gặp bằngđược những người có tiếng thuộc nhiều ca dao thời ở mỏ Miệt mài suốt támtháng, tìm gặp gần một nghìn công nhân cao tuổi ba người đã ghi chép được gần

ba vạn câu lục bát Từ đó đối chiếu các dị bản, lọc ra được những câu, những bài

hay nhất, hoàn chỉnh nhất Tập “Ca dao Vùng Mỏ (trước Cách mạng)” với 160

trang in (khổ 13 x 19cm) được Ty Văn hóa Thôn tin Quảng Ninh xuất bản đầunăm 1981, đã giữ lại được những sáng tác dân gian đặc sắc của một thời – chỉ củamột thời - 72 năm vùng mỏ - địa ngục trần gian Đây là những trang sử đauthương và bất khuất bằng văn học của đội ngũ công nhân mỏ - bộ phận đầu tiên

và tiêu biểu nhất của giai cấp công nhân Việt Nam trước Cách mạng Việc quyếttâm sưu tầm, xuất bản để giữ lại được những bài ca dao lịch sử này thật có ýnghĩa

Chính vì ý nghĩa quý giá của những bài ca dao của lớp lớp công nhân mỏ

mà năm 2008, khi Trung ương Đảng có nghị quyết về việc “Tiếp tục xây dựnggiai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đấtnước” (Nghị quyết 6 Ban chấp hành Trung ương khóa X ban hành ngày28/1/2008), thì không hẹn mà gặp, Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sảnViệt Nam, trước hết là Thường vụ Đảng uỷ Than Quảng Ninh và Thường trực HộiVăn nghệ dân gian Quảng Ninh đều nghĩ tới tái bản có bổ sung sách Ca dao Vùng

Mỏ Hai bên nhất trí sẽ phát động một đợt sưu tầm mới, vừa bổ sung những bài,những câu ca dao trước Cách mạng, vừa tập hợp các bài ca dao mới sáng tác từsau ngày Vùng Mỏ được giải phóng, bao gồm cả thời kỳ chống Mỹ cứu nước vàthời kỳ đổi mới

Ai cũng nghĩ lớp công nhân trước Cách mạng hầu hết đã khuất núi, một

số cụ già trên 80 tuổi thì trí nhớ suy giảm, khó hi vọng tìm thêm được câu nào.Nhưng thật không ngờ, ca dao trước Cách mạng, do nhiều lẽ, vẫn có sức sống kỳdiệu Tuy ít, nhưng những câu, những bài bổ sung thật đáng trân trọng Những bài

ca dao của các thời kỳ sau, do thời gian tổ chức sưu tầm hạn hẹp, nên tuy đã đượcmấy trăm bài nhưng chắc chắn vẫn còn nhiều

Trên cơ sở hai tập sách đã xuất bản và mấy trăm bài vừa sưu tầm được,

chúng tôi soạn lại thành hai phần: “Ca dao Vùng Mỏ trước Cách mạng” và “Ca

dao Vùng Mỏ sau ngày giải phóng” và gọi chung là “Ca dao Vùng Mỏ”.

Về mặt loại thể, Ca dao Vùng Mỏ, trước hết là ca dao trước Cách mạng,

có đặc điểm là thường kể về số phận, cuộc đời, nhiều bài lại có sự việc, có tênngười rất cụ thể, nên rất gần thể loại vè Ở nhiều bài ca dao rất ngắn, chỉ có mấy

Trang 15

câu, cũng có tính chất vè như vậy Vì lẽ đó, ở tập sách này chúng tôi vẫn khôngtách biệt ca dao và vè, trừ một hai bài vè rất đặc trưng như bài Vè về cuộc Tổngđình công năm 1936 Một đặc điểm nữa về thể loại là có một số bài ca dao đượcphổ thành lời các bài hát xẩm, hoặc các bài hát theo điệu cò lả, sa mạc mà cácchiến sĩ cộng sản đã hát để tuyên truyền vận động cách mạng Số bài này còn lạiđược rất ít, chúng tôi cũng đưa vào tập sách để cùng gìn giữ…

Trong quá trình sưu tầm và biên soạn, chúng tôi luôn lưu ý cộng tác viênghi rõ tên tác giả (nếu biết) và tên người sưu tầm, nhưng do đợt sưu tầm một nămqua được các tổ chức Công đoàn, Hội cựu chiến binh, Hội người cao tuổi và cáctrường học tổ chức làm việc tập thể, thật khó ghi chính xác tên người sưu tầm, têntác giả cũng thiếu hoặc luôn bị lầm lẫn Nhân đây xin nói thêm, khi sưu tầm biên

soạn cuốn “Ca dao Vùng Mỏ trước Cách mạng” năm 1980, chúng tôi phát hiện

có tới dăm bảy bài là sáng tác của nhà văn Võ Huy Tâm khi ông làm cán bộ côngđoàn (bí mật) trong vùng mỏ Cẩm Phả tạm bị địch chiếm Ông sáng tác ca dao đểtuyên truyền vận động công nhân đấu tranh, công nhân thuộc và lưu truyền cũngkhông biết ai là tác giả Ông coi đó là một điều hạnh phúc vì đã góp phần vào khotàng văn học dân gian và ông mong nhóm biên tập không ghi tên ông, kể cả tronglời giới thiệu hay chính thức Nay, rất nhiều bài ca dao mới sáng tác vài chục nămnay, nhiều bài chúng tôi không tìm được chính xác tác giả hoặc cộng tác viên sưutầm có thể nhớ lầm tên tác giả, rất mong các tác giả thông cảm và lượng thứ…

2 Sự hình thành Ca dao Vùng Mỏ

Ca dao Vùng Mỏ là tiếng nói tâm tình trước hết là của những người thợ

mỏ Nó ra đời và phát triển cùng với sự ra đời và phát triển của ngành khai thác

mỏ Ở nước ta nghề mỏ tập trung lớn nhất là ở Vùng Mỏ than Quảng Ninh Lịch

sử ngành than Việt Nam chính thức bắt đầu từ thời Nguyễn với bản Dụ của vuaMinh Mạng (Minh Mạng năm thứ 20 ngày mồng 6 tháng Chạp năm Kỷ Hợi, tức

10/1/1840) “Lệnh chuẩn theo lời cầu xin” của quan Tổng đốc Hải – Yên Tôn Thất Bật (xin đọc bài “Hành trình đi tìm Ngày khai sinh của Ngành than Việt

Nam” của Phạm Ngọc Bảo – Tạp chí Xưa và Nay của Hội sử học Việt Nam số

Đặc biệt chuyên đề 170 năm ngành than Việt Nam, tháng 1/2010)

Theo nhà sử học Phan Huy Lê thì các công trường khai mỏ của triềuNguyễn hồi đó “thể hiện rõ tính chất của một công trường phong kiến với nhữngchế độ lao động nặng nề…” Lực lượng lao động “gồm có binh lính, dân phu vàphu mỏ làm thuê” (Tạp chí đã dẫn, trang 23) Cho đến nay chúng ta chưa có tưliệu gì thêm về đời sống của những binh lính, dân phu và phu mỏ hồi đó Rất cóthể họ đã có lời than vãn – những câu ca dao nào đó, nhưng nay thì không thể tìm

Trang 16

được Hơn nữa, Vùng Mỏ thật sự đông đảo công nhân phải là sau khi thực dânPháp đưa quân tiến đánh Bắc Kỳ và nhanh chóng chiếm đoạt Vùng Mỏ

Chỉ trong vòng 5 năm, 1883 – 1888 với những bản văn tự ép triều đìnhNhà Nguyễn phải ký nhượng, bán toàn bộ vùng mỏ than rộng lớn của nước ta đãvào tay tư bản Pháp Mốc thời gian quan trọng nhất là năm 1888, Công ty thanBắc Kỳ thuộc Pháp (Société Fransaise des charbonnage du Tonkin – S.F.C.T)được thành lập và mở các công trường khai thác

Ngay khi mở mỏ, Công ty than Bắc Kỳ đã mộ 3.000 công nhân Con sốnày tăng dần hàng năm Năm thịnh vượng nhất của tư bản Pháp ở khu mỏ là năm

1939, số công nhân chính thức có thẻ là 35.900 người Còn hàng nghìn công nhânphải mượn thẻ hoặc không có thẻ (gồm phu “nhau” – trẻ con và những người làmcông nhật thất thường) Ngoài ra các mỏ do người Hoa hoặc người Việt làm chủcũng có vài nghìn công nhân Có người ước tính số phu mỏ lúc đông nhất lên đếnngót 5 vạn người

Số phu mỏ này hầu hết là những nông dân nghèo không có ruộng, do đóikhổ đành ghi tên trong các đợt mộ phu Từ các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ: NamĐịnh, Thái Bình, Kiến An, Hà Nam, Hưng Yên, Hải Dương… một số ít từ ThanhHoá, Nghệ Tĩnh, nghe bọn trùm mộ phu lừa bịp (ra đây đi xe, về xe, ngủ nhàlầu…, thực tế là đi đun xe, về đun xe, ngủ giường tầng “cũi chó”…), họ bị sa vàonơi tù đày lao khổ, làm việc quần quật dưới chế độ roi vọt hà khắc Để kiếm đượcnhiều lời, bọn thực dân chủ mỏ Pháp hạn chế đến mức tối thiểu các trang bị kỹthuật phải đầu tư tốn kém mà chủ yếu là vắt kiệt sức lao động cơ bắp của ngườithợ Chính vì vậy ở đây không đáng gọi là “vùng công nghiệp khai khoáng” màchỉ là những công trường thủ công thời trung cổ Người công nhân phải làm việcnặng nhọc tới 11, 12 giờ một ngày với đồng lương rẻ mạt và các điều kiện sốngkhổ cực Ốm đau, tai nạn, bệnh tật lại luôn bị đánh đập, bị cúp phạt, mạng người

là “sống làm phu mỏ, chết bỏ gốc sim” Vùng Mỏ đích thực là nơi địa ngục giữatrần gian Để giữ chân phu mỏ, bọn chúng còn nghĩ ra rất nhiều cách, như phátlương bằng loại “tiền miền” “Tiền” này cắt từ đai hòm mìn bằng sắt tây chỉ muađược gạo, mua được hàng do vợ con cai ký tay sai chủ mỏ thầu) Chủ mỏ có cảcảnh sát, mật thám và nhà tù riêng Chúng còn lợi dụng tôn giáo, dùng nhà thờ vàcác tệ nạn cờ bạc, rượu chè, thuốc phiện… để mê hoặc và trói chân người thợ…

Sống trong khổ cực, tối tăm, người phu mỏ căm ghét bọn chủ mỏ và taysai, nhưng không còn đường nào khác, đành ngậm đắng nuốt cay, than thân tráchphận Vốn là những nông dân ở vùng đồng bằng rất quen các bài ca dao, các bài

vè và các điệu hát dân ca, thế là vẫn vần điệu lục bát quen thuộc, họ sắp đặt thành

Trang 17

những bài thở than, buồn tủi để cùng bạn bè san sẻ Hàng loạt bài ca dao, bài vè

đã ra đời cốt để vơi đi nỗi buồn hoặc để hả những bực tức trước những bất công,tàn ác Dần dần cũng với quá trình hình thành đông đảo đội ngũ, những người thợ

mỏ biết dựa vào nhau mà sống, biết bảo ban nhau cùng đồng lòng phản đối tệđánh đập, cúp phạt vô lối, rồi tiến đến lãn công, bỏ việc và cao hơn nữa là đìnhcông, tổng đình công Như vậy là từ tự phát những người thợ mỏ đã tiến lên tựgiác, nhất là từ những năm 1928 – 1930, khi có các tổ chức Cách mạng (Việt NamThanh niên Cách mạng đồng chí hội, Đông Dương cộng sản Đảng) dẫn đường.Như vậy là từ chỗ chỉ là nỗi niềm san sẻ, giãi bày, an ủi, ca dao Vùng Mỏ đã trởthành phương tiện giáo dục, cổ vũ đấu tranh Các chiến sỹ Công hội đỏ, các đảngviên Cộng sản đã sáng tác và phổ biến ca dao, dân ca sâu rộng và rất có hiệu quả

Ca dao, vè đã thật sự trở thành thứ vũ khí đặc biệt của những người thợ mỏ

3 Những đặc điểm nổi bật của Ca dao Vùng Mỏ trước Cách mạng.

- Trước hết, Ca dao Vùng mỏ đã miêu tả chân thực cuộc sống của côngnhân mỏ thời thuộc Pháp Đó là cuộc sống lầm than, cơ cực đến tột cùng Chỉ vìđói nghèo, vì bọn địa chủ cường hào ở quê áp bức đến không sống nổi, hoặc vìnhững rủi ro, tai nạn đến cùng quẫn đành phải xa quê, lìa quán ra mỏ Lúc ra đinhững tưởng rằng ở nơi có điện, có xe, có phố phường…sẽ mở mày, mở mặt,nhưng không ngờ rơi vào địa ngục Không ở đâu mà Thằng Tây và bọn tay sai lạingày ngày dùng roi vọt đánh chửi phu phen một cách tàn nhẫn như ở đây Nghềnào ở mỏ, trên tầng hay dưới lò sâu cũng đều vất vả, khổ cực Riêng với chị em

nữ thì còn đắng cay tủi nhục trăm đường Với số giờ làm từ mờ sáng đến tối mịt

và đồng lương chết đói, với ốm đau bệnh tật và tai nạn, cuộc sống người thợ mỏthật mờ mịt, tối tăm Trong khổ ải, tình yêu thương đồng bào, đồng loại cùng cảnhngộ làm ấm lại một phần Cũng có tình yêu trai gái nhưng trớ trêu thay, hạnh phúclứa đôi ở nơi bị đày đoạ này chỉ trở thành xót xa, cay đắng Trong nghịch cảnh ấy,

Ca dao Vùng Mỏ có tiếng cười nhưng là tiếng cười đẫm nước mắt Nhưng rồi đếnnhững năm 1930, nhất là thời kỳ Mặt trận dân chủ và thời kỳ tiền khởi nghĩa,Vùng Mỏ đã có ánh sáng soi đường của tổ chức Cách mạng, Ca dao Vùng Mỏ đãhừng hực khí thế đấu tranh Ca dao Vùng Mỏ được sáng tác cả trong tù ngục,trong chiến khu nên về nội dung nó đã chuyển thành thơ ca cách mạng Như vậy

Ca dao Vùng Mỏ là những trang sử chân thực, cụ thể và chính xác của đội ngũcông nhân Vùng Mỏ - cái nôi sinh thành giai cấp công nhân Việt Nam Gắn liềnvới giá trị hiện thực, giá trị lịch sử, Ca dao Vùng Mỏ còn nổi bật tính trữ tình đặcthù thể hiện phẩm chất của những người thợ Đó là yêu thương và căm giận đếntột cùng và đỉnh cao là tiếng cười, là tính trào phúng đắng cay, vượt lên nhữngđớn đau để không bi luỵ mà vẫn tỉnh táo ứng xử Người ta thường ví ca dao như

Trang 18

hoa đồng, cỏ nội, nó dịu dàng, giản dị nhưng chân thành thắm thiết như bản tínhngười dân quê nơi thôn dã Đặc điểm đó, sắc thái đó chỉ đúng với ca dao của nôngdân, một phần của ca dao ngư dân Dòng sông, bến nước, cây đa, sân đình, cánh

cò, đồng lúa…là những hình ảnh thân thiết, quen thuộc trở thành thi liệu, thànhcái nền cho yêu thương đằm thắm Ở đó tình làng nghĩa xóm, đặc biệt là tình yêulứa đôi trở thành đề tài chủ đạo Ca dao Vùng Mỏ khác hẳn Ở đây cũng có cảnhđẹp, nhưng đẹp như Vịnh Hạ Long cũng chẳng còn là của phu mỏ, ngược lại trở

thành mỉa mai, chua xót: “Hòn Gai có núi Bài Thơ/ Nhác trông đàn khỉ đu đưa

trên cành/ Đêm nằm nghe vượn cầm canh/ Khỉ hời, vượn hỡi thấu tình cho chăng” Ở đây cũng sâu nặng tình người, tình gia đình, tình họ hàng, quê hương

nhưng tất cả đều là đau đớn, xót xa Mẹ thương con vì: “Tháng lương được có ba

hào/ Thúng than trên đầu nặng lắm con ơi!” Con thương mẹ vì: “Ước gì con có một hào mua cháo mẹ ăn” Nỗi nhớ quê hương Nam Định thì trở thành tiếng kêu

van của kẻ ăn xin: “Bà ơi cho cháu xin xu/ Cháu mua bánh gù cháu gửi về Nam” Tình yêu nam nữ thì càng rất thật: “Cây mắm cù quăm/ Cây sú cù queo/ Thắt

lưng cho chặt mà theo anh về/ Ăn cơm với cá mòi he/ Lấy chồng Cẩm Phả đun xe suốt đời” Người phu mỏ khi yêu cũng muốn có quà tặng người yêu: “Ngày ngày anh vẫn đi làm/ Đi qua nhà máy nhặt ngầm bù loong/ Đem về anh bỏ vào hòm/ Bắc cân bắc lạng còn non một vài/ Cẩm Phả xem thợ nào tài/ Thì anh kéo nhẫn, hoa tai… cho nàng/ Người ta kéo bạc kéo vàng/ Anh nay kéo xích sắt cho nàng, nàng ơi!” Đúng là có tiếng cười, nhưng là tiếng cười rơi nước mắt Cách nói đùa

tếu táo ấy có khi còn động đến cả ông bà, cha mẹ: “Nàng về anh gửi cái này/ Cái

cuốc phần mẹ, chuồng cầy phần cha/ Cuốc chim thì để phần bà/ Còn mai với thuổng làm quà cho ông/ Bao giờ nên vợ nên chồng/ Mua bánh xe hoả cho ông

ăn dần…” Đúng là tận cùng của nỗi đau… Như vậy, cũng như ca dao mọi vùng,

Ca dao Vùng Mỏ có nội dung trữ tình sâu sắc, chỉ có điều tính trữ tình của Ca daoVùng mỏ luôn gắn liền với tính hiện thực Nó vừa thể hiện sâu sắc nỗi lòng yêuthương nhưng đồng thời vẫn là dồn nén những uất ức, đắng cay Đỉnh cao củanhững câu ca dao trữ tình ở đây lại là tiếng cười - tiếng cười ra nước mắt…

- Từ đặc điểm nội dung đó, Ca dao Vùng Mỏ đã có hình thức nghệ thuậttương ứng rất đặc trưng Ở đây không có cách nói bóng bẩy, xa xôi mà luôn là thứngôn ngữ chân thực, cụ thể, gắn liền với sự việc, với nghề nghiệp Ca dao Vùng

Mỏ không thích hợp với hình thức làm duyên, mầu mè mà luôn là những thông

tin nhanh, mạnh, chính xác Những từ sắc nhọn tạo hình ảnh rất rõ: “Lên tầng

đường thẳm dốc dài/ Đèo cao chịu khó mà nhoai lên tầng”, “Oằn lưng đội thúng than đầy/ Nửa lon gạo hẩm suốt ngày cầm hơi” Tả người phu mỏ thì “Mình choàng chiếc bao gai/ Hỏi đã ai oai bằng tớ/ Mặt gầy mình võ/ Lòi rõ xương

Trang 19

sống, xương sườn/ Tay cầm cuốc, cầm choòng/ Trông giống hệt Diêm Vương sứ giả” Tả những cai ký tay sai chủ mỏ thì: “Ai sinh ra Hà Sú này/ Có anh cai Bút ngày ngày vênh vang/ Quần lơ lại vận áo vàng/ Chân thì tập tễnh nhưng quàng giầy Tây” Kết cấu của bài Ca dao Vùng Mỏ cũng rất linh hoạt Rất nhiều bài biến

thể Có bài lại ở dạng vấn đáp: “Mặt vàng, bụng ỏng, mắt sâu/ Thằng này lạ mặt

ở đâu mới về?/ - Bẩm ông bố nó người quê/ Đi làm phu mỏ mới về đến đây!” Rất

nhiều bài gần với thể vè, kể lại cuộc đời, kể lại sự việc với những tên người, tênđất và vụ việc rất cụ thể Có bài ca dao lại có hình thức một bức thư: Thư gửi vềquê, thư gửi cho người yêu cũ… Ca dao Vùng Mỏ cũng tiến nhận ảnh hưởng sâusắc của thơ ca dân tộc Vốn từ đồng bằng Bắc Bộ ra làm mỏ, nên người thợ mỏ

tận dụng ngay những bài ca dao vốn có, chỉ thêm bớt chút ít cho hợp cảnh: “Áo

anh rận cắn sờn vai/ Nhờ em mạng giúp, chớ nài quản công/ Công kia anh để bên lòng/ Đến khi lấy chồng anh sẽ trả ơn”…rất gần vời bài “Áo anh sứt chỉ đường tà/ Vợ anh chưa có, mẹ già chưa khâu” Có bài phảng phất Kiều: “Buồn trông cửa bể chiều hôm/ Quảng Đông tầu đã tếch miền xa xa/ Trông tầu lại nhớ đến nhà/ Cánh buồm lơ lửng biết là về đâu!” Có bài mang âm điệu Cung oán ngâm

khúc: “Canh cá ót me chua mà ngọt/ Nướng cá nòi muối ớt mà thơm/ Sớm chiều

lọ nước, niêu cơm/ Canh sam cháo sắn gầy còm cực thay!”… Một đặc sắc nữa

của Ca dao Vùng Mỏ là tính khôi hài, trào lộng Khổ nào bằng chồng ốm, chẳng

còn hạt gạo nấu cháo cho chồng, vậy mà vẫn cười trong đau đớn: “Thương chồng

nấu cháo đường xe/ Nấu canh lắc lít, nấu chè bù loong” Có cảnh buồn nào bằng

cảnh “Lên tầng tranh cuốc, tranh xe/ Tối về tranh bếp nó ghè mất niêu”, vậy mà

câu ca dao vẫn là tiếng cười Nói về sự đối xử dã man của bọn chủ mỏ với phu mỏ

bị tai nạn thì: “Năm đồng một ngón chân tay/ Cụt cánh, cụt cẳng được ngay mười

đồng/ Hai mươi đồng nạn tử vong/ Không què, không cụt đừng hòng một xu”…

Tiếng cười vốn là vũ khí của kẻ mạnh Mác đã từng nhắc lại ý đó khi ngườinghiên cứu hài kịch cổ điển Trong vị thế của kẻ bị áp bức, người thợ mỏ đã dùng

ca dao với tiếng cười khi thì giải buồn, khi thì để đả kích kẻ thù Rõ ràng với cadao, người thợ mỏ đã ở tư thế xử sự một cách chủ động, có đau buồn nhưngkhông bi luỵ, không tuyệt vọng Phải chăng Ca dao Vùng mỏ đã thể hiện một đặcđiểm, phẩm chất của giai cấp công nhân

4 Ca dao Vùng Mỏ sau ngày giải phóng

Từ địa vị kẻ nô lệ điển hình trở thành chủ nhân “Miền vàng đen” của Tổ

quốc, Ca dao Vùng Mỏ sau ngày giải phóng có chủ đề nổi bật trước hết là ôn lạiquãng đời tăm tối ngày xưa Rất nhiều bài có kết cấu xưa - nay, cũ - mới… Naynhân thư nhàn và cũng là để truyền đời cho con cháu, nên đã xuất hiện những bài

ca dao rất dài, những bài vè và những bài có dáng dấp truyện thơ dân gian (Tiêu

Trang 20

biểu là bài “Cuộc đời thợ mỏ trước sau” của tác giả Bùi Duy Hân và bài “Quên

sao cuộc tổng đình công” của tác giả Hoàng Anh Vân) Chủ đề nối tiếp là lòng

yêu mến, niềm tự hào với Vùng Mỏ đẹp giàu Nhưng nội dung phổ biến nhất của

Ca dao Vùng Mỏ sau ngày giải phóng vẫn là ngợi ca ý thức làm chủ, sự lao độngcần cù, dũng cảm, sáng tạo trên tầng cao, dưới lò sâu, trong nhà máy Ở đâu tacũng thấy bừng bừng khí thế thi đua sản xuất thật nhiều than cho Tổ quốc Đặcbiệt là khi Vùng Mỏ có chiến tranh phá hoại của không quân Mỹ thì ca dao đãngợi ca những người thợ mỏ vừa sản xuất, vừa chiến đấu giỏi Hơn bao giờ hếtngười thợ mỏ hướng về tiền tuyến lớn Miền Nam, mỗi người làm việc bằng hai vìMiền Nam ruột thịt Đáng chú ý nữa là, Ca dao Vùng Mỏ có thêm nhiều bài cangợi công sức đầy nghĩa tình của nông dân, của những người làm dịch vụ đối vớingành than

Một nội dung nữa thể hiện rõ phẩm chất của giai cấp công nhân là có mộtloạt bài đấu tranh, phê bình những sai trái ngay trong nội bộ với tinh thần xâydựng, giúp nhau sửa chữa khuyết điểm Từ tật coi thường đảm bảo an toàn củangười thợ đến bệnh nói dài của giám đốc, từ sự kém ý thức giữ gìn của công đến

bộ máy cồng kềnh quan liêu của mỏ đều được đề cập kịp thời Đáng chú ý là mộtloạt bài thẳng thắn, chân thành vừa phê phán vừa góp ý giúp nhau khắc phụcnhững tệ nạn xã hội - từ tệ rượu chè, đến nạn nghiện ma tuý… Một đề tài lớn nữacủa Ca dao Vùng Mỏ sau giải phóng là đề tài tình yêu Tình yêu luôn gắn liền vớicông việc và hoàn cảnh Rất nhiều mối tình nảy nở từ trên công trường, từ trongnhà máy Tính trữ tình duyên dáng của ca dao dân tộc lại trở lại Hơn bao giờ hếtcùng với những đổi thay của Vùng Mỏ, non xanh nước biếc nơi đây lại như làmphông, làm nền cho cho những cuộc giao duyên tình tứ Ta lại thấy sự chân thành,trung thực của những tình yêu đôi lứa sự bền chặt hạnh phúc lứa đôi, hạnh phúcgia đình, và cảm động hơn là ở những cặp vợ chồng già - những người đã trải quamột phần đời tủi nhục hoặc vô cùng khó khăn, gian khổ trong những năm chiếntranh, những năm chưa đổi mới…

Một nội dung rất đậm nữa của Ca dao Vùng Mỏ là thể hiện lòng biết ơn

và tình cảm yêu kính Bác Hồ Ta đều biết Người đã chăm chú theo dõi số phậnngười thợ mỏ ngay từ thuở ban đầu Những trang tố cáo tội ác của bọn thực dân

chủ mỏ trong “Bản án chế độ thực dân Pháp” Người viết trên đất Pháp những

năm 1920 – 1923 đến nay người thợ mỏ vẫn không quên Người thương ngườithợ mỏ thuở đoạ đày kiếp nô lệ, sau này Người thương người thợ mỏ trong laođộng vất vả để làm giàu cho Tổ quốc Người đã về Vùng Mỏ nhiều lần, có nămNgười về ăn tết với Vùng Mỏ Có lẽ không nơi nào có được vinh dự ấy Cho đếntận cuối đời, khi không còn đủ sức về thăm Vùng Mỏ, Người đã yêu cầu Vùng

Trang 21

Mỏ cử một đoàn đại biểu lên Thủ đô để Người gặp lần cuối và dặn dò Biết bao

kỷ niệm, biết bao ân tình Ca dao Vùng Mỏ đã viết những dòng chân thành, thathiết xúc động dâng lên Người Ca dao cũng thể hịên ý chí và hành động củanhững người thợ Vùng Mỏ quyết tâm thực hiện Di chúc của Người Chúng tôichọn được vài chục bài để ở phần kết của tập sách, thực ra ở tất cả các phần khác,khi nói về nghề, khi nói về mỏ đã rất nhiều bài, nhiều câu ca dao nhắc đến Bác

Hồ, đến Đảng với lòng biết ơn sâu nặng nhất

5 Ca dao Vùng Mỏ trong kho tàng Ca dao Việt Nam.

Ca dao Vùng Mỏ ra đời và phát triển cùng với sự ra đời và phát triển củagiai cấp công nhân Việt Nam Công nhân mỏ là bộ phận đông đảo, ra đời sómnhất và tập trung nhất, đồng thời cũng là những người bị đàn áp bóc lột nặng nềnhất, đời sống cực khổ nhất, của giai cấp công nhân Việt Nam Phong trào đấutranh cách mạng của công nhân mỏ với đỉnh cao là cuộc tổng đình công thắng lợivang dội của ba vạn thợ mỏ năm 1936 với sự ra đời sớm tổ chức Đảng, Sự hunđúc, tôi luyện nhiều cán bộ ưu tú của Đảng và với sự quan tâm chỉ đạo ngay từđầu của Đảng ta, đã trở thành phong trào tiêu biểu cho sự nghiệp đấu tranh cáchmạng của giai cấp công nhân Việt Nam Vùng Mỏ đã viết nên những trang sử bấtkhuất, kiên cường, làm tươi thắm thêm lịch sử giai cấp vô sản ở nước ta và lịch sửdân tộc ta

Hiện thực đó, tinh thần đó đã được phản ánh bằng văn học trong Ca daoVùng Mỏ Sự thật, đây không phải là vốn văn học dân gian của một vùng đấttrong một tỉnh thành theo lãnh thổ, mà đây là văn học dân gian của giai cấp côngnhân nước ta, một bước phát triển mới rất cơ bản trong tiến trình phát triển vănhọc dân gian nói riêng và trong lịch sử văn học Việt Nam nói chung (Ở một sốthành phố đã sớm có công nghiệp như Nam Định với công nghiệp dệt, Hải Phòngvới công nghiệp xi măng… và ở Nam Bộ có vùng rừng cao su Phú Riềng, nhưng

do nhiều lẽ, ở những nơi này cũng chỉ có rất ít bài ca dao của công nhân) Chính

vì vậy Ca dao Vùng mỏ có ý nghĩa tiêu biểu về nhiều mặt:

- Ca dao Vùng Mỏ không chỉ có ý nghĩa về mặt giai cấp với tính xã hội vàtính lịch sử rõ rệt mà Ca dao Vùng Mỏ thật sự có giá trị đặc sắc về nội dung vànghệ thuật Về mặt nội dung, Ca dao Vùng Mỏ tiêu biểu nhất cho tính hiện thực,tính chiến đấu của nền thơ ca dân gian, những tính chất và mức độ mà chỉ ở giaicấp công nhân mới có được Về mặt hình thức, Ca dao Vùng Mỏ để lại những giátrị đặc biệt về ngôn ngữ, về hình ảnh, về cấu tứ và bố cục, đặc biệt là về “thipháp”, bút pháp và về sáng tạo loại thể

Trang 22

- Ca dao Vùng Mỏ trước cách mạng là sản phẩm của trí tuệ, tinh thần tìnhcảm của giai cấp công nhân trong một giai đoạn lịch sử cụ thể, đến bước pháttriển cao của nó - thời kỳ 1930 – 1945, nó đã nối liền với giòng văn học Cáchmạng thời cận đại và hiện đại Sau ngày Vùng Mỏ được giải phóng, Ca dao Vùng

Mỏ đã hoà vào những sáng tác mới của nền văn học mới

Ca dao Vùng Mỏ không những chỉ có giá trị nghiên cứu, bổ sung cho lịch

sử văn học dân tộc, trước hết là cho tiến trình văn học dân gian mà còn là nguồn

tư liệu quý giúp ta nhìn lại quá khứ, ôn lại lịch sử, hiểu giai cấp công nhân mộtcách chân thực, sinh động từ đó giúp ta một cách thiết thực việc giáo dục conngười mới, thế hệ mới về tinh thần, phẩm chất của giai cấp công nhân, về ý chícăm thù bọ đế quốc thực dân và bọ tay sai phản động và về lòng yêu nước, yêuvùng mỏ giàu đẹp, yêu chế độ tốt đẹp của chúng ta

- Với những giá trị đặc biệt ấy, đáng lý Ca dao Vùng Mỏ cần được sưutầm, nghiên cứu, đánh giá và phát huy tác dụng của nó từ lâu Song vì nhiều lẽ,Quảng Ninh quá thiếu những nhà nghiên cứu, lại chưa có tổ chức nào đứng rachăm lo nên nhiều di sản văn hoá phi vật thể bị chìm vào quên lãng Kho tàng vănhọc dân gian ở Quảng Ninh rất phong phú và đặc sắc, riêng về ca dao thì Vùng

Mỏ và Vùng Vịnh Hạ Long cho đến nay vẫn chưa có chỗ đứng xứng đáng trongcác Tuyển tập và Tổng tập Ca dao Việt Nam Năm 2008, Hội Văn nghệ dân gianQuảng Ninh mới được thành lập Đây là công trình đầu tiên của Hội được hoànthành với sự góp sức của Tập đoàn công nghiệp Than và Khoáng sản Việt Nam

Hy vọng tập ca dao này của những người thợ mỏ Quảng Ninh - thợ mỏ Việt Namđược đông đảo độc giả đón nhận và các học giả soạn Tổng tập Văn học dân gianViệt Nam không còn phải để một khoảng trống đáng tiếc

Hạ Long, tháng 7 năm 2010

TỐNG KHẮC HÀI

1 ĐÓI NGHÈO XA QUÁN LÌA QUÊ ĐẾN ĐÂY CHẲNG CÓ ĐƯỜNG VỀ NỮA ĐÂU

Trang 23

Nam Định là chốn quê nhà

Có ai về mộ cu ly ra làm

Anh em cơm nắm ra Nam

Theo ông cai mộ đi làm mỏ than

Cu ly kể có hàng ngàn

Toàn là rách mặc, đói ăn, vật vờ

Điểm mặt nhớn bé cũng vừa

Từ nhớn chí bé không thừa một ai

Điểm rồi lại phải theo cai

Những cai đầu dài thúc giục ra đi

Ra ngay “cà rạp” tức thì

Hỏi chủ “cà rạp” ta đi tàu nào?

Anh em bàn tán xôn xao

- “Ta đi tàu nào đấy hả ông cai?”

- Xô - pha (1) tới bến đây rồi

Anh em cơm nuớc, nghỉ ngơi, xuống tàu

Xuống tàu chờ đợi đã lâu

Đến giờ xuống tàu chẳng thấy cai ra

Cai dặn cứ xuống Xô – pha

Chừng độ sáu ruỡi thì ra tới Phòng

Hải Phòng hai sở song song

Bên kia Hạ Lý, Hải Phòng bên đây

Một ngày tàu đã tới ngay

(1) Xô – pha: Một hãng tàu chở khách của Pháp thời kỳ trước tháng 8 - 1945Trông lên Cẩm Phả vui thay trăm đuờng

Trông lên những phố cùng phuờng

Trang 24

Đèn máy thắp tỏ sáng trưng xa gần

Bảo nhau ta cũng khổ thân

Trăm năm mới có một lần ra đây

Kẻ thì làm muớn cho Tây

Sinh ra lắm cái cũng hay cũng tài

Sinh ra cái cuốc, cái mai

Cái kia choòng búa, cái này xà beng…

Gần nhau lạ cũng thành quen

Cùng vì túng gạo, túng tiền như nhau

Lên tầng công hạ, công cao

Công thì chỉ có ba hào mà thôi

Tây coi mỗi chú một chòi

Mỗi chú thì phải trông coi ba tầng

Đốc công đứng ở Mông Giăng (1)

Muời một giờ kém muời lăm thì kèn

Trong tầng kẻ lạ nguời quen

Nghe thấy tiếng kèn đứng dậy ra đi

Đi ra đầu trục tức thì

Ghi thẻ xong về, cơm nuớc nghỉ ngơi

Đồng hồ một tiếng kéo còi

Cu ly lốc nhốc hàng dài lê thê

Kẻ thì thợ mộc, thợ nề

(1) Mông Giăng: Tên một công truờng khai thác than ở Cẩm Phả

Nguời nọ thợ điện, nguời kia thợ rèn

Nguời thì tài xế, máy đèn

Trang 25

Máy tàu, máy trục ở liền với nhau

Ô tô mấy chiếc cùng màu

Chiếc đi, chiếc lại, chiếc vào, chiếc raTrong đồn Tây đóng một toà

Có xe, có ngựa thật là thiếu chi

Nguời ta mới kể lân la đến tầng

Trục máy bắc ở Mông Giăng

Lấy than ba tầng ở duới kéo lên

Sở Mới thì ở một bên

Đục lò qua núi bắc liền đường xe

Một đằng đi tắt đường khe

Đèo cao suơng sớm cỏ le uớt đầm

Lên tầng mai cuốc rì rầm

Kẻ vung cái cuốc, nguời cầm cái mai

Đá nào đá chả chịu tay

Than khô, đá rắn đục ngay phát mìn…

* *Quê tôi ở tỉnh Kiến An

Thuỷ Nguyên, Phục Lễ là làng đồng chua

(1) Phố Khách: phố Hoa kiều

Quanh năm phải đi ở mùa

Hai suơng một nắng sớm trưa dãi dầu

Trang 26

Có tên lý trưởng nhà giàu

Nó cho thuê ruộng, thuê trâu mà cày

Một sào hai thúng tô đầy

Thiếu ăn nên phải đi vay bậm vào

Một ngày nợ lãi càng cao

Nợ nần biết đến kiếp nào trả xong

Vợ chồng con cái long đong

Bán nhà, bán đất bế bồng nhau đi

Đau lòng thay lúc phân li

Mất trâu mất ruộng ra đi phen này

Tìm vào đến mỏ Hòn Gai

Xin làm phu mỏ ở ngay dưới hầm

Cuộc đời vất vả âm thầm

Mông Dương, Cẩm Phả, Hà Lầm đều qua.Bẩy ngày nghỉ lượt mất ba

Rồi thì mất việc thật là gian nan

Con thơ, vợ dại cơ hàn

Thiếu tiền nuôi dưỡng, thiếu tiền thuế thânBang đồn đe dọa mấy lần

Rồi thì chúng bắt trói gằn đi ngay

Cha tôi ngậm đắng nuốt cay

Tàu ra giữa biển nhảy ngay theo dòngSúng liền nhả đạn tứ tung

Ca nô đuổi bắt hành hung trên tàu

Áo quần ướt cả còn đâu

Đầu bù tóc rối, mình đau chịu đòn

Một là thương vợ, nhớ con

Hai thương thân phận mỏi mòn chung thân

Trang 27

Mẹ tôi đau xót muôn phần

Chúng tôi còn bé tấm thân biết gì

Đêm ngày thương mẹ thương cha

Mò cua, câu cáy nghĩ mà buồn đau

Than ôi mười mấy tuổi đầu

Đội than, đội đất như trâu, như bò!

* *

Từ ngày tôi bước chân ra

Chí tôi đã định từ nhà định đi

Tưởng rằng đi mộ Nam Kỳ

Là nơi sung sướng, tôi đi theo ngườiLàm ăn ba mươi sáu tháng trời

Tu thân quyết chí về nơi quê nhà

Thế là tôi bước chân ra

Xa anh, xa mẹ thật là nhớ thương

Tờ mờ tầu lá điểm sương

Canh gà gọi điếm cảnh buồn lan manBến đò bước xuống thuyền nan

Thương thân xót phận canh tàn quạnh hiuNgày ngày nắng đổ xế chiều

Bước chân lên bộ bao nhiêu là sầu

Nhác trông mấy dãy nhà lầu

Cùng nơi phong cảnh biết đâu phân trầnThái Bình tôi đã rời chân

Tìm nơi nhà mộ lâu dần hỏi han

Ai ai cũng bảo rằng nhàn

Tiền rừng bạc biển chan chan thiếu gìThế là cất bước ra đi

Trang 28

Hải Phòng nhà mộ nay thì vui thay

Người đông như kiến cả ngày

Ăn chơi tắm mát lại quay bạc bài

Chờ nay rồi lại chờ mai

Đốc tờ khám xét những hai, ba lần

Phát cho cái áo cái quần

Đôi đũa, cái bát cơm ăn hằng ngày

Bẩy đồng ông chủ cho vay

Tàu to đỗ bến, ban ngày đi ra

Sáu giờ tàu bỏ neo ra

Kéo còi ba tiếng nghe mà buồn tênh

Một vùng trời biển mông mênh

Sóng reo, gió thổi lênh đênh con tàu

Hóa công khéo vẽ cảnh sầu

Trông ra bát ngát biết đâu là bờ

Một mình nghĩ vẩn nghĩ vơ

Anh em thương nhớ thẫn thờ hồn mai

Sáu giờ chiều buổi thứ hai

Sài Gòn cập bến ai ai cũng mừng

Dập dìu phố xá tưng bừng

Vào nhà “tân đáo” (1) ăn dưng một ngàyHóa công diễu cợt lắm thay!

Bỗng dưng đau mắt đi rày nhà thương

Mẹ ơi, thân con cay đắng trăm đường

(1) Tân đáo: (khách đến) – nhà chờ của phu mới đếnPhần thương đến mẹ, phần thương cảnh mìnhBuộc lòng thôi cũng là đành

Trang 29

Chịu sao cho đặng ba năm roi đòn Buộc lòng thôi cũng đành “bon”

Cốt sao thoát khỏi roi đòn là may

Rừng xanh chăm chú hằng ngày

Anh em bàn bạc tìm xoay lối về

Trời thu gặp buổi đêm khuya

Gặp cơn mưa gió còn gì nước non

Hoàng hôn thôi lại hôn hoàng

Thương anh, nhớ mẹ dạ càng ngẩn ngơ

Kể từ lạc bước đến giờ

Tìm nơi quanh quẩn nương nhờ lấy thânLầm rầm khấn Phật, khấn Thần

Độ trì cho được mạnh chân tìm về

Cũng liều may rủi lo gì

Xẩy chân một bước còn gì là thân

Dại rồi khôn nhẽ nói năng

Kíp chầy chờ đợi sang năm em về

Trở về đói lại lìa quê

Thoát cọp ai dè sa vuốt hùm beo

Hòn Gai, Cẩm Phả, Đông Triều

Cuộc đời phu mỏ đói nghèo đắng cayGiam chân chốn sở than này

Thân con ắt bón gốc cây giữa rừng

Mẹ ơi, con đến cùng đường…

* *Bốn chữ S.F.C.T (1)

Công ty Pháp ở Bắc Kỳ làm than

Trang 30

Tài nguyên than mỏ nước Nam

Thằng Tây làm chủ - mình làm cu li

Chỉ vì đói rách phải đi

Đi làm phu mỏ - bỏ quê – bỏ nhà

Một nghìn chín trăm ba ba

Là năm Quý Dậu con gà ác thay

Kể đời phu mỏ Hòn Gai

Công ty than của chủ Tây sang làm

Chiêu phu mộ Khách, An Nam

Cuốc tầng khai mỏ tìm than ra vầy

Than ra ở các mỏ này

Hà Lầm, Hà Sú (2) mỏ rầy Ngã Hai

Bán than cho các nước ngoài

Tàu bè ngoại quốc vãng lai mua dùng

Để cho xe hỏa dắt than

Thật là tiện lợi gọn gàng vân vi

Ăng Lê, Nhật Bản, Hoa Kỳ

(1) S.F.C.T: Viết tắt Société Francaise des Charbonnages du Tonkin (2) Hà Sú: Tên cũ của Hà Tu

Trang 31

Cẩm Phả min, Cọc Sáu, cùng là Mông DươngNgoại giao các nước thông thương

Hòn Gai giàu vốn lại cường thịnh ra

Tây Bay (1) coi sổ La Voa

Bắc nagay đường sắt cho xe thông hành

Giao cho công táp (3) để rầy phát lương

Cứ theo lệ đặt thường thường

Ngày hai mươi mốt phát tiền cho phu

Thợ thuyền chè chén lu bù

Bác cai, tài xế tha hồ ăn tiêu

Ấy là những kẻ lương nhiều

Còn người lương ít ra chiều đắng cay

Kỳ lương trả nợ trắng tay

Còn ai thì khất hẹn vay mồng mười

Mỗi kỳ vay một đồng thôi

Làm sao mà tính cho xuôi việc nhà

(1) Bay: Baille, tên sếp đường tầu hỏa

(2) Đuy giua: Bureau du jour: Bàn giấy thường trực (3) Công táp: Comptabilité: Kế toán

Nào là trả nợ người ta

Nào là đong gạo, nào là tiền ăn

Trang 32

Cho nên nợ lại khất lần

Hẹn quanh, hẹn quẩn dối dần cho qua

Cốt sao có bữa trong nhà

Vợ con rau cháo lại chờ kỳ vay

Một nguyên (1) chẳng kịp nóng tay

Ba mươi một biệt (2) lại rầy giả đi

Đồng bạc cuối tháng trông gì

Lại mong cho chóng đến kỳ lĩnh lương

Khó khăn khổ sở trăm đường

Nhiễu điều chẳng phủ giá gương mà hòng

Còn công việc thì trông mong

Tầu mà không đến còn trông làm gì

Mùa mưa ướt áo cũng đi

Mùa đông giá rét quản gì đến thân

Mùa hè đến phải xoay trần

Trên tầng trời nắng cố vần va - gông

Vất vả mà cũng chẳng xong

Ngủ muộn bị phạt mấy công còn gì

Có đi thì lại phải về

Quá còi hai lượt còn gì là công

Một tháng nghỉ tám ngày thông

Hăm hai buổi nữa còn trông nỗi gì

Nghỉ tư nghỉ lượt tùy khi

(1) Một nguyên: một đồng

(2) Một biệt: Une piastre: Một đồng tiền Đông Dương của PhápNgày làm ngày nghỉ ngày đi lại về

Thật là khổ cực trăm bề

Trang 33

Nhà nghèo biết nghĩ kế gì cho xuôi

Một khi nhẩy, bẩy khi ngơi

Sinh nhai phải lúc gặp thời khó khănThế mà cũng chẳng yên thân

Cuối năm cai lại bổ tiền tết Tây

Mỗi người công nộp một ngày

Thật là cơ cực khổ thay mọi đường

Đói nghèo mà chúng chẳng thương

Mà còn bóp nặn cho đang lúc này

Biết rằng cai có tết Tây

Hay là vào túi việc này biết sao

Cơm chim có được là bao

Áo tù đủ ấm được sao lúc này

Gặp thời kinh tế ngày nay

Công việc không có cơm rầy chắc đâu

Gà con thì sợ diều hâu

Chủ to thì có biết đâu sự này

Mỗi công nó cúp một ngày

Bữa ăn nhịn đói cả hai vợ chồng

Cha đời xu nịnh tâng công

Mong lấy tiền thưởng lấy bằng được khen

Đè đầu ăn hiếp dân đen

Một ngày hai bữa cơm đèn bằng ai

Sáng đi tối đất mù giời

Tối về chẳng biết mặt người là ai?

Cu li cái xẻng, cái mai

Hãi từ ông sếp, ông cai trên tầng

Tây đe, sếp mắng, cai trông

Trang 34

Cuộc đời thật khổ đời thằng cu li

Đẩy goòng cút kít đun xe

Suốt ngày phải xúc từng xe cho đầy

Nếu mà mệt nhọc nghỉ tay

Cú mèo, quạ ác nó rầy chửi luôn

Xà – lù – bệt, ắt – tăng – xương (1)

Tạt tai đá đít chẳng thương đâu mà

Trai hay gái, trẻ hay già

Tây chửi: mắm xốt tú là cu – xoong (2)Phu lò phải vào trong hang

Tai nạn đời sống anh em phu lò

Tối tăm như ngục lâm bô

Mỗi cai một cái đèn lò cầm tay

Thấy đèn chấp chới liền ngay

Là đèn đã báo ra ngay kẻo mà

Ra mau… đổ sập hầm lò

Tai nạn lao động kể là mấy trăm

Thiệt đời sinh mạng công nhân

Bảo hiểm nhân mạng, nhân quyền ở đâu?

Có kẻ sang, có người giầu

Nhất bọn chủ thầu làm khoán mỏ thanNgồi mát mà ăn bát vàng

Bóc sức lao động hàng ngàn dân phu

Đã xe nhà, lại ô tô

(1)(2): Những tiếng chửi rủa thô tục (tiếng Pháp)Chồng làm ông chủ, vợ như bà hoàngĐến cai sếp, xú – ba – dăng (1)

Trang 35

Cùng là ký lục mỏ than già đời

Cao lương lịch sử đủ mùi

Tiệc tùng, hát xướng, bạc bài xa hoa

Chiều con buổi sáng ăn quà

Tối đến cả nhà lấy vé xi – nê

Hát chèo, trò xiếc, kịch gì

Cải lương vọng cổ, lại khi xem tuồng

Hồng lâu vui xóm bình khang

Trống chầu tom chát chát tom cùng tìm

Tiếng đàn, nhịp phách, tiếng xênh

Cô đầu đào hát chỉ rình kỳ lương

Cái nghề đánh phấn soi gương

Hơi đồng đã thấy mê thường máu tham

Chẳng còn suy tính lo toan

Quen đời cá gỡ, mâm vàng ăn ngon

Sống trong gác tía lầu son

Bóc lột công sức phu phen hàng ngày

* *

Ai đem tôi đến chốn này

Bên kia Vạ Cháy, bên này Bang Gai (2)

Trên đồn có lão quan hai

Cửa Lục một vài tầu đậu chỗ sâu

(1) Xú – ba – dăng: survcillant: viên giám sát, giám thị (2) Vạ Cháy, Bang Gai: tên gọi cũ của Bãi Cháy, Hòn GaiThằng Tây mưu mẹo đã lâu

Đóng ba chiếc tầu chạy cạn (1) cả ba

Trang 36

Một chiếc thì chạy Cốt Na

Chiếc vào Hà Sú, chiếc ra Hà LầmMười giờ rưỡi nó kéo còi tầm

Cu li đâu đấy về nằm nghỉ ngơi

Đến mười hai giờ bốn mươi

Síp Lê (2) một tiếng muôn người kéo ra

Nó quát một tiếng chẳng là

Nó quát hai tiếng, dãn ra hai hàng (3)Xướng thẻ thì xướng rõ ràng

Nó biên vào sổ đi làm táo tươi

Người thì ghè đá nung vôi

Người thì vác gỗ ai coi cho tường…Người thì xẻ đất đắp đường

(1) Tàu chạy cạn: Tàu hỏa

(1) Síp lê: Siffler: còi, huýt còi

(3) Hai hàng: 1 hàng đàn ông, 1 hàng đàn bà

“Năm giờ sáng tàu vừa mới tới

Kỷ Tỵ niên vừa mới mạnh thu (1)

Trang 37

Khắp nam nhi tứ hải ngoại du

Khắp tứ bể giang hồ nại kể

Tới Cẩm Phả, Cửa Ông giáp bểThấy thú vui thiên hạ hiểu tìnhOai hùng như hổ phục long vânTrên trận múa chênh vênh cao thấpDưới lại có ba đài tam cấp

Rất uy nghi điệp điệp trùng trùngRất rộng dài nào núi nào sông Suốt mười hai cửa bể

Tàu Nhật sang chiếc đậu, chiếc xuôiTầu chở hàng chiếc khứ chiếc hồiTầu đủ loại ngược xuôi buôn bánNay kể việc làm ăn trên cạn

Nơi tỉnh thành nghìn vạn muôn dân

Sở mở mang thân hữu lập thânLại có thứ xe điện, xe cân thay mỏ.Tối đèn điện choang choang sáng tỏSuốt ngày đêm cũng mãi thế thôi

Xa nghe thấy tiếng còi liên tiếp

(2) tê gam: teslegrame: điện thoại.

Cầu tàu bảy thước gọi là Poóc tíchCao ngất trời thể cách vững vàng

Trang 38

Trên chạy dọc, dưới thì chạy ngangThùng xe sắt để đầy hàng để đấyCùi dìa xúc đổ lên đầy dẫy

Đổ cao lên kéo lấy móc lên

Coi nhẹ nhàng coi mạnh hơn tên

Đổ xuống tầu liên sùng sục

Than chở ra có nghìn muôn hộc

Đổ lên cao một góc trời Nam

Phu làm đông kể có hàng ngànKhông có tội như giam tù lỏngMưa chịu ướt, nắng thì chịu bỏngDẫu nắng mưa, mưa nắng dầm dề.Chốn lầm than khổ cực mọi bềChẳng được chút sự gì an ủi

Than gio thốc vào tai vào mũi

Hình tượng người đen đủi xấu xaNgười rõ quen mà nhận chẳng raTrông chẳng biết rằng ma hay quỷ.Người làm kí hơi còn sạch sẽ

Cùng những người tài xế cầu caoCòn thợ thuyền chẳng có bậc nàoThan gio cứ tẩm vào nhem nhuốcPhương ngôn ví người đen như cuốc

Cả áo quần nhầy nhuộc tay chân.Lúc trời mưa thật khổ muôn phần

Hợp với chữ sinh dân đổ thán (1)

Đã đến nỗi bỏ nhà quê quán

Trang 39

Ra đến đây cạn kiệt xu, hào

Lúc bấy giờ biết liệu làm sao

Việc thì có, nhưng vào phải lễ

Không có tiền không xin được thẻ

Công ba hào thì lễ tam nguyên (2)

Công năm hào chục rưỡi giở lên

Nông nỗi ấy không tiền thì nguội

Làm ít lâu, tìm mưu nó đuổi

Hoặc phạt lương mấy buổi không sai

Có khi còn đá đít, bạt tai

Không có lễ nằm dài chịu vậy,

Nên cũng cố gắng tìm đường cọ quậy

Bạc đâm vào thì giấy toạc ra,

Ngày hai mươi nhăm xu cũng thế,

Người nào cũng mất một vài đồng lễ

Thế nó còn tìm cách đổi thay

Chậm một chút, đuổi ngay, mới ngán

(1) Sinh dân đồ thán: Dân sống bằng nghề than gio (2) Tam nguyên: Ba đồng

Làm đã vậy, khi về đến lán

Nghĩ ngậm ngùi thêm chán quá chừng

Trang 40

Ăn uống thì nhai nuốt ngập ngừng

Than với đá lẫn cùng cơm gạo

Nuốt chẳng được, nhai thì lạo xạo

Cũng cố liều nhếu nháo nuốt đi

Hợp với câu “ăn sổi ở thì”

Còn giường nằm lấy những tre đóng dóngMảnh lớn, bé, thấp, cao, gồ gổng

Dưới gầm thỉ lủng củng nồi niêu

Lại hợp câu “ăn bẩn ở liều”

Trên đầu những quang treo tua tủa

Nhà hai gian, hai mươi người ở,

Rất hẹp hòi, xoay sở làm sao!

Vậy cho nên làm gác trên cao

Giải một chiếu nằm vào năm, bẩy

Mùa viêm nhiệt tha hồ nóng xẩy,

Hễ cựa mình, đụng đậy, sợ rơi

Việc làm cùng chốn nằm ngồi,

Ấy sự thể khúc nhôi là thế

Về mùa rét, khổ khôn xiết kể

Giời mưa phùn không nhẽ đừng đi

Gió may gào thổi khắp tứ bề

Vai vác xẻng, chân đi run rẩy

Sao thời thế bắt mình chịu vậy

Ở chốn này, ai cũng như ai

Nhưng còn câu “bĩ cực thái lai”

Rồi cũng chắc một mai có lúc

Phương ngôn ví “sông kia có khúc”

Con người ta trước nhục, sau vinh

Từ khóa » Ca Dao Vùng Mỏ Quảng Ninh