CÁC BÀI SUY NIỆM CHÚA NHẬT 2 THƯỜNG NIÊN. NĂM C

CHÚA NHẬT 2 THƯỜNG NIÊN NĂM C

Lời Chúa: Is 62,1-5; 1Cr 12,4-11; Ga 2,1-11

——-

Mục lục

1. Vững tin vào Chúa  (Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên)

2. Tin Chúa hiện diện (Lm. Jos DĐH. Gp. Xuân Lộc)

3. Niềm vui mới  (Lm. Thái Nguyên)

4. Hôn ước  (Jorathe Nắng Tím)

5. Mẹ ơi, con hết rượu rồi!(Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

6. Biến đổi  (Lm. Vũ Đình Tường)

7. Họ hết rượu rồi  (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

8. Hết hay còn  (Trầm Thiên Thu)

9. Phép lạ đầu tiên của Chúa Giêsu (Giuse Phạm Đình Ngọc, SJ)

10. Niềm vui nên trọn  (Thiên San, Học viện MTG.Thủ Đức)

11. Không còn phận bạc duyên đơn (Lm. Xuân Hy Vọng)

12. Để cho tình mãi mặn nồng  (Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)

13. Chúa làm chan chứa tình nồng  (Lm. Nguyễn Xuân Trường)

14. Chúa cứu vãn hạnh phúc gia đình(Lm. Inhaxio Trần Ngà)

15. Người bảo gì, các anh cứ làm theo  (Lm. Phaolo Phạm Trọng Phương)

Mục lục

1. Thiên Chúa hiện diện giữa dân Người (Gm. Giuse Vũ Văn Thiên, Gp. Hải Phòng) 

2. Mời Chúa đến nhà (Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt)

3. Tình nồng – Rượu ngon  (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc ) 

4. Cơ hội làm việc thiện  (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)

5. Quyền năng của lòng xót thương  (Lm. Giuse Đỗ Đức Trí, Gp. Xuân Lộc)

6. Chúa đi ăn cưới  (Lm. GB. Văn Hào, SDB)

7. Ý nghĩa phép lạ Cana  (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

8. Hễ Người bảo gì, thì phải làm theo  (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

9. Tế nhị  (Trầm Thiên Thu)

10. Dấu lạ đầu tiên  (Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ)

11. Ân sủng  (Lm. Giuse Trần Việt Hùng)

12. Có Mẹ chở che  (Lm. Nguyễn Nguyên)

13. Chúa Nhật 2 Thường niên_C  (Lm. Antôn)

14. Lòng thương xót biến đổi tất cả trở nên mói  (Lm. Giuse Trực) 

15. Có Chúa, niềm vui sẽ trọn vẹn (Jos. Vinc. Ngọc Biển)

16. Cảm thông tin cậy vào lòng Chúa thương xót noi gương Mẹ Maria (Lm. Đan Vinh)

17. Họ hết rượu rồi  (Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ) 

18. Chúa đã hiển linh điều gì trong phép lạ đầu tiên tại Cana (Lm.Gioan Nguyễn Ty, SDB)

19. Rượu ngon sẽ không thiếu (Dã Quỳ)

VỮNG TIN VÀO CHÚA

Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên

Sau lễ Hiển Linh và lễ Chúa Giêsu chịu phép Rửa, hôm nay, Phụng vụ lại giới thiệu với chúng ta một cuộc “thần hiện” thứ ba: đó là dấu lạ tại tiệc cưới Cana. Quả vậy, khi thực hiện phép lạ này, Chúa Giêsu diễn tả quyền năng thiên linh của Người, và vinh quang Thiên Chúa cũng được thể hiện qua biến cố đó. Chính tác giả Gioan đã nhận định về phép lạ đầu tiên này như sự tỏ bày vinh quang của Thiên Chúa, và nhờ đó mà các môn đệ tin vào Người. “Các môn đệ”, trong đó tất nhiên có Gioan, người kể lại sự việc, đồng thời cũng là chứng nhân về sự việc ấy.

Thánh Gioan là tác giả duy nhất kể lại dấu lạ Cana. Khởi đi từ lời tuyên bố: Ngôi Lời đã làm người và ở với chúng ta. Qua việc Đức Giêsu đến dự tiệc cưới, ông muốn diễn tả hình ảnh một Đức Giêsu đến trần gian để sống giữa mọi người. Người chia sẻ niềm vui và nỗi buồn của cuộc đời nhân thế. Người hiện diện giữa họ để đem cho họ niềm vui. Chúa hiện diện trong những đám cưới, đám tang là những sự kiện rất đỗi thường tình của cuộc sống. Người đến tiệc cưới để chúc lành và làm cho niềm vui của cô dâu chú rể nên trọn vẹn. Giáo Hội dựa trên sự kiện này để dạy chúng ta về việc Chúa thiết lập Bí tích hôn phối. Khi đôi bạn nam nữ tiến đến bàn thờ để thề hứa chung thuỷ với nhau trọn đời, Thiên Chúa sẽ chúc phúc cho tình yêu hôn nhân của họ. Bí tích hôn nhân là mối dây yêu thương ràng buộc hai người suốt đời, đồng thời ban ơn nâng đỡ để đôi bạn vượt lên những khó khăn của đời sống gia đình.

Trở lại với Bài đọc thứ nhất, trích ngôn sứ Isaia, tác giả chiêm ngưỡng một tương lai huy hoàng, hân hoan vui mừng như một tiệc cưới. Dân Israel sẽ hết thời khổ nhục và tang chế. Không ai còn khinh bỉ dân tộc này, vì Chúa ra tay cứu giúp. Ngài sẽ can thiệp và biến đổi đau thương của dân tộc thành niềm vui bất tận. “Như trai tài sánh duyên cùng thục nữ, Đấng tác tạo ngươi sẽ cưới ngươi về. Như cô dâu là niềm vui cho chú rể, ngươi cũng là niềm vui cho Thiên Chúa ngươi thờ”. Đức tin Kitô giáo nhận ra trong lời ngôn sứ trên đây lời tiên báo về thời Thiên sai. Đức Giêsu Kitô đã đến khai mở thời thiên sai muôn dân mong đợi. Người được sánh như chú rể trong tiệc cưới. Tiệc cưới cũng là hình ảnh diễn tả mối liên hệ thân thiết giữa Thiên Chúa và nhân loại. Thời đại cũ đã qua, thời Thiên sai đã khai mở. Thời đại cũ vô vị như nước lã, thời đại mới nồng nàn như rượu thơm. Dấu lạ Canna vừa đem niềm vui cho cô dâu chú rể, vừa làm vui lòng thực khách là chính thế giới này.

Ý niệm về Chúa Giêsu như một “chàng rể” cũng được nhắc tới trong các Tin Mừng, nhất là trong Tin Mừng Thánh Gioan. Chúa Giêsu là Đấng muôn dân mong đợi. Người đến trần gian để nối kết con người với Thiên Chúa. Thánh Gioan Tẩy giả, khi nói về Chúa Giêsu, cũng dùng hình ảnh chàng rể, và ông khiêm tốn nhận mình là người phù rể (x. Ga 3,25-30). Chúa Giêsu là Thiên Chúa, nhân loại được mời gọi đón chờ Người như chờ đón chàng rể của hôn lễ (x Dụ ngôn mười trinh nữ, Mt 25,1-13). Đây cũng là viễn cảnh tương lai, khi lịch sử nhân loại đến hồi kết thúc, nhường chỗ cho trời mới đất mới, được diễn tả như tiệc cưới của Chiên Con, lúc đó, vinh quang Chúa sẽ bao trùm tất cả, niềm hân hoan sẽ tràn ngập vũ trụ (x Kh 19,1-7).

Trình thuật của thánh Gioan làm nổi bật vai trò và sự tinh tế của Đức Trinh nữ Maria. Phép lạ xảy đến do quyền năng của Thiên Chúa và với sự cộng tác của những gia nhân. Những người này đã nghe lời khuyên của Đức Maria: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo”. Ngày hôm nay, Đức Trinh nữ vẫn hiện diện giữa chúng ta, để can thiệp và cứu giúp chúng ta với tâm tình hiền mẫu. Đức Mẹ luôn hướng dẫn và giúp chúng ta thực thi Lời Chúa, như xưa Đức Mẹ luôn ghi nhớ và suy niệm Lời Chúa trong lòng. Vâng lời Chúa và làm theo huấn lệnh của Người, đó chính là bí quyết để làm nên những điều lạ lùng trong cuộc sống.

Nếu Đức Giêsu đã đến thiết lập kỷ nguyên mới, thì Chúa Thánh Thần lại là mối giây nối kết tình hiệp nhất trong Giáo Hội. Thánh Phaolô diễn tả Chúa Thánh Thần như nguyên lý của mọi đặc sủng. Dù có nhiều đặc sủng, nhưng chỉ có một Thánh Thần. Ơn của Ngài được ban cho các tín hữu rất dồi dào phong phú, hầu xây dựng Giáo Hội là thân thể huyền nhiệm của Chúa Giêsu. Hôm nay Chúa Thánh Thần vẫn đang tiếp tục thổi hơi thần thiêng của Ngài nơi các cộng đoàn tín hữu. Nhờ Ngài mà Giáo Hội luôn vững vàng trước phong ba bão tố của thời gian.

Khi đọc Kinh Mân côi, thứ hai mùa Sáng, chúng ta suy niệm dấu lạ Chúa Giêsu đã thực hiện tại Canna, đồng thời chúng ta cầu xin cho được “noi gương Đức Mẹ và vững tin vào Chúa”. Đức Mẹ là người có phúc vì Mẹ đã tin rằng những gì Chúa phán sẽ thành hiện thực. Xin Mẹ cầu bầu cho chúng ta. Amen.

Về mục lục

TIN CHÚA HIỆN DIỆN

Lm. Jos DĐH.

Tiệc rượu, ăn uống, vui say, được coi là nhu cầu của con người, một số ai đó đã cường điệu tiệc rượu, làm tăng thêm phần lãng mạn. Có hay không: say men rượu ngày mai còn tỉnh, say men tình mãi mãi còn say. Rượu cũng từ gạo mà ra, ta đây uống rượu cũng là ăn cơm. Đúng, ăn uống say xỉn, sẽ không gọi là bình thường ! Cuộc sống có vui buồn, có khó khăn thuận lợi, có lúc đau lúc khoẻ, tâm trí phải tỉnh không được say, điều ấy cho thấy để đạt tới mức độ quân bình tình cảm, với ý chí quyết tâm của mình, thật không hề đơn giản ! Mọi người đều hiểu: thuận vợ chồng, nếu có khổ đau, túng thiếu, công việc không được như ý, cũng chưa chắc đã làm ta khiếp sợ. Trong khi đó, tình yêu, niềm tin, luôn cần thiết để gia đình vợ chồng tin tưởng nhau, nhằm giúp các thành viên biết sống bổn phận và trách nhiệm cách tốt nhất.

Đức Giêsu hiện diện tại tiệc cưới Cana, tiệc cưới đông đủ khách tham dự, cỗ bàn, bia rượu dư thừa, không gặp sự cố đáng tiếc nào, hẳn đó là mơ ước của chủ nhà, là niềm vui của đôi bạn. Buổi tiệc cưới năm xưa trở nên ý nghĩa hơn, khi có sự nhạy bén của Đức Maria, có sự can thiệp kịp thời của Đức Giêsu, theo lẽ tự nhiên mọi người đều hạnh phúc và được no say trước bàn tiệc đông vui, rượu ngon, thịt béo. Khi nhìn theo phương diện đức tin, người ta sẽ cảm nhận được ở đâu có sự hiện diện của Đức Giêsu và Mẹ Người, ở đó có sự bình an thật, ở đó có đủ tình Chúa tình người. Chỉ có Chúa, chỉ có cha mẹ là yêu thương ta vô điều kiện, thế gian phải có điều kiện, họ mới yêu thương ta. Khởi đi từ tình yêu và trách nhiệm của cha mẹ, nhờ Đức Maria “bầu cử”, do quyền năng và tình yêu thương của Đức Giêsu, tại tiệc cưới Cana phép lạ đã được thực hiện.

Cha ông chúng ta có câu: kẻ giầu sang té ngã, người ta bảo vì rủi ro, kẻ nghèo hèn té ngã, người ta nói hắn say rượu. Nhà giầu tổ chức tiệc cưới, thiếu cỗ bàn rượu bia, người ta nói họ tính nhầm, nhà nghèo tổ chức đám cưới cho con mà thiếu tiệc rượu, người ta nói hắn nghèo mà thích đua đòi. Từ sự nhạy cảm sẵn có, Đức Maria biết gia chủ đang lúng túng vì tiệc thiếu rượu, nên Mẹ Maria đã ngỏ lời xin Đức Giêsu ra tay giúp họ. Nếu không có cái nhìn tích cực, người ta sẽ nói Đức Maria làm gì phải xen vào chuyện riêng tư của người ta, ăn đủ uống đủ thì mới vui, có nhiều rượu lại say sưa có gì là hay đâu ? Vấn đề ở chỗ, làm sao ta đủ niềm tin để biết nghĩ tốt, hiểu đúng, làm sao ta biết cảm thông với anh chị em mình: vui với người vui, khóc với người khóc ?

Đám cưới đám cười, sẽ gọi là hoành tráng khi khách dự tiệc đông vui, đồ ăn thức uống vừa miệng mọi người: vui lòng khách đến vừa lòng khách đi. Dù sao thì ta cũng nên suy nghĩ, lời tiền nhân đã từng nhắc con cháu: giầu không tiết kiệm, nghèo liền tay; nghèo không tiết kiệm, sớm ăn mày. Đám cưới đám cười sẽ đầm ấm hạnh phúc, khi gia chủ biết liệu cơm gắp mắm, không ai chê đám cưới, không ai cười đám ma. Đồng ý rằng: say tình và say rượu khác nhau, khen chê, thích hoặc không, là tự do của mỗi người, căn bản nhất vẫn là tin Chúa, biết kêu cầu Chúa hiện diện, chúc phúc, hầu mỗi người biết sống ý nghĩa hơn. Trong bầu khí nơi bàn tiệc vui ở đời này, không phải chỉ đơn thuần là: rượu ngon phải có bạn hiền, hay thuốc ngon nửa điếu, ý nghĩa hơn một chút, sống ở đâu cũng cần có đủ tình Chúa và tình người.

Tin vào khả năng của mình, tin sự hiện diện của Chúa, tin đấng bậc sinh thành, tin Chúa yêu thương ta, đúng là có chung một niềm tin, nhưng mức độ phức tạp và không thể so sánh cho cùng. Với tình cảm tự nhiên, ta chỉ mất một phút để thích một người, nhưng trong sâu thẳm của tình yêu, ta phải mất cả một đời để bày tỏ và diễn tả cái thích của mình. Đức Maria phải mất cả 30 năm, mới hiểu và biết căn dặn những người giúp việc ở tiệc cưới hôm đó: “hễ Người bảo gì, thì hãy làm theo”. Với các chuyên gia họ vẫn nói: vũ khí lợi hại nhất của người phụ nữ không phải là nước mắt, chính xác là sự im lặng. Vâng, tại sao phải suy gẫm trong lòng, tại sao cõi lòng cần sự thinh lặng, tại sao phải tin vào sự hiện diện của Chúa nơi cuộc đời của mình, đơn giản, vì tình yêu không mầu không mùi, không cân đo đong đếm được.

Kinh nghiệm cho thấy cuộc sống thiếu tiền, đám cưới thiếu rượu, gia đình thiếu tình yêu Chúa, thật là đáng buồn ! Vấn đề là làm sao cuộc sống luôn đủ tiền để đáp ứng những nhu cầu thiết thực, tổ chức tiệc mừng luôn đông đủ quan khách hiện diện, các thành viên gia đình giáo xứ đủ ơn Chúa ? Đức Giêsu, Đức Maria, các tông đồ, là người thật, các ngài hiện diện thật tại tiệc cưới Cana, Đức Giêsu đã thực hiện phép lạ, đã can thiệp vừa kịp, cũng là dấu hiệu Chúa chúc lành cho đôi bạn và gia đình. Phép lạ hoá nước thành rượu ngon, chính là dấu chỉ cho thấy Đức Giêsu ước mong cả đám cưới hôm đó ai cũng say men tình, chứ không hẳn chỉ có say men rượu. “Khi người quản tiệc nếm thử nước đã hoá thành rượu, ông không biết tự đâu ra”. Nếu không say men tình, làm sao có thể nói: “ai cũng đem rượu ngon ra trước, khi khách ngà ngà mới đem rượu xoàng hơn, còn ông, ông lại giữ rượu ngon đến giờ này”. Xin Chúa chúc lành để tất cả mọi người, mọi thời, đều biết mời Chúa đến hiện diện với từng hoàn cảnh, từng gia đình của mình. Amen.

Về mục lục

NIỀM VUI MỚI

Lm. Thái Nguyên

Suy niệm

Sau khi chịu phép rửa của Gioan, Đức Giêsu lên đường rao giảng Tin Mừng. Sự kiện quan trọng đầu tiên là việc Ngài hiện diện trong tiệc cưới Cana, cùng với Mẹ Ngài và các môn đệ. Theo tập tục Do Thái, tiệc cưới kéo dài cả tuần lễ, nhưng không may tiệc cưới này đến giữa chừng thì hết rượu. Đây là điều tối kỵ, vì thật xấu hổ cho gia chủ và đôi tân hôn. Mẹ Maria đã nhận ra tình trạng này, và nói cho Đức Giêsu biết. Ngài đã biến nước thành rượu, trả lại bầu khí vui tươi cho tiệc cưới. Theo Tin Mừng Gioan, đây là dấu lạ đầu tiên mà Ðức Giêsu làm để bày tỏ vinh quang của Ngài, và các môn đệ đã tin vào Ngài.

Rượu là hình ảnh mà các ngôn sứ thường dùng để loan báo buổi bình minh của kỷ nguyên Mêsia. Đó là ý nghĩa sâu xa của phép lạ này, vì thứ nước dùng vào việc thanh tẩy của người Do thái được Đức Giêsu biến thành rượu, nghĩa là nước của Cựu Ước đã hóa thành rượu của Tân Ước. Như thế, “Cái cũ đã qua đi, và cái mới đã có đây rồi” (2Cr 5, 17). Thời đại Mêsia đã đến, Đức Giêsu chính là Đấng Thiên Sai, Ngài đến để thiết lập một trật tự mới, chan chứa niềm vui ơn cứu độ, như rượu mới dư dật trong tiệc cưới. Ba năm sau, cùng một thời điểm này ngay trước lễ Vượt Qua (2, 13), Đức Giêsu hóa rượu thành máu của Ngài cho muôn dân được hưởng ơn tha tội (Mt 26, 28).

Dấu lạ Cana chủ yếu cho chúng ta thấy Đức Giêsu là ai, đồng thời cũng cho chúng ta thấy được vai trò linh thiêng của Đức Maria. Với thái độ nhạy bén trước nhu cầu của tha nhân, Mẹ đã đưa ra lời thỉnh cầu với Con Mẹ, một cách kín đáo và tế nhị:“Họ hết rượu rồi”. Nhưng câu trả lời của Đức Giêsu xem ra không được thịnh tình: “Thưa bà, chuyện đó can gì đến bà và con? Giờ của con chưa đến”. Thế nhưng Mẹ vẫn hoàn toàn tin tưởng nơi con Mẹ. Mẹ không hiểu Ngài sẽ làm gì và làm như thế nào, nhưng tin Ngài sẽ có cách cứu nguy cho bữa tiệc cưới, nên Mẹ bảo các gia nhân: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo”.

Cuối cùng Đức Giêsu cũng đã làm theo ý muốn của Mẹ mình. Thật ra không phải vì ý muốn của Mẹ, nhưng qua đó Ngài nhận ra ý muốn của Chúa Cha. Đúng là “giờ” của Ngài chưa đến, giờ mà Ngài được tôn vinh, giờ mà tình yêu Chúa Cha được biểu lộ tận cùng qua cái chết của Chúa Con. Thế nhưng Đức Giêsu không lệ thuộc vào khung cảnh thời gian tương đối, để có thể hành động đúng lúc theo ý định của Thiên Chúa. Mọi hành động trong cuộc sống đều có giờ, có nơi và có lúc của nó, nhưng phải chăng tình yêu đòi phải thể hiện ở mọi nơi và trong mọi lúc. Tình yêu chẳng khác nào dòng nhựa sống của thân cây phải liên tục luân chuyển. Nói cách khác, tình yêu là nhịp đập của trái tim Thiên Chúa trong đời sống con người qua mọi hành động.

Qua bài Phúc Âm này, chúng ta cũng cần nhìn ngắm sự hiện diện của Đức Maria: một sự hiện hiện cho người khác, vì người khác. Nếu ta có được sự hiện diện như Đức Mẹ, ta cũng sẽ đem lại sự nồng ấm và an vui cho gia đình, cho cộng đoàn. Đó cũng là một sự hiện diện bám sát lấy Chúa trong mọi tình huống, để chính Chúa làm mới lại tình yêu và cuộc sống của chúng ta mỗi ngày. Nếu chúng ta nghe Mẹ, cứ làm theo lời Chúa dạy, đời sống chúng ta sẽ được biến đổi tốt đẹp biết bao.

Hôm nay, Đức Giêsu vẫn tiếp tục bước vào đời sống của từng người, từng đôi tân hôn, từng gia đình. Bất cứ ai để cho Chúa bước vào đời mình sẽ nhận được một phẩm chất mới, giống như nước lã biến thành rượu ngon. Không có Đức Giêsu, cuộc đời vẫn ứ đọng, phẳng lì và chán ngán. Khi để cho Ngài bước vào đời ta, nghĩa là ta luôn ý thức sự hiện của Ngài, thì mọi cái sẽ trở nên sinh động và đầy hy vọng. Thiếu sự kết nối với Chúa, ta sẽ cảm thấy cuộc đời cô đơn, trống vắng. Đặt mình trong Chúa, ta sẽ tìm thấy sự an vui và những điều kỳ diệu.

Ước chi mỗi khi đêm về, gia đình chúng ta lại xúm xít bên nhau và quây quần bên Chúa, vang lên lời kinh chúc tụng và tạ ơn. Cũng từ đó mà niềm vui và sức sống yêu thương lại tràn về trên tổ ấm gia đình. Đó mới thật là một gia đình có Chúa, của Chúa, một hội thánh tại gia, góp phần với Chúa đem lại sự tươi mới cho xã hội hôm nay.

Cầu nguyện

Lạy Chúa Giêsu! Tiệc cưới là biểu hiện của niềm vui, niềm vui của sự sống và phong nhiêu, của ân ban trong tất cả mọi điều, vì chính là kết quả của tình yêu.

Nhưng tình yêu vẫn thường bị đe dọa, khi cuộc sống bất trung và bất tín, khi con người vẫn thiếu một lòng tin, không dám sống một cuộc đời chân chính.

Chúa đã hóa nước lã thành rượu ngon, để con thấy sự hiện diện của Ngài, luôn làm nên sự tươi mới ở mọi nơi, đem an vui hạnh phúc cho mọi thời.

Không có sự hiện diện của Chúa, mọi tiệc cưới sẽ lụi tàn, mọi niềm vui cũng sẽ tan, gia đình lại sống kiếp hoang mang.

Có Chúa mọi sự sẽ tươi mầu, cuộc đời bớt khốn khổ lo âu, tình yêu lại đẹp như thuở ban đầu, và hạnh phúc tươi thắm mãi ngàn sau.

Dấu lạ Cana ân phúc chan hòa, cũng là nhờ có Đức Ma-ri-a, vì Mẹ thấy tình cảnh của mỗi nhà, luôn kịp thời để bầu cử cho ta.

Xin cho con luôn cận kề bên Mẹ, biết quan tâm phục vụ thật hăng say, biết để tâm làm theo điều Chúa dạy, cho niềm vui và tình mến dâng đầy. Amen.

Về mục lục

HÔN ƯỚC

Jorathe Nắng Tím   

Trên thế gian và trong thế giới loài người, không có giao ước nào lãng mạn nhưng sâu sắc; thiết thân, gần gũi, nhưng cao qúy, tuyệt vời; chân chất, giản dị nhưng mầu nhiệm, thần thánh bằng giao ước hôn nhân, khế ước tình yêu giữa người nam và người nữ thề nguyền nhận nhau làm vợ chồng và đoan hứa  chung thủy, trung thành sống chết với nhau đến hết cuộc đời.

Để diễn tả tình yêu chung thủy, cũng là tình yêu vô cùng và đến cùng của Thiên Chúa đối với con người, Đức Giêsu đã chọn tiệc cưới ở làng Cana để làm phép lạ đầu tiên cho sáu chum nước hoá thành rượu ngon, khi tiệc cưới hết rượu đang lúc sôi nổi, rộn rã.

Khi chọn tiệc cưới Cana để ra mắt quần chúng như Đấng Cứu Thế, nhất là để các môn đệ tin vào Ngài, Đức Giêsu đã muốn tỏ cho mọi người liên đới thiết thân, tình nghiã son sắt, và tương quan bất khả phân ly  giữa Thiên Chúa và con người  được đóng ấn bởi Giao Ước Tình Yêu giữa Thiên Chúa và con người  được Cựu Ước loan báo hàng ngàn năm trước: “Chẳng ai còn réo tên ngươi : “Đồ bị ruồng bỏ!” Xứ sở ngươi hết bị tiếng  là “Phận bạc duyên đơn”. Nhưng ngươi được gọi: “Ái khanh lòng Ta hỡi!” Xứ sở ngươi nức tiếng là “Duyên thắm chỉ hồng”. Vì ngươi sẽ được Đức Chúa đem lòng sủng ái, và Chúa lập hôn ước cùng xứ sở ngươi. Như tài trai sánh duyên cùng thục nữ, Đấng tác tạo ngươi sẽ cưới ngươi về. Như cô dâu là niềm vui cho chú rể, ngươi cũng là niềm vui cho Thiên Chúa ngươi thờ” (Is 62,4-5).

Khi chọn hôn lễ Cana để làm phép lạ đầu tiên đem đến niềm vui trọn vẹn và viên mãn cho cô dâu chú rể và hai họ, Đức Giêsu đã tỏ cho chúng ta: chính Ngài là Đấng  gìn giữ Giao Ước yêu thương giữa chúng ta với Thiên Chúa; chính Ngài làm cho cuộc tình chung thủy của chúng ta với Thiên Chúa mãi là niềm vui vô tận; cũng chính Ngài là Đấng bảo đảm hạnh phúc đời đời, và sự sống vĩnh cửu của Hôn Ước giữa chúng ta với Thiên Chúa, không chỉ qua chén rượu của ngày cưới, mà còn qua chén máu cứu độ của Ngài sẽ đổ ra cho mọi người được tha tội là điều kiện tất yếu để được sống hạnh phúc trong Thiên Chúa (x. Lc 22,20).

Nhưng điều quan trọng Đức Giêsu muốn mặc khải cho chúng ta, những người đi theo Ngài, đó là chúng ta phải cởi bỏ con người cũ, từ bỏ nếp sống cũ, bỏ lại sau lưng lề luật cũ là “những chum nước lã” nhạt nhẽo, vô vị chỉ dùng để thanh tẩy bên ngoài, mà không đụng chạm được tâm hồn bên trong; chỉ rửa sạch  tay chân, mà không rửa được trái tim, linh hồn, trong khi “rượu ngon” như dấu chỉ của tình yêu nồng nàn, như dấu ấn của tình yêu chung thủy, như biểu chứng của niềm vui dạt dào sâu lắng, như biểu tượng của dấu ái hiến dâng, mà Ngài tha thiết  mời gọi chúng ta trở nên mỗi ngày trong tương quan với Ngài.

Và để trở nên xứng đáng hơn mỗi ngày với Hôn Ước tình yêu đã ký kết với Thiên Chúa, chúng ta không được mời gọi làm gì khác hơn là “cứ việc  làm theo những gì Đức Giêsu bảo”, như  Đức Mẹ đã căn dặn gia nhân: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo” (Ga 2,5).

Cứ việc làm theo những gì Ngài bảo với tình yêu tín thác, như tân lang và giai nhân, vì tin và yêu nhau đã không từ chối nhau điều gì vì mong ước hạnh phúc cho nhau, và muốn làm vui lòng nhau, chúng ta sẽ được Chúa “xóa bỏ hết lỗi lầm, ban cho một tấm lòng trong trắng, đổi mới tinh thần cho nên chung thủy, và tràn đầy niềm vui được Ngài thương yêu, cứu độ” (x. Tv 50,11.12.14).

Về mục lục

MẸ ƠI, CON HẾT RƯỢU RỒI!

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Chúa yêu loài người

Thiên Chúa yêu thương con người bằng một tình yêu hào phóng. Ngài đã dùng nhiều hình ảnh như tình phụ tử, tình mẫu tử, nhất là tình phu thê để diễn tả tình yêu của Ngài đối với con người, giúp con người hiểu được phần nào mà sống trung thành và đáp đền cho xứng như đoạn trích Sách Tiên tri Isaia hôm nay.

Thiên Chúa yêu con người, cụ thể là dân Israel như người chồng yêu vợ mình. Tình vợ tình chồng có lúc thăng lúc trầm: say mê tươi mát cái thuở ban đầu, niềm vui ngày cưới, nhưng có lúc tưởng như dứt nghĩa đoạn tình. Đây Thiên Chúa “tỏ tình” với con người. Chúa nói: “Như trai tài sánh duyên cùng thục nữ, Đấng tác tạo ngươi sẽ cưới ngươi về. Như cô dâu là niềm vui cho chú rể, ngươi cũng là niềm vui cho Thiên Chúa ngươi thờ” (Is 62,5).

Nhìn về quá khứ, Isaia hiểu rằng lưu đày là hình phạt xứng đáng đối với tội bất trung của dân. Nhưng với phút hiện tại, tác giả cảm nhận được tình yêu nồng nàn của Chúa dành cho dân, dù dân đã bội nghĩa bất trung nhưng Chúa vẫn một lòng yêu thương gắn bó. Ngài đã cứu họ khỏi cảnh khốn cùng: “Chẳng còn ai réo tên ngươi là ‘đồ bị ruồng bỏ’, xứ sở ngươi hết bị tiếng là ‘phận bác duyên đơn’” (Is 62,3). Chẳng những thế, Chúa còn yêu đem lòng sủng ái dân: “Ta đã một thời ngoảnh mặt chẳng nhìn ngươi, nhưng vì tình nghĩa ngàn đời, Ta lại chạnh lòng thương xót” (Is 54,8).

Thánh hóa mối tình của họ

Khi ấy có Tiệc cưới tại Cana. Đức Mẹ và Chúa Giêsu cũng được mời. Tiệc đang vui thì hết rượu. Đức Mẹ ghé tai nói nhỏ với Chúa Giêsu rằng: “Họ hết rượu rồi” (Ga 2,3). Nhưng Chúa Giêsu trả lời ngay: Thưa Bà “Việc đó đâu có liên can gì đến Bà và Con, Giờ Con chưa đến”.

Rõ ràng và quyết liệt như thế, bình thường, người nghe đã nản, hết hy vọng, thấy mình lỡ lời, sao lại can thiệp vào việc của người ta! Nhưng ơn Chúa Thánh Thần và đức Bác ái thúc đẩy, Đức Mẹ không nói nước đôi: “Nếu Người bảo gì” hoặc “Có thể Người bảo gì”, nhưng Mẹ nói xác quyết với niềm tin mạnh mẽ, Đức Mẹ nói với các người giúp việc: “Hễ Người bảo gì, thì phải làm theo“(Ga 2,5).  Và phép lạ lẫy lừng chưa từng có, đã xảy ra ngay. Nước rửa tay bình thường của Cựu ước đã trở thành rượu hảo hạng của Tân Ước. Lý do là dâu rể đã mời Đức Mẹ và Chúa Giêsu đến dự tiệc cưới.“Có Mẹ mọi nhẽ đều xuôi”.

Thời nay đang có một cuộc khủng hoảng về gia đình: số người lập gia đình rồi li dị ngày càng gia tăng; nhiều người trẻ không muốn lập gia đình; một số người chủ trương nếu thích nhau thì cứ sống chung với nhau, đến khi nào không thích nhau nữa thì chia tay, cần gì mà phải cam kết chung sống chung trọn đời.

Cuộc sống gia đình quả là rất khó khăn: Ngày mới cưới, tình yêu vợ chồng thắm nồng như ly rượu tân hôn. Nhưng chẳng bao lâu sau, rượu nhạt tình phai, thậm chí còn thiếu rượu. Tình yêu thủy chung, luôn cho đi mà không hề mệt mỏi, không ngừng nhường nhịn và tha thứ cho nhau. Một tình yêu như thế ở thời nay quả là một phép lạ.

Ở Cana, Chúa Giêsu đã làm phép lạ như thế: khi người ta thiếu rượu, Người đã làm cho có rượu dồi dào; và rượu ấy Người đã làm ra từ những chum nước lã. Phép lạ này ngày nay Chúa vẫn tiếp tục làm, cho những ai thực lòng cầu xin. Tại sao những đôi vợ chồng đang gặp khó khăn không cầu xin phép lạ ấy? Tại sao anh chị em không nhờ Đức Mẹ chuyển lời cầu xin?

Có Mẹ mọi nhẽ sẽ xuôi

Có Đức Mẹ mọi nhẽ sẽ xuôi là xác tín của những người hết lòng trông cậy vào tình mẫu tử của Đức Mẹ. Ngay từ khởi đầu, lịch sử Hội Thánh đã cho chúng ta thấy những ai biết chạy đến nương nhờ vào tình thương của Mẹ, núp dưới bóng Mẹ và tà áo của Mẹ đã trợ giúp, chở che trong mọi hoàn cảnh. Chúng ta hãy dâng những kế hoạch, dự tính tương lai cho Mẹ. Hãy đến với Mẹ bằng niềm xác tín “có Mẹ mọi nhẽ sẽ xuôi”.

Noi gương gia đình Cana, khi hết rượu, nghĩa là tình gia đình nhạt phai, giảm đằm thắm, hãy mời Đức Mẹ đến nhà, trình bày cho Mẹ những bất hòa của chúng ta. Khi chúng ta ở trong những tình cảnh khó khăn, gặp khó khăn mà chúng ta không biết cách giải quyết, hay khi chúng ta lo lắng đau khổ, hoặc thiếu niềm vui, hãy đến với Mẹ Maria và thưa: “Mẹ ơi, chúng con hết rượu rồi, con biết làm sao đây, xin Mẹ giúp con với”. Hãy thưa với Mẹ. Chắc chắn Mẹ sẽ đến với Chúa Giêsu và nói: “Con ơi, nhìn xem người kia kìa, họ hết rượu rồi”. Và Mẹ sẽ trở lại và nói với chúng ta: “Hễ Người bảo gì, thì phải làm theo” (Ga 2,5).

Với lòng từ mẫu hay thương, Mẹ sẽ ngỏ lời cùng Chúa Giêsu, Con yêu dấu của Mẹ, miễn sao chúng ta hãy hết lòng tin tưởng chạy đến cùng Mẹ, để Mẹ làm chủ tình cảnh thiếu thốn của cuộc đời ta. Ở đâu có Mẹ thì ở đó mọi nhẽ sẽ xuôi.

Về mục lục

BIẾN ĐỔI

Lm Vũđình Tường

Để biến đổi thứ này sang thứ khác ta cần pha trộn trong việc biến đổi. Nếu không có pha trộn ta không thể biến đổi. Đức Kitô biến nước lã thành rượu thượng hảo hạng mà không cần pha trộn bất cứ thứ gì. Đức Kitô làm được việc đó bởi Ngài là Chúa của thế giới thiên nhiên. Ngài tạo dựng nên chúng và chúng luôn nghe lời Ngài.

Đám cưới là dịp vui mừng cho cô dâu, chú rể, cho gia đình hai họ và cho thực khách. Không cung cấp đủ thức ăn, thức uống cho khách là điều xấu hổ, mang tiếng suốt đời, một xỉ nhục cho gia đình. Đức Kitô và môn đệ Ngài đi dự tiệc cưới trong làng Cana. Giữa tiệc gia đình hết rượu. Có thể gia đình nghèo không đủ tiền mua rượu, cũng có thể gia đình chưa hề tổ chức tiệc nên thiếu kinh nghiệm trong việc tổ chức. Chúng ta không biết rõ. Điều chúng ta biết rõ là Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Đức Kitô biết nỗi khổ tâm của gia đình. Bà nói cùng Đức Kitô. Gia đình chủ tiệc hết rượu. Bà không hề yêu cầu Đức Kitô làm điều gì, chỉ thông báo cho Ngài biết gia đình gặp trở ngại lớn, hết rượu đãi khách. Dường như hai mẹ con tâm đầu í hợp trong vấn đề này. Cả hai cùng ngầm hiểu. Đức Kitô hiểu rõ Đức Trinh Nữ Maria mong muốn gì nơi Ngài. Đức Trinh Nữ tin là Đức Kitô sẽ làm điều gì tốt đẹp cho gia đình. Đức Kitô đáp với Đức Trinh Nữ. Việc này đâu can chi đến Mẹ, giờ Con chưa đến. Thoạt nghe câu này chúng ta có cảm tưởng dường như đây là lời từ chối khéo. Nhiều người bất bình điều Đức Kitô đáp. Đức Trinh Nữ Maria không hiểu khác. Bà tin Đức Kitô hứa làm điều tốt đẹp. Ngài nói với bà: Giờ con chưa đến nhưng vì mẹ yêu cầu con sẽ giúp họ trong trường hợp đặc biệt này. Hiểu như thế nên bà căn dặn gia nhân giúp việc trong tiệc cưới: Nếu Ngài bảo gì thì cứ làm theo. Ngạc nhiên thay, gia nhân vâng phục Đức Kitô và bà Maria.

Đức Kitô nói gia nhân hãy đổ nước đầy vào các chum vại trước cửa nhà. Đổ đầy nước tới miệng chum vại cho biết không còn có thể bỏ thêm thứ gì vào được nữa. Nếu bỏ vào nước sẽ tràn ra. Đức Kitô vẫn ngồi tại bàn cùng các môn đệ. Ngài nói với gia nhân mang nước lại cho chủ tiệc. Nuớc từ chum vại mang đến cho chủ tiệc biến thành rượu ngon. Chủ tiệc nói với chú rể. Rượu ngon, thượng hảo hạng này chú đem ra hơi trễ. Đúng ra phải mang ra ngay từ đầu tiệc; ai lại chờ cho khác gần say mới mang rượu thượng hảo hạng ra bao giờ. Chủ tiệc nói thế bởi ông không biết rượu từ đâu đến. Không ai hiểu Đức Kitô làm thế nào mà nước lã biến thành rượu ngon, kể cả kẻ giúp việc cũng không biết. Khách dự tiệc chỉ biết thưởng thức, còn rượu từ đâu đến thì ai cũng tin là do chủ tiệc cung cấp. Chủ tiệc thì trong lòng nóng như lửa đốt vì nhà hết rượu, tìm đâu ra rượu đãi khách cho đỡ mất mặt.

Điều rõ ràng, Đức Kitô không hề đụng chạm đến chum vại, cũng không hề đến gần nước. Nước biến thành rượu ngon bởi chúng vâng lệnh Ngài. Chỉ có một giải thích hợp lí duy nhất là từ í định thầm kính trong tâm tư Đức Kitô, Ngài ra lệnh cho nước biến thành rượu và chúng vâng phục. Đức Kitô làm được việc khác thường, trái luật thiên nhiên bởi Ngài là Chúa của thế giới thiên nhiên. Rất ít khi Đức Kitô can thiệp vào luật thiên nhiên và chúng luôn nghe theo lời Ngài. Biến nước thành rượu, Ngài đi trên ngọn sóng, Ngài ra lệnh cho sóng gió im lặng, Ngài hoá bánh ra nhiều, Ngài cho Phêrô mẻ cá lớn bắt gần bờ hồ, đều là những thí dụ điển hình. Phép lạ nước lã thành rượu ngon cho chúng ta một số bài học đức tin.

Thứ nhất, Đức Kitô có thể làm phép lạ cách khác nhưng ngài chọn cho phép gia nhân đóng góp vào việc Ngài hoá nước thành rượu. Bởi được cộng tác với Ngài nên gia nhân cũng được chia sẻ vinh quang Ngài ban cho họ, và họ cảm thấy hữu dụng trong việc phục vụ. Ngày nay Đức Kitô tiếp tục kêu gọi Kitô hữu sống phục vụ chia sẻ công việc hai ngàn năm trước ngài bắt đầu trong cuộc đời rao giảng công khai.

Thứ hai, sáu chum vại đựng nước dùng rửa tay theo phong tục thanh tẩy của người Do Thái. Đức Kitô biến nước thanh tẩy thành rượu cho biết nước thường trở thành rượu đặc biệt. Điều này cho biết bất cứ điều gì Đức Kitô thực hiện đều mang lại hoan lạc cho con người, đồng thời giúp giải quyết khó khăn ngoài khả năng con người có thể thực hiện.

Thứ ba, Đức Kitô dự tiệc cưới tái xác định điều Thiên Chúa dậy về bí tích Hôn Nhân. Sau này kẻ chống đối thử hỏi Ngài. Họ hỏi có được phép li dị không? Đức Kitô một lần nữa tái xác nhận giá trị truyền thống gia đình và tính bất di bất dịch của bí tích Hôn Nhân. Sự gì Thiên Chúa liên kết, con người không được phép phân li. Rõ ràng khi Thiên Chúa là trung tâm điểm cuộc sống gia đình, gia đình đó hạnh phúc, yên vui, đầm ấm.

Thứ tư, Đức Trinh Nữ Maria và Đức Kitô không đến dự tiệc mà không có quà tặng. Thực ra sự hiện diện của các Ngài là món quà quí hơn mọi món quà. Biết thế nhưng các Ngài vẫn mang quà lại cho đôi tân hôn để nói lên tầm quan trọng bí tích Hôn Nhân Thiên Chúa Giáo. Đức Kitô tặng đôi tân hôn hàng ngàn lít rượu thượng hảo hạng. Số rượu còn lại sau tiệc cưới, đôi tân hôn có thể mang bán lấy tiền trang trải tiệc cưới, đồng thời có vốn tạo dựng cuộc sống gia đình trong tương lai.

Một khi Chúa trao ban, Ngài luôn cho dư thừa.

Về mục lục

HỌ HẾT RƯỢU RỒI

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

Trong Tin Mừng, chỉ có bảy lời của Đức Maria (Lc 1, 26-34; Lc 1, 35-38; Lc 1, 39-45; Lc 1, 46-56; Lc 2, 41-52; Ga 2, 1-4; Ga 2, 5-11). Lời thứ sáu “Họ hết rượu rồi” là lời ngắn nhất trong các lời Đức Maria nói lên giữa cuộc sống bên cạnh Ngôi Lời làm người. Lời ngắn nhưng có thể hiểu ở nhiều cấp độ khác nhau, bổ sung cho nhau nêu lên chân dung một người Mẹ tuyệt vời, gắn bó mật thiết với hạnh phúc của các gia đình.

  1. “Họ hết rượu rồi”: một lời thông tin

Theo Tin Mừng Gioan thì hành động đầu tiên của Chúa Giêsu sau khi chịu phép rửa là quy tụ các môn đệ. Hành động thứ hai là đi dự tiệc cưới. Có lẽ đây là tiệc cưới của người bà con nên cả Đức Mẹ, Chúa Giêsu và các môn đệ cùng đi dự. Có thể là một đám cưới nhà nghèo nên thiếu rượu nữa chừng.

Tại Palestina, tiệc cưới kéo dài hơn một ngày, lễ cưới chính thức cử hành vào buổi xế chiều sau khi dự tiệc. Sau buổi tiệc, đôi tân hôn được đưa về nhà mới. Bấy giờ trời đã tối, họ được đưa đi qua các con đường càng dài càng tốt để có thể gặp được nhiều người chúc mừng. Vợ chồng mới cưới không đi hưởng tuần trăng mật. Họ ở tại nhà, mở cửa suốt tuần để tiếp khách. Họ đội vương miện và mặc y phục hôn lễ. Nếu suốt đời người ta phải sống cơ cực vất vả, thì nay được một tuần tiệc tùng, vui vẻ, đây là cơ hội đặc biệt trong đời người. Như vậy, theo tập tục Do Thái, đám cưới kéo dài suốt bảy ngày.

Đám cưới Cana này mới đến ngày thứ ba thì đã hết rượu rồi. Một tai hoạ bất ngờ, chủ tiệc bối rối, khó xử. Các Rápbi vẫn nói: Không rượu thì không vui. Người Việt nói: Vô tửu bất thành lễ. Không phải vì mọi người nghiện rượu, nhưng ở Đông Phương, món rượu rất quan trọng. Say rượu là một điều thật xấu hổ, nên họ uống rượu pha, hai phần rượu và ba phần nước lã. Lúc nào thiếu thức ăn, thức uống là có vấn đề, vì ở Đông Phương tiếp khách là một nhiệm vụ thiêng liêng; thiếu thức ăn thức uống trong một tiệc cưới là điều hổ thẹn cho cả cô dâu lẫn chú rể.

Không ai hay, kể cả chủ tiệc; không ai để ý, kể cả tân lang. Vả lại khi đã ngà ngà hoa mắt rồi, khách có để ý đi nữa cũng chẳng thấy. Thế mà trong số khách hôm ấy có người đã để ý và đã thấy. Người ấy nhẹ nhàng nói với Chúa Giêsu: “họ hết rượu rồi”.

  1. “Họ hết rượu rồi”: một lời thông cảm

Người khách đặc biệt ấy chính là một phụ nữ thật tinh ý và có tấm lòng trắc ẩn sẵn sàng giúp đỡ người khác. Với trái tim nhảy cảm, với tấm lòng từ mẫu, Mẹ tự mình can đảm vào cuộc. Mẹ coi việc đám cưới là việc nhà mình và coi chuyện hết rượu là chuyện của chính mình. Từ đó Mẹ tận tụy chẳng quản ngại gì nữa, đi lại giữa một đàng là con mình và đàng khác là các gia nhân, dàn xếp và chuẩn bị tinh thần sẵn sàng, miễn sao mọi người đều vui. Sở dĩ Mẹ nhận thấy tình hình khó khăn của gia chủ, theo Đức Thánh cha Phaolô VI là vì Mẹ là người biết lắng nghe, một trinh nữ lắng nghe. Để có thể nói lời thông cảm, chắc chắn Mẹ phải rất tinh tế để nghe được nỗi xôn xao trong gia đình, những bước chân vội vã đi tìm rượu và Mẹ còn nghĩ đến những gì sẽ xảy ra sau khi tiệc tan cho nên Mẹ dặn dò các gia nhân: “Ngài bảo gì, các anh hãy làm theo”.

  1. “Họ hết rượu rồi”: một lời chuyển cầu

Lời “họ hết rượu rồi” trong cấp độ khách quan chỉ là lời thông tin của một thực khách tinh ý, và trong cấp độ tình cảm lại là lòng trắc ẩn của trái tim người nữ sẵn sàng dấn thân đảm đang công việc, nhưng chính trong cấp độ đồng hành thiêng liêng, người ta mới thấy lời ấy quả là một lời nhiệm mầu của Mẹ Đức Giêsu mở vào tấm lòng của Đấng Cứu Thế con mình, và đồng thời mở ra ân sủng thánh hóa những giá trị trần đời. Người thực khách tinh ý và giàu lòng trắc ẩn chính là “thân mẫu Chúa Giêsu”.

Khi thấy đám cưới hết rượu, Đức Maria không đi tìm rượu ở chỗ khác nhưng lại đến thẳng chỗ con mình và nói lên niềm tin tưởng trọn vẹn của Mẹ. Đây là một lời thỉnh cầu kín đáo và tin tưởng Đức Maria bày tỏ với Con. Ở trường hợp khó khăn như thế này, người duy nhất làm thay đổi tình thế không phải là ai khác ngoài Chúa Giêsu, dẫu cho tới lúc đi ăn cưới, Mẹ chưa thấy Chúa Giêsu thực hiện một phép lạ nào ở quê hương Nazarét hay ở nơi đâu khác. Như vậy, tại Cana, Đức Maria đã bày tỏ thêm lần nữa tâm tình tín thác đã có từ ba mươi năm trước khi thưa tiếng xin vâng. Nếu ngày truyền tin, Đức Maria đã tin vào Chúa Giêsu trước khi thấy Người bằng xương bằng thịt, nên đã xin vâng dẫn đến việc thụ thai trinh khiết, thì ở Cana, khi tin tưởng vào quyền năng chưa được tỏ lộ của con mình, Mẹ đã xin vâng mở đường dẫn đến “dấu lạ đầu tiên” của Chúa Giêsu biến nước lã thành rượu ngon, vun bồi lòng tin cho các môn đệ.

Như vậy, lời “họ hết rượu rồi” bên ngoài xem ra thật ngắn ngủi, nhưng bên trong lại ẩn chứa cả một kho tàng phong phú của một tấm lòng vừa tuyệt đối tin tưởng vừa chan chứa yêu thương. Tin tưởng hoàn toàn nơi Chúa Giêsu dù giờ Người chưa đến và yêu thương tận tụy dành cho đám cưới cũng như dành cho các môn đệ đầu tiên mới dò bước theo Thầy.

Chính vì thế, lời thứ sáu của Đức Maria “họ hết rượu rồi” dẫn tới lời đáp của Chúa Giêsu “Thưa bà, chuyện đó can gì đến bà và tôi? Giờ của tôi chưa đến” để có kết thúc là phép lạ ngoạn mục, vẫn được nhắc đến như hình mẫu sự hợp tác của Mẹ Maria vào chương trình cứu chuộc của con mình, dẫu đó là một sự hợp tác vượt lên vai trò làm mẹ tự nhiên để bước sang lãnh vực của niềm tin và của hy vọng.

Lời thứ sáu này còn được ghi nhớ như một lời chuyển cầu đầy hiệu quả của Đức Maria bên cạnh Chúa Giêsu, để hôm qua ở Cana chúc lành cho một gia đình và hôm nay tiếp tục chúc lành cho mọi gia đình khác biết mình đang trong tình trạng thiếu rượu tình yêu và hạnh phúc. Qua tiệc cưới Cana, với con tim trắc ẩn, với câu nói ân cần và với bàn tay nhân lành, Mẹ đích thực là Mẹ hằng cứu giúp, không ở trên cao mất công cúi xuống, cũng không ở ngoài xa mất giờ đến gần, mà như người trong cuộc tận lực tận tình cứu giúp, để cuộc sống gia đình vốn như nước lã nhạt phèo đã được thánh hóa nên rượu thơm nồng nàn hạnh phúc. Đức Maria chính là Mẹ của các gia đình.(x. Bảy lời của Đức Maria, ĐGM Giuse Vũ Duy Thống).

  1. Hãy đến với Mẹ Maria

Chúa Giêsu đã thực hiện phép lạ đầu tiên tại Cana. Ngài biến nước lã thành rượu hảo hạng. Tiệc đang vui vẻ mà rượu gần cạn. Gia đình lo lắng, sợ mất mặt với khách dự tiệc… Mẹ Maria quan tâm đặc biệt. Mẹ ngỏ ý với Chúa: “Họ hết rượu rồi”. Mẹ nói với gia nhân: “Ngài bảo gì, các anh hãy làm theo”. Chúa Giêsu nói với gia nhân : “Hãy đổ nước đầy chum”. Họ đổ tới miệng chum. Và Chúa bảo họ: “Bây giờ hãy múc nước đem cho người quản tiệc”. Nước đã biến thành rượu ngon. Người quản tiệc bỡ ngỡ, thực khách vui mừng.

Sự kín đáo của Mẹ được thể hiện qua việc không nêu danh Giêsu trong câu nói, để Chúa Giêsu tự do biểu lộ mình theo cách của Ngài và đúng lúc “hữu xạ tự nhiên hương”, qua việc Chúa làm, dân chúng sẽ nhận biết Ngài. Sự kín đáo ấy còn thể hiện qua việc Mẹ nhẹ nhàng rút lui khỏi hiện trường dành sáng kiến cho Chúa Giêsu dùng lời Ngài mà đến với mọi tâm hồn. Vài trò trung gian của Mẹ là dẫn người ta đến gặp Chúa Giêsu, mà một khi người ta đã đến được rồi, Mẹ trở lại phong thái muôn thuở là “ghi nhớ và suy niệm trong lòng”.

Phép lạ Cana do Chúa thực hiện, nhưng Đức Mẹ cũng đóng vai trò quan trọng. Sự can thiệp của một người mẹ nhạy cảm và từ ái góp phần làm nên phép lạ hoá nước thành rượu.

Tin Mừng Gioan nhắc đến Đức Mẹ hai lần: lần đầu ở Cana và lần cuối ở Núi Sọ. Mẹ chứng kiến cái chết của con, và từ đây Mẹ trở nên Mẹ của các tín hữu (Ga 19, 25-27). Cả hai trình thuật nối kết với nhau chặt chẽ và giải nghĩa lẫn nhau. Sự hiện diện của thân mẫu Đức Giêsu, cách xưng hô, giờ chưa đến và giờ đã đến là những yếu tố nối kết hiển nhiên. Mẹ đã hiện diện ở tiệc vui Cana, Mẹ cũng hiện diện ở núi Sọ buồn. Mẹ đã đi từ bước đầu cho đến cao điểm của sứ vụ Chúa Giêsu. Mẹ vẫn đi mãi, đồng hành với Giáo Hội, với mỗi người chúng ta trong cuộc lữ hành trần thế. Mẹ vẫn chia sẻ niềm vui và âu lo, nâng đỡ và ban ơn cho mỗi con người trong cuộc đời này.

Ngày kết hôn ai cũng ao ước được duyên thắm chỉ hồng mãi mãi được vuông tròn, trăm năm hạnh phúc, tình yêu mãi được tươi đẹp và chỉ có một mối tình duy nhất : tình yêu vợ chồng bền chặt. Rồi dọc dài theo năm tháng, hôn nhân không phải lúc nào cũng màu hồng tươi thắm, mà còn có những trắc trở, lúng túng, khó khăn. Cuộc sống không hiếm lúc hết rượu, cạn nguồn vui, bế tắc nẻo đường dẫn đến hạnh phúc. Cũng không ít những tình thế bất trắc chứa đầy lo âu, hệt như hoàn cảnh của chủ tiệc lúc hết rượu. Nào xung đột, bất hoà, nào hiềm khích, mâu thuẫn chỉ vì một sự cố ngoài tiên liệu. Hãy noi gương Mẹ, nói với nhau lời thông tin trong sự thật và bác ái, nói với nhau lời thông cảm và cùng nhau nói lời thỉnh cầu lên Chúa xin Ngài ban ơn nâng đỡ. Hãy đến với Mẹ. Lời cầu bàu của Mẹ có giá trị lớn lao trước Nhan Thánh Chúa. Mẹ vẫn thường nói với Chúa Giêsu: “Họ hết rượu rồi” và Mẹ cũng hay nói với mỗi người chúng ta: “Hãy làm mọi điều Chúa bảo…”. Hãy làm theo lời Chúa, để rượu tình thương không bao giờ cạn vơi trong gia đình chúng ta. Khi các gia đình gặp khó khăn thử thách, hãy tin tưởng chạy đến với Mẹ. Khi tình yêu trong gia đình trở nên lạnh lẽo, hãy cậy nhờ Mẹ can thiệp trước nhan Chúa, để nước lã những sinh hoạt tẻ nhạt mỗi ngày được biến thành rượu ngon, khó khăn được giải quyết, tình yêu được tuôn tràn và đổi mới. Tình yêu hôn nhân đã được chính Chúa thiết lập và thánh hóa. Ân sủng bí tích hôn nhân giúp các cặp vợ chồng trung thành và yêu thương nhau suốt đời. Bên cạnh những nỗ lực để cải thiện đời sống gia đình, hãy khiêm tốn khẩn nài với Đức Maria, để Chúa Giêsu tiếp tục thực hiện phép lạ Cana, nhờ đó các gia đình không bao giờ bị thiếu rượu an vui, nhưng luôn chan chứa tình yêu do Thiên Chúa rộng ban.

Mầu nhiệm Năm Sự Sáng: Thứ Hai thì ngắm: Đức Chúa Giêsu làm phép tại tiệc cưới Cana. Ta hãy xin cho được noi gương Đức Mẹ mà vững tin vào Chúa. Hàng ngày, mỗi gia đình hãy xin cho được noi gương Đức Mẹ mà vững tin vào Chúa.

Về mục lục

HẾT HAY CÒN

Trầm Thiên Thu

Phú quý sinh lễ nghĩa. Bần cùng sinh đạo tặc. Giàu hay nghèo cũng đều rắc rối. Ngày xưa, ông A-gua nhận là ngu dốt và cho biết lý do: “Quả tôi ngu dốt hơn mọi người, không có chút thông minh của con người. Tôi đã không được học hỏi về sự khôn ngoan, không hiểu biết chi về Đấng Thánh.” (Cn 30:2-3) Biết mình, đó là người khôn ngoan; biết người, đó là người sáng suốt. Và ông cầu nguyện: “Xin đừng để con túng nghèo, cũng đừng cho con giàu có; chỉ xin cho con cơm bánh cần dùng, kẻo được quá đầy dư, con sẽ khước từ Ngài mà nói: ‘Đức Chúa là ai vậy?’ hay nếu phải túng nghèo, con sinh ra trộm cắp, làm ô danh Thiên Chúa của con.” (Cn 30:7)

Vì “phú quý sinh lễ nghĩa” nên người ta càng ngày càng bày vẽ đủ thứ, chỉ là bề nổi chứ chẳng có chiều sâu. Nhưng rồi dịch bệnh xảy ra, người ta khó khăn về nhiều thứ, điều đó khiến người ta giảm bớt hình thức. Bài học vô giá Chúa dạy rất cụ thể.

Có những thứ tưởng hết mà còn, có những thứ ngỡ còn mà hết. Nhận thức nhưng vẫn cần ý thức, nếu không thì vô ích. Tinh tế là khả năng cần tôi luyện để phân định những tình huống trải nghiệm cuộc sống vốn dĩ nhiêu khê ngày nay. Người tinh tế có thể cảm nhận cảm xúc của người khác qua ánh mắt, thái độ, lời nói hoặc hành động, để rồi mình tác động một cách hợp lý nhất.

Thánh Phaolô khuyên: “Hãy thận trọng trong mọi sự.” (2 Tm 4:5) Và Franklin so sánh: “Thiếu thận trọng còn tai hại hơn thiếu hiểu biết.” Sự tế nhị cũng là một đức tính đối nhân xử thế, là loại ngôn-ngữ-không-lời mà ai cũng hiểu được, không cần được thông dịch hoặc phiên dịch. Chỉ số EQ (Emotion Quotient – chỉ số xúc cảm) quan trọng hơn IQ (Intelligence Quotient – chỉ số thông minh).

Cách giao tiếp liên quan nhiều vấn đề. Cách giao tiếp lịch sự và tế nhị của phụ nữ Sunêm và ông Êlisa được đề cập trong trình thuật 2 V 4:8-37.

Khi ông Êlisa đi qua miền Sunêm, nơi có một phụ nữ giàu sang, bà này giữ ông lại dùng bữa. Từ đó, mỗi lần đi qua, ông đều ghé vào và dùng bữa. Bà ấy nói với chồng: “Này ông! Tôi biết người thường ghé vào nhà chúng ta là một thánh nhân của Thiên Chúa. Mình phải làm cho ông một căn phòng nhỏ trên lầu có tường có vách, rồi kê ở đó một cái giường, đặt bàn ghế và để một cái đèn cho ông dùng. Như thế, khi nào đến nhà mình, ông sẽ lui vào đó.” Phụ nữ này như có “thiên nhãn” vậy, loại “con mắt thứ ba” rất tinh tường, hơn cả thầy tướng số, tử vi hay bói toán, bởi vì bà chỉ nhìn dáng người mà biết được Ê-li-sa là thánh nhân của Thiên Chúa. Rất tinh tế!

Có lần đến nơi ấy, ông lên phòng trên lầu và nghỉ ở đó. Ông bảo tiểu đồng Giêkhadi đi gọi bà Sunêm và dặn nó nói với bà ấy đừng quá lo lắng bận rộn vì thầy trò ông, và hỏi bà xem phải làm gì cho bà, có cần phải nói một lời với đức vua hay với tướng chỉ huy quân đội cho bà hay không. Bà khiêm nhường nói rằng bà vẫn sống yên hàn. Ông Êlisa hỏi tiểu đồng nên làm gì cho bà ấy. Giêkhadi nói: “Tội nghiệp, bà ấy không có con trai, mà chồng thì đã già.” Ông Êlisa bảo tiểu đồng đi gọi bà ấy. Nó đi gọi bà và bà ấy đến. Ông Êlisa nói: “Vào thời kỳ này, vào độ này sang năm, bà sẽ được bế con trai.” Bà quan ngại: “Không, thưa ngài, người của Thiên Chúa, xin đừng lừa dối nữ tỳ ngài!” Thế nhưng sau đó bà ấy có thai, và đúng năm sau, cũng vào độ mà ông Êlisa đã nói, bà sinh một con trai. Cuộc giao tiếp thận trọng và đầy tính nhân bản, vì đôi bên đều biết mình phải làm gì.

Đứa trẻ lớn khôn theo thời gian. Một hôm, khi nó đi kiếm cha giữa những người thợ gặt, nó nói với cha: “Ôi, cái đầu con! Cái đầu con!” Người cha bảo đầy tớ bồng nó về cho mẹ nó. Người mẹ ôm con tới trưa thì nó chết. Bà đem nó lên đặt trên giường dành cho người của Thiên Chúa, đóng cửa lại. Bà đi gọi chồng và bảo chồng sai đầy tớ với một con lừa cái đến với bà, bà sẽ chạy đến người của Thiên Chúa, rồi sẽ về. Người chồng hỏi tại sao bà lại đi gặp ngài vào hôm đó, vì chưa tới ngày đầu tháng, cũng chẳng là ngày sa-bát. Bà bảo ông cứ yên tâm.

Anh đầy tớ đưa bà đi, chỉ dừng xe khi bà bảo. Bà đến với người của Thiên Chúa ở núi Các-men. Vừa thấy bà từ xa, người của Thiên Chúa nói với tiểu đồng ra đón bà, hỏi ông bà và cậu bé có được mạnh khoẻ không. Bà bình tĩnh và tế nhị trả lời: “Vâng, mạnh khoẻ cả.” Nhưng khi đến gần người của Thiên Chúa ở trên núi, bà ôm lấy chân ông. Giê-kha-di tiến tới, đẩy bà ra, nhưng người của Thiên Chúa bảo: “Để yên cho bà ấy, vì tâm hồn bà đang phải cay đắng. Đức Chúa đã giấu ta điều ấy, Người không cho ta biết.” Bà nói: “Nào tôi có xin ngài cho tôi được đứa con đâu? Tôi đã chẳng nói là xin đừng đánh lừa tôi đó sao?” Khoảng buồn khôn tả!

Tuy nhiên, ông Êlisa bảo Giêkhadi thắt lưng và lấy gậy của ông mà đi, gặp ai thì đừng có chào, ai chào thì đừng đáp lại, rồi đặt gậy của ông trên mặt cậu bé. Người mẹ nói: “Có Đức Chúa hằng sống và có ngài đang sống đây, tôi xin thề sẽ không rời xa ngài.” Ông trỗi dậy và đi theo bà. Giêkhadi đã đi trước hai người và đặt gậy trên mặt cậu bé; nhưng không nghe thấy tiếng, không thấy động đậy. Anh ta quay lại đón ông Êlisa và nói: “Cậu bé đã không thức dậy.” Khi ông Êlisa tới nhà thì cậu bé đã chết trên giường của ông. Ông đi vào, đóng cửa lại, chỉ có hai người ở bên trong, rồi cầu nguyện với Đức Chúa. Sau đó, ông làm động tác “kỳ lạ” lắm: Ông lên giường nằm lên trên đứa trẻ, kề miệng ông trên miệng nó, kề mắt ông trên mắt nó, đặt bàn tay ông trên bàn tay nó. Ông cứ nằm trên đứa trẻ, và rồi da thịt nó dần nóng lên. Ông đi đi lại lại trong nhà, rồi lại lên nằm trên nó. Nó hắt hơi bảy lần và mở mắt ra. Thật kỳ diệu, cậu bé đã hồi sinh!

Ông Êlisa bảo Giêkhadi gọi ngừi mẹ. Đây là lần thứ ba nó làm theo lời ông Êlisa. Nó đi gọi bà. Bà đến. Ông nói: “Bà hãy đem con đi!” Bà đi vào, quỳ dưới chân ông, rồi sụp xuống đất lạy ông. Sau đó, bà bế con trai đi. Phép lạ nhãn tiền. Và chỉ có Thiên Chúa làm được như vậy!

Sau sự kiện lạ lùng này, chúng ta còn được biết thêm về vụ “nồi cháo độc” ở Ghin-gan. (x. 2 V 4:38-44) Quả thật, ông Êlisa là “người của Thiên Chúa” như phụ nữ Sunêm đã nói. Nồi cháo đầy độc tố hóa thành “nồi cháo ngon” vì mọi người ăn mà không chết. Chất độc kia lại là “gia vị” lạ lùng và ngon vô cùng!

Không hạnh phúc nào mà vắng bóng gian khổ, không thành công nào mà không có thất bại. Vinh quang có được là nhờ dày công khổ luyện. Đó là hệ lụy tất yếu. Ngôn sứ Isaia xác định: “Vì lòng mến Sion, tôi sẽ không nín lặng, vì lòng mến Giêrusalem, tôi nghỉ yên sao đành, tới ngày đức công chính xuất hiện tựa hừng đông, ơn cứu độ của thành rực lên như ngọn đuốc. Rồi muôn dân sẽ được chiêm ngưỡng đức công chính của ngươi, mọi đế vương sẽ được ngắm nhìn vinh quang ngươi tỏ rạng. Người ta sẽ gọi ngươi bằng tên mới, chính là tên miệng Đức Chúa đặt cho.” (Is 62:1-2) Tất cả gian khó đã qua, tủi nhục đã hết: “Ngươi sẽ là ngọc miện huy hoàng trong lòng bàn tay Đức Chúa, sẽ là mũ triều thiên vương giả Thiên Chúa ngươi cầm ở tay.” (Is 62:3)

Và từ nay, chẳng ai còn réo tên mà mỉa mai là “đồ bị ruồng bỏ” hoặc mang tiếng là “phận bạc duyên đơn,” nhưng được trìu mến gọi là “ái khanh,” là “duyên thắm chỉ hồng.” Tại sao? Vì được Đức Chúa đem lòng sủng ái và lập hôn ước. Hoàn toàn thuộc về Chúa, hạnh phúc biết bao! Kinh Thánh so sánh: “Như tài trai sánh duyên cùng thục nữ, Đấng tác tạo ngươi sẽ cưới ngươi về; như cô dâu là niềm vui cho chú rể, ngươi cũng là niềm vui cho Thiên Chúa ngươi thờ.” (Is 62:5)

Đó cũng là hình bóng của chúng ta, những người đã được Đức Giêsu Kitô cứu chuộc bằng Giá Bửu Huyết vô giá của Ngài. Vì thế, chúng ta phải dành trọn cả cuộc đời mà nức tiếng xưng tụng Thiên Chúa, đồng thời còn phải mời gọi người khác cùng hợp lời tán dương.

Ngày xưa, Thánh Vịnh gia không thể cầm lòng nên đã phải thốt lên: “Hãy đến đây ta reo hò mừng Chúa, tung hô Người là Núi Đá độ trì ta, vào trước Thánh Nhan dâng lời cảm tạ, cùng tung hô theo điệu hát cung đàn. Bởi Đức Chúa là Chúa Trời cao cả, là Đại Vương trổi vượt chư thần. Bởi chính Người là Thiên Chúa ta thờ, còn ta là dân Người lãnh đạo, là đoàn chiên tay Người dẫn dắt. Ngày hôm nay, ước gì anh em nghe tiếng Chúa!” (Tv 95:1-3) Nhưng chúng ta cứ nói rồi thôi, hứa rồi quên. Bản chất phàm nhân là thế, và hầu như ai cũng có máu của dòng tộc “họ hứa.”

Thiên Chúa biết rõ như vậy nhưng Ngài vẫn làm thinh, chờ chúng ta sám hối. Ngày xưa, chính Ngài đã cảnh cáo dân, và ngày nay Ngài cũng đang cảnh báo đối với mỗi chúng ta: “Các ngươi chớ cứng lòng như tại Mơriva, như ngày ở Maxa trong sa mạc, nơi tổ phụ các ngươi đã từng thách thức và dám thử thách Ta, dù đã thấy những việc Ta làm. Suốt bốn mươi năm, dòng giống này làm Ta chán ngán.” (Tv 95:8-10)

Có nhiều đặc sủng nhưng chỉ xuất phát từ một gốc là Thiên Chúa. Ngôn sứ Gioan Tẩy Giả đã minh định: “Chẳng ai có thể nhận được gì mà không do Trời ban.” (Ga 3:27) Đó là chân lý muôn thuở, bất biến. Thánh Phaolô phân tích: “Có nhiều đặc sủng khác nhau, nhưng chỉ có một Thần Khí. Có nhiều việc phục vụ khác nhau, nhưng chỉ có một Chúa. Có nhiều hoạt động khác nhau, nhưng vẫn chỉ có một Thiên Chúa làm mọi sự trong mọi người. Thần Khí tỏ mình ra nơi mỗi người một cách, là vì ích chung.” (1 Cr 12:4-7)

Để rõ ràng hơn, Thánh Phaolô lý giải: “Người thì được Thần Khí ban cho ơn khôn ngoan để giảng dạy, người thì được Thần Khí ban cho ơn hiểu biết để trình bày. Kẻ thì được Thần Khí ban cho lòng tin; kẻ thì cũng được chính Thần Khí duy nhất ấy ban cho những đặc sủng để chữa bệnh. Người thì được ơn làm phép lạ, người thì được ơn nói tiên tri; kẻ thì được ơn phân định thần khí; kẻ khác thì được ơn nói các thứ tiếng lạ; kẻ khác nữa lại được ơn giải thích các tiếng lạ. Nhưng chính Thần Khí duy nhất ấy làm ra tất cả những điều đó và phân chia cho mỗi người mỗi cách, tuỳ theo ý của Người.” (1 Cr 12:8-11) Người khác thế nọ, bạn thế kia, còn tôi thế này. Không ai giống ai. Đừng tưởng tôi “ngon” hơn người mà khoe mẽ, vênh vang tự đắc. Được ơn mà không làm vinh danh Chúa và không sinh lợi thì còn khốn hơn người khác. Sự khác nhau không phải để khen chê nhau, mà là để bổ túc lẫn nhau, đặc biệt là để nâng đỡ nhau.

Sự kiện tiệc cưới tại Cana (Ga 2:1-12) là trình thuật Tin Mừng rất quen thuộc. Qua đó, chúng ta thấy Đức Mẹ rất tinh tế đối với người khác, đặc biệt là tình huống khó xử của đôi tân hôn. Rượu cũng là vấn đề quan trọng với ý nghĩa “men tình yêu” trong đời sống hôn nhân gia đình.

Hôm đó, Đức Mẹ và Đức Giêsu cùng với các môn đệ được mời dự một tiệc cưới tại Cana, miền Galilê. Tiệc vui đang lúc cao trào thì có “sự cố” ngoài dự tính của gia chủ: Hết rượu. Đức Mẹ rất tinh ý nên biết gia chủ đang khó xử vì thiếu rượu. Hiểu ý, Đức Mẹ nói nhỏ với Đức Giêsu: “Họ hết rượu rồi.” Thế nhưng Đức Giêsu lại thản nhiên: “Mẹ ơi, chuyện đó can gì đến Mẹ và Con? Giờ của Con chưa đến.” Mặc dù nghe Con Trai nói vậy, Đức Mẹ vẫn nói với gia nhân: “Hễ Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo.” Đức Mẹ biết rõ Chúa Giêsu sẽ hành động, và Đức Mẹ cũng biết mình làm điều hợp lý.

Ở đó có sáu chum đá dùng vào việc thanh tẩy theo tục lệ Do Thái, mỗi chum chứa được khoảng 80 – 120 lít nước. Tính đổ đồng mỗi chum chứa 100 lít nước, vậy là 600 lít. Người ta có uống nhiều lắm thì cũng chỉ trăm lít thôi. Hết rượu hóa thành còn rượu, thậm chí là thừa rượu.

Người ta đổ đầy nước vào các chum theo lời Chúa Giêsu nói, vì đã được Đức Maria dặn trước rồi. Họ đổ nước vào các chum rồi, Ngài bảo họ múc và đem cho ông quản tiệc. Ông này nếm thử thì thấy rượu hảo hạng mà không biết từ đâu ra mà nhanh và ngon như vậy. Người quản tiệc nói với tân lang: “Ai cũng thết rượu ngon trước, và khi khách đã ngà ngà mới đãi rượu xoàng hơn. Còn anh, anh lại giữ rượu ngon mãi cho đến bây giờ.” Chú rể cũng ngạc nhiên vì không hiểu gì, cười trừ thôi. Chắc chắn chú rể là người hạnh phúc nhất, gấp không thể diễn tả bằng lời.

Rượu hết lại có. Tình yêu hôn nhân gia đình cũng vậy. Cuộc sống khó khăn có thể làm cho tình yêu cằn cỗi, khô dần, nhưng không thể cạn kiệt. Tình yêu là chất men làm dậy men cả thúng bột hôn nhân và thúng bột gia đình. Chỉ cần có chút men tình yêu thì phép lạ sẽ xảy ra. Thiên Chúa không muốn hành động một mình, Ngài muốn con người cộng tác với Ngài để cùng xây dựng tổ ấm như Thiên Đàng ngay trên trần gian này vậy. Rượu tình càng ngon thì hôn nhân và gia đình càng say đắm trong Đức Giêsu Kitô, Đấng là tình yêu – như Thánh Gioan đã định nghĩa. (1 Ga 4:8 và 16)

Thánh Gioan cho biết rằng phép lạ tại tiệc cưới Cana là dấu lạ đầu tiên Đức Giêsu đã thực hiện khi công khai sứ vụ. Cana chỉ là ngôi làng nhỏ bé nhưng đã được nhiều người biết đến, bởi vì được Chúa Giêsu chọn làm nơi vinh danh Thiên Chúa. Thấy dấu lạ nhãn tiền, các môn đệ đã tin vào Ngài và can đảm đi theo Ngài tới cùng.

Lạy Thiên Chúa từ bi nhân hậu, xin tạo men yêu nơi chúng con để chúng con luôn tin yêu Ngài qua tha nhân, đủ sức vượt qua mọi nghịch cảnh. Xin giúp chúng con biết đồng cảm với mọi người như Đức Mẹ đã thể hiện. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.

Về mục lục

PHÉP LẠ ĐẦU TIÊN CỦA CHÚA GIÊSU

Giuse Phạm Đình Ngọc

 “Họ hết rượu rồi.” (Ga 2,3)

Quý vị thân mến,

Trong khi rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu làm rất nhiều phép lạ mà các Thánh sử đã kể lại. Những phép lạ ấy không chỉ thể hiện uy quyền của Con Thiên Chúa đến từ trời cao, nhưng còn thể hiện lòng thương xót vô bờ của thầy Giêsu dành cho nhân loại. Chúng ta vẫn biết phép lạ là việc Thiên Chúa làm, có thể nhận biết bằng giác quan, như dấu chỉ của sự hiện diện và ý hướng cứu độ của Ngài. Trong Chúa Nhật 2 thường niên hôm nay, độc giả sẽ ngạc nhiên khi thấy phép lạ đầu tiên Đức Giêsu làm lại liên quan đến một đám cưới của người Do Thái. Chỉ có thánh Gioan “quay lại” cảnh phép lạ này tại Cana, gần Nadarét, miền Galilê. (Ga 2,1–11).

Sau khi chọn gọi các môn đệ đầu tiên (trong đó có Na–tha–na–en)[1], Đức Giêsu cùng với các ông đến miền Cana để tham dự một đám cưới. Cũng như Nadarét, làng Cana chẳng giàu có gì. Tại sao họ lại được mời? Có thể gia đình cô dâu chú rể có họ hàng với Đức Mẹ, nên các môn đệ cũng đi “ăn ké”. Hoặc Na–tha–na–en là người Cana nên có liên hệ với đám cưới này, rồi họ mời ông và những người khác trong nhóm của ông. Lý do thứ ba có thể gia chủ mời cả Đức Mẹ, Đức Giêsu và các môn đệ đến dự tiệc cưới. Càng đông, càng vui! Dẫu sao, trong tiệc cưới ngày hôm ấy có Maria, Đức Giêsu và các môn đệ cũng được mời tham dự.

Dĩ nhiên rượu là thứ không thể thiếu trong một bữa tiệc, nhất là tiệc mừng ngày thành hôn.[2] Thời đó người ta thường dùng rượu nho để nâng ly chúc mừng cô dâu chú rể. Tuy nhiên đám cưới này đang rơi vào thế kẹt vì thiếu rượu. Chạy đâu đi mua hoặc đi mượn bây giờ! Với số lượng thực khách đông đảo, chắc hẳn đôi tân hôn không thể làm gì khác ngoài lời xin lỗi hết rượu.

Trong lúc ấy, chính Mẹ Maria đã nhận ra lo lắng “trăm mối tơ vò” của gia chủ. Mẹ nhạy cảm nhận ra nhu cầu cấp thiết của đôi tân hôn. Có thể Mẹ là người trong dòng họ gia đình, nên Mẹ sớm nhận ra vấn đề ấy. Biết sao bây giờ? Mẹ cũng chẳng làm gì khác hơn là than thở với Giêsu, con của Mẹ: “Họ hết rượu rồi?” Hẳn là Mẹ không yêu cầu Giêsu làm một phép lạ, bởi từ trước tới giờ Mẹ chưa từng thấy con của mình làm dấu lạ hay phép lạ nào. Thôi thì Mẹ chia sẻ lo lắng với Giêsu để chia vơi nỗi lo cùng đôi tân hôn.

Mẹ và các môn đệ ngạc nhiên về câu trả lời của Thầy: “Hỡi người nữ, cái gì cho con và cho bà.” (dịch sát nghĩa). Thầy gọi Mẹ Maria trong đại từ  “người phụ nữ” để cho thấy kiểu nói của người Do Thái thời ấy: Thầy từ chối can thiệp vào trường hợp này, vì chưa đúng lúc. (Giống như ngày xưa vua Đa–vít trả lời bà Xơ–ru–gia: “Chuyện của ta can gì đến các người, hỡi các con bà Xơ–ru–gia.” (2 Sm 16,10.) Thôi thì Thầy đã từ chối làm chuyện phi thường lúc này. Biết sao được?!

Mẹ bước ra gặp các gia nhân dặn họ nếu Thầy bảo gì các ông cứ làm theo. Hóa ra Mẹ vẫn còn hy vọng từ người con của mình. Đừng quên chính Chúa Giêsu “nhờ sự tin tưởng của cha mẹ mà Ngài lớn lên trong tự do và học cách bước đi với tất cả những người khác.” (Tông Huấn Đức Kitô Sống, số 29).

Nhìn quanh đám tiệc, chú ý đến cô dâu chú rể, Đức Giêsu chắc hẳn thương cho đôi tân hôn. Thầy cũng sợ niềm vui của họ không trọn vẹn nên bảo các gia nhân đổ nước vào chum. Ở đó có sáu cái chum, mỗi chum chứa độ 80–120 lít nước. Thế là họ đổ đầy nước đến miệng chum. Khi hoàn tất nhiệm vụ, Đức Giêsu bảo họ múc đem cho quản tiệc. Ông ta nếm thử nước đã hóa thành rượu thì ngạc nhiên khôn cùng. Ở đâu ra thứ rượu ngon như thế này! Ông còn trách tân lang tại sao không thết đãi rượu ngon trước.

Từ giây phút đó, đám cưới thêm vui vì có rượu ngon hảo hạng, đôi tân hôn thêm hạnh phúc vì có Thầy Giêsu làm dấu lạ đầu tiên trong tiệc cưới của mình. Chúc mừng đôi bạn! Từ ngày hôm đó, phép lạ này luôn nổi tiếng trong những đám cưới của người Kitô giáo. Nổi tiếng vì đôi bạn được Chúa Giêsu thánh hóa. Ngài nâng ly rượu mừng, chúc phúc cho mối tình của đôi bạn. Qua đó, Thiên Chúa kết hợp họ “thành một xương một thịt.” Ngài ban ơn thiêng để kết nối đôi bạn trọn đời bên nhau. Ngài thánh hóa gia đình mới để trong đời sống, họ luôn “dắt dìu nhau trên đường tình, dìu nhau trên con đường mến yêu.”

Nếu có dịp đi Đất Thánh, người ta thường thăm lại ngôi nhà đặc biệt ở tại Cana. Nơi đây còn lưu giữ biết bao kỷ niệm của lần Đức Giêsu làm phép là đầu tiên. Người ta còn chứng kiến các chum rượu cũ sờn với thời gian được đặt dưới tầng hầm nhà thờ. Các đoàn hành hương thường dâng thánh lễ cho các đôi vợ chồng để nhớ lại biến cố ngày xưa với ước mong: Thiên Chúa chúc phúc cho tình yêu vợ chồng.

Hẳn rằng ai trong chúng ta cũng nhận thấy nét đẹp và tầm quan trọng của đời sống hôn nhân. Tiếc rằng thời đại hôm nay, cuộc sống gia đình đang phải đối diện với quá nhiều khủng hoảng. Trong gia đình, không phải lúc nào đôi bạn cũng hạnh phúc như ngày thành hôn, không êm đẹp như cái thuở ban đầu. Bởi đó, kiến tạo một gia đình hạnh phúc đòi hỏi rất nhiều tình yêu và ơn sủng. Cần tình yêu để duyên tình của đôi tân hôn mãi nở hoa, cần Thiên Chúa để Người ban ân sủng cho họ trong cuộc sống lứa đôi. Được như thế, chắc hẳn Chúa Giêsu không chỉ làm phép lạ đầu tiên tại Cana, nhưng mỗi ngày, Người vẫn hằng trao ban nhiều phép lạ trong đời sống gia đình.

Hẳn rằng đôi bạn nào cũng muốn mời Chúa đến dự tiệc cưới. Trong ngày thành hôn, Chúa chúc phúc và ban ơn lành cho đôi tân hôn. Để từ đó về sau, đôi bạn bước vào đời sống gia đình luôn có Chúa ở cùng. Nhờ đó tình yêu của họ luôn thắm mãi tình ban đầu.

“Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa đến chung chia cuộc sống với họ. Ước mong mỗi đám cưới luôn có phép lạ xảy ra, vì có Chúa Giêsu hiện diện. Nhờ đó cuộc sống gia đình của chúng con thêm tươi đẹp và hạnh phúc dài lâu.” Amen.

…………..

[1] Thánh Bartolomeo – trong Phúc Âm đôi khi còn được gọi là Nathanael – là một trong mười hai tông đồ. Ngài quê ở thành Cana xứ Galilê.

[2] Hôn nhân trong xã hội Do Thái thời Chúa Giêsu: khi hôn ước được ký, việc đính hôn sẽ diễn ra. Sau đó khoảng 1 năm, hai người sẽ làm đám cưới, lễ thành hôn. Sau lễ cưới, dĩ nhiên là tới tiệc cưới thường diễn ra bên nhà trai, kéo dài cả tuần lễ.

Về mục lục

NIỀM VUI NÊN TRỌN

Thiên San

Tại tiệc cưới Cana, Đức Giêsu đã bày tỏ quyền năng của mình qua phép lạ biến những chum nước lã thành rượu ngon. Có thể nói, sự hiện diện của Đức Giêsu và Mẹ Maria là một ân phúc lớn lao cho cô dâu – chú rể và cho tất cả mọi người. Sự hiện diện ấy đem lại niềm vui trọn vẹn, đong đầy cách riêng cho cô dâu – chú rể. Đó cũng là dấu lạ đầu tiên Đức Giêsu thực hiện trong cuộc đời rao giảng công khai của mình. Phải chăng Mẹ Maria đã dẫn chúng ta đến gần với Thiên Chúa, với Con của Mẹ nhanh hơn.

Khi nuôi dạy Giêsu, Đức Maria và Thánh Giuse đã gặp không ít khó khăn. Các ngài hết ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác, thậm chí là không hiểu những điều đang xảy gia cho gia đình nhỏ của mình và nhất là cho con trẻ Giêsu. Tin Mừng từng kể rằng: “Cha mẹ Hài Nhi ngạc nhiên vì những điều người ta nói về Người” (Lc 2, 33), “Nhưng ông bà không hiểu lời Người vừa nói (Lc 2, 50), “Còn bà Maria thì hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy và suy đi nghĩ lại trong lòng” (Lc 2, 19). Tại tiệc cưới Cana hôm nay, chúng ta có thể thấy rằng, so với những ngày đầu mới làm mẹ, Đức Maria đã hiểu con mình hơn trước rất nhiều. Bởi Mẹ hằng gắn bó với con mình và hằng ghi nhớ, suy đi nghĩ lại trong lòng. Khi ngỏ lời với Con: “họ hết rượu rồi” và Mẹ nhận được câu trả lời: “Thưa bà, chuyện đó can gì đến bà và tôi? Giờ của tôi chưa đến” (Ga 2, 4), nhưng Mẹ vẫn căn dặn các gia nhân: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo” (Ga 2, 5).

Chúng ta có thể theo dõi diễn tiến phép lạ đầu tiên này qua lời kể của thánh Gioan tông đồ. Mỗi người chúng ta được mời gọi điều gì? Có lẽ, câu hỏi đầu tiên chúng ta cần đặt ra là: Tôi đã gắn bó, đã hiểu và đã yêu mến Chúa đến mức nào? Đức tin và lòng mến của tôi có lớn lên mỗi ngày? Tôi có đang đến với Chúa để đem Chúa đến với những người tôi gặp gỡ? Thiết nghĩ, đó là những câu hỏi giúp chúng ta phần nào phản tỉnh về bản thân, về đời sống đức tin và tương quan của ta với Ngài. Khi nhìn về gương Mẹ Maria, Mẹ để lại cho chúng ta mẫu gương tuyệt vời về việc lắng nghe và thực hành lời Chúa, một đời sống gắn bó thiết thân với Chúa. Mẹ đã trở thành trung gian chuyển trao tình thương, cầu nối, máng ân sủng của Thiên Chúa đến cho chúng ta. Tâm hồn Mẹ tràn đầy yêu thương, nhạy bén với những nhu cầu của tha nhân. Mẹ thấy trước điều gì sẽ xảy ra, Mẹ thấy và Mẹ đã tìm đến với Con của Mẹ. Và rồi phép lạ xảy ra. Có Mẹ dẫn chúng ta đến với Chúa, chúng ta còn lo sợ gì nữa.

Để niềm vui của chúng ta được nên trọn vẹn và nhất là để đến gần với Chúa hơn, chúng ta hãy chạy đến với Mẹ. Chúng ta có một Người Mẹ tuyệt vời để cậy nhờ, để yêu thương, để kêu cầu. Mẹ vẫn như xưa, tình yêu của Mẹ vẫn nguyên tuyền và tấm lòng của Mẹ vẫn hướng về chúng ta là đoàn con cái. Mẹ đã dạy chúng ta cùng một điều giống như Chúa Cha đã dạy. “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo” (Ga 2, 5), “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người” (Mc 9, 7). Chúng ta hãy làm theo mọi điều Chúa dạy để đáng được hưởng niềm vui trọn vẹn trong Chúa.

Về mục lục

KHÔNG CÒN PHẬN BẠC DUYÊN ĐƠN

Lm. Xuân Hy Vọng

Đối với mỗi văn hoá, cảm giác bị khinh chê, nhục nhã, xấu hổ có thể khác về cách bộc lộ cũng như biểu hiện, hoặc do các định chế bất thành văn của quốc gia đó. Đơn cử văn hoá Do Thái, khi người đàn bà son sẻ, hoặc vô sinh thì thường bị gán là ‘đồ bị ruồng bỏ’, ‘người bị trừng phạt’, và đây là nỗi ô nhục ghê gớm đối với giới phụ nữ Do Thái nói chung. Điều này nếu nhìn kỹ, nó cũng na ná với tư tưởng cổ hữu phong kiến của người Việt Nam ta, là điều không nên giữ lại, nhưng đâu đó vẫn còn diễn ra trong tư tưởng, tâm trí của chúng ta!

Thật vậy, thời ngôn sứ I-sai-a, dân Is-ra-el cũng đã trải qua thế sự chẳng đáng tự hào là mấy. Thế nhưng, nhờ “Đấng công chính xuất hiện, Đấng Cứu độ Si-on đến như ngọn đuốc sáng ngời…” (x. Is 62, 1), nhờ hồng phúc của Thiên Chúa, nhờ ân thưởng của Ngài, mà “chẳng ai còn réo tên ngươi (dân Is-ra-el): ‘Đồ bị ruồng bỏ!’ Xứ sở ngươi hết bị tiếng là ‘Phận bạc duyên đơn’…nhưng được gọi ‘Ái khanh lòng Ta hỡi!’ Xứ sở ngươi nức tiếng là ‘Duyên thắm chỉ hồng’” (x. Is 62, 4), vì chưng “ngươi (dân Is-ra-el) sẽ được Đức Chúa đem lòng sủng ái, và Chúa lập hôn ước cùng xứ sở ngươi” (Is 62, 4). Thiên Chúa đã thương đoái nhìn đến dân khốn cùng, Ngài hết lòng yêu thương và lập giao ước thân tình như thể ‘hôn ước’ giữa “trai tài sánh duyên cùng thục nữ, Đấng tạo tác ngươi sẽ cưới ngươi về. Như cô dâu là niềm vui cho chú rể, ngươi cũng là niềm vui cho Thiên Chúa ngươi” (x. Is 62, 4-5).

Mối tương quan giao ước kết chặt giữa Thiên Chúa với dân Is-ra-el vượt xa mối tình gắn bó thân mật giữa đôi vợ chồng. Vì đây chẳng phải là sự kết nối giữa hai con người với nhau, giữa hai loài thọ tạo với nhau, mà là giữa Đấng hoá công với loài được tạo dựng, giữa một Thiên Chúa yêu thương, hằng trung tín, đầy lòng xót thương với con người thấp hèn, yếu đuối, bất trung, bất tín vì sự mong manh, hèn kém! Tuy nhiên, khi nói đến hôn lễ của người Do Thái, đặc biệt trong tiệc cưới Ca-na như Tin Mừng hôm nay thuật lại, thì chúng ta có thể đặt ra một số câu hỏi: tại sao việc Chúa Giê-su làm phép lạ biến nước thành rượu hảo hạng lại cứu gia đình tân lang như ‘một bàn thua trông thấy’? Và biến cố này có sự tinh tế của Mẹ Ma-ri-a, có sự vâng phục không chút ngờ vực của những người gia nhân (người giúp việc), và dẫn đến niềm tin tưởng của các môn đệ vào Chúa Giê-su, đã đóng vai trò quan trọng thế nào trong tiệc cưới Ca-na nói chung và đời sống phu thê của đôi tân lang tân nương nói riêng?

Thoạt đầu, chúng ta đề cập đến một trong vô số điều khiến người Do Thái xấu hổ. Còn bây giờ, qua trình thuật phép lạ đầu tiên của Chúa Giê-su tại tiệc cưới Ca-na, chúng ta biết thêm điểm khác mà có thể dẫn tới sự bối rối, áy náy, thậm chí nhục nhã, hỗ ngươi của người Do Thái thời bấy giờ. ‘Rượu nồng se duyên, kết nối tâm hồn’, và ‘rượu mặn nồng’ biểu trưng cho niềm vui hoan hỷ bất tận, đặc biệt trong ngày cưới. Cho nên, việc bỗng dưng hết rượu, mà tiệc vui vẫn chưa kết thúc, là sự cố vô cùng xấu hổ đối với gia đình tân lang. Câu nói ngắn gọn hàm chứa ý nghĩa cứu giúp đôi vợ chồng trẻ này, hỗ trợ gia đình tân lang của Mẹ Ma-ri-a không thể không bắt nguồn từ một tâm hồn nhạy cảm, tinh tế, quan tâm đến nhu cầu của tha nhân sâu sắc như Mẹ: “…mẹ Chúa Giê-su nói với Ngài: ‘Họ hết rượu rồi’” (Ga 2, 2). Đây chính là tâm tình, tư tưởng của người mẹ thấu hiểu con cái, kịp thời giúp đỡ hàng xóm láng giềng đang trong tình cảnh khó xử. Hơn nữa, Mẹ sống lời “xin vâng” (x. Lc 1, 38) với tâm thế “hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy, và suy đi nghĩ lại (các biến cố) trong lòng” (x. Lc 2, 19) bằng cách dặn dò, truyền ‘năng lượng tích cực’, truyền tinh thần ‘vâng phục’ không một mảy mảy nghi ngờ cho những người giúp việc: “Hễ Ngài bảo gì, thì các anh cứ làm theo” (x. Ga 2, 4). Giả sử, các gia nhân này bất tuân, không cộng tác, không làm theo điều Chúa Giê-su bảo, vì lý do vệ sinh (các chum đá này thường được dùng vào việc thanh tẩy của người Do Thái, chứ chẳng phải vật dụng chuyên dùng để đựng rượu uống), thì phép lạ tại tiệc cưới Ca-na được diễn ra hay không? Chắc chắn sẽ được diễn ra, nhưng theo cách thức khác! Tuy nhiên, nêu ra giả sử này để chúng ta liên tưởng đến cuộc sống đức tin của mình. Nếu chúng ta không biết cộng tác, không để Chúa tự do biến đổi con người chúng ta, thì khó lòng có cảm nghiệm hoán cải như Thánh Phao-lô ‘ngã ngựa trên đường đi thành Đa-ma-cus’. Hơn nữa, đức tin của chúng ta cần được hung đúc, cần được mặn nồng nhờ vào ơn Chúa, nhờ vào Thần Khí, nhờ vào Lời Chúa.

Đời sống đức tin của chúng ta sẽ nhạt nhoà, nhạt nhẽo như mối gắn kết của đôi vợ chồng trẻ bị đứt đoạn, nếu ‘rượu nồng thắm tình’ cạn kiệt giữa buổi tiệc hân hoan. Đời sống đức tin chúng ta sẽ lạnh nhạt, phai mờ, có khi ‘chết cóng’ nếu thiếu vắng sự gắn kết với vô vàn ân sủng Thánh Linh, như Thánh Phao-lô đã quả quyết trong thư gửi cho giáo đoàn Cô-rin-tô: “có những hồng ân khác nhau, nhưng vẫn là một Thánh Thần; có nhiều chức vụ khác nhau, nhưng chính là một Chúa; và có những hành động khác nhau, nhưng chính là một Thiên Chúa, Ngài thực hiện hết mọi cái trong mọi người. Ơn Thánh Thần ban cho mỗi người mỗi khác, cốt để mưu cầu công ích” (1Cr 12, 4-7). Thật vậy, tuy khác nhau về nhiều mặt, nhưng chúng ta cùng chung một Thiên Chúa là Cha, cùng được cứu chuộc bởi Chúa Con, và cùng được ân ban, đỡ nâng, được lãnh nhận sứ vụ khác nhau, nhưng đều từ một Thần Khí. Vì thế, sự khác biệt không đẩy chúng ta đến chỗ tách rời, xa cách, chia rẽ nhau, nhưng chính nhờ Thánh Thần là nguồn ân sủng, gắn kết, liên đới chúng ta nên một, nâng đỡ đời sống đức tin chúng ta, xây dựng cộng đoàn hiệp nhất dựa trên đặc sủng, đoàn sủng, và các sứ vụ khác nhau: “Người thì được Thánh Thần ban cho lời khôn ngoan, kẻ khác thì được lời thông minh, theo cùng cùng một Thánh Thần; người khác được đức tin,…Nhưng cùng Thánh Thần duy nhất thực hiện tất cả những điều đó. Ngài ban phát ơn riêng cho mỗi người theo như Ngài quy định” (x. 1Cr 12, 8-11).

Có một giáo xự nọ, cha quản nhiệm phát hiện giáo dân của ngài rất ư tài năng, đủ mọi loại tài khác nhau; nếu dùng đúng nơi sẽ sản sinh nhiều hoa quả cho giáo xứ. Thế nên ngài bèn tổ chức những bữa tiệc mừng rượu quý linh đình, với mục đích gắn kết và mời gọi những giáo dân tài năng này cộng tác với giáo xứ, cũng như biết hỗ trợ nhau, làm việc chung với nhau. Tuy nhiên, ‘rượu vào thì lời ra’, mà ‘lời ra thì ông cũng như bà’, chẳng thể kiểm soát hành vi, ngôn từ làm tổn thương nhau. Lấy làm buồn vì sự thể ấy, cha xứ thay đổi bằng cách tổ chức các buổi cầu nguyện, đặc biệt đào sâu Kinh Thánh và học hỏi cũng như sống thân tình với Chúa Thánh Thần. Sau một thời gian khá dài, với sự nỗ lực, kiên tâm, mà giáo xứ cha trở nên đoàn kết, chung tay sống đời bác ái, tín thác, cậy trông nhờ:

‘Rượu nồng’ ân sủng Thánh Linh

Kết giao, liên đới thành hình yêu thương

Tuy khác nhau, nhưng chung đường

‘Chỉ hồng duyên thắm’ tựa nương bên Ngài…

Về mục lục

ĐỂ CHO TÌNH MÃI MẶN NỒNG

Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa

Trăm năm hạnh phúc là lời chúc không thể thiếu trong các tiệc cưới. Tình duyên mãi sắt son và mặn nồng là điều ai cũng ước mong khi bước vào đời sống hôn nhân – gia đình. Nói về chữ tình thì có lẽ tình hôn nhân đứng hàng đầu so với các thứ tình nhân loại khác như tình mẫu tử, phụ tử, bằng hữu… Đức Bênêđictô XVI đã nhận định: “Tình yêu này, tình yêu giữa người nam và người nữ, trong đó hồn xác kết hợp bất khả phân ly và mở ra cho con người một lời hứa hạnh phúc dường như không cưỡng lại được, có vẻ là kiểu mẫu của tình yêu; bên cạnh tình yêu này, thoạt nhìn mọi hình thức khác của tình yêu hầu như mờ nhạt đi” (TĐ Thiên Chúa Là Tình Yêu số 2).

Tình yêu hôn nhân được đề cao không nguyên chỉ vì người ta thoáng nhận ra nét đẹp là sự hết lòng và tính vô cầu nơi tình yêu này mà còn thấy được tầm quan trọng của nó là làm nên gia đình vốn là tế bào của xã hội. Quả thật lịch sử minh chứng rằng ở đâu mà tình yêu hôn nhân bị hạ giá thì ở đó đời sống xã hội dễ bị xuống cấp, bất ổn và nền đạo đức dễ bị băng hoại. Thánh Tông đồ dân ngoại đã dùng tình yêu đôi lứa làm dấu chỉ cho tình yêu của Đức Kitô dành cho Hội Thánh. Nhiều Ngôn sứ như Hôsê, Isaia cũng dùng hình ảnh tình yêu hôn nhân để diễn tả tình yêu của Thiên Chúa dành cho dân Người. “Như trai tài sánh duyên cùng thục nữ, Đấng tác tạo người sẽ cưới ngươi về. Như cô dâu là niềm vui cho chú rể, ngươi cũng là niềm vui cho Chúa ngươi thờ” (Is 62,5).

Con Thiên Chúa đã làm người, chào đời trong một mái gia đình. Khởi đầu công cuộc rao giảng Tin Mừng và trong lần đầu tiên thể hiện quyền năng, Chúa Giêsu đã cứu giúp một đôi tân hôn khỏi bẽ mặt trước quan khách trong một tiệc cưới. Qua bài tường thuật của tin mừng thánh Gioan về phép lạ hóa nước thành rượu ngon của Chúa Giêsu tại tiệc cưới Cana chúng ta có thể rút ra đôi điều nhận định về đời sống hôn nhân gia đình:

– Luôn có đó nhiều sự kiện hay biến cố dù không mong vẫn cứ đến, dù chẳng muốn vẫn cứ xảy ra. Đã tổ chức tiệc cưới thì việc chuẩn bị rượu cách đủ đầy và có dư là điều như tất yếu. Với người Do Thái thời bấy giờ thì đây là chuyện hẳn nhiên, vì theo phong tục tập quán thì tiệc cưới có thể kéo dài từ ba đến bảy ngày. Tiệc cưới tại Cana có thể nói là đám tiệc không nhỏ. Chúng ta có thể luận suy điều này vì có người quản tiệc và số lượng chum nước dùng cho việc thanh tẩy (sáu chum nước, mỗi chum khoảng từ 80 dến 120 lít nước). Tiệc lớn, ắt gia đình phải khá giả. Nhà khá giả thì chuyện chuẩn bị rượu cho khách không phải là chuyện quá sức và dĩ nhiên ít khi bị xao lãng. Thế mà tiệc chưa tàn thì rượu đã hết!

Từng hỏi nhiều đôi hôn nhân chung sống từ muời, hai muơi năm trở lên rằng các bạn đã bất hòa với nhau bao nhiêu lần, thì được câu trả lời là đếm không hết. Lại hỏi tần suất những lần mà những chuyện không như ý lớn nhỏ xảy ra là bao nhiêu, thì được trả lời là khoảng trên dưới một tháng một lần, có khi nhiều hơn. Quả thật khi đã chung sống, chung mâm, chung nhà, chung… thì khó tránh được sự “chung đụng” do nhiều nguyên nhân khách quan hay chủ quan từ phía này hoặc phía kia. Nhìn nhận hiện thực cuộc sống để rồi chủ động tìm cách giải quyết, khắc phục, nghĩa là để duy trì và phát triển sự mặn nồng của tình yêu.

– Ngoài nỗ lực của bản thân người trong cuộc là đôi bạn thì rất cần đến sự giúp đỡ của người thân và cả những người hữu quan miễn là họ vốn có tấm lòng và sự bén nhạy với các tình huống. Tấm lòng và sự nhạy bén của Mẹ Maria trong tiệc cưới Cana thì chúng ta đã rõ. Không kể Chúa Giêsu, có lẽ khách dự tiệc hôm ấy đang ở cao trào của tiệc vui vì tình trạng “ngà ngà say”, nên dường như chẳng có ai phát hiện sự cố thiếu rượu. Với tấm lòng nhạy bén, Mẹ Maria đã nhận ra sự cố này để rồi đến xin Chúa Giêsu ra tay can thiệp, cứu giúp.

“Chuyện mình thì quáng, chuyện người thì sáng”. Sự thường người ngoài cuộc thì dễ có sự bình tâm để nhìn nhận vấn đề hơn. Tuy nhiên người ở ngoài này phải có cái tâm, cái tình và cái nhìn cách nào đó như tình người trong cuộc, nghĩa là xem chuyện người như chuyện của mình. Để cho tình yêu hôn nhân vững vàng trước những sóng gió bể đời, thì sự góp phần của mẹ cha, ông bà, thân bằng quyến thuộc là điều đáng trân trọng và đáng cầu mong. Xin đừng quên vai trò thiết yếu và hữu hiệu của người Mẹ đã nhận nhân loại chúng ta làm con khi Người đứng dưới chân thập giá năm nào (x.Ga 19,26-27). Đến với Mẹ thì chắc chắn chúng ta sẽ được Mẹ dẫn đến với Giêsu, Con của Mẹ là Đấng mà không có sự gì là không thể làm được.

– Đã yêu thì không chờ cơ hội cũng chẳng đợi đến thời đến buổi. Dù chưa đến giờ bày tỏ vinh quang, nhưng vì yêu thương Chúa Giêsu đã ra tay giáng phúc cho đôi tân hôn hôm ấy. Dù đã cùng với các môn đệ lánh riêng một nơi để nghỉ ngơi thế mà trước đoàn lũ dân chúng đông đảo như chiên không người chăn thì Chúa Giêsu đã tiếp tục giảng dạy họ nhiều điều (x.Mc 6,30-34). Tình yêu đòi hỏi chúng ta phải làm ngay hôm nay những gì ở trong tầm tay. Thiên Chúa là Tình Yêu và với Người thì mọi sự đều là hiện tại. Đã yêu hay sẽ yêu thì chưa hẳn là yêu. Động từ yêu cần phải luôn ở trong thì hiện tại.

– Sự kiện Chúa Giêsu làm cho sáu chum nước tức là khoảng sáu đến bảy trăm lít nước lã hóa thành rượu ngon hảo hạng khiến chúng ta nhận ra một quy luật của tình yêu đó là phải nhiều và mặn nồng hơn mãi. Có lẽ nhiều đôi bạn như chưa nhận thức đủ quy luật này. Tương tự như sự học, chuyện tình yêu như con thuyền đi dòng nước ngược. Không tiến thì ắt lùi.

– Để mặn nồng trong tình yêu thì lời căn dặn của Mẹ Maria quả là rất đáng lắng nghe và tuân giữ: “Người bảo gì thì hãy làm theo”. Thực thi lời Chúa dạy là điều tất yếu, nếu muốn vẹn chữ tình. Xin chớ dong dài luận lý trước mệnh lệnh Chúa truyền nếu chúng ta đã tin nhận Người là Đấng toàn tri và nhân hậu vô cùng. Vẫn có đó nhiều lứa đôi than vãn rằng con cầu xin mãi mà Chúa chưa ban cho gia đình ấm êm, thuận hòa. Trong nhiều lý do thì thường có lý do này là họ vẫn mãi cố chấp biện minh cho mình mà không thực thi điều Chúa phán trong lương tâm hay qua sự hướng dẫn của các mục tử hay qua sự khuyên bảo của những người khôn ngoan và đầy thiện ý.

– “Hãy đổ nước đầy các chum!” Đây là nước dùng cho việc thanh tẩy theo tục lệ của người Do Thái thời bấy giờ. Tập tục lúc bấy giờ, khi dùng bữa người Do Thái không ngồi trên ghế mà nằm nghiêng giữa sàn nhà. Vì thế việc rửa chân tay không chỉ mang tính lễ nghi thanh tẩy theo truyền thống mà còn để giữ vệ sinh cho sàn nhà, nơi các thực khách nằm mà dùng bữa. Để giữ sự mặn nồng tình yêu thì Chúa Giêsu lại ra lệnh làm một việc của sự thanh tẩy. Điều này nhắc nhớ chúng ta sự thật này: những bất hòa, bất ổn trong tình yêu hôn nhân gia đình thường có nguyên nhân là lỗi hay tội của ai đó hay của cả đôi bên. Thanh tẩy tâm hồn là điều cần thực hiện liên lĩ. Thanh tẩy không nguyên chỉ để cho tâm hồn mình trong sáng, tinh sạch mà còn vì hạnh phúc của người mình yêu thương.

Tu thân -Tề gia – Trị quốc – Bình thiên hạ. Cái nhìn của người xưa vẫn chưa hề lỗi vậy.

Về mục lục

CHÚA LÀM CHAN CHỨA TÌNH NỒNG

Lm. Nguyễn Xuân Trường

Phúc Âm kể chuyện Chúa Giêsu đi dự tiệc cưới. Thế nên, cha xứ có đi ăn cưới cũng là noi gương Chúa Giêsu đấy. hihii !!!! Tiệc cưới Cana quá đặc biệt, vì ở đó, Chúa đã thực hiện dấu lạ đầu tiên hóa nước thành rượu ngon ngọt ngào hạnh phúc tình vợ và chồng, tình Chúa và nhân loại.

1. Tình nồng vợ chồng. Khởi đầu, Chúa đã không bảo Ađam đi tu, mà bảo ông đi lập gia đình. Rồi Chúa làm phép lạ đầu tiên tại một đám cưới. Chứng tỏ Chúa rất quan tâm đến đời sống hôn nhân gia đình. Hôn nhân Công giáo đã trở thành một bí tích, là dấu chỉ tình yêu giữa Thiên Chúa và con người, giữa Chúa Kitô và Hội Thánh. Đây là nền tảng sâu xa nhất để xây dựng một gia đình trọn đời gắn bó thủy chung. Đời sống gia đình có khi bị hết rượu nồng tình yêu, nhưng nếu mời Chúa vào nhà, Chúa tình yêu sẽ làm cho nước lã hóa thành rượu ngon. Men rượu, men tình đều làm cho người ta lâng lâng ngây ngất. Thế là gia đình lại chất ngất yêu thương.

2. Tình Chúa và con. Vì là dấu lạ, nên tiệc cưới Cana không chỉ là đám cưới của đôi nam nữ, nhưng còn là dấu chỉ cho cuộc hôn nhân vĩ đại giữa Thiên Chúa và con người được thực hiện nơi Đức Giêsu. Tình Chúa và con người vì tội lỗi đã làm cho tình nồng hóa tình nhạt như nước lã. Nhưng Chúa Giêsu đến đã làm cho tình Trời với đất lại thân mật nồng nàn hơn xưa, lại dạt dào niềm vui hạnh phúc như mối tình cô dâu chú rể được diễn ta trong bài đọc I:

“Như trai tài sánh duyên cùng thục nữ, Đấng tác tạo ngươi sẽ cưới ngươi về. Như cô dâu là niềm vui cho chú rể, Ngươi cũng là niềm vui cho Thiên Chúa ngươi thờ.”

Dấu lạ tại Cana xảy ra nhờ vai trò trung gian quan trọng của Mẹ Maria: Mẹ thưa với Chúa, Mẹ bảo gia nhân. Thế nên, nếu muốn gia đình mình và cả gia đình nhân loại nồng nàn tình yêu, chan chứa niềm vui hạnh phúc như cô dâu chú rể thì hãy mời Chúa, mời Mẹ vào nhà mình. Amen.

Về mục lục

CHÚA CỨU VÃN HẠNH PHÚC GIA ĐÌNH

Lm. Inhaxiô Trần Ngà

Khi được mời dự tiệc cưới tại Cana, Mẹ Maria không ngồi vào bàn ăn uống trò chuyện với mọi người như một người khách; trái lại, với tất cả tình yêu của người mẹ hiền, Mẹ đảm nhận vai trò người tôi tớ hầu hạ phục dịch mọi người. Chính vì thế, dù là người không uống rượu, Mẹ là người đầu tiên phát hiện ra các hũ rượu đã cạn rồi.

Nguy quá, biết làm sao để cứu đôi tân hôn khỏi bẽ mặt, cho thực khách được vui vầy. Thế là Mẹ chạy đến xin Chúa Giê-su giải quyết. Mặc dù chưa hề thấy Chúa Giê-su làm bất cứ dấu lạ nào, Mẹ cũng vững tin là Ngài có cách giải quyết vấn đề. Thế nên, Mẹ mới gọi những người giúp việc đến và bảo họ: “Hễ Ngài bảo gì thì các anh hãy làm theo.”

Những người nầy rất ngạc nhiên trước lời khuyến dụ của Mẹ Maria, tuy nhiên, họ vẫn vâng theo lời Mẹ.

Thế rồi Chúa Giê-su đến nói với họ: “Các anh hãy múc nước đổ đầy các chum nầy đi.”

Những chum nầy chứa nước cốt để cho thực khách rửa tay chân, mặt mày trước khi vào bàn tiệc. Giờ đây mọi người đã nhập tiệc và đang vui đùa ăn uống, thì đổ vào làm gì? Thế nhưng, vì vâng lời Mẹ dặn “Hễ Ngài bảo gì thì hãy làm theo”, nên các anh vâng lệnh Chúa truyền.

Khi sáu chum đá đã đầy nước, Chúa Giê-su truyền cho các người giúp việc múc nước cho người chủ tiệc nếm, bấy giờ mọi người đều sửng sốt vì nước đã hóa thành rượu ngon. Thế là phép lạ xảy ra cách tuyệt vời!

Hôm nay, tuy gia đình, xóm giềng chúng ta không thiếu rượu, nhưng có thể đang thiếu tình thương, thiếu lòng tha thứ, thiếu tinh thần hy sinh phục vụ và chúng ta rất cần Chúa đến cứu chúng ta thoát khỏi tình cảnh đáng buồn nầy.

Chúa Giê-su sẵn sàng cứu giúp chúng ta như xưa Ngài đã cứu giúp đôi tân hôn tại tiệc cưới Ca-na. Hôm nay, Ngài không bảo chúng ta hãy đổ nước đầy các chum đá, nhưng Ngài bảo: “Hãy đổ đầy tình yêu thương vào trái tim các con, rồi rót tình yêu đó cho mọi người.” Nếu chúng ta làm theo lời Chúa dạy, thì phép lạ yêu thương sẽ xảy ra. Gia đình chúng ta đang ngột ngạt vì thiếu tình thương sẽ chan hòa hạnh phúc, xóm làng chúng ta sẽ chan chứa niềm vui.

Và Chúa Giê-su cũng dạy bảo chúng ta: “Hãy đổ đầy tha thứ ngập lòng các con.” Nếu chúng ta làm theo lời Chúa dạy, một phép lạ tuyệt vời khác cũng sẽ xảy ra: Gia đình chúng ta không còn xích mích bất hòa nhưng luôn thuận hòa êm ấm. Làng xóm chúng ta không còn ghen ghét giận hờn nhưng luôn vui vẻ bình an.

Rồi Chúa Giê-su lại bảo chúng ta: “Hãy đổ đầy tâm hồn con tinh thần hy sinh và phục vụ.” Nếu chúng ta làm theo lời Chúa dạy, một phép lạ thần kỳ khác sẽ xảy ra: Gia đình, xóm làng, xứ đạo chúng ta sẽ phát triển tốt đẹp và mọi người đoàn kết gắn bó với nhau trong tình nghĩa anh em một nhà.

Lạy Chúa Giê-su, Nếu những người giúp việc trong tiệc cưới Ca-na không vâng lời Chúa dạy, không đổ nước đầy sáu chum đá thì sẽ chẳng có rượu ngon dư dật cho những người dự tiệc hôm ấy.

Và hôm nay, nếu chúng con không vâng lời Chúa truyền, không đổ đầy yêu thương, lòng tha thứ, tinh thần hy sinh phục vụ… vào tâm hồn mình, thì gia đình, làng xóm chúng con không hy vọng có hạnh phúc, đoàn kết, an vui.

Xin cho chúng con vâng theo lời Chúa để cuộc sống gia đình của chúng con và mọi người được chan hòa hạnh phúc, yêu thương. Amen.

Về mục lục

NGƯỜI BẢO GÌ, CÁC ANH CỨ LÀM THEO

Lm. Phaolô Phạm Trọng Phương

Trong phần phụng vụ của Chúa nhật II thường niên C hôm nay, chúng ta được mời gọi tham dự tiệc cưới với Chúa Giê-su tại Cana. Chính tại nơi đây, Đức Giê-su đã làm phép lạ đầu tiên bằng cách biến nước thành rượu. Việc biến nước thành rượu của Đức Giê-su trong bữa tiệc hôm nay có sự can thiệp rất quan trọng của Đức Maria. Cùng tham dự tiệc cưới tại Cana hôm nay, ngoài thực khách của chú rể cô dâu, còn có sự tham dự của Đức Giê-su, Đức Maria và các Tông Đồ. Chúng ta thấy sự tinh ý của Đức Maria khi quan sát thấy tiệc đang vui mà rượu nồng lại bị hết mất, và vì tinh tưởng vào quyền năng của Đức Giê-su, nên Mẹ đã ngỏ ý ngay với Con của Mẹ là Đức Giê-su: “Họ hết rượu rồi” (Ga 1, 3). Một sự quan tâm hết sức ý nghĩa của Đức Maria ngay lúc mọi người đang bị thiếu thốn. Nhưng Đức Giê-su đã trả lời Đức Maria xem ra hơi lạnh nhạt và như giả vờ không quan tâm đến chuyện ‘bao đồng’, Ngài đáp: Thưa bà, chuyện đó can gì đến bà và tôi? Giờ của tôi chưa đến”. (c.4). Chúng ta tin chắc rằng Đức Giê-su, là hình ảnh Thiên Chúa tình yêu, Ngài luôn biết trước mọi sự và luôn luôn chạnh lòng thương, vì thế, chuyện Đức Maria quan tâm cũng là chuyện của Đức Giê-su. Cho nên khi Đức Maria đặt vấn đề với Đức Giê-su về việc thiếu rượu tại tiệc cưới là điều Đức Giê-su đã biết và muốn đưa Mẹ Ngài cùng can thiệp vào sự giúp đỡ, giải cứu và chạnh lòng thương tới tha nhân. Quả thật, chúng ta thấy rằng đây không là điều đáng trách nhưng là lời đáng khen qua sự can thiệp của Đức Giê-su đối với Đức Maria.

Về phần Đức Maria, Mẹ vẫn luôn tin tưởng vào Con của Mẹ, vì thế, dù Đức Giê-su trách nhẹ Mẹ nhưng Mẹ vẫn nói với gia nhân: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo”. (c.5) Đây mới là vấn đề mà chúng ta sẽ làm rõ hơn trong bài chia sẻ này. Thật vậy, vì tin tưởng vào quyền năng của Đức Giê-su, Ngôi Lời Thiên Chúa nhập thể, con của Đức Maria, Đức Maria không ngần ngại để minh định rằng: Người bảo gì, các anh cứ làm theo. Người là Thiên Chúa có quyền trên mọi sự, Người phán một lời muôn loài muôn vật đã tồn tại từ hư không, nên Lời Người có sức biến đổi, có sức làm nóng lên các tâm hồn lạnh giá, có sức xua trừ mọi thần ô uế và bệnh tật.

Hôm nay, chuyện hết rượu tại tiệc cưới Cana là một trong bao nhiêu chuyện khác nơi đời thường, nhờ sự can thiệp trực tiếp và nhờ sự dạy bảo của Đức Maria đối với các gia nhân: Người bảo gì, các anh cứ làm theo. Đức Giê-su đã thực hiện ngay ngang qua việc bảo các gia nhân đổ đầy 6 chum nước lã. Nhờ sự vâng lời của các gia nhân kèm theo quyền năng của Đức Giê-su, nước lã đã biến thành rượu ngon. Rượu ngon như thế nào, chúng ta không được nếm thử, nhưng chúng ta biết được ngang qua những lời nói của người quản tiệc: “Ai cũng thết rượu ngon trước, và khi khách đã ngà ngà mới đãi rượu xoàng hơn. Còn anh, anh lại giữ rượu ngon mãi cho đến bây giờ.” (c.10).

Quả thật, nhờ sự dặn dò của Đức Maria với các gia nhân: Người bảo gì, các anh cứ làm theo, và nhờ việc thực hiện theo Lời Đức Giê-su nói, tất cả mọi việc đã được đổi thay: bữa tiệc không bị gián đoạn, niềm vui càng được nhân lên. Trong cuộc sống thường ngày cũng thế, mỗi ngày chúng ta đối diện với rất nhiều điều, nhiều khi chúng ta lúng ta lúng túng khó để giải quyết, nhưng nghe lời Đức Maria, chúng ta hãy để tâm nghe lời Chúa dạy bảo và thực hành liên lỉ thì mọi sự sẽ được thành công. Vì “Ai là mẹ Ta, ai là anh em Ta?… ai làm theo ý Thiên Chúa, thì người ấy là anh chị em và là mẹ Ta” (Mc 3, 33). Hoặc “Vậy ai nghe những lời Thầy nói đây mà đem ra thực hành, thì ví được như người khôn xây nhà trên đá” (Mt 7, 24). Như vậy,

Chúng ta sống câu nói của Đức Maria: “Người bảo gì, các anh cứ làm theo” như thế nào? Hằng ngày, trong khi đời sống thường ngày, chúng ta phải sinh sống, làm việc, học tập, chúng ta không thể không có những va chạm, những mâu thuận, những ghen ghét, những gây hấn làm cho chúng ta khó chịu, buồn bực và chán chường. Đứng trước các vấn đề đó, Chúa Giê-su bảo chúng ta: “Anh em hãy yêu thương kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em, như vậy anh em mới được trở nên con cái của Cha anh em, Đấng ngự trên trời, vì Người cho mặt trời mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt” (Mt 5,44-45). Như vậy, theo như lời Đức Maria dặn, chúng ta phải cố gắng thực hành những lời dạy dỗ, bảo ban của Đức Giê-su để tình tương thân tương ái được nhân lên, sự chia rẽ và thù hận phải đẩy lui. Mặt khác, đứng trước sự dối trá, vu khống, bịa đặt, xét đoán, chúng ta được Đức Giê-su dạy bảo: “có thì nói có, không thì nói không; nói thêm thắt là do sự dữ mà ra”.(Mt 5,37), nghĩa là chúng ta phải sống thành thật và sống bác ái với anh chị em đồng loại. Nhiều lần chúng ta bất hiếu, hỗn láo và bất trung bất nghĩa với đấng sinh thành, Đức Giê-su nhắc nhở chúng ta: “Hãy thờ cha kính mẹ.” (Mt 15,4), nghĩa là chúng ta đừng làm cho cha mẹ buồn sầu, nhưng biết vâng lời, chăm sóc và giúp đỡ cho các ngài khi về già, ốm đau và nhất là khi các ngài qua đời. Hơn nữa, khi chúng ta đối diện với những khó khăn và xung đột trong gia đình: giữa vợ chồng với nhau, giữa cha mẹ và con cái và giữa anh chị em với nhau, Đức Giê-su dạy bảo: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em.” (Ga 15,12) Yêu thương là phải tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả và yêu mến tất cả. Đứng trước sự hỗn loạn và bất trung của đời sống vợ chồng, Đức Giê-su mời gọi chúng ta: “Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Chớ ngoại tình. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: ai nhìn người phụ nữ mà thèm muốn, thì trong lòng đã ngoại tình với người ấy rồi.”(Mt 5, 27-28), nghĩa là chúng ta phải cố gắng sống chung thuỷ với vợ/ chồng của mình mà không tơ vương các mối tình khác bên ngoài. Đứng trước sự thờ ơ, chủ quan và mải mê sự đời, Đức Giê-su mời gọi mỗi người: “Vậy anh em phải đề phòng, chớ để lòng mình ra nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời, kẻo Ngày ấy như một chiếc lưới bất thần chụp xuống đầu anh em, vì Ngày ấy sẽ ập xuống trên mọi dân cư khắp mặt đất. Vậy anh em hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, hầu đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người.” (Lc 21, 34-36),…

Quả thật, ngang qua tiệc cưới Cana, chúng ta được mời gọi hãy chạy đến với Đức Maria và biết lắng nghe tiếng của Mẹ để cố gắng thực hành lời của Đức Giê-su dạy bảo hằng ngày để cuộc sống chúng ta ngày càng tốt đẹp và thánh thiện hơn. Trong mọi biến cố buồn vui của cuộc sống, như là ‘hình ảnh tiệc cưới Cana ngày xưa’, chúng ta sẽ thiếu đi vị ngọt tình yêu, tình mến, tình hiệp nhất và sự bình an đích nếu chúng ta thiếu vắng sự hiện diện của Đức Maria, của Đức Giê-su. Ngày xưa nhờ sự hiện diện của Mẹ Maria trong đám tiệc, Đức Giê-su đã không từ chối sự can thiệp để làm cho niềm vui của tiệc cưới được nên trọn. Ngày nay, để gia vị cuộc sống ngày càng thêm vui, càng thêm hạnh phúc và niềm nở giữa người với người, chúng ta cũng đừng quên mời Đức Maria và Chúa Giê-su tham dự vào tất cả mọi suy nghĩ, lời nói và nhất là việc làm của mỗi cá nhân, của gia đình và của cả cộng đoàn.

Về mục lục

THIÊN CHÚA HIỆN DIỆN GIỮA DÂN NGƯỜI

Gm. Giuse Vũ Văn Thiên

Nếu các tác giả Tin Mừng nhất lãm đều giới thiệu sự kiện Chúa Giêsu chịu phép rửa tại sông Giordan như một nghi thức “phong vương”, qua đó Chúa Giêsu được Chúa Cha long trọng giới thiệu, thì tác giả Tin Mừng thứ Bốn lại muốn đặt sự kiện Chúa Giêsu tỏ mình qua phép lạ đầu tiên ở tiệc cưới Cana. Do sự kiện này, vinh quang Thiên Chúa tỏ hiện, và các môn đệ tin vào Người.   Thánh Gioan cũng là tác giả Tin Mừng duy nhất kể lại phép lạ Cana. Khởi đi từ lời tuyên bố : Ngôi Lời đã làm người và ở với chúng ta, ông muốn diễn tả hình ảnh một Đức Giêsu đến trần gian để sống giữa mọi người. Người chia sẻ niềm vui và nỗi buồn của cuộc đời nhân thế. Người hiện diện giữa họ để đem cho họ niềm vui. Chúa hiện diện trong những tiệc cưới, đám tang là những sự kiện rất đỗi thường tình của cuộc sống. Người đến tiệc cưới để chúc lành và làm cho niềm vui của cô dâu chú rể nên trọn vẹn.   Ý niệm về Chúa Giêsu như một “chàng rể” cũng được nhắc tới trong các Tin Mừng, nhất là trong Tin Mừng Thánh Gioan. Chúa Giêsu là Đấng muôn dân mong đợi. Người đến trần gian để nối kết con người với Thiên Chúa. Với việc Ngôi Hai nhập thể làm người, nhân loại bước vào một kỷ nguyên mới, vui mừng hân hoan như một tiệc cưới. Thánh Gioan Tẩy giả, khi nói về Chúa Giêsu, cũng dùng hình ảnh chàng rể, và ông khiêm tốn nhận mình là người phù rể (x. Ga 3,25-30). Chúa Giêsu là Thiên Chúa, Người hiện diện giữa nhân loại như chàng rể. Nhân loại được mời gọi đón chờ Người như chờ đón chàng rể của hôn lễ (x Dụ ngôn mười trinh nữ, Mt 25,1-13). Hình ảnh tiệc cưới cũng được dùng trong Cựu ước để diễn tả niềm vui của dân tộc Do Thái vì có Chúa hiện diện (Bài đọc I). Đây cũng là viễn cảnh tương lai, khi lịch sử nhân loại đến hồi kết thúc, nhường chỗ cho trời mới đất mới, được diễn tả như tiệc cưới của Chiên Con, lúc đó, vinh quang Chúa sẽ bao trùm tất cả, niềm hân hoan sẽ tràn ngập vũ trụ (x Kh 19,1-7).   Trong bối cảnh tiệc cưới tại Cana, những nhân vật chủ chốt đứng lo tiệc cưới xem ra lại là những người rất thụ động. Đó là cô dâu chú rể và người quản tiệc. Họ hoàn toàn không biết những gì đã xảy ra. Chỉ có những gia nhân là biết rõ do đâu mà có rượu ngon vào lúc cuối tiệc. Chính Chúa Giêsu đã chủ động làm phép lạ, với lời thỉnh cầu rất tinh tế và hiệu quả của Đức Trinh nữ Maria. Phép lạ xảy đến do quyền năng của Thiên Chúa và với sự cộng tác của những gia nhân. Họ đã nghe lời khuyên của Đức Maria: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo”. Vâng lời Chúa và làm theo huấn lệnh của Người, đó chính là bí quyết để làm nên những điều lạ lùng trong cuộc sống.   Trong những Chúa nhật đầu của mùa Thường niên, Phụng vụ muốn nhắc lại với chúng ta Chúa Giêsu đến để khai mở kỷ nguyên mới. Người là vị Cứu tinh mà ngôn sứ Isaia đã loan báo. Người là Đấng đem cho nhân loại niềm vui, sự an ủi và cứu thoát. Những ai tin vào Người cũng phải sống cuộc sống mới, đoạn tuyệt với tội lỗi hận thù để cảm nhận niềm vui như trong tiệc cưới (Bài đọc I).   Thiên Chúa hiện diện giữa dân Người, nhưng vì Ngài là đấng vô hình, nên chúng ta không thể cảm nhận bằng giác quan. Thánh Phaolô khẳng định, Đấng vô hình đang hiện diện qua mỗi người tín hữu. Nhờ đó mà họ được ban những ơn khác nhau để diễn tả sự hiện diện và quyền năng của Chúa: người thì được ơn giảng dạy, người khác được ơn nói tiên tri hay chữa bệnh. Tất cả đều do một Thần Khí duy nhất hướng dẫn và soi sáng. Những ai được ơn lạ đều nhằm phục vụ cộng đoàn và giúp người khác hiểu biết Chúa. Qua các tín hữu, đấng vô hình đã trở nên hữu hình giữa cuộc sống đời thường, để sẻ chia niềm vui nỗi buồn của con người, giúp họ vươn lên gặp gỡ Đấng Tối cao.   “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo“. Ngày hôm nay, Đức Maria vẫn đang khuyên chúng ta như thế. Thực hành Lời Chúa dạy là phương thế giúp chúng ta nên thánh, nhờ đó mà Chúa thực hiện những điều lạ lùng giữa cuộc sống chúng ta.

Về mục lục

MỜI CHÚA ĐẾN NHÀ

Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt

Những ngày tháng cuối năm các đám cưới đua nhau tổ chức. Mùa cưới rộ lên làm cho mùa đông bớt vẻ ảm đạm tiêu điều. Đám cưới nào thường cũng vui. Trong đám cưới người ta chỉ nói chuyện vui. Nhưng niềm vui kéo dài được bao lâu? Những lời chúc trăm năm hạnh phúc có thật sự đem hạnh phúc đến cho đôi tân hôn và làm cho họ hạnh phúc suốt đời không? Nhìn vào thực trạng đời sống gia đình hôm nay, ta thấy có được hạnh phúc gia đình là một điều rất khó, hạnh phúc trăm năm thì lại càng khó lắm.

Đám cưới Cana hôm nay cũng suýt lâm vào cảnh bế tắc. Tiệc đang nửa chừng thì hết rượu. Hết rượu là một bất trắc không ngờ. Trong gia đình, những bất trắc có thể đưa đến bất đồng. Bất đồng dễ đưa tới bất hoà. Đã bất hoà thì đường đến bất hạnh không xa.

Đám cưới Cana thực khôn ngoan nên đã mời Chúa Giêsu đến dự tiệc. Việc Chúa Giêsu đến tham dự bữa tiệc cưới nói lên sự quan tâm của Thiên Chúa đối với con người. Thiên Chúa yêu thương con người nên đã đến ở giữa loài người. Không những đến ở giữa loài người. Thiên Chúa còn trở nên một người bạn thân thiết của con người, đồng hành với con người, chia vui sẻ buồn với con người. Chưa bao giờ người ta thấy một Thiên Chúa gần gũi đến thế, thân tình đến thế. Với tình than, Thiên Chúa đã đến chia vui với gia đình trong dịp đại hỷ. Và việc Thiên Chúa đến nhà đã cứu gia đình mới khỏi cảnh bất hạnh ngay trong ngày đầu tiên chung sống.

Có lẽ ai trong chúng ta cũng muốn mời Chúa đến nhà. Sự hiện diện của Chúa giúp ta vượt qua được những bất trắc trong đời sống gia đình. Những bất trắc thì nhan nhản trong đời sống hằng ngày.

Việc thiếu rượu của gia đình Cana nói lên những thiếu thốn của gia đình chúng ta. Có những thiếu thốn về vật chất: cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, thiếu thốn tiền cho con đi học, thiếu thốn thuốc men khi bệnh tật. Có những thiếu thốn về tinh thần: thiếu quan tâm chăm sóc lẫn nhau, thiếu khuyên bảo dạy dỗ con cháu, thiếu kính trọng trong đối xử, thiếu tế nhị trong lời nói. Nhưng trầm trọng nhất là những thiếu thốn về đời sống đạo đức: thiếu đức tin, thiếu lòng đạo đức sốt sắng, thiếu công bằng bác ái, thiếu trách nhiệm duy trì đời sống đức tin trong gia đình.

Đời sống gia đình lúc đầu rất vui, nhưng sau đó, nếu không khéo gìn giữ sẽ trở nên nhạt nhẽo như nước lã. Nhạt nhẽo vì tình nghĩa phai dần. Nhạt nhẽo vì những bổn phận nặng nề, nhàm chán. Nhạt nhẽo vì những khuyết điểm không tránh được của mọi người.

Những thiếu thốn và những nhạt nhẽo ấy hầu như vượt ngoài khả năng giải quyết của ta, nên ai cũng muốn mời Chúa đến nhà để Chúa cứu gia đình khỏi sự tan vỡ, sụp đổ.

Thế nhưng mời Chúa đến không phải là tổ chức làm phép nhà cho long trọng, ăn tân gia cho linh đình. Mời Chúa đến không phải chỉ là làm bàn thờ cho đẹp, treo thật nhiều ảnh tượng. Muốn mời Chúa đến, việc đầu tiên cần thiết là phải làm theo ý Chúa. Như Đức Mẹ dạy các gia nhân: “Người bảo gì thì phải làm theo”. Nhờ làm theo lời Chúa mà gia đình Cana thoát khỏi cảnh xấu hổ, hạnh phúc gia đình được bền vững.

Gia đình muốn sống trong vui tươi, muốn giữ vững được hạnh phúc hãy làm theo Lời Chúa. Đọc Phúc Âm, học hỏi và đem ra thực hành. Để Lời Chúa hướng dẫn mọi lời ăn tiếng nói của mình. Để Lời Chúa soi sáng những suy nghĩ của mình. Để Lời Chúa điều khiển mọi việc làm của mình. Lộc Xuân mà chúng ta rút được trong ngày Tết phải là châm ngôn hướng dẫn toàn bộ đời sống gia đình trong suốt năm mới này.

Sống theo Lời Chúa, gia đình sẽ được Chúa dẫn dắt vượt qua những thiếu thốn. Sống với Chúa, hạnh phúc gia đình sẽ luôn nồng nàn tươi mới như chất rượu ngon. Sống trung thành kết hiệp với Chúa, gia đình sẽ được Chúa đưa vào dự bữa tiệc cưới trên trời, lúc đó chàng rể đích thật là Đức Kitô sẽ cho ta nếm thử rượu tuyệt ngon trên thiên đàng, đó là hạnh phúc không bao giờ tàn phai.

Lạy Chúa, xin đến với chúng con. Lạy Chúa, xin hướng dẫn chúng con. Lạy Chúa, xin ở lại với chúng con. Amen.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

  1. Gia đình bạn có kinh nghiệm gì về những thiếu thốn?
  2. Gia đình bạn có kinh nghiệm gì về sự nhạt nhẽo tình nghĩa?
  3. Bạn đã có kinh nghiệm về việc thực hành Lời Chúa trong gia đình chưa?
  4. Có bao giờ bạn cảm thấy gia đình bạn được Chúa cứu thoát khỏi hiểm nguy, thử thách, thất bại?

Về mục lục

.

TÌNH NỒNG – RƯỢU NGON

Lm. Jos. DĐH

Ở đâu có tình yêu thương, ở đó có hạnh phúc; nơi đâu tổ chức tiệc mừng, nơi đó cần có đủ rượu bia, như thế niềm vui sẽ trọn vẹn hơn. Ngồi đồng bàn, mà tất cả các thành viên đều chung một lòng yêu thương nhau, tiệc rượu nhất định sẽ vừa ngon vừa htơm. Nhân loại vẫn đang sử dụng chung cụm từ yêu thương cho tình đôi lứa, tình vợ chồng, tình gia đình và cả tình quê hương. Biết bao người vẫn hằng thở than : tình là gì, tình là chi, mà từ ngàn năm trước đến nay nhân loại vẫn khổ đau vì tình. Tình mà không yêu, chỉ là cuộc trao đổi mua bán. Yêu mà không có tình, chỉ là yêu đơn phương, là khổ đau.

Rượu ngon có bạn hiền, bàn tiệc đó sẽ tuyệt hơn, tình yêu càng nồng thắm hạnh phúc càng ngọt ngào thị vị biết bao. Bữa tiệc và cuộc tình nào có Chúa Giêsu hiện diện, niềm vui và hạnh phúc nhất định phải nồng ấm hơn, và còn có sức lan tỏa niềm vui đến mọi tâm hồn ở nơi đó. Phụng vụ Chúa nhật hôm nay, cho chúng ta thấy một trình thuật rất đời thường : đám cưới, đám cười, trong đó có “tình nồng và rượu ngon”. Chính nhờ sự hiện diện của “Các Đại khách”, đôi bạn trẻ, chủ tiệc, và các khách mời có một bữa tiệc vui hoàn hảo.

Xét về khía cạnh tự nhiên, nếu nam thanh nữ tú không quen biết nhau, không yêu nhau, làm sao có tiệc cưới. Nếu mâm cao cỗ đầy, thịt béo rượu ngon, mà chỉ một mình đơn chiếc, có khác nào “bị ăn cơm phạt” ? Tổ chức tiệc cưới dù đơn giản đến đâu cũng phải có họ hàng đôi bên, phải có bạn bè, tiệc mừng phải được dự trù hợp lý. Tiệc cưới không chỉ dừng lại ở việc : trai khôn lấy vợ, gái lớn lấy chồng, thực ra hôm nay người ta đang chú ý nhiều đến việc tìm hiểu, đầu tư, để họ sẽ được giầu mạnh cả vật chất lẫn tinh thần.

Tiệc cưới thời hôm nay còn có dàn nhạc ca hát cho nhau nghe để tăng thêm niềm vui, nhưng dù có đầy đủ cả hình thức và nội dung, người Tín hữu chúng ta đều tin rằng tiệc cưới không thể thiếu phúc lành của Chúa. Vì tình có nồng, tiệc rượu mới ngon, có niềm vui bên ngoài, phải có cả niềm vui bên trong, tình yêu mới bền vững. Nhiều gia đình trước khi tổ chức tiệc cưới, đã chạy đến nhiều nơi để xin cầu nguyện, xin cầu cho tổ tiên, xin ơn lành cho đôi bạn trẻ. Tiệc cưới tại Cana năm xưa là tiêu biểu cho gia đình khôn ngoan, họ biết mời khách sang trọng, khách bình dân, và trong tiệc đó có Đức Giêsu, Thân Mẫu Đức Giêsu, các môn đệ của Ngài nữa.

Không những tương quan hàng ngày của chúng ta cần có tình người, mà đúng hơn phải có tình Chúa nữa, cuộc sống chúng ta mới đủ vị ngọt yêu thương. Giới “mày râu” của chúng ta nói đùa nói vui, nhưng cũng vô cùng ý nghĩa : tiệc không rượu như kiệu không Đức Bà. Nếu ăn tiệc mà không rượu bia, có khác gì ca sĩ hát mà thiếu người đệm đàn, nói cách đạo đức hơn là đi dâng lễ mà không rước lễ, không thể hiệp thông trong cùng một Tấm Bánh, còn có gì nhạt hơn ?

Bàn tiệc cuộc đời mỗi ngày, chúng ta có nhớ mời Đức Giêsu và thân mẫu Maria đến hiện diện không ? chúng ta có xét thấy mình thiếu rượu mến yêu không ? Chúa Giêsu cho thấy tình nồng đâu phải là cuộc tình êm xuôi, nguy cơ trục trặc đâu phải là không có, nếu thiếu rượu yêu thương, tiệc tàn và cuộc tình liệu có nồng thắm không ? Yếu tố căn bản của tình nồng là cần có Chúa hiện diện, cần biết vâng nghe ý Chúa để có phép lạ, để có rượu ngon, có niềm vui trọn vẹn như tiệc cưới Cana. Các nhà đạo đức cho rằng, sự sai lầm của các gia đình là không xin Chúa giúp giải quyết các khác biệt về sự nhạt nhẽo trong cuộc tình của họ, thay vì họ tìm lý lẽ công bằng của thế gian.

Tiền bạc chỉ hỗ trợ cho cuộc tình thêm phong phú, rượu bia chỉ tăng thêm niềm vui tạm thời, hoặc bia rượu chỉ giải sầu trong thời gian ngắn. Vì say men rượu người ta sẽ tỉnh sau cơn mê, say men tình, người ta sẽ mãi mãi còn say. Ngày hôm nay tiệc cưới nếu thiếu bia rượu, người ta “a-lô” là xe chở đến tận nhà, hẳn nhiều người sẽ không sợ hết rượu nữa. Nhưng ở tiệc cưới Cana, chính nhờ có Chúa Giêsu hiện diện, nhờ có phép lạ cứu nguy, tình yêu của đôi bạn nồng thắm hơn, niềm vui của gia đình và khách mời được nếm hưởng thứ rượu thơm ngon hơn. Do đó mà cuộc tình có nồng thắm yêu thương, là có Chúa Giêsu hiện diện, là cuộc đời sẽ êm ấm hạnh phúc hơn.

Cuộc sống của con người hôm nay ai cũng tất bật, vất vả, cùng với tiệc tùng quanh năm suốt tháng : tiệc cưới, tiệc sinh nhật, tiệc rửa nhà mới, rửa các loại bằng cấp… Xem ra cuộc sống sẽ trở nên nhàm chán nếu chỉ có tiệc tùng hoan lạc, mà thiếu sự phấn đấu, thiếu sự tận tình yêu thương sẻ chia với anh chị em mình. Cũng từ tiệc cưới tự nhiên, mỗi chúng ta còn được mời gọi để hướng cuộc tình của mình tới tiệc Lời Chúa và tiệc Thánh Thể. Qua đó, chúng ta sẽ hiểu vì sao cần phải có tình nồng thắm để cảm nghiệm thứ rượu yêu thương trong bàn tiệc Nước Trời ngay hôm nay. Amen.

Về mục lục

.

CƠ HỘI LÀM VIỆC THIỆN

Lm. Jos Tạ Duy Tuyền

Cuộc sống cho ta rất nhiều cơ hội để làm việc thiện. Việc thiện cho gia đình. Việc thiện cho bạn bè. Việc thiện cho xã hội. . . Nhưng điều quan yếu là ta có đủ tình yêu để quảng đại dấn thân hay không? Cơ hội sẽ trôi qua khi chúng ta chỉ lo cho bản thân, sống ích kỷ hưởng thụ để rồi từ chối phục vụ tha nhân.

Tôi đã nhiều lần thấy ở cùng một hoàn cảnh, có người nghĩ phải dấn thân phục vụ, nhưng có người lại thụ động tìm an nhàn cho bản thân. Một thiếu nữ độc thân nói: “Tôi còn đơn thân. Tôi đâu có điều kiện để phục vụ”. Một thiếu nữ độc thân khác nói: “Tôi chưa có gia đình, tôi có nhiều thì giờ. Tôi muốn làm việc cho Chúa trong giáo xứ”. Một bà mẹ trẻ nói: “Con tôi còn nhỏ. Tôi chỉ có thể đi nhà thờ rồi về ngay. Tôi không có thì giờ làm việc gì trong giáo xứ”. Một bà mẹ khác lại  nói: “Tôi trông con cũng rảnh. Tôi muốn làm điều gì đó cho Giáo hội”.

Người ta nói “cơ hội chỉ đến một lần”. Hãy nắm bắt cơ hội để phục vụ. Hãy dấn thân một cách quảng đại khi ta có cơ hội. Đừng chần chờ kẻo cơ hội vuột qua lại nuối tiếc. Có người nuối tiếc vì đã không dành thời gian chăm sóc cha mẹ, nay họ không còn lại ân hận. Có người thấy đói mà không giúp, nay người nghèo bên cạnh đã ra đi lại nuối tiếc. Có người khi khỏe mạnh lại chẳng tham gia phục vụ Giáo Hội, khi  thời gian trôi qua, sức lực chẳng còn lại thốt lên 2 chữ giá mà trong nuối tiếc.

Chúa Giê-su luôn nắm bắt cơ hội phục vụ. Ngài phục vụ mọi nơi. Ngài phục vụ trong mọi tình huống. Sự phục vụ của Ngài không chờ nơi chốn hay thời gian. Chỉ cần có cơ hội để phục vụ là Ngài luôn sẵn lòng. Đôi bàn tay Ngài luôn sẵn sàng trao ban khi có cơ hội để dấn thân phục vụ. Có thể nói Ngài không bỏ lỡ một cơ hội nào để thể hiện lòng thương xót cho nhân loại khổ đau.

Tại tiệc cưới Cana, dù thời gian chưa đến, thế mà Ngài vẫn đong đầy tình yêu cho buổi tiệc qua việc đong đầy rượu ngon. Ngài đã đến dự tiệc cưới để chúc lành cho đôi hôn phối. Ngài còn trao ban rượu ngon cho niềm vui gia đình được trọn vẹn.

Cuộc đời này sẽ trôi qua. Thời gia trôi qua sẽ không quay trở lại. Hãy tận dụng thời gian hiện tại để biểu lộ tình yêu cho những người chúng ta yêu. Đừng chần chờ. Đừng đợi thời gian. Hãy làm điều gì đó cho anh em trong hoàn cảnh của mình. Hãy dành thời gian cho gia đình. Hãy dùng tài trí, sức lực Chúa ban để mang lại niềm vui hạnh phúc cho tha nhân qua tinh thần phục vụ của chúng ta.

Ước gì lòng Chúa xót thương đã luôn đong đầy trong cuộc đời chúng ta thì chúng ta cũng hãy xót thương anh em của mình trong khả năng Chúa ban. Amen

Về mục lục

.

QUYỀN NĂNG CỦA LÒNG XÓT THƯƠNG

Lm. Giuse Đỗ Đức Trí

Bước vào thế kỷ 21, con người dường như quá tự hào về những thành tựu khoa học kỹ thuật đã đạt được. Khoa học công nghệ chế tạo của con người đã đạt đến mức hết sức tinh vi, đến độ có những lúc, con người cho rằng : Ai làm chủ khoa học công nghệ, người đó làm chủ thế giới. Khoa học trở nên như một cây gậy quyền năng. Tuy nhiên, khi con người làm chủ khoa học công nghệ thì đồng thời nó cũng đem lại bao lo sợ cho con người. Ví dụ, công nghệ vụ khí ngày nay đã đạt đến mức chính xác tuyệt đối, có thể phá huỷ mục tiêu cách xa hàng ngàn cây số. Công nghệ sinh học đã tạo biến đổi gien phục vụ nông nghiệp nhưng cũng ẩn chứa nhiều rủi ro cho con người. Công nghệ hoá chất, dược phẩm cũng đang có một ảnh hưởng lớn trên đời sống con người đồng thời cũng khiến cho con người lo sợ. Khi con người tự cho mình có quyền năng là lúc con người gây lo sợ, đau khổ cho anh em.

Thiên Chúa thì hoàn toàn khác, quyền năng nơi Ngài là quyền năng của lòng thương xót, quyền năng ấy đem lại niềm vui và ơn giải thoát cho con người. Quyền năng của Thiên Chúa được thể hiện qua lời nói, việc làm và cả con người của Chúa Giêsu, vì Người chính và vị Thiên Chúa quyền năng và yêu thương. Câu chuyện Chúa làm phép lạ biến nước thành rượu tại tiệc cưới Cana đã minh chứng điều đó.

Đám cưới là một trong những ngày vui của gia đình. Chúa Giêsu, Đức Maria và các môn đệ đã hiện diện trong bữa tiệc. Việc hiện diện của Chúa Giêsu cho thấy Ngài thực sự trở nên một thành viên trong xã hội, Ngài không đứng bên lề những sinh hoạt của xã hội, nhưng đã tham gia vào tất cả các sinh hoạt của cộng đồng, chia sẻ vui buồn với cuộc sống của nhân loại. Việc xảy ra cho đôi tân hôn đó là tiệc chưa tàn mà rượu đã hết. Việc này quả thực là một điều hết sức xấu hổ cho gia đình. Với sự tinh tế nhạy bén của một người phụ nữ, Đức Maria đã nhận ra ánh mắt lúng túng của chủ tiệc, Mẹ đã gợi ý với Chúa : Họ hết rượu rồi. Mặc dù biết rằng chưa đến giờ của Chúa tỏ mình ra, nhưng Đức Maria vẫn tin tưởng nói với các gia nhân : Hễ Người bảo gì thì hãy làm theo. Mẹ tin chắc chắn với sự quan tâm và lòng thương xót của Chúa, Chúa sẽ ra tay để cứu gia đình tân hôn này.

Dù chưa đến giờ Chúa Giêsu thể hiện quyền năng, nhưng vì lời gợi ý của thân mẫu, Chúa đã ra lệnh : Hãy đổ nước đầy vào chum. Họ đổ đầy sáu chum. Ngài bảo họ : Hãy múc rượu lên cho quản tiệc. Khi quản tiệc nếm thử thì nước đã biến thành rượu ngon khiến cho mọi người thắc mắc : Tại sao ông lại giữ rượu ngon đến giờ này ? Phép lạ đã xảy ra, các môn đệ càng thêm tin vào Thầy Giêsu.

Phép lạ biến nước thành rượu ngon mang ý nghĩa giáo lý sâu xa hơn nữa : Tình trạng hết rượu trong tiệc cưới là tình trạng của các gia đình và của con người đang cạn dần tình yêu và niềm vui trong cuộc sống. Rượu cũ là luật cũ, nếp sống cũ và các việc tế tự cũ đã dần mất đi sức sống không còn phù hợp nữa, nay Chúa Giêsu là niềm vui mới được trao ban một cách dư tràn trên nhân loại. Rượu mới của Chúa Giêsu ban tặng là rượu của tình yêu, rượu ân sủng và là Thánh Thần sẽ được ban tràn đầy cho nhân loại, làm say mê lòng người. Chúa Giêsu chính là tân lang mới. Ngài sẽ thiết đãi nhân loại này bữa tiệc Nước Trời, mọi người sẽ không còn uống rượu, ăn tiệc trần gian mà được dự tiệc rượu Nước Trời.

Tiên tri Isai đã nhìn thấy trước bữa tiệc của Đấng Mesia và đã dùng nhiều hình ảnh để nói về ngày ấy : Đấng Công chính xuất hiện tựa hừng đông, mọi đế vương trên trần gian sẽ quy phục Người, vinh quang Người tỏ rạng. Người sẽ thiết lập hôn ước với xứ sở ngươi, như trai tài sánh duyên cùng thục nữ, Đấng tác tạo ngươi sẽ cưới ngươi về. Tiên tri Isai đã thấy toàn dân như hân hoan vui mừng vì được tham dự vào tiệc cưới của Đấng Công Chính, Chúa tể mọi loài. Tiệc cưới ấy không bao giờ tàn, rượu ngon sẽ không bao giờ cạn.

Thánh Thần chính là rượu mới mà Chúa Giêsu ban cho thế giới, đặc biệt cho mỗi Kitô hữu. Mỗi người sẽ được nếm hưởng rượu của Thánh Thần cách khác nhau. Theo thư Corintô quả quyết, chỉ có một Thánh Thần duy nhất, nhưng có nhiều đặc sủng khác nhau, nhiều việc phục vụ khác nhau. Vì thế, mỗi người được Thánh Thần hướng dẫn để sống và hoạt động cách riêng biệt tuỳ theo đặc sủng Thánh Thần ban cho : người được ơn nói tiên tri, người khác được ơn hiểu biết, ơn khôn ngoan, người khác nữa được ơn chữa bệnh… nhưng tất cả đều chung một Thánh Thần.

Có một chi tiết quan trọng trong câu chuyện, đó là lời Đức Maria nói với các gia nhân : Người bảo gì, các anh cứ làm theo. Đấy không chỉ là lời nói của một một người phụ nữ với trực giác khi biết rằng người con của mình chắc chắn sẽ can thiệp cho gia đình, nhưng còn là lời nói của một con người đặt trọn niềm tin vào Chúa Giêsu. Mẹ tin rằng Chúa Giêsu hiểu tâm hồn Mẹ và Chúa không bao giờ từ chối lời đề nghị của Mẹ.

Các gia nhân đã sẵn sàng để nghe lời căn dặn của Đức Maria, họ chờ đợi cho đến khi Chúa ra lệnh : Đổ nước đầy các chum. Có lẽ các gia nhân này không thể hiểu và cũng không thể đoán trước được việc gì sẽ xảy ra. Mọi người chỉ nhận ra phép lạ khi người chủ tiệc nếm thử nước thì thấy đã biến thành rượu ngon. Phép lạ xảy ra, quyền năng của Thiên Chúa được thể hiện, quyền năng này là quyền năng của tình thương, đem đến niềm vui hân hoan và sự tin tưởng cho mọi người.

Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta luôn tin vào quyền năng của Thiên Chúa nơi Chúa Giêsu. Ngài đến thế gian không phải để trừng phạt con người, cũng không đe doạ khiến cho con người hoảng sợ, nhưng Ngài đến với tất cả tình yêu và lòng thương xót. Chính lòng thương xót nơi Thiên Chúa đã khiến Ngài chạnh thương trước những nhu cầu, sự thiếu thốn của nhân loại chúng ta.

Chúng ta đang sống trong một thế giới buồn chán vì biết bao lo âu sợ hãi, thất vọng do tội lỗi, do con người gây ra. Nhiều người đang rơi vào bế tắc hoặc cảm thấy cô đơn lạc lõng trong xã hội và trong gia đình mình, mất niềm vui, mất định hướng. Chúa Giêsu chính là tân lang mới, kiến tạo thế giới mới và đem đến niềm vui ân sủng cho nhân loại. Người bảo gì thì hãy làm theo cũng là lời Đức Maria căn dặn chúng ta hôm nay : Chỉ khi làm theo lời của Chúa Giêsu, chúng ta mới có thể tìm được lối đi và tìm được hướng sống. Làm theo Lời của Ngài, chúng ta sẽ tìm được niềm vui và sự bình an cho tâm hồn. Nhất là khi làm theo lời Chúa Giêsu, Người sẽ biến cuộc sống lạt lẽo của con người thành rượu vui hân hoan trong Thánh Thần.

Nhiều gia đình ngày nay dư rượu đế, thừa rượu ngoại nhưng lại hết rượu thiêng liêng, niềm vui đã vơi, tình yêu đã cạn, cuộc sống gia đình trở nên đơn điệu nhàm chán. Để tìm lại được niềm vui của ngày thành hôn, cần mời Chúa Giêsu và Đức Maria vào ăn cơm chung và sinh hoạt với gia đình mình, mời Chúa hiện diện trong các giờ kinh tối và trong các công việc của gia đình. Với sự nhạy bén và tình yêu của một người mẹ, Đức Maria sẽ chỉ cho chúng ta thấy những điều đang thiếu trong gia đình và nhất là Mẹ sẽ cầu xin với Chúa ra tay can thiệp cho gia đình những khi gặp khó khăn, thử thách.

Nhiều bạn trẻ ngày nay đang đánh mất niềm vui trong cuộc sống, đang kéo lê đời mình trong uể oải buồn chán. Đức Thánh Cha Fancis đã chỉ cho thấy một trong những lý do của cuộc sống buồn chán này là lối sống tiêu thụ, hưởng thụ. Ngài nói rằng, lối sống này thể hiện một sự cô đơn, buồn chán trong cuộc sống, nó biến người ta chỉ nghĩ đến bản thân, lo chau chuốt tích luỹ cho bản thân mà quên những tương quan. Các bạn trẻ có thể có rất nhiều friends trên mạng xã hội, nhưng lại không có những người bạn thân thực sự. Hãy rời bàn phím, rời màn hình, để mời Chúa vào trong tâm hồn mình, Chúa sẽ dắt chúng ta bước đến với anh em, Chúa sẽ kết nối chúng ta với Chúa và với mọi người, Ngài sẽ đem lại cho cuộc sống chúng ta có ý nghĩa và có niềm vui đích thực.

Xin Đức Maria ở bên chúng ta, nhận ra sự thiếu thốn của mỗi chúng ta và xin Mẹ luôn bầu cử cùng Chúa cho chúng ta. Amen.

Về mục lục

.

CHÚA ĐI ĂN CƯỚI

Lm. GB Văn Hào

Đã có một thời, các cha chẳng bao giờ đi ăn cưới và coi đó là chuyện thế gian, bậc tu hành không nên tham dự. Ở các nhà dòng, đặc biệt tại các đan viện, người ta cũng chẳng dám cho cử hành hôn lễ tại nhà nguyện của cộng đoàn, sợ các tu sĩ dễ bị ‘nhiễu sóng’, và đám cưới được xem như không thích hợp với bầu khí thánh thiêng nơi tu viện. Nhưng 2000 năm trước, Chúa Giêsu đã từng đi ăn cưới như mọi người. Không phải chỉ mình Ngài, Chúa còn kéo thêm cả một đoàn đệ tử hộ tống đi theo. Đám cưới tại Cana có sự hiện diện của Chúa Giêsu, của các Tông đồ và có cả Đức Maria. Trong Tin mừng Gioan, Chúa Giêsu khởi sự công cuộc rao giảng Tin mừng với việc đầu tiên là chọn 12 môn đệ, sau đó, cả Thầy lẫn trò cùng rủ nhau đi ăn cưới. Thánh Gioan là một thần học gia uyên bác. Những động thái của Đức Giêsu cùng với những phép lạ Ngài thực hiện được Thánh Gioan thuật lại đều mang chở một nội dung thần học rất sâu xa.

Lược qua câu chuyện

Người Do Thái khi xưa thường kéo dài tiệc cưới suốt cả tuần lễ. Người ta không rước dâu về nhà chồng như ở Việt Nam, nhưng chú rể sẽ đến nhà cô dâu giữa đêm khuya. Các thực khách được mời sẽ dự tiệc kéo dài trong nhiều ngày và đương nhiên chủ nhà phải chuẩn bị rất nhiều đồ ăn thức uống, nhất là phải có đủ rượu để đãi khách. Nơi tiệc cưới Cana, có lẽ vì khách quá đông và thời gian lại kéo dài, nên bỗng hết rượu. Quả là một đại họa cho gia đình. Họ sẽ bị ê mặt trước bao quan khách, vì đám cưới sẽ bị dở dang. Thế là Chúa Giêsu đã ra tay can thiệp qua sự cầu ngỏ của Đức Maria, và cuối cùng phép lạ đã xảy ra. Những chum nước dự trữ cho khách rửa tay theo phong tục Do Thái đã biến nên những chum rượu nho hảo hạng. Nhưng điều cốt lõi ở đây không phải Chúa đi dự tiệc cưới như một hành động chỉ để giao tế xã hội. Thánh Gioan qua trình thuật muốn diễn bày chân tính cứu thế của Chúa Giêsu. Ngài chính là căn nguyên niềm vui ơn cứu độ được tặng trao cho con người. Những chi tiết được thuật lại đều mang chở những nội dung thần học mà chúng ta cần phải nghiền ngẫm để khám phá.

Đức Giêsu, một ‘Thiên Chúa – Người’ (God-man)

Đức Giêsu vốn là Thiên Chúa rất Thiên Chúa, nhưng cũng là một con người rất con người. Khi đến trần gian, Ngài đã chia thân sẻ phận với chúng ta, vui với người vui, khóc với người khóc. Thánh giáo phụ Irênê đã viết: “ Thiên Chúa từ trời cao đã xuống đất thấp trở nên một con người hèn hạ để nâng chúng ta là con người hèn hạ nên giống Thiên Chúa cao sang”. Đây là một nghịch lý khó hiểu, và Thánh Gioan muốn chúng ta suy nghiệm sâu xa nghịch lý này.

Trong bài đọc thứ nhất, tiên tri Isaia cũng tiên báo về thời Thiên sai. Trong kỷ nguyên đó đó, Đấng Cứu thế là Đấng Công chính sẽ xuất hiện tựa hừng đông. Ngài sẽ ngồi trên ngai với vương miện huy hoàng, và dân Chúa sẽ trở thành tân nương, được Đức Chúa đem lòng sủng ái và kết lập hôn ước. “Đấng tác tạo ngươi sẽ cưới ngươi về. Như cô dâu là niềm vui cho chú rể, ngươi cũng là niềm vui cho Thiên Chúa ngươi thờ” (Is 62,5). Trong thời kỳ cứu độ, dân Chúa được nâng lên địa vị mới, trở thành vợ hiền của đức lang quân là chính Đức Giêsu. Vì thế hình ảnh tiệc cưới Cana là dấu chỉ tiên báo về thời Thiên sai này. Đức Giêsu là vị lang quân, là người chồng, còn chúng ta là hôn phu trong hôn lễ nhiệm mầu đó.

Cũng vậy trong sách Khải Huyền, thánh Gioan thuật lại thị kiến về tiệc cưới Chiên Con. Bữa tiệc Thiên Sai đã trở thành hiện thực khi máu Đức Giêsu đổ ra trên Thập giá, đem lại ơn cứu chuộc cho nhân loại. ‘Rượu’ là biểu tượng của niềm vui ơn cứu độ. Tiên tri Isaia còn nói về bữa tiệc cánh chung với thịt béo và rượu ngon (Is 25, 6). Thánh vương Đavit cũng viết Thánh vịnh 22 diễn tả lòng yêu thương của Thiên Chúa qua hình tượng đồng cỏ non, dòng suối mát, nhất là qua ‘ly rượu nồng đầy tràn chan chứa’ (Tv 22, 5). ‘Rượu và sữa’ trong bàn tiệc cánh chung mà Isaia phác vẽ, ám thị về niềm vui mà ơn cứu độ đem lại. Sữa làm thỏa cơn khát cho những ai đang khao khát được giải phóng, và rượu mang lại sự vui mừng cho những tâm hồn được giải án tuyên công, vì rượu làm hoan hỷ lòng người (x.Is 55).

Phép lạ đầu tiên Chúa thực hiện tại tiệc cưới Cana khi Ngài biến nước thành rượu, được nối kết với phép lạ cuối cùng trên Thập giá khi Chúa biến rượu thành máu Ngài, máu được đổ ra để đem lại ơn cứu thoát. Đây cũng là máu trong tiệc cưới Con Chiên. Những người mặc áo trắng tinh tiến vào bàn tiệc đã giặt áo của mình trong máu Con Chiên vô tội ấy. Thánh Gioan đã viết lại sách Tin mừng thứ tư với những phép lạ, liên kết với thị kiến trong sách Khải huyền để khải thị cho chúng ta am tường về chân tính Cứu Thế nơi Đức Giêsu.

Đức Maria, Evà mới

Trong Tin mừng Gioan, Đức Maria được nhắc đến 2 lần. Lần thứ nhất trong tiệc cưới Cana và lần thứ hai khi Mẹ đứng dưới chân Thập giá. Phép lạ đầu tiên và phép lạ cuối cùng Chúa Giêsu thực hiện đều có sự tham phần của Mẹ Maria. Trong phép lạ thứ nhất, Chúa nói với Mẹ : “ Thưa bà, chuyện đó can gì đến bà và tôi? Giờ của tôi chưa đến”. Trong phép lạ cuối cùng, Chúa cũng nói với Mẹ “ Thưa bà, đây là con của bà”. Hạn từ ‘Bà’ là thuật ngữ đặc thù Thánh Gioan sử dụng để đề cao vai trò Đức Maria như một ‘bà’ Evà mới trong nhiệm cục cứu độ. Đức Mẹ đã không thực hiện bất cứ một phép lạ nào, nhưng Mẹ là người chuyển cầu (intercesseur) để phép lạ xảy ra. “Họ hết rượu rồi”. Một câu nói giản đơn, nhưng diễn bày vai trò Evà mới nơi Đức Maria. Cũng vậy khi đứng dưới chân Thập giá, Mẹ hoàn toàn thinh lặng, nhưng đi sâu vào sự hiệp thông trọn vẹn trong kế hoạch cứu độ. Vì vậy Đức Maria trên đồi Canvê đã hiển thị một cách sung mãn vai trò Evà, mẹ của chúng sinh, trong một kỷ nguyên mới, để cùng với Đức Giêsu – Ađam mới, đem lại ơn cứu độ cho nhân loại.

Giáo hội đã ca tụng Mẹ với nhiều tước hiệu. Cách riêng, Thánh Gioan mời gọi chúng ta hướng nhìn về Mẹ như là thầy dạy đức tin. Trong cuộc hành trình đức tin, mẹ đã hoàn toàn quy thuận thánh ý Chúa để cùng với Đức Giêsu, Mẹ trở nên máng chở, chuyển thông ơn sủng cho con người. Muốn hưởng nhận ơn cứu độ, chúng ta hãy thực hành điều Đức Maria truyền dạy: “Ngài bảo sao, anh em cứ làm như vậy” (Ga 2,5).

Kết luận

Có một lần, Đức Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đi viếng thăm mục vụ tại Phi Châu. Để biểu tỏ niềm vui, dân chúng cầm tay nhau reo hò và nhảy múa trước khán đài cử hành Thánh lễ. Đức Thánh Cha từ trên lễ đài với phẩm phục trên người cũng bước xuống cầm cây gậy trên tay và cùng nhảy múa với các bạn trẻ để chung hòa niềm vui với họ. Ngài cũng muốn bắt chước Chúa Giêsu khi đi vào trần gian chung chia cuộc sống với mọi người. Chúa biến nước thành rượu, trở nên biểu tượng của niềm vui ơn cứu độ. Mỗi khi chúng ta tham dự Thánh lễ, chúng ta cũng cần trải nghiệm niềm vui sâu xa này, và trong cuộc sống đời thường, chúng ta hãy đem chia sẻ niềm vui ấy cho nhau.

Về mục lục

.

Ý NGHĨA PHÉP LẠ CANA

Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

Dịp hành hương Đất Thánh, chúng tôi có viếng thăm Nhà Thờ Cana. Nơi đây cách Nagiarét 7km về hướng Bắc. Một vùng nông thôn nằm giữa Nazarét và biển hồ Tibêria, ngày nay gọi là Kefr Kenna. Cana cũng là quê hương của Tông đồ Nathanael (Batôlômêô).

Chúa Giêsu đã thực hiện phép lạ đầu tiên tại Cana. Ngài biến nước thành rượu hảo hạng (Ga 2,1-12). Tiệc đang vui vẻ mà rượu gần cạn. Gia đình lo lắng, sợ mất mặt với khách dự tiệc… Mẹ Maria quan tâm đặc biệt. Mẹ ngỏ ý với Chúa: “Họ hết rượu rồi”. Mẹ nói với gia nhân: “Ngài bảo gì, các anh hãy làm theo”. Chúa Giêsu nói với gia nhân : “Hãy đổ nước đầy chum”. Họ đổ tới miệng chum. Và Chúa bảo họ: “Bây giờ hãy múc nước đem cho người quản tiệc”. Nước đã biến thành rượu ngon. Người quản tiệc bỡ ngỡ, thực khách vui mừng.

Chúa Giêsu còn thực hiện một phép lạ khác tại Cana: chữa lành cho con một sĩ quan cận vệ nhà vua (Ga 4,46-54).

Từ chỗ dừng xe, phải leo lên một đoạn dốc cao, hai bên có nhiều quày hàng bán quà lưu niệm vui vẻ mời chào. Chúng tôi thấy một ngôi Thánh đường có hai tháp, biểu tượng cho đôi lứa và một vòm ở giữa tượng trưng sự tận hiến của đơn vị gia đình.

Bên trong Thánh đường, người ta đặt chum rượu của thời Chúa Giêsu một cách cung kính ở ngay Cung Thánh. Những chum đá dưới bàn thờ cũng như ở tầng hầm có từ thế kỷ V. Chum có hình dáng như chum đá tại tiệc cưới Cana ngày xưa. Nơi đây như trình bày đặc ân mà Chúa muốn dành phép lạ đầu tiên để thánh hóa tình yêu lứa đôi và kiện toàn thể chế gia đình bền vững. Có một chum đá to được trưng bày trang trọng cho khách tham quan ngắm nhìn; đây là 1 trong 6 chum đá của phép lạ Cana được các nhà khảo cổ tìm thấy.

Có nhiều đoàn hành hương đã cử hành nghi thức lập lại lời hôn ước cho những cặp vợ chồng tại Nhà thờ Cana. Có những đoàn chọn Cana để kỷ niệm ngày thành hôn. Xin Chúa chúc lành cho hạnh phúc lứa đôi tại nơi này thì thật là ý nghĩa.

Chúng tôi quỳ gối đọc kinh, cầu nguyện cho những người sống đời đôi bạn được hạnh phúc, tín trung.

Phía trước Nhà thờ có nhiều quày bày bán quà lưu niệm. Những chai rượu Cana là quà mừng cho người thân bạn bè được du khách ưa chuộng nhất. Rượu nho sản xuất tại Cana. Ai cũng mua vài chai làm quà tặng quý giá như rượu chính phẩm được Chúa làm phép lạ năm xưa.

  1. Phép lạ đầu tiên

Theo Tin Mừng Gioan thì hành động đầu tiên của Chúa Giêsu sau khi chịu phép rửa là quy tụ các môn đệ. Hành động thứ hai là đi dự tiệc cưới. Có lẽ đây là tiệc cưới của người bà con nên cả Đức Mẹ, Chúa Giêsu và các môn đệ cùng đi dự. Có thể là một đám cưới nhà nghèo nên thiếu rượu nửa chừng.

Tại Palestina, tiệc cưới kéo dài hơn một ngày, lễ cưới chính thức cử hành vào buổi xế chiều sau khi dự tiệc. Sau buổi tiệc, đôi tân hôn được đưa về nhà mới. Bấy giờ trời đã tối, họ được đưa đi qua các con đường càng dài càng tốt để có thể gặp được nhiều người chúc mừng. Vợ chồng mới cưới không đi hưởng tuần trăng mật. Họ ở tại nhà, mở cửa suốt tuần để tiếp khách. Họ đội vương miện và mặc y phục hôn lễ. Nếu suốt đời người ta phải sống cơ cực vất vả, thì được một tuần tiệc tùng, vui vẻ, quả thực là cơ hội vô cùng đặc biệt trong đời người. Như vậy, theo tập tục Do Thái, đám cưới kéo dài suốt bảy ngày.

Đám cưới Cana này mới đến ngày thứ ba thì đã hết rượu rồi. Thật là một tai hoạ bất ngờ, chủ tiệc vô cùng bối rối, khó xử. Các Rápbi vẫn nói: Không rượu thì không vui. Người Việt nói: Vô tửu bất thành lễ. Không phải vì mọi người nghiện rượu, nhưng ở Đông Phương, món rượu rất quan trọng. Say rượu là một điều thật xấu hổ, nên họ uống rượu pha, hai phần rượu và ba phần nước lã. Lúc nào thiếu thức ăn, thức uống là có vấn đề, vì ở Đông Phương tiếp khách là một nhiệm vụ thiêng liêng; thiếu thức ăn thức uống trong một tiệc cưới là điều hổ thẹn, nhục nhã cho cả cô dâu lẫn chú rể.

Chúa Giêsu làm phép lạ đầu tiên tại tiệc cưới Cana này. Sáu chum nước thành rượu ngon. Sáu chum đầy chứa khoảng 700 lít. Một lượng rượu khổng lồ.

Chúa Giêsu đi ăn cưới. Người không mang quà cáp hay phong bì. Chúa Giêsu chia sẻ cho cô dâu chú rể, cho họ hàng đôi bên và mọi người niềm vui của Người mà rượu là biểu tượng như lời Thánh Vịnh 109: “Rượu ngon làm phấn khởi lòng người”. Trong các lễ cưới nhân loại, rượu ngon được đãi trước. Trong lễ cưới của Thiên Chúa với Dân Ngài, rượu ngon lại được đãi sau cùng. Chúa Giêsu là sự hoàn hảo, là ân ban tối hậu (x.Ga 4,10). Rượu Chúa Giêsu cung cấp được lấy từ nước của Do Thái giáo và thay thế thứ rượu bị thiếu. Luật Môsê được thay thế bằng chất lượng Lời Đức Kitô, là Lời loan báo một điều răn mới (Ga 13,34), điều răn của Giao Ước Mới giữa Thiên Chúa và loài người trong Đức Kitô hiển vinh (x. Ga 14,20).

Tương quan giữa Luật Môsê và Lời Đức Giêsu được diễn tả tuyệt vời bằng hai loại rượu được dọn tại Cana. Một loại được tân lang phàm tục dọn còn bị thiếu nữa. Có một thứ rượu tuyệt hảo được ban tặng bởi Tân Lang đích thực là Chúa Giêsu. Ơn Cứu Độ chính là niềm vui trọng đại. Tiệc cưới được dùng làm hình ảnh Nước Trời. Hôn nhân là hình ảnh Thiên Chúa và Dân Người.

Trong Tin Mừng Gioan, có 7 phép lạ được kể lại. Pháp lạ Cana có một giá trị nổi bật vì đó là dấu lạ đầu tiên của Chúa Giêsu làm trong cuộc đời công khai. Các phép lạ trong Tin Mừng theo Thánh Gioan không chỉ biểu lộ quyền năng Thiên Chúa mà còn mạc khải về mầu nhiệm Chúa Giêsu. Các phép lạ có tính biểu tượng cao. Các phép lạ là những dấu chỉ cho biết về con người Chúa Giêsu.

Sau mỗi phép lạ thường có một bài giảng nhằm vén mở ý nghĩa sâu xa của phép lạ đó. Chẳng hạn:

– Sau khi làm phép lạ hoá bánh ra nhiều, Chúa tự giới thiệu: “Ta là bánh hằng sống” (Ga 6).

– Sau khi chữa người mù được thấy ánh sáng, Chúa nói: “Ta là ánh sáng thế gian”(Ga 9).

– Sau khi cho Ladarô sống lại, Chúa tự nhận: “Ta là sự sống lại và là sự sống” ( Ga 11).

  1. Ý nghĩa phép lạ Cana

– Phép lạ Cana xảy ra trong một tiệc cưới. Trong Cựu Ước, để diễn tả Tình Yêu Thiên Chúa đối với dân Israen, các Ngôn Sứ đã dùng hình ảnh hôn lễ, Thiên Chúa làm đám cưới với dân của Ngài. Thiên Chúa là chú rể. Đoạn văn (Is 54, 4-8) là một minh hoạ rất lý thú phối hợp đề tài xuất hành với một đề tài trong sách Hôsê, đó là Giuđa được coi như người bạn trăm năm của Thiên Chúa. Vì yêu thương người bạn trăm năm của mình bị bỏ rơi, Thiên Chúa sẽ đem những người lưu đày trở về quê nhà. Chủ đề của bài đọc I là cuộc phục hưng Giêrusalem trong tương lai được diển tả bằng ngôn ngữ hôn ước giữa Thiên Chúa và dân Ngài. Với từ hôn ước này, Thiên Chúa sắp hoàn lại tước vị “hôn thê” cho dân Ngài. “Như cô dâu là niềm vui cho chú rể, ngươi cũng là niềm vui cho Thiên Chúa ngươi thờ”. Niềm vui của Giáo Ước được làm mới lại giữa Thiên Chúa và dân Ngài, tiên báo niềm vui thời Mêsia, niềm vui dạt dào như rược tiệc cưới Cana.

Sự hiện diện của Chúa Giêsu ở tiệc cưới Cana mở màn cho hôn nhân Kitô giáo một kỷ nguyên mới. Đây là lễ hôn phối đầu tiên trong đạo mới. Chính Chúa Giêsu làm phép cưới, trước sự chứng giám của Mẹ Maria và các Tông Đồ. Bí tích Hôn phối của đạo mới khai nguyên từ đám cưới này. Dựa trên học thuyết của thánh Phaolô trong thư gửi Êphêsô, ca tụng tình yêu chồng vợ cao đẹp như tình yêu của Chúa Giêsu dành cho Giáo Hội là hiền thê (Ep 5,22-33), Giáo Hội khẳng định “Chúa Kitô đã nâng hôn nhân giữa hai người được rửa tội lên hàng bí tích” (Giáo Luật # 1055). Từ nay, hôn nhân có đặc tính là nhất phu nhất phụ và bất khả phân ly; hôn nhân được Chúa chúc phúc và được Giáo Hội chứng nhận.

– Phép lạ Cana diễn ra trong một bữa tiệc. Bữa tiệc là hình ảnh được dùng để diễn tả niềm vui vào ngày Đấng Mêsia đến. Bữa tiệc này dồi dào rượu ngon: “Ngày ấy trên núi này, Đức Chúa các đạo binh sẽ thiết đãi muôn dân một bữa tiệc, thịt thì béo, rượu thì ngon”. Chúa Giêsu nhiều lần dùng hình ảnh bữa tiệc để nói về Nước Trời. Người ví mình là chú rể, là tân lang. Chúa Giêsu ví giáo huấn của Người là rượu mới không thể chứa trong bầu da cũ. Đọc trang Tin Mừng hôm nay, chúng ta bắt gặp một chú rể lúng túng và bất lực vì hết rượu đãi khách. Gia đình chỉ có nước dùng để thanh tẩy theo luật Môsê. Chúa Giêsu xuất hiện như Chú Rể thực sự của nhân loại. Người biến nước thành rượu, biến nước Cựu Ước thành rượu Tân Ước. Rượu của Người vừa ngon vừa nhiều, có cả phẩm lẫn lượng. Hình ảnh này cho thấy Ơn Cứu Độ do Chúa Giêsu mang đến thật là nguồn ơn quý giá và dư đầy.

– Tiệc cưới Cana là biểu tượng Tiệc Cưới Con Thiên Chúa và loài người. Phép lạ nước hoá thành rượu đem lại niềm vui cho người dự tiệc loan báo về mầu nhiệm Thánh Thể; bánh và rượu trở nên Mình và Máu Chúa Kitô đem lại nguồn vui Ơn Cứu Độ cho con người.Mỗi lần dự lễ là một lần dự tiệc. Tiệc Lời Chúa và Tiệc Thánh Thể. Bí Tích Thánh Thể là một phép lạ xảy ra hàng ngày trên bàn thờ, bánh và rượu nên Mình Máu Thánh Chúa. Chúng ta tin vào mầu nhiệm Thánh Thể, vì biết rằng Chúa yêu chúng ta, Người trở nên Bánh Hằng Sống nuôi chúng ta. Cả hai bàn tiệc nuôi dưỡng cuộc đời chúng ta sống trong niềm tin yêu vào Thiên Chúa.

  1. Hãy đến với Mẹ Maria

Phép lạ Cana do Chúa thực hiện, nhưng Đức Mẹ cũng đóng vai trò quan trọng. Sự can thiệp của một người mẹ nhạy cảm và từ ái góp phần làm nên phép lạ hoá nước thành rượu.

Tin Mừng Gioan nhắc đến Đức Mẹ hai lần: lần đầu ở Cana và lần cuối ở Núi Sọ. Mẹ chứng kiến cái chết của con, và từ đây Mẹ trở nên Mẹ của các tín hữu (Ga 19, 25-27). Cả hai lần đều có sự hiện diện của Chúa Giêsu và sự hiện diện của con người. Mẹ đã đưa con người đến với Chúa Giêsu ở Cana, và Chúa Giêsu cũng đã đưa Thánh Gioan, đại diện cho các tín hữu đến với Mẹ “Này là Mẹ con”. Mẹ đã hiện diện ở tiệc vui Cana, Mẹ cũng hiện diện ở núi Sọ. Mẹ đã đi từ bước đầu cho đến cao điểm của sứ vụ Chúa Giêsu. Mẹ vẫn đi mãi, đồng hành với Giáo Hội, với mỗi người chúng ta trong cuộc lữ hành trần thế. Mẹ vẫn chia sẻ niềm vui và âu lo, nâng đỡ và ban ơn cho mỗi con người trong cuộc đời này.

Cuộc sống thường ngày có những trắc trở, những lúng túng, những khó khăn. Hãy đến với Mẹ. Lời cầu bàu của Mẹ có giá trị lớn lao trước Nhan Thánh Chúa. Mẹ vẫn thường nói với Chúa Giêsu: “Họ hết rượu rồi” và Mẹ cũng hay nói với mỗi người chúng ta: “Hãy làm mọi điều Chúa bảo…”. Hãy làm theo lời Chúa, để rượu tình thương không bao giờ cạn vơi trong gia đình chúng ta.

Về mục lục

.

HỄ NGƯỜI BẢO GÌ, THÌ PHẢI LÀM THEO

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Bước vào Chúa nhật thứ hai Mùa Thường niên, Phụng vụ Giáo hội mời gọi chúng ta từng bước dõi theo những ngày đầu (sứ vụ công khai) của Chúa Giêsu. Sau khi chịu phép rửa xong, Gioan Tiền Hô giới thiệu cho mọi người biết Chúa Giêsu là “Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian”; tiếp đến có ba môn đệ là : Anrê, Phêrô và Philipphê đã bỏ tất cả mọi sự mà đi theo người; thầy có trò, tất cả cùng được mời đi dự tiệc cưới, chính tại Cana phép lạ đầu tiên xảy ra, khiến nước hóa thành rượu, nhờ sự can thiệp của Rất Thánh Trinh Nữ Maria (x. Ga 2, 1-12).

Vậy, đâu là ý nghĩa của Rượu được Chúa Giêsu biến thành từ nước ? Chúa Giêsu đến dự tiệc cưới hàm chứa điều gì ?

Theo Thánh Maximus, Giám mục thành Turin thì Rượu mà Đức Giêsu hóa thành từ nước, chính là Rượu mới của niềm vui đích thực. Bởi Vị Thiên Chúa theo Phúc Âm mô tả đã được mời đến dự tiệc cưới. Như thế, Con Thiên Chúa đã đi ăn cưới, và với sự hiện diện của mình, Người đã thánh hóa mối tình của đôi tân hôn bằng việc hóa nước thành Rượu. Người đã đến dự đám cưới theo luật cũ, để chọn trong dân ngoại một hiền thê tinh tuyền. Người không sinh ra từ cuộc hôn nhân của loài người như Kinh Tin Kính chúng ta đọc : “Được sinh ra mà không phải được tạo thành“. Người đến đám cưới, không phải đến để ăn một bữa tiệc cho vui như bao nhiêu bữa tiệc khác. Người đến để mạc khải một sự diệu kỳ, đầy ngưỡng mộ. Người đến dự tiệc cưới, không phải để uống rượu, nhưng để trao ban cho gia nhân rượu ngon nồng. Và khi mọi thực khách đang dự tiệc, bỗng thiếu rượu, Đức Maria, Mẹ Người đã nói với Người : “Họ hết rượu rồi” (Ga 2, 3). Chúa Giêsu, dường như trả lời với vẻ không vui cho lắm : “Hỡi bà, Con với bà có can chi đâu” (Ga 2, 4)… khi trả lời: “Giờ Con chưa đến” (Ga 2, 4), chắc chắn đây là lúc Người loan báo giờ vinh quang của Người nơi cuộc Thương Khó, hoặc chính máu Người là rượu đổ ra để trao ban sự sống, và ơn cứu độ cho nhiều người. Mẹ Maria xin một đặc ân hiện tại, Con Mẹ lại chuẩn bị trao ban niềm vui muôn thủa trong tương lai. Tuy nhiên, Thiên Chúa nhân lành đã không ngần ngại trao ban những điều nhỏ mọn cho con người, trong khi chờ đợi những điều lớn xảy đến.

Đức Maria, người mẹ diễm phúc, vì Mẹ là Mẹ thật của Con Thiên Chúa, nên Mẹ đã biết trước ý định của Con Mẹ, và thấy trước được điều gì sẽ xảy đến. Đó là lý do tại sao sau khi Mẹ yêu cầu Con Mẹ, kể cả khi nhận được câu trả lời : “Con với bà có can chi đâu” (Ga 2, 4); Mẹ vẫn căn dặn những gia nhân quản tiệc cưới hãy làm bất cứ điều gì Con Mẹ yêu cầu :  “Hễ Người bảo gì, thì phải làm theo” (Ga 2, 5). Chắc chắn Mẹ biết rằng lời chỉ trích của Con Mẹ và Mẹ thấy Con Mẹ, một Vì Thiên Chúa đã không giấu được sự bất bình của thân phận làm người giận dữ nhưng chứa đựng một mầu nhiệm của lòng từ bi cao cả … Vì tiếp theo là nước trong chum bỗng nhiên bắt đầu nhận được sức thánh hóa để có thể chuyển màu sắc, lan tỏa hương vị của một thứ rượu ngon lành, và cùng một lúc thay đổi hoàn toàn bản chất của nó, nước đã hóa thành rượu. Và việc chuyển đổi nước thành một chất khác cho thấy sự hiện diện của Đấng Tạo Hóa, quyền năng, bởi không ai, ngoại trừ người tạo ra từ không có gì ra nước, có thể chuyển đổi nước thành một cái gì đó khác tức là rượu.

Chúng ta đang ở trong Năm Thánh Lòng Thương Xót, hãy noi gương Mẹ Maria kiên nhẫn, cậy trông, cầu nguyện, đẩy lui sự thờ ơ ra khỏi chúng ta và mở rộng cõi lòng đến với mọi người.

Chúa Kitô đã làm phép lạ biến nước thành rượu ở Cana chính vì Đức Trinh Nữ Maria là một người rất quan tâm đến mọi người. Trong đám cưới, Mẹ phải để ý lắm mới phát hiện ra sự tế nhị trầm trọng này. Nhưng Mẹ không chỉ thấy rồi để trong lòng, mà vì tính ân cần chu đáo sẵn có nơi Mẹ, Mẹ đã trao những lo lắng của mình vào tay Chúa Giêsu, Con Mẹ, và đã hành động một cách hợp lý và can đảm. Mẹ lo lắng cho nhu cầu của đôi tân hôn, quan tâm đến người khác, chứ không đóng kín vào chính mình. 

Đức Thánh Cha Phanxicô nói : Ngày nay chúng ta có thể thấy rất nhiều hoàn cảnh hết “rượu” là dấu chỉ của sự vơi cạn “hạnh phúc, tình yêu, và sự phong phú“. Ngài đặt câu hỏi : “Có bao nhiêu người trẻ trong chúng ta cảm thấy không còn tìm được những điều ấy trong nhà mình? Có bao nhiêu phụ nữ buồn chán và cô đơn tự hỏi khi nào tình yêu sẽ ra đi, sẽ rời bỏ cuộc sống của mình? Có bao nhiêu người già cảm thấy bị gạt sang một bên, đứng ngoài các ngày vui của gia đình, và hằng ngày khao khát chút tình yêu?“(Trích Bài giảng 06/7/15 tại Los Samanes, Guayaquil, Ecuador).

Đức Maria giải quyết việc thiếu rượu bằng cách tin tưởng đến với Chúa Giêsu, và cầu nguyện. Mẹ dạy chúng ta phải đặt gia đình vào tay Chúa, phải cầu nguyện, phải khơi dậy niềm cậy để thấy rằng lo lắng của tha nhân cũng là lo lắng của ta, và lo lắng của ta cũng là lo lắng của Chúa. Cầu nguyện luôn nâng chúng ta, giúp chúng ta thoát khỏi những lo lắng của mình. Cuối cùng Đức Mẹ đã hành động. Lời Mẹ nói với các người giúp việc “Hễ Người bảo gì, thì phải làm theo” cũng là lời mời gọi chúng ta mở lòng mình cho Chúa Giêsu, “Đấng đã đến để phục vụ chứ không phải để được phục vụ” (Mc 10, 45).

Với đức tin sống động, tinh tuyền và kiên vững, Đức Maria chỉ cho chúng ta nguồn gốc của một trong những dấu chỉ, và thực tại của nó, mà chúng ta sẽ được tham dự trong tương lai, nếu chúng ta làm tất cả những gì Chúa Giêsu, Đấng là Tình Yêu Vĩnh Cửu (biểu tượng của rượu) dạy bảo.

Tại Cana, Mẹ Maria đã hiện diện và can thiệp vào tiệc cưới. Vào giờ trên Thánh Giá ; giờ Chúa Giêsu cử hành tiệc cưới với Giáo hội ; Mẹ Maria cũng ở đó. Giờ đây Mẹ vẫn hiện diện để giúp đỡ con cái mình sống tinh thần yêu thương và phục vụ tha nhân như Mẹ.

Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ dạy chúng con yêu mến Chúa Giêsu, Vị Hôn Phu của Giáo hội mãi mãi và yêu mến Giáo hội, Hiền thê của Chúa Giêsu, và thực thi bác ái cũng như lòng xót thương với hết mọi chi thể của Chúa Kitô. Amen.

Về mục lục

.

TẾ NHỊ

Trầm Thiên Thu

Tế nhị là điều rất cần thiết trong cuộc sống. Đó là khả năng nhận thức tinh tế một tình huống và nói hoặc làm điều thích hợp hoặc tử tế nhất. Một người tế nhị có thể cảm nhận cảm xúc của người khác và nhận biết lời nói hoặc hành động của mình tác động như thế nào đến họ. Người tế nhị luôn được yêu quý, vì họ lịch lãm, khéo léo, tinh tế, khôn ngoan, biết đối nhân xử thế khi giao tiếp.

Tế nhị là cử chỉ cao đẹp, là sự thận trọng, là loại ngôn-ngữ-không-lời mà ai cũng hiểu được, không cần người khác thông dịch hoặc phiên dịch. Thánh Phaolô khuyên: “Hãy thận trọng trong mọi sự” (2 Tm 4:5). Và Franklin so sánh: “Thiếu thận trọng còn tai hại hơn thiếu hiểu biết”. Đáng sợ quá!

Trình thuật 2 V 4:8-37 là một câu chuyện dài nói về cách giao tiếp tế nhị của người phụ nữ Su-nêm và ông Ê-li-sa.

Một hôm, ông Ê-li-sa đi qua Su-nêm, nơi có một phụ nữ giàu sang. Bà ta giữ ông lại dùng bữa. Từ đó, mỗi lần đi qua, ông đều ghé vào dùng bữa. Bà ấy nói với chồng: “Này ông! Tôi biết người thường ghé vào nhà chúng ta là một thánh nhân của Thiên Chúa. Mình phải làm cho ông một căn phòng nhỏ trên lầu có tường có vách, rồi kê ở đó một cái giường, đặt bàn ghế và để một cái đèn cho ông dùng. Như thế, khi nào đến nhà mình, ông sẽ lui vào đó”. Quả thật phụ nữ này có “thiên nhãn”, có “con mắt thứ ba” rất tinh tường, hơn cả thầy tướng số, vì bà chỉ nhìn dáng người mà biết được Ê-li-sa là thánh nhân của Thiên Chúa.

Và rồi một hôm, ông đến nơi ấy, ông lui vào phòng trên lầu và nghỉ ở đó. Ông bảo tiểu đồng Giê-kha-di đi gọi bà Su-nêm. Nó đi gọi bà và bà đến. Ông Ê-li-sa bảo nó nói với bà ấy đừng quá lo lắng bận rộn vì thầy trò ông, và hỏi bà: “Chúng tôi biết phải làm gì cho bà đây? Có cần chúng tôi phải nói một lời với đức vua hay với tướng chỉ huy quân đội cho bà không?”. Bà khiêm nhường trả lời: “Tôi sống yên hàn giữa dân tôi”. Tuy vậy, ông Ê-li-sa nói với tiểu đồng: “Nên làm gì cho bà ấy?”. Giê-kha-di đáp: “Tội nghiệp, bà ấy không có con trai, mà chồng thì đã già”. Ông Ê-li-sa bảo tiểu đồng đi gọi bà ấy. Nó lại đi gọi bà, và bà ấy đến đứng ngoài cửa. Ông Ê-li-sa nói: “Vào thời kỳ này, vào độ này sang năm, bà sẽ được bế con trai”. Bà tế nhị nói: “Không, thưa ngài, người của Thiên Chúa, xin đừng lừa dối nữ tỳ ngài!”. Quả nhiên, sau đó bà ấy có thai, và năm sau, cũng vào độ mà ông Ê-li-sa đã nói, bà hạ sinh một con trai. Cuộc giao tiếp thật đẹp, thận trọng và đầy tính nhân bản, vì cả đôi bên đều tỏ ra rất tế nhị.

Theo thời gian, đứa trẻ lớn lên. Một ngày kia, khi đi kiếm cha nó ở giữa những người thợ gặt, nó nói với cha: “Ôi, cái đầu con! Cái đầu con!”. Người cha bảo anh đầy tớ bồng nó về cho mẹ nó. Người tớ trai đem nó về cho bà mẹ. Đứa trẻ ngồi trên đầu gối bà đến trưa, rồi nó chết. Bà đem nó lên đặt trên giường dành cho người của Thiên Chúa, đóng cửa lại, để nó ở trong rồi đi ra. Bà đi gọi chồng và bảo chồng sai đầy tớ với một con lừa cái đến với bà, bà sẽ chạy đến người của Thiên Chúa, rồi sẽ về. Người chồng hỏi tại sao bà lại đi gặp ngài vào ngày hôm đó, vì không phải là ngày đầu tháng, cũng chẳng phải là ngày sa-bát. Nhưng bà bảo ông cứ yên tâm.

Rồi bà cho thắng lừa và nói với anh đầy tớ đưa bà đi, chỉ dừng xe khi bà bảo. Bà lên đường và đi đến với người của Thiên Chúa ở núi Các-men. Vừa thấy bà đằng xa, người của Thiên Chúa nói với tiểu đồng Giê-kha-di ra đón bà Su-nêm, hỏi ông bà và cậu bé có được mạnh khoẻ không. Bà bình tĩnh và tế nhị trả lời: “Vâng, mạnh khoẻ cả”. Nhưng khi đến gần người của Thiên Chúa ở trên núi, bà ôm lấy chân ông. Giê-kha-di tiến tới, đẩy bà ra, nhưng người của Thiên Chúa bảo: “Để yên cho bà ấy, vì tâm hồn bà đang phải cay đắng. Đức Chúa đã giấu ta điều ấy, Người không cho ta biết”. Khi ấy, bà nói: “Nào tôi có xin ngài cho tôi được đứa con đâu? Tôi đã chẳng nói là xin đừng đánh lừa tôi đó sao?”.

Ông Ê-li-sa bảo Giê-kha-di thắt lưng, cầm gậy của ông mà đi, gặp ai thì đừng có chào, ai chào thì đừng đáp lại, rồi đặt gậy của ông trên mặt cậu bé. Mẹ cậu bé nói: “Có Đức Chúa hằng sống và có ngài đang sống đây, tôi xin thề sẽ không rời xa ngài”. Ông trỗi dậy và đi theo bà. Giê-kha-di đã đi trước hai người và đặt gậy trên mặt cậu bé; nhưng không nghe thấy tiếng, không thấy động đậy. Anh ta quay lại đón ông Ê-li-sa và trình ông: “Cậu bé đã không thức dậy”. Khi ông Ê-li-sa tới nhà thì cậu bé đã chết, nằm trên giường của ông. Ông đi vào chỗ cậu bé, đóng cửa lại, chỉ có hai người ở bên trong, rồi cầu nguyện với Đức Chúa. Sau đó, ông làm động tác “kỳ lạ” lắm: Ông lên giường nằm lên trên đứa trẻ, kề miệng ông trên miệng nó, kề mắt ông trên mắt nó, đặt bàn tay ông trên bàn tay nó. Ông cứ nằm trên đứa trẻ, da thịt nó nóng lên. Ông đi đi lại lại trong nhà, rồi lại lên nằm trên nó; cậu bé hắt hơi đến bảy lần, và mở mắt ra. Và điều kỳ diệu xảy ra!

Ông Ê-li-sa gọi Giê-kha-di và bảo đi gọi bà Su-nêm. Đây là lần thứ ba nó làm theo lời ông Ê-li-sa. Nó đi gọi bà; bà đến với ông, và ông nói: “Bà hãy đem con đi!”. Bà đi vào, quỳ dưới chân ông, rồi sụp xuống đất lạy ông. Sau đó, bà đem con đi và ra khỏi phòng.

Sau vụ việc này, chúng ta còn được biết thêm về vụ “nồi cháo độc” (x. 2 V 4:38-44). Đúng ông Ê-li-sa là “người của Thiên Chúa”. Nồi cháo đầy độc tố nhưng mọi người ăn lại không chết. Thật kỳ diệu!

Ngôn sứ Isaia nói: “Vì lòng mến Sion, tôi sẽ không nín lặng, vì lòng mến Giêrusalem, tôi nghỉ yên sao đành, tới ngày đức công chính xuất hiện tựa hừng đông, ơn cứu độ của thành rực lên như ngọn đuốc. Rồi muôn dân sẽ được chiêm ngưỡng đức công chính của ngươi, mọi đế vương sẽ được ngắm nhìn vinh quang ngươi tỏ rạng. Người ta sẽ gọi ngươi bằng tên mới, chính là tên miệng Đức Chúa đặt cho” (Is 62:1-2). Không hạnh phúc nào mà vắng bóng gian khổ, không thành công nào mà không có thất bại. Vinh quang có được là nhờ dày công khổ luyện. đó là điều tất yếu.

Tất cả gian khó đã qua, tủi nhục đã hết: “Ngươi sẽ là ngọc miện huy hoàng trong lòng bàn tay Đức Chúa, sẽ là mũ triều thiên vương giả Thiên Chúa ngươi cầm ở tay” (Is 62:3). Và từ nay, chẳng ai còn réo tên mà mỉa mai là “đồ bị ruồng bỏ” hoặc mang tiếng là “phận bạc duyên đơn”, nhưng được trìu mến gọi là “ái khanh”, là “duyên thắm chỉ hồng”. Tại sao? Vì được Đức Chúa đem lòng sủng ái và lập hôn ước. Hoàn toàn thuộc về Chúa, hạnh phúc biết bao! Kinh Thánh so sánh: “Như tài trai sánh duyên cùng thục nữ, Đấng tác tạo ngươi sẽ cưới ngươi về; như cô dâu là niềm vui cho chú rể, ngươi cũng là niềm vui cho Thiên Chúa ngươi thờ” (Is 62:5). Đó cũng là hình bóng của chúng ta, những người đã được Đức Giêsu Kitô cứu chuộc bằng Giá Bửu Huyết của Ngài.

Vì thế, chúng ta phải dành trọn cả cuộc đời mà nức tiếng xưng tụng Thiên Chúa, đồng thời còn phải mời gọi người khác cùng hợp lời tán dương. Ngày xưa, tác giả Thánh Vịnh đã không thể cầm lòng nên phải thốt lên: “Hãy đến đây ta reo hò mừng Chúa, tung hô Người là Núi Đá độ trì ta, vào trước Thánh Nhan dâng lời cảm tạ, cùng tung hô theo điệu hát cung đàn. Bởi Đức Chúa là Chúa Trời cao cả, là Đại Vương trổi vượt chư thần. Bởi chính Người là Thiên Chúa ta thờ, còn ta là dân Người lãnh đạo, là đoàn chiên tay Người dẫn dắt. Ngày hôm nay, ước gì anh em nghe tiếng Chúa!” (Tv 95:1-3).

Nói rồi thôi, hứa rồi quên. Bản chất phàm nhân là thế, và hầu như chúng ta đều có máu của dòng tộc “họ hứa”. Thiên Chúa biết điều đó nhưng Ngài vẫn tế nhị. Chính Ngài đã cảnh cáo dân xưa, và Ngài cũng đang cảnh báo đối với mỗi chúng ta ngày nay: “Các ngươi chớ cứng lòng như tại Mơ-ri-va, như ngày ở Ma-xa trong sa mạc, nơi tổ phụ các ngươi đã từng thách thức và dám thử thách Ta, dù đã thấy những việc Ta làm. Suốt bốn mươi năm, dòng giống này làm Ta chán ngán” (Tv 95:8-10).

Người Việt thường nói: “Ăn cây nào, rào cây nấy” hoặc “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”. Ý khuyên chúng ta phải biết ơn người khác. Tuy nhiên, tục ngữ là tục ngữ, hay vẫn thấy hay, thích vẫn thấy thích, nhưng quên thì cứ quên, làm ngơ vẫn làm ngơ. Chưa được ơn thì van xin đêm ngày, được tha rồi thì “quên” nói lời cảm ơn, như mười người phong cùi được lành mà chỉ có một người Samari biết trở lại cảm ơn Chúa. Và chúng ta cũng thường đối xử như vậy đối với Thiên Chúa đấy. Thế nhưng Ngài luôn tế nhị, Ngài làm ngơ chứ không phải Ngài không biết!

Đặc sủng tuy nhiều, nhưng chung một gốc, đó là xuất phát từ Thiên Chúa, vì ông Gioan Tẩy Giả đã minh định: “Chẳng ai có thể nhận được gì mà không do Trời ban” (Ga 3:27). Đó là chân lý muôn thuở, bất biến. Thánh Phaolô phân tích: “Có nhiều đặc sủng khác nhau, nhưng chỉ có một Thần Khí. Có nhiều việc phục vụ khác nhau, nhưng chỉ có một Chúa. Có nhiều hoạt động khác nhau, nhưng vẫn chỉ có một Thiên Chúa làm mọi sự trong mọi người. Thần Khí tỏ mình ra nơi mỗi người một cách, là vì ích chung” (1 Cr 12:4-7).

Thánh Phaolô lý giải rạch ròi: “Người thì được Thần Khí ban cho ơn khôn ngoan để giảng dạy, người thì được Thần Khí ban cho ơn hiểu biết để trình bày. Kẻ thì được Thần Khí ban cho lòng tin; kẻ thì cũng được chính Thần Khí duy nhất ấy ban cho những đặc sủng để chữa bệnh. Người thì được ơn làm phép lạ, người thì được ơn nói tiên tri; kẻ thì được ơn phân định thần khí; kẻ khác thì được ơn nói các thứ tiếng lạ; kẻ khác nữa lại được ơn giải thích các tiếng lạ. Nhưng chính Thần Khí duy nhất ấy làm ra tất cả những điều đó và phân chia cho mỗi người mỗi cách, tuỳ theo ý của Người” (1 Cr 12:8-11). Tôi thế này, bạn thế kia, người khác thế nọ. Không ai giống ai. Đừng tưởng tôi “ngon” hơn người mà khoe mẽ, vênh vang tự đắc. Được ơn mà không làm vinh danh Chúa và không sinh lợi thì còn khốn hơn người khác!

Trình thuật Ga 2:1-12 là câu chuyện về tiệc cưới tại Cana, một đoạn Kinh Thánh Tân Ước rất quen thuộc. Qua đó, chúng ta thấy được sự tế nhị của Đức Maria trước tình huống khó xử của người khác.

Đức Mẹ và Đức Giêsu cùng dự một tiệc cưới tại Cana, miền Galilê, các môn đệ cũng được mời. Tiệc vui đang lúc cao trào thì có “sự cố” ngoài dự tính của gia chủ: Hết rượu. Đức Mẹ rất tinh ý nên biết nhà đám đang khó xử vì thiếu rượu, Đức Mẹ rất tế nhị nên nói nhỏ với Đức Giêsu: “Họ hết rượu rồi”. Thế nhưng Đức Giêsu lại thản nhiên: “Mẹ ơi, chuyện đó can gì đến Mẹ và Con? Giờ của Con chưa đến”. Mặc dù nghe Con Trai nói vậy, Đức Mẹ vẫn tin tưởng và liền đi nói với gia nhân: “Hễ Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo”.

Tông đồ Gioan cũng là thực khách tại tiệc cưới đó nên cho biết rõ là ở đó có đặt sáu chum đá dùng vào việc thanh tẩy theo thói tục người Do-thái, mỗi chum chứa được khoảng tám mươi hoặc một trăm hai mươi lít nước. Tính đồng mỗi chum chứa một trăm lít nước, vậy sáu chum là sáu trăm lít.

Đức Giêsu bảo với những người phụ giúp làm tiệc: “Các anh đổ đầy nước vào chum đi!”. Đã nghe Đức Maria dặn trước, họ liền làm theo mà không thắc mắc gì. Họ đổ nước vào các chum đầy tới miệng. Xong rồi Ngài bảo họ múc và đem cho ông quản tiệc. Họ liền đem cho ông. Người quản tiệc nếm thử thì thấy rượu hảo hạng mà không biết rượu từ đâu ra, còn gia nhân đã múc nước thì biết, ai nấy đều ngạc nhiên. Người quản tiệc liền gọi tân lang lại và nói: “Ai ai cũng thết rượu ngon trước, và khi khách đã ngà ngà mới đãi rượu xoàng hơn. Còn anh, anh lại giữ rượu ngon mãi cho đến bây giờ”. Nói thì nói chứ chú rể cũng biết ất giáp chi đâu, chỉ cười trừ thôi. Hôm đó, chú rể hẳn là người được nhân đôi hạnh phúc.

Đó là dấu lạ đầu tiên Đức Giêsu đã thực hiện khi công khai sứ vụ. Cana là ngôi làng nhỏ bé trong miền Galilê nhưng đã được nhiều người biết đến, vì Đức Giêsu đã chọn làm nơi bày tỏ vinh quang Thiên Chúa. Thấy dấu lạ nhãn tiền, các môn đệ đã tin vào Ngài.

Lạy Thiên Chúa nhân từ và giàu lòng thương xót, xin giúp con luôn tin yêu Ngài trong mọi hoàn cảnh, luôn biết tế nhị trong mọi tình huống của cuộc sống để khả dĩ phần nào minh chứng Ngài là Thiên Chúa duy nhất, chí minh và chí thiện. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.

Về mục lục

.

DẤU LẠ ĐẦU TIÊN

Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm

Kitô hữu ngày nay dễ dàng biết rằng Đức Giêsu có thể làm phép lạ hóa nước thành rượu thượng hảo hạng, vì Ngài là Thiên Chúa nhập thể; tuy nhiên những người đồng dự tiệc với Đức Giêsu không hiểu được như vậy. Vì vậy, biến cố Đức Giêsu làm dấu lạ đầu tiên này đã tác động mạnh mẽ trên những người biết sự việc này. Qua dấu lạ này, người ta và các môn đệ của Đức Giêsu nhận ra Ngài là một con người rất đặc biệt, Ngài là người của Thiên Chúa, là Đấng Thiên Chúa sai đến.

“Vạn sự khởi đầu nan”. Đức Giêsu bắt đầu sự nghiệp bằng việc rao giảng. Không biết Ngài rao giảng có thành công hơn những thầy dạy khác trong dân Do Thái không? Tin mừng hôm nay cho thấy Đức Giêsu làm phép lạ hóa nước thành rượu theo sự thỉnh cầu của Đức Mẹ. Tin Mừng Gioan cho thấy Đức Maria là người đầu tiên hy vọng vào Đức Giêsu, tin vào Đức Giêsu! Người ta tin vào Đức Giêsu sau khi thấy dấu lạ Ngài làm, còn Đức Maria tin vào Đức Giêsu trước cả khi Đức Giêsu làm phép lạ. Đức Maria cũng là người biết Đức Giêsu hơn ai khác: Mẹ dám ngỏ lời nhắc nhở Đức Giêsu: “họ hết rượu rồi”.

Đức Maria rất tế nhị, Mẹ biết điều làm cho đôi tân hôn bối rối và không biết giải quyết làm sao. Mẹ biết nếu Đức Giêsu biết điều này, Đức Giêsu có thể làm một cái gì đó cho họ; và Mẹ đã không thất vọng. Qua sự kiện này, chúng ta thấy Đức Mẹ hiểu Đức Giêsu đến độ nào! “Ngài nói sao, các anh cứ làm như vậy”. Đức Giêsu đã can thiệp như Mẹ tiên đoán. Thật là đúng khi các Kitô hữu tôn Mẹ là Mẹ Hằng Cứu Giúp, vì ngày xưa Mẹ đã biết, và đã tế nhị can thiệp với Thiên Chúa cho con người, thì nay Mẹ cũng vẫn làm như vậy.

“Qua dấu lạ này, các môn đệ đã tin vào Ngài” (Ga.2, 11). Các môn đệ của Đức Giêsu tin Đức Giêsu là ai? Chắc chắn không phải các môn đệ tin rằng Đức Giêsu là Thiên Chúa nhập thể vì lúc đó mầu nhiệm cao siêu này chưa được con người nhận rõ. Có lẽ các môn đệ tin Đức Giêsu là Người từ Thiên Chúa, Người của Thiên Chúa, là Đấng Thiên Chúa sai đến để yêu thương và giúp đỡ dân. Cho dù người ta có biết có ý thức hay không, Đức Giêsu vẫn là Thiên Chúa nhập thể. Thế nhưng, điều này các môn đệ chưa ý thức, chưa biết được vào thời điểm đó. Đức Giêsu cũng là người phải khơi dậy và củng cố đức tin của các môn đệ đối với Ngài. Sau này Ngài hỏi các môn đệ: “Người ta bảo Con Người là ai?…. Còn anh em, anh em bảo thầy là ai?” (Mt.16, 16).

Đức tin của các môn đệ đối với Đức Giêsu mỗi ngày một lớn dần, nhưng không phải là đồng đều đối với tất cả mọi người. Một số môn đệ khi nghe Đức Giêsu giảng dạy nhiều điều khó nghe, đã bỏ Đức Giêsu không theo Ngài nữa: ”Lời này chướng quá, ai nghe cho nổi……Từ lúc đó, nhiều môn đệ rút lui, không còn đi theo Đức Giêsu nữa” (Ga.6, 60.66). Khủng hoảng đức tin vào Đức Giêsu lên tột đỉnh với biến cố Đức Giêsu bị treo thập giá, nhưng với biến cố Phục Sinh và những lần hiện ra cho các tông đồ, các môn đệ Đức Giêsu tin vào Đức Giêsu mãnh liệt hơn, và biết Ngài là ai rõ ràng hơn sau biến cố Phục Sinh.

Với tác động của Thánh Thần, các tông đồ nhận ra chân tướng của Đức Giêsu: Người thuộc hoàn toàn về Thiên Chúa đến độ có thể nói Ngài là Thiên Chúa nhập thể, Ngài là Thiên Chúa. Cũng với tác động của Thánh Thần, các tông đồ nhận ra Thánh Thần là ai, sau khi đã nhận ra Đức Giêsu là ai, sau khi nhớ lại những gì Đức Giêsu đã nói với họ (Ga.14, 16.26; 15, 26; 16, 13). Thánh Thần là quyền năng của Thiên Chúa; Ngài biến đổi lòng người, Ngài giúp con người tin vào Đức Giêsu.

Theo thánh Phaolô, Thánh Thần làm sinh động Hội Thánh qua những ân sủng của Ngài. Tất cả những gì hay tốt con người có, đặc biệt những gì con người đang phục vụ Giáo Hội, đều đến từ Thánh Thần của Ngài. Thánh Thần ban ơn khôn ngoan để giảng dậy, ban ơn quảng đại để phục vụ anh chị em mình, ban đặc sủng để chữa bệnh. Thánh Thần ở nơi cung lòng mỗi người (Ga.14, 16; 1Cor.3, 16-17).

Thánh Thần đổi mới mọi sự, đổi mới vận mạng một dân thành: thành Yêrusalem không còn bị ruồng bỏ nữa, nhưng được yêu vì. Cũng chính Thánh Thần biến đổi lòng dạ con người, đưa dẫn con người trở về với Thiên Chúa, đưa con người trở về với anh chị em mình. Thánh Thần thanh tẩy tâm hồn con người, thánh hóa con người, làm cho con người trở nên dễ yêu dễ thương, trở nên xinh đẹp trước mặt Thiên Chúa và trước mặt con người. “Như cô dâu là niềm vui cho chú rể, ngươi cũng là niềm vui cho Thiên Chúa ngươi thờ” (Is.62, 5).

Câu hỏi gợi ý chia sẻ

  1. Bạn có cảm nghiệm những gì xảy tới cho những anh em sống xung quanh, liên hệ mật thiết với bạn, và bạn đã xin Thiên Chúa can thiệp không? Xin chia sẻ nếu bạn có điều này.
  2. Chỉ với phép lạ biến nước thành bánh, đã đủ cho người ta kết luận Đức Giêsu là Thiên Chúa nhập thể chưa? Tại sao?
  3. Bạn có cảm nghiệm Thánh Thần gần gũi với bạn không? Xin chia sẻ.

Về mục lục

.

ÂN SỦNG

Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Tất cả là hồng ân. Hồng ân, ân sủng, đặc ân, đặc sủng, quà tặng, tài năng, ân lộc, ân phúc, phúc lộc, thiên tài, an lạc và hạnh phúc đều là những món qùa được trao ban. Người ta thường nói “mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên”. Trải qua bao đời, cha ông của chúng ta đã nghiệm ra rằng con người không thể làm chủ toàn diện đời mình. Trước hết, mỗi người đón nhận hồng ân sự sống để được hiện hữu. Mỗi thụ tạo lãnh nhận một kho tàng mầu nhiệm một cách nhưng không. Người hữu thần tin tưởng vào Thượng Đế, Đấng đã tạo dựng và quan phòng vạn vật muôn loài trong trật tự. Người vô thần cắt đứt nguồn gốc sáng tạo và chỉ chú tâm vào nỗ lực của con người hiện tại. Có người nghĩ rằng với khả năng và nỗ lực tu tâm và tu thân, con người có thể quyết định hoàn toàn số mệnh của mình. Là người trí tuệ, chúng ta nên mở rộng tâm trí để học hỏi và trau dồi kiến thức thêm. Quan sát sự sống muôn loài và vũ trụ vạn vật bao la, điều quan trọng là chúng ta hãy khiêm tốn chấp nhận thân phận yếu đuối, mỏng giòn và rất giới hạn của mình.

Phần Phụng vụ Lời Chúa của Chúa Nhật 2 Thường Niên giúp chúng ta có một xác tín về ân sủng thiêng liêng. Thiên Chúa sáng tạo, dẫn dắt điều khiển sự vận hành của vũ trụ và sự sống của muôn loài. Con người là tạo vật cao quý mà Thiên Chúa đã tác tạo. Mỗi một con người được tựu thai là một tạo vật hoàn toàn mới và duy nhất. Mọi khả năng tiềm tàng về di truyền đã được in ghi trong từng tế bào của mỗi sự sống. Thượng Đế cho con người có ý chí, lý trí, ước muốn, tự do và khả năng để phát triển tới đỉnh cao. Con người có thể dùng khả năng và nỗ lực quyết tâm tu tâm và tu thân để trở nên con người hữu dụng và trọn hảo. Tiên tri Isaia đã diễn tả: “Ngươi sẽ là ngọc miện huy hoàng trong lòng bàn tay Thiên Chúa, sẽ là mũ triều thiên vương giả Thiên Chúa ngươi cầm ở tay.” (Is 62,3) Đấng Tạo Hoá trao ban cho mỗi loài có khả năng truyền sinh giống nòi theo cách thế riêng biệt. Sự sinh sôi nảy nở và tăng triển thêm nhiều sẽ làm tăng vẻ huy hoàng của vũ trụ vạn vật. Thiên Chúa đã chúc phúc cho mọi loài được tốt đẹp.

Chúng ta thử suy về nguồn sự sống trong con người cụ thể. Trước khi được hiện hữu, chúng ta chỉ là không. Đã có một khoảnh khắc mỗi người được bắt đầu hiện hữu. Mầu nhiệm sự sống khởi đầu từ sự kết hợp giữa mầm sống từ cha và mẹ. Ôi thật bé nhỏ và nhiệm mầu! Chỉ trong tế bào tí ti đó đã ẩn tàng mọi sự. Sự sống đó không chỉ bắt đầu từ cha và mẹ nhưng nó được nối dài từ thuở tạo dựng. Mầm sống đó được truyền sinh qua vô lượng kiếp. Sự sống phát sinh ra sự sống. Vậy sự sống trong chúng ta đã được truyền sinh qua sự sống của muôn thế hệ cha ông. Cha mẹ cộng tác với Tạo Hoá sáng tạo sự sống nơi mỗi con người một cách đặc thù và riêng biệt. Mỗi cá nhân đều có Deoxyribonucleic acid (DNA) khác nhau và dấu chỉ tay cũng khác biệt. Thật lạ lùng!

Người khôn ngoan và trí tuệ là đừng từ chối điều gì mà mình chưa được học hiểu. Vì càng tìm hiểu và học hỏi, chúng ta càng hiện hữu thêm. Chúng ta biết rằng cả kho tàng kiến thức của loài người góp lại cũng chẳng thấm vào đâu so với sự diễn tiến, hiện hữu và sinh tồn của vũ trụ. Nhiều người có trí khôn hiểu biết còn nông cạn, chưa thấu hiểu được lòng người và cũng chẳng thông suốt thế thái nhân tình, nhưng lại phán quyết nhiều điều vô căn cớ. Có người lại mạnh miệng lên tiếng phủ nhận sự hiện hữu của Đấng tác thành mọi sự. Khi không muốn qui phục, người ta chỉ việc đơn giản chối bỏ uy quyền của Thượng Đế và nói rằng mọi sự hiện hữu là tự nhiên mà có. Họ nghĩ rằng những người hữu thần tin vào thượng đế là thiếu trí tuệ và chưa giác ngộ. Đối với họ, thần thánh chỉ như là bánh vẽ hù doạ những người sơ khai và âu trĩ. Có lẽ chính họ còn đang ngồi trong bóng tối của vô minh.

Qua Kinh Thánh mạc khải và quan sát ngắm nhìn sự vạn vần trong vũ trụ, con người nhận ra nguyên nhân cội rễ của muôn loài. Đó chính là nguyên lý nhân quả. Trông quả thì biết cây. Ngày xưa, Thiên Chúa đã chọn một dân riêng để chuẩn bị đón nhận Đấng Cứu Thế. Người đã dùng mọi hình thức cụ thể để tỏ bày sự quan tâm chăm sóc, khế ước yêu thương ràng buộc và sự trung tín trong giao ước. Là Kitô hữu, chúng ta tin và tôn thờ một Thiên Chúa có ngôi vị và yêu thương. Tiên tri Isaia đã dùng hình ảnh đôi trai tài gái sắc để diễn tả tình yêu sống động của Đấng Tác Tạo: “Như tài trai sánh duyên cùng thục nữ, Đấng tác tạo ngươi sẽ cưới ngươi về. Như cô dâu là niềm vui cho chú rể, ngươi cũng là niềm vui cho Thiên Chúa ngươi thờ.” (Is 62,5)

Thánh Phaolô phân tích một cách khá rõ ràng về những đặc sủng mà mỗi người được lãnh nhận: “Có nhiều đặc sủng khác nhau, nhưng chỉ có một Thần Khí.” (1 Cr 12,4) Quan sát cuộc sống trong bất cứ một nhóm người, một hội, môt tổ chức hay một sinh hoạt chung nào cũng đều có con người có khả năng khác nhau. Mỗi người đều nhận lãnh khả năng để sinh lợi. Thần khí ban cho mỗi người một cách: Người nói tiên tri, kẻ giảng dạy, người được ơn chữa bệnh, kẻ làm phép lạ và người được ơn nói nhiều thứ tiếng… Như trong dụ ngôn về nén bạc, mỗi người đều nhận số vốn khác nhau: Có kẻ nhận 5 nén bạc, người 2 nén và người 1 nén tuỳ theo khả năng. Khả năng, thời gian và tài lực là nguồn vốn của mỗi cá nhân. Điều quan trọng là mỗi người biết dùng tài năng ân sủng của mình để sinh hoa kết trái. Khả năng như hạt giống được trao, chúng ta phải biết gieo vãi, vun trồng và chăm sóc thì khả năng mới phát triển.

Mỗi cá nhân là một thế giới riêng tư nhưng không thể tách rời. Sống là sống chung, sống cùng và sống với người khác, sự liên đới hỗ tương giúp xây dựng một xã hội tốt đẹp: “Thần Khí tỏ mình ra nơi mỗi người một cách, là vì ích chung.” (1 Cr 12,7) Không ai nhận ân sủng cho riêng mình nhưng đều vì ích lợi chung. Cuộc sống rất đa dạng. Lịch sử loài người phát triển từng bước liên tục và nối dài. Tất cả thành quả của chất xám tri thức đã đặt nền tảng phát minh trong mọi thời. Nhờ trí khôn, con người đã tìm ra được một số những nguyên nhân ẩn tàng trong thiên nhiên. Mỗi sự phát minh mới đều đặt nền tảng trên các định luật đã có trước. Sứ mệnh của con người là phục vụ lẫn nhau trong khả năng của mình. Con người có muôn trùng khả năng chuyên môn và công việc khác nhau để phục vụ công ích. Chúng ta tuy nhiều nhưng cùng tin vào một Thiên Chúa: “Có nhiều việc phục vụ khác nhau, nhưng chỉ có một Chúa.” (1 Cr 12,5)

Chúa Giêsu đầy quyền năng trong ý tưởng, lời nói và việc làm. Chúa đã hiện hữu từ đời đời có uy quyền sáng tạo và biến đổi cả tinh thần lẫn vật chất. Tại tiệc cưới Cana, qua lời khẩn nài của Mẹ Maria, Chúa Giêsu là làm phép lạ đầu tiên biến nước thành rượu. Thánh Gioan đã viết: “Đức Giêsu đã làm dấu lạ đầu tiên này tại Cana, miền Galilê, và bày tỏ vinh quang của Người. Các môn đệ đã tin vào Người.” (Ga 2,11) Với sự cộng tác của con người, Chúa đã tỏ quyền năng và vinh quang của Ngài. Ngài không khoe khoang hô lớn nhưng chỉ hành động âm thầm qua những việc rất bình thường của gia nhân: Đức Giêsu bảo họ: “Các anh đổ đầy nước vào chum đi!” Và họ đổ đầy tới miệng (Ga 2,7). Chỉ có các gia nhân biết sự việc đã xảy ra cũng giống như các mục đồng nhận diện ra Chúa nơi máng cỏ Belem.

Chúng ta hãy đến cùng Đức Maria, Mẹ là Đấng cầu bầu có thần thế trước tôn nhan Thiên Chúa. Mẹ sẽ dẫn dắt chúng ta đến với Chúa Giêsu. Nghe lời của Thân Mẫu Chúa nói với các gia nhân: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo.” (Ga 2,5). Lạy Chúa, Chúa đã biến nước thành rượu ngon, xin Chúa biến đổi tâm hồn chúng con nên khí cụ bình an của Chúa.

Về mục lục

.

CÓ MẸ CHỞ CHE

Lm. Nguyễn Nguyên

Có lẽ chưa bao giờ cuộc sống gia đình lại bị khủng hoảng trầm trọng như trong thế giới chúng ta đang sống hiện nay. Người ta tính trung bình hiện nay trên thế giới, cứ mỗi một tiếng đồng hồ lại có tới cả trăm đôi vợ chồng lôi nhau ra tòa để ly dị. Con số ly tị tăng nhanh và lên tới 50% tại các nước phương tây, nghĩa là cứ hai cặp vợ chồng thành hôn, thì lại có một cặp thất bại, phải ly dị nhau.

Với bối cảnh đó, tin mừng hôm nay mời gọi mỗi người kitô hữu chúng ta hãy tái khám phá giá trị và ý nghĩa thiêng liêng cao quý của đời sống hôn nhân, qua việc Chúa Giêsu làm phép lạ tại tiệc cưới Cana. Và qua đó, cho chúng ta một bài học quá rõ ràng: ở đâu có sự hiện diện của Chúa và Mẹ thì niềm vui và hạnh phúc ở đó tràn đầy.

Thật vậy, câu chuyện Tin mừng hôm nay nói đến sự hiện diện của Chúa Giêsu và Mẹ Maria tại một gia đình có đám cưới ở Cana. Và sự hiện diện của các Ngài không những đã mang lại niềm vui cho nhà đám, mà còn cứu cho gia đình này khỏi một bàn thua trông thấy. Nhờ các Ngài mà rượu đã hết lại trở nên dư dật. Nhờ các Ngài mà cô dâu chú rể và gia đình nhà đám khỏi bẽ mặt trước các thực khách. Nhờ các Ngài mà niềm vui của ngày cưới được tiếp tục và trọn vẹn.

Sự hiện diện của Chúa Giêsu và Mẹ Maria trong tiệc cưới Cana là hình ảnh sự hiện diện của các Ngài trong gia đình và trong cuộc đời của chúng ta. Các Ngài hiện diện để thi ân giáng phúc cho chúng ta, bởi các Ngài là Cha, là Mẹ của chúng ta. Các Ngài hiểu rõ mọi nhu cầu của đời sống chúng ta, dù chúng ta chưa trình bày với các Ngài. Các Ngài sẽ bao bọc, sẽ chở che, sẽ yêu thương, sẽ dẫn dắt chúng ta qua mọi nẻo đường và trong mỗi khoảnh khắc của cuộc sống.

Nếu trong đám cưới ngày xưa đã từng hết rượu, thì sống trong đời hôm nay, có biết bao nhiêu lần chén hạnh phúc của chúng ta đã vơi đi, hay đã cạn hết rồi. Men của tình yêu, của niềm vui, của sự thành công, của sung túc không còn. Ngay cả khi tất cả những điều ấy phải trả giá bằng mồ hôi, nước mắt, bằng xương, bằng máu mới có được… Vậy mà chỉ sau một biến cố nào đó, đã mất hết, đã cướp hết, mình hoàn toàn trắng tay, chỉ để lại trong lòng nỗi cô đơn dằn xé, nỗi chán chường đến mức bạt nhược… Những lúc như thế, mỗi người chúng ta cần lắm một lời van xin của Mẹ đến với Chúa “Họ hết rượu rồi”, để Chúa an ủi và ban nghị lực, ban đức tin giúp ta có thể vượt qua những đắng cay cồn cào ấy.

Sự hiện diện của Chúa Giêsu và Mẹ Maria không bao giờ là một tai họa, nhưng luôn mang lại ân phúc. Vấn đề là chúng ta có cho các Ngài nhập hộ khẩu vào trong gia đình và trong cuộc đời của mình hay không?

Hôm nay, chúng ta đã thấy rõ rồi đó, dù bảo rằng “Giờ của con chưa tới” và đám tiệc còn hay hết rượu thì chẳng có liên quan gì đến chúng ta cả Mẹ ơi, thế nhưng, phép lạ vẫn cứ xảy ra thật. Chúa đã biến nước thành rượu thật. Không chỉ thành rượu, mà còn là rượu ngon. Và đám cưới không chỉ cứ tiếp tục vui, mà còn vui hơn.

Vì thế, chúng ta có thể xác quyết rằng: Lời cầu nguyện của Đức Mẹ là lời hiệu nghiệm và có uy lực. Lời đó mang lại giá trị cho đời sống chúng ta. Nó cho thấy Đức Mẹ có quyền năng trong lời chuyển cầu của mình. Lời chuyển cầu hiệu nghiệm và uy lực ấy rất cần cho chúng ta, vì nó mang lại giá trị cho đời sống, mang lại hạnh phúc cho con người, mang lại những phép lạ lớn lao tưởng chừng như không thể xảy ra. Vì thế, khi tôn thờ Thiên Chúa, mỗi người chúng ta cũng hãy yêu mến Đức Mẹ. Hãy tâm sự với Đức Mẹ, hãy bày tỏ cuộc đời mình với Đức Mẹ. Vì chúng ta thâm tín rằng, chính trên thập giá, trước khi trút hơi thở cuối cùng, Chúa đã trối Mẹ cho Gioan, và Gioan cho Mẹ. Đấy là lúc chúng ta trở thành con cái Mẹ, lẽ nào Mẹ lại không nhận biết những nhu cầu để giúp đỡ chúng ta sao?. Ngày xưa khi còn tại thế, lời cầu của mẹ đã hiệu nghiệm đến thế, huống chi bây giờ Mẹ đang tột cùng vinh hiển bên cạnh Con Mẹ. Mẹ đang vinh hiển, tràn đầy uy quyền, nắm giữ kho báu ân sủng của Con Mẹ, Mẹ lại tiếc với chúng ta sao?. Nguyện xin Mẹ Maria cầu bầu cùng Chúa cho các gia đình trong giáo xứ chúng ta luôn bình an và ngập tràn niềm vui trong tình thương quan phòng của Chúa. Amen.

Về mục lục

.

CHÚA NHẬT 2 THƯỜNG NIÊN_C

Lm. Antôn

Ông bà anh chị em thân mến. Bài Tin mừng hôm nay không đơn giản là một tiệc cưới có sự hiện diện của Chúa Giê-su, các môn đệ của Người, và Đức Maria, Mẹ của Người. Trong buổi tiệc này và theo lời thỉnh cầu của Mẹ Maria, Chúa Giê-su đã làm phép lạ đầu tiên hóa nước thành rượu, giúp cho đôi tân hôn giải quyết vấn đề hết rượu giữa bữa tiệc. Bài Tin mừng còn cho chúng ta biết “Chúa Giêsu đã làm phép lạ đầu tiên này tại Cana xứ Galilêa, và đã tỏ vinh quang Người và các môn đệ Người tin Người.” Vậy, qua phép lạ hóa nước thành rượu này, mà Tin mừng thánh Gioan gọi là dấu chỉ, Chúa bày tỏ cho chúng ta biết những gì?

Đây không phải là dấu chỉ Chúa sẽ mở một cửa tiệm bán rượu, nhưng là dấu chỉ công bố sự vinh quang của Thiên Chúa cho chư dân bá tánh như lời Thánh vịnh hôm nay cho chúng ta biết. Phép lạ hóa nước thành rượu là dấu chỉ sứ mạng của Chúa Giê-su đem tình yêu, lòng thương xót và ơn cứu độ của Thiên Chúa đến đổ tràn ngập trên tất cả con người trên trần thế. Dân Chúa lúc đó đang cầu nguyện và mong đợi ngày hồng ân, ngày Chúa đến để cứu thoát dân Người, và ngày đó được diễn tả bằng sự hiện diện của Chúa Giê-su trong buổi tiệc cưới bao gồm sự trung thành, yêu thương của Thiên Chúa và hạnh phúc tràn đầy của Ngài mang đến cho nhân loại mà đôi tân hôn là dấu chỉ.

Trong bài đọc 1, chúng ta thấy Giê-ru-sa-lem được tiên tri Isaiah nhân cách hóa như một người vợ, để chỉ dân Is-ra-el đã bất trung với Thiên Chúa, vì vậy, họ đã bị quân thù bắt đi lưu đày sống trong cảnh khổ cực. Tuy nhiên, vì tình yêu và trung thành, Thiên Chúa đã không đành lòng khi họ ăn năn sám hối, và đã cứu họ khỏi cảnh khốn cùng. Chẳng những thế, Chúa còn yêu thương họ như người chồng rất mực yêu thương người vợ mới cưới: “Như trai tài sánh duyên cùng thục nữ, Đấng tác tạo ngươi sẽ cưới ngươi về. Như cô dâu là niềm vui cho chú rẻ, ngươi cũng là niềm vui cho Thiên Chúa ngươi thờ.”

Nhưng, ông bà anh chị em thân mến, là một dấu chỉ, phép lạ tiệc cưới còn cho chúng ta biết Chúa Giê-su là ai. Thật vậy, phép lạ là dấu chỉ Chúa Giê-su là Đấng Cứu Thế mang ơn cứu độ của Thiên Chúa đến cho tất cả mọi người. Như đã được mạc khải, Chúa Giê-su là ánh sáng cho muôn dân, cho nên hồng ân tình yêu Thiên Chúa không chỉ giới hạn cho người Do thái, mà còn chiếu tỏa đến cho muôn dân.

Một dấu chỉ khác của buổi tiệc cưới mà chúng ta có thể nhận ra là thời điểm đánh dấu sự khởi đầu sứ mạng cứu độ của Chúa Giê-su đã đến. Vì biết trước những gì sẽ xảy ra trước mắt, cuộc khổ nạn và thương khó, cho nên khi Đức Maria nhìn thấy vấn đề hết rượu mà đôi tân hôn đang phải đối diện, và thỉnh cầu cùng Chúa Giê-su, cho nên Người thưa với Đức Maria “Giờ con chưa đến.” Chúng ta nhận thấy Đức Maria không thúc đẩy Chúa Giê-su khởi động sứ mạng của Người, nhưng Mẹ biết Con Mẹ sẽ giúp đỡ đôi tân hôn trong lúc khó khăn, nên Mẹ nói với các người giúp việc “Hễ Người bảo gì, thì phải làm theo.” Đây cũng là lời khuyên bảo của Mẹ cho tất cả chúng ta, nhất là các đôi vợ chồng.

Ông bà anh chị em thân mến. Có lẽ chưa bao giờ cuộc sống gia đình lại bị khủng hoảng trầm trọng như trong thế giới chúng ta đang sống hiện nay. Trong bối cảnh đó, Tin mừng hôm nay mời gọi mỗi người Kitô hữu chúng ta hãy tái khám phá giá trị và ý nghĩa thiêng liêng cao quý của đời sống hôn nhân, qua việc Chúa Giêsu làm phép lạ tại tiệc cưới Cana. Và qua đó, cho chúng ta một bài học rõ ràng: ở đâu có sự hiện diện của Chúa và Mẹ thì niềm vui và hạnh phúc ở đó tràn đầy. Và gia đình nào thực hành và sống những điều Chúa dạy thì sẽ tìm được hòa thuận và an bình. Thật vậy, câu chuyện Tin mừng hôm nay còn cho chúng ta biết sự hiện diện của Chúa Giêsu và Mẹ Maria trong một đám cưới của một gia đình ở Cana, và vì vậy, đôi tân hôn đã nhận được sự cứu giúp của cả Đức Maria và Chúa Giê-su. Sự hiện diện của các Ngài không những đã mang lại niềm vui, mà còn cứu cho gia đình này qua khỏi một sự khó khăn. Sự hiện diện của Chúa Giêsu và Mẹ Maria trong tiệc cưới Cana là hình ảnh sự hiện diện của các Ngài trong gia đình và trong cuộc đời của chúng ta. Các Ngài hiểu rõ mọi nhu cầu của đời sống chúng ta, dù chúng ta chưa trình bày với các Ngài. Các Ngài sẽ bao bọc, sẽ chở che, sẽ yêu thương, sẽ dẫn dắt chúng ta qua mọi nẻo đường và trong mỗi khoảnh khắc của cuộc sống.

Phép lạ tân hôn là một dấu chỉ khác cho chúng ta biết Chúa Giê-su đến để thực hiện, mang lòng thương xót của Chúa Cha đến cho nhân loại. Chúa đến để thực hiện nhiều sự thay đổi, cũng như biến hóa nhiều sự vật. Như biến nước thành rượu, Chúa chữa người bệnh thành người khỏe mạnh, Người thay đổi người tội lỗi thành các thánh, Người biến sự chết trở thành con đường dẫn tới đời sống vĩnh cửu, Người biến bánh và rượu trở nên Mình và Máu Người.

Cuối cùng, phép lạ tại Cana là biểu hiệu của Bí tích Thánh thể mà Chúa Giê-su thiết lập để ban sự sống cho nhân loại bằng chính Thịt và Máu Người.

Trong Thánh lễ hôm nay, chúng ta cầu xin Chúa giúp mỗi người chúng ta, mỗi gia đình trong giáo xứ, biết mở cửa đón mời Chúa và Mẹ Maria ngự vào. Xin Chúa cũng giúp chúng ta thành tâm lắng nghe lời chỉ bảo của Đức Maria “Hễ Người bảo gì, thì phải làm theo”, và thực hành, sống những lời Chúa dạy. Chúng ta tin Chúa sẽ thực hiện phép lạ hóa bánh và rượu trở nên Mình và Máu Ngài trong Thánh lễ này, trở thành của ăn nuôi dưỡng linh hồn chúng ta, để mọi người trong giáo xứ hiệp nhất và đồng tâm để xây dựng và làm sáng danh Chúa. Và xin Chúa biến đổi chúng ta thành sứ giả lòng thương xót và tình yêu của Chúa. Nguyện xin Mẹ Maria cầu bầu cùng Chúa cho các gia đình trong giáo xứ luôn hòa thuận, hạnh phúc và ngập tràn niềm vui trong tình thương quan phòng của Chúa.

Về mục lục

.

LÒNG THƯƠNG XÓT BIẾN ĐỔI TẤT CẢ TRỞ NÊN MỚI

Lm. Giuse Trực

Trong số 2 của Tông Thư “Dung mạo Lòng Thương Xót”, Đức Thánh Cha Phanxicô có viết: “Lòng Thương Xót là cầu nối liên kết giữa Thiên Chúa và con người, trong khi mở lòng chúng ta ra cho một niềm hy vọng được yêu thương mãi mãi”. Niềm hy vọng được yêu thương chính là sự biến đổi mà Thiên Chúa đã hành động nơi mọi việc, mọi vật và mọi người. Nói ngắn gọn lại, lòng thương xót của Chúa sẽ biến đổi tất cả để được trở nên mới.

I. PHỤNG VỤ LỜI CHÚA

  1. Bài Đọc I: Is 62, 1-5

Đoạn sách này nói đến lời hứa ban vinh quang cho thành Giêrusalem: “Mọi đế vương sẽ được ngắm nhìn, vinh quang ngươi tỏ rạng” (Is 62, 2b). Vinh quang này hệ tại ở tình yêu của Thiên Chúa, tình yêu có sức biến đổi số phận của thành: “Như trai tài sánh duyên cùng thục nữ, Đấng tác tạo ngươi sẽ cưới ngươi về” (Is 62, 5a). Chính tình yêu của Thiên Chúa làm cho thành thánh Giêrusalem được biến đổi nên vinh quang, rực rỡ.

  1. Tin Mừng (Ga 2, 1-11)

“Đức Giêsu đã làm dấu lạ đầu tiên tại Cana, miền Galilêa” (Ga 2, 11a). Điều đáng để chúng ta suy nghĩ là dấu lạ này không phải là chữa bệnh, hóa bánh nuôi dân chúng, hay phục sinh kẻ chết… mà là hóa nước thành rượu. Vì là phép lạ đầu tiên, nên chắc chắn việc hóa nước thành rượu phải mang một ý nghĩa rất quan trọng.

Rượu là yếu tố đem đến niềm vui trong bữa tiệc. Vì vậy hết rượu cũng đồng nghĩa với việc niềm vui sẽ chấm dứt.

Rượu còn là tượng trưng cho trật tự mới, trong khi nước chỉ là trật tự cũ. Chúa Giêsu biến đổi “đạo” cũ của người Do Thái thành đạo mới, đạo đem đến niềm vui, đạo ngất ngây men tình yêu chứ không nhạt nhòa, nhàm chán như đạo cũ.

Dấu lạ đầu tiên này còn là dịp để Chúa Cha bày tỏ quyền năng của Ngài nơi Đức Giêsu Kitô. Từ đây, Đức Giêsu Kitô sẽ là hình ảnh của Thiên Chúa Cha để thực thi Lòng Thương Xót đối với nhân loại chúng ta. Ngài sẽ biến đổi tất cả những gì là cũ kỹ, xấu xí để trở nên mới mẻ, tốt đẹp hơn.

Với ý nghĩa đó, đặc biệt trong Năm Thánh Lòng Thương Xót này, chúng ta càng khẳng định một cách mạnh mẽ: Lòng Thương Xót của Chúa sẽ biến đổi tất cả để trở nên tốt đẹp hơn.

II. NHỮNG CON NGƯỜI ĐƯỢC BIẾN ĐỔI

  1. Trong Kinh Thánh

Trong kinh Năm Thánh Lòng Thương xót, Đức Thánh Cha liệt kê một loạt những nhân vật “tai tiếng” trong Kinh Thánh, nhưng đã được Lòng Thương Xót Chúa biến đổi để trở nên “nổi tiếng”.

Đầu tiên là 2 ông và Giakêu và thánh Matthêu. Họ là những người thu thuế, dính bén đến tiền bạc, và đã làm nô lệ cho tiền bạc, nhưng đã được “ánh mắt đầy yêu thương Chúa giải thoát khỏi ách nô lệ bạc tiền”. Sự biến đổi từ những con người bị đồng tiền chi phối, đến những con người sẵn sàng cho đi tất cả được tình yêu thương của Chúa.

Kế đến là người đàn bà ngoại tình và thánh Mađalêna. Họ là hình ảnh của những người đam mê xác thịt, nhưng tình yêu của Chúa đã giải thoạt họ “không còn tìm hạnh phúc nơi loài thụ tạo”. Từ đây, chỉ có Đức Giêsu Kitô mới đem đến niềm vui, hạnh phúc đích thực. Đó là hạnh phúc thánh thiện chứ không phải là hạnh phúc tội lỗi.

Sau cùng là thánh Phêrô, người môn đệ thân tín nhưng đã chối Thầy và kẻ trộm nổi tiếng đến mức phải mang án tử. Cũng nhờ ánh mắt của đầy yêu thương của Chúa mà Phêrô đã biết “khóc lóc ăn năn”; kẻ trộm đã “có lòng hối cải”.

Còn nhiều những con người, những vị thánh đã được biến đổi để trở nên tốt đẹp hơn.

  1. Trong gia đình

Có những người chồng “bỗng nhiên” không đi lễ, lại còn cấm cản vợ con, làm cho họ “bỗng dưng muốn khóc”. Nhưng nhờ lời cầu nguyện của người thân mà họ đã thay đổi, trở nên sốt sắng, giữ đạo đàng hoàng và làm gương sáng cho nhiều người khác.

Có những người vợ bị vướng vào vòng đỏ đen, ham mê cờ bạc, số đề, bỏ bê gia đình… Nhưng có một biến cố nào đó làm họ suy nghĩ lại, mình đã hành động sai trái, nên mau chóng từ bỏ tất cả, quay về với chồng con để lo xây đắp hạnh phúc gia đình.

Có những đứa con ngỗ nghịch, ham chơi, phá của, bỏ nhà thờ lâu năm… làm cho cha mẹ và nhiều người phải phiền lòng. Nhưng qua một căn bệnh hay một tai nạn, tự nhiên “đổi tính” trở nên ngoan ngoãn, lo học hành để xây dựng tương lai, lo làm việc để kiếm tiền phụ giúp cha mẹ, đi lễ sốt sắng…

Tất cả những thay đổi đó những người không có niềm tin cho là “chuyện lạ”. Còn chúng ta biết rằng chúng xuất phát từ “ánh mắt đầy yêu thương của Chúa”.

III.  HƯỚNG ĐẾN LÒNG THƯƠNG XÓT CỦA CHÚA

Nếu bữa tiệc nào cũng được Chúa Giêsu làm phép lạ hóa nước thành rượu thì chắc chắn mọi gia đình không còn cảnh lo lắng, khổ sở vì thiếu rượu (dĩ nhiên trong hoàn cảnh thời Chúa Giêsu). Nếu tất cả mọi người đều được “ánh mắt đầy yêu thương của Chúa” biến đổi khiến mắt phàm của chúng ta nhìn được thì chắc chắn không còn đau khổ trên trần gian này nữa; không còn cảnh vợ chồng khổ sở vì nhau, cha mẹ muộn phiền vì con cái…

“Ánh mắt đầy yêu thương của Chúa” vẫn nhìn, vẫn biến đổi mọi người, nhưng có những người không chịu biến đổi. Họ cố chấp, ngang bướng trong con người cũ của họ. Họ cứ muốn làm “nước lã” chứ không muốn thành “rượu ngon”.

Kế đến “ánh mắt đầy yêu thương của Chúa” vẫn nhìn, vẫn biến đổi con người, nhưng theo chương trình của Chúa, chứ không theo chương trình của con người, nghĩa là theo như con người nhìn thấy. Ví dụ người thân bị bệnh, chúng ta cầu xin Chúa mà không thấy Chúa cho thuyên giảm. Chúng ta giận Chúa! Đó là cái nhìn của con người. Đâu biết rằng Chúa đang biến đổi người thân của chúng ta, khiến họ can đảm, vui lòng chấp nhận bệnh tật để đền tội cho họ và các linh hồn…

Sau cùng, “ánh mắt đầy yêu thương của Chúa” đang muốn chúng ta hướng đến Lòng Thương Xót của Ngài. Vì vậy đừng bao giờ chán nản, bỏ cuộc, nhưng hãy cứ dõi theo ánh mắt của Chúa. Vì ánh mắt này chắc chắn sẽ biến đổi chúng ta được rạng rỡ trong vinh quang nước Chúa. Tình yêu của Chúa sẽ “sánh duyên” chúng ta với Ngài

Mẹ Maria hiện diện trong tiệc cưới không phải chỉ như khách mời, nhưng như người thân trong gia đình. Vì thế Mẹ biết hoàn cảnh của họ, Mẹ nhờ Chúa Giêsu can thiệp. Gia đình chúng ta cũng hãy “mời” Mẹ đến ở trong gia đình mình để Mẹ trở thành người một nhà với chúng ta, cùng chung những vui buồn sướng khổ. Có Mẹ, những vui buồn sướng khổ đó sẽ được biến đổi để đem đến niềm vui, hạnh phúc đích thực cho chúng ta.

Lạy Chúa, mỗi người chúng con, gia đình chúng con đang thiếu “men tình yêu”. Vì vậy “nước lã” cứ tràn ngập trong cuộc đời chúng con. Xin Chúa đổ tràn đầy tình yêu của Chúa vào trong tâm hồn chúng con, để “nước lã” là những thứ phàm tục sẽ biến thành “rượu ngon” là niềm vui thánh thiện.

Về mục lục

.

CÓ CHÚA, NIỀM VUI SẼ TRỌN VẸN

Jos. Vinc. Ngọc Biển

Phụng vụ Lời Chúa hôm nay có liên quan đến lễ Hiển linh và lễ Đức Giêsu chịu Phép rửa, vì trong cả ba lễ này, Đức Giêsu đều tỏ vinh quang của mình ra dưới nhiều khía cạnh khác nhau.

Nếu Chúa Nhật lễ Hiển linh, Đức Giêsu tỏ mình ra cho dân ngoại qua Ba Đạo Sĩ nơi ngôi sao lạ, để loan báo ơn cứu độ phổ quát cho muôn dân; rồi Chúa Nhật lễ Đức Giêsu chịu Phép rửa, Thiên Chúa Cha giới thiệu Ngài là Con Yêu Dấu và được Chúa Thánh Thần tấn phong, đây là một cuộc mạc khải về thiên tính và sứ vụ nơi Đức Giêsu, thì đến Chúa Nhật này, Đức Giêsu tỏ vinh quang của Ngài cho mọi người dự tiệc cưới qua dấu lạ đầu tiên, đó là: phép lạ nước lã thành rượu ngon.

Qua việc tỏ vinh quang trong bối cảnh tiệc cưới tại Cana, Đức Giêsu muốn củng cố niềm tin cho các môn đệ đầu tiên, và một cách tiệm tiến, Ngài đi từ tiệc cưới tự nhiên, tức là tiệc cưới Cana để dẫn con người đến tiệc cưới giữa Thiên Chúa với dân Người.

  1. Tiệc cưới Cana

Tin Mừng hôm nay cho biết, tại làng Cana, miền Galilê có một đám cưới của đôi bạn trẻ. Trong số những khách dự tiệc hôm ấy, có sự hiện diện của Mẹ Maria, Đức Giêsu và các môn đệ đầu tiên. Đây thật là một hồng phúc cho gia chủ và nhất là đôi tân hôn!

Theo văn hóa, phong tục của người Dothái thì nghi lễ thường được được bắt đầu vào lúc mặt trời đã xế bóng. Khi ấy, đôi tân hôn được đưa về nhà mới, nơi họ sẽ ở và sinh sống trong tư cách là vợ chồng. Đến giờ đã định, một cuộc rước linh đình bắt đầu diễn ra. Họ được đưa đi qua các con đường dưới ánh sáng của các ngọn đuốc và có lọng che đầu.

Khi đã về đến nhà, họ ở tại nhà mới của mình và bắt đầu tiếp khách. Thời gian kéo dài khoảng một tuần lễ. Đầu họ đội vương niệm và mặc y phục của lễ cưới. Tuần lễ này có thể nói là tuần lễ vui mừng và hạnh phúc, vì đây là dịp duy nhất của đời người, họ được mọi người kính nể, trọng vọng và trân quý cách đặc biệt.

Trong bầu khí hân hoan đó, người ta không ngại gì tốn kém, và ai nấy ăn uống thoải mái, nào là chén chú chén anh, chén tạc chén thù, chén thương chén nhớ…

Như vậy, rượu dùng để đãi khách là điều hết sức quan trọng. Tuy nhiên, đám cưới hôm nay niềm vui không được trọn vẹn, vì tiệc đang dang dở thì hết rượu. Đây là điều cấm kỵ trong văn hóa của người Dothái và nỗi tủi nhục ập đến cho gia chủ cũng như đôi tân hôn.

Nhưng, nhờ sự tinh tế, nhạy bén, thấu hiểu và cảm thông của Mẹ Maria, nên Mẹ đã không nỡ để cho gia chủ phải bẽ mặt hổ ngươi, vì thế, Mẹ đã cậy nhờ Đức Giêsu để Ngài cứu nguy cho họ, qua đó, giữ thể diện cho gia chủ!

Khi được Mẹ thông báo, Đức Giêsu cũng một tâm tình như Mẹ mình, nên Ngài đã làm phép lạ hóa nước lã thành rượu ngon.

  1. Tiệc cưới của Thiên Chúa với dân Người

Qua phép lạ này, Đức Giêsu muốn đi xa hơn để mạc khải cho nhân loại biết: giữa Thiên Chúa và dân Người cũng được ví như một tiệc cưới.

Hình ảnh này được ngôn sứ Isaia nhắc đến trong bài đọc I hôm nay:

Dân Israel vốn là một dân tộc được Thiên Chúa yêu thương, nhưng sự bội ước, bất trung đã làm cho họ phải chịu cảnh nô lệ nơi đất khách quê người, bị chủ nô coi thường, khinh bỉ. Tuy nhiên, lòng thương xót của Thiên Chúa thì lớn lao hơn cả tội lỗi của con người, nên Người đã cứu dân ra khỏi kiếp lưu đày, thoát khỏi cảnh nô lệ, để từ nay, không còn bị nghe thấy dân ngoại sỉ nhục là: “Đồ bị ruồng bỏ” và xứ sở không còn mang tiếng là “phận bạc duyên đơn”. Từ nay, dân Israel thoát ra khỏi lời nguyền khinh miệt, được trở thành một dân tự do trong tiếng vui cười hân hoan. Thiên Chúa và dân Israel được ví như: “… trai tài sánh duyên cùng thục nữ, Đấng tác tạo nên ngươi sẽ cưới ngươi về. Như cô dâu là niềm vui của chú rể, ngươi cũng là niềm vui của Thiên Chúa ngươi thờ (Is 62,5). Như vậy, trong tư cách là hôn phu, Thiên Chúa hằng ân cần chăm sóc, kiêm tâm, nhẫn nại và hết mực yêu thương dân Israel như hôn thê của mình.  

Sang thời Tân Ước, Đức Giêsu Kitô được ví như vị hôn phu của Giáo Hội (x. Ep 5,22-23). Hình ảnh này đã được sách Khải Huyền nhắc tới khi đề cập đến tiệc cưới giữa Con Chiên (Đức Kitô) với Giêrusalem trên trời (Giáo Hội) (x. Kh 21,9).

Thật vậy, Đức Kitô đã chọn Giáo Hội làm hôn thê của mình, nên Ngài đã hiến dâng trọn vẹn, ngay cả cái chết trên thập giá, để chứng tỏ tình yêu Ngài dành cho Giáo Hội.

Sự gắn bó đầy yêu thương này một lần nữa được sáng tỏ trong bài Tin Mừng hôm nay: vì yêu thương, cảm thông và liên đới, nên Đức Giêsu đã làm phép lạ nước lã hóa rượu ngon. Qua sự kiện này, một mặt Ngài bày tỏ quyền năng và vinh quang của mình cho các môn đệ thấy mà tin, mặt khác, Đức Giêsu muốn đi xa hơn để loan báo một triều đại mới, triều đại của Đấng Thiên Sai, đến để ban phát ân sủng nhằm  thay thế cho thời đại cũ vì nó không còn phù hợp.

Như vậy, chúng ta thấy: “Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót”. Ngài là nguồn gốc của tình yêu, Ngài san sẻ tình yêu cho con người để họ yêu Ngài và yêu nhau.

  1. Sống sứ điệp Lời Chúa

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay muốn mời gọi chúng ta hãy biết xây dựng mối tương quan gia đình trên nền tảng tình yêu.

Vợ chồng yêu thương nhau, cha mẹ yêu thương con cái như khuôn mẫu của Thiên Chúa Ba Ngôi; như hình ảnh khăng khít giữa Thiên Chúa và dân Israel, như Đức Kitô hiến mình vì Giáo Hội. Đây là tiêu chuẩn, mẫu số cho mọi người Kitô hữu noi theo.

Tuy nhiên, muốn sống được điều đó, chúng ta cần:

Trước tiên, loại bỏ lối sống ích kỷ, vụ lợi, thực dụng để thay thế vào đó bằng thứ rượu tình thương, độ lượng và hy sinh, liên đới, cảm thông và chia sẻ.

Thứ đến, mọi người luôn biết nghe và thi hành Lời Chúa như những gia nhân trong Tin Mừng hôm nay. Thiên Chúa phải là trung tâm của mọi sinh hoạt trong gia đình. Nếu không có Chúa, niềm vui của chúng ta sẽ hão huyền, phù phiếm, mau qua, chóng hết và không trọn vẹn.

Cuối cùng, mọi nỗi khó khăn, vất vả, chúng ta hãy chạy đến với Mẹ Maria, để nhờ Mẹ, chúng ta đến với Chúa là nguồn cội bình an, là đích điểm hạnh phúc, Ngài sẽ ban cho chúng ta được no đủ và hoan lạc, như xưa Ngài đã nhận lời Đức Mẹ mà cứu giúp gia chủ trong tiệc cưới tại Cana.

Lạy Chúa Giêsu, đời sống của nhiều gia đình Công Giáo hôm nay bị thiếu rượu yêu thương, liên đới và trách nhiệm. Vì thế, gia đình không còn là nơi tiếp nhận và chia sẻ tình yêu.

Xin cho các gia đình của chúng con biết chọn Chúa làm trung tâm của cuộc sống và cho mỗi người luôn được Lời Chúa hướng dẫn, ngõ hầu chúng con được bình an, niềm vui và hạnh phúc. Amen.

Về mục lục

.

CẢM THÔNG TIN CẬY VÀO LÒNG CHÚA THƯƠNG XÓT

NOI GƯƠNG MẸ MARIA

Lm. Đan Vinh

I. HỌC LỜI CHÚA

  1. TIN MỪNG: Ga 2,1-11

(1) Ngày thứ ba, có tiệc cưới tại Ca-na miền Ga-li-lê. Trong tiệc cưới, có thân mẫu Đức  Giê-su. (2) Đức Giê-su và các môn đệ cũng được mời tham dự. (3) Khi thấy thiếu rượu, thân mẫu Đức Giê-su nói với Người : “Họ hết rượu rồi”. (4) Đức Giê-su đáp : “Thưa Bà, chuyện đó can gì đến Bà và Con? Giờ của Con chưa đến. (5) Thân mẫu Người nói với gia nhân : “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo”. (6) Ở đó có đặt sáu chum đá dùng vào việc thanh tẩy theo thói tục người Do thái, mỗi chum chứa được khoảng tám mươi hoặc một trăm hai mươi lít nước. (7) Đức Giê-su bảo họ : “Các anh đổ đầy nước vào chum đi !” và họ đổ đầy tới miệng. (8) Rồi Người nói với họ : “Bây giờ các anh múc và đem cho ông quản tiệc”. Họ liền đem cho ông. (9) Khi người quản tiệc nếm thử nước đã hóa thành rượu (mà không biết rượu từ đâu ra, còn gia nhân đã múc nước thì biết), ông mới gọi tân lang lại (10) và nói : “Ai ai cũng thết rượu ngon trước, và khi khách đã ngà ngà mới đãi rượu xoàng hơn. Còn anh, anh lại giữ rượu ngon cho đến mãi bây giờ”. (11) Đức Giê-su đã làm dấu lạ đầu tiên này tại Ca-na miền Ga-li-lê, và bày tỏ vinh quang của Người. Các môn đệ đã tin vào Người.

  1. Ý CHÍNH:

Đức Giê-su và các môn đệ đã cùng với Mẹ Ma-ri-a đến tham dự một bữa tiệc cưới tại thành Ca-na miền Ga-li-lê. Bữa tiệc mới được nửa chừng thì rượu sắp hết. Mặc dù chưa tới Giờ hành động, nhưng do lời Mẹ Ma-ri-a cầu bầu mà Đức Giê-su đã làm dấu lạ đầu tiên biến nước lã thành rượu ngon. Qua dấu lạ cảm thông và giàu lòng thương xót này mà các môn đệ của Đức Giêsu đã tin vào Người thực là Đấng Cứu Thế của Thiên Chúa.

  1. CHÚ THÍCH:          

-C 1-2: +Có thân mẫu Đức Giê-su: Tin mừng Gio-an 2 lần nhắc đến Đức Ma-ri-a trong thời gian Đức Giê-su ra giảng đạo: Lần đầu khi Đức Giê-su bắt đầu đi thi hành sứ mệnh Thiên Sai, Đức Ma-ri-a đã hiện diện trong bữa tiệc cưới tại thành Ca-na và đã can thiệp khiến Đức Giê-su làm phép lạ biến nước lã thành rượu ngon, dù chưa đến Giờ của Người. Lần hai nhắc đến việc Đức Ma-ri-a đứng dưới chân thập giá trong cuộc tử nạn của Đức Giê-su, để hiệp công cứu độ loài người.

-C 3-5: +Thiếu rượu: Người Do thái vẫn thường ăn uống tiết độ. Nhưng trong dịp cưới xin, họ lại hay uống quá chén. Vì thế bữa tiệc cưới này mới nửa chừng thì đã hết rượu. +Thân mẫu Đức Giê-su nói với Người: “Họ hết rượu rồi”: Đức Ma-ri-a tỏ ra nhạy cảm trước nhu cầu của đôi tân hôn, nên đã nói với Đức Giê-su rằng: “Họ hết rượu rồi” với hy vọng Người sẽ giúp đỡ đôi tân hôn. +Thưa Bà: Ở đây và trên cây thập giá (x Ga 19,26), Đức Giê-su đều dùng từ “Bà” (gune) để gọi thân mẫu của Người, giống như bà E-và xưa cũng đã được gọi là “Bà” (x. St 3,15.20). Điều này ngầm ám chỉ Đức Ma-ri-a là “E-và Mới” của thời Tân ước, là Mẹ của một “nhân loại mới” được ơn cứu độ. +Chuyện đó can gì đến Bà và Con?: Đây là một kiểu nói Do thái nhằm từ chối một sự can thiệp không đúng lúc (x. 2 Sm 16,10). +Giờ của Con chưa đến: Đức Giê-su không làm gì trước Giờ của Người (x. Ga 7,30). Ở đây có ý nói rằng: tuy Giờ được tôn vinh chưa đến, vì Người chưa trải qua cuộc tử nạn và phục sinh, nhưng ngay bây giờ Người muốn biểu lộ Giờ ấy cho các môn đệ thấy hầu tin vào Người, qua dấu lạ Người sắp thực hiện. +“Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo”: Trực giác khiến Đức Ma-ri-a tin cậy chắc chắn Đức Giê-su sẽ can thiệp, nên đã căn dặn gia nhân hãy làm theo lệnh Người truyền. Câu này nhắc lại lời Pha-ra-on vua Ai Cập vào thời tổ phụ Gia-cóp và Giu-se xưa: “Cứ đến với Giu-se. Ông bảo gì, các ngươi hãy làm theo” (St 41,55).           

-C 6-8: +Sáu cái chum đá dùng vào việc thanh tẩy: Theo phong tục Do thái, người ta thường để những cái chum đựng nước trong sân trước hay sân sau nhà mỗi khi có đám tiệc, để khách mới đến có thể rửa tay rửa mặt theo tục lệ thanh tẩy trước khi dùng bữa (x. Mt 15,2). Ở đây có 6 chum đá, mỗi chum chứa được hai hay ba thùng 40 lít, tức vào khỏang từ 80 đến 120 lít nước ! +“Các anh đổ đầy nước vào chum đi !” và họ đổ đầy tới miệng: Đức Giê-su ra lệnh cho gia nhân đổ đầy nước vào sáu cái chum đá. “Đổ đầy tới miệng” cho thấy ơn Chúa được ban cho đôi tân hôn cách dư đầy. Với khoảng 600 lít rượu thì cả làng sẽ được uống no nê thỏa thích!

-C 9-11: +Dấu lạ đầu tiên: Dấu lạ là một việc làm khác thường, diễn tả một điều thiêng liêng đang ẩn dấu. Dấu lạ đầu tiên tại tiệc cưới Ca-na này để tỏ bày vinh quang và quyền năng của Đức Giê-su trước các môn đệ (c 11b), giúp các ông vững tin vào Người là Đấng Thiên Sai (x. Ga 2,11c).

4.CÂU HỎI:

1) Qua việc nhắc đến Đức Ma-ri-a vào lúc đầu và cuối thời gian rao giảng Tin mừng của Đức Giê-su, thánh Gio-an muốn nói gì về vai trò của Đức Giê-su và thân mẫu Người trong công trình cứu độ? 2) Tại sao Đức Giê-su lại dùng tiếng “Bà” khi thưa chuyện với Đức Ma-ri-a? 3) Qua câu “Giờ Con chưa đến”, Đức Giê-su muốn nói gì về sứ mệnh Thiên Sai của Người? 4) Tại sao Đức Ma-ri-a lại dạy gia nhân làm theo lệnh truyền của Đức Giê-su? 5) Đức Giê-su làm phép lạ đầu tiên này tại tiệc cưới Ca-na nhằm mục đích gì?

 II. SỐNG LỜI CHÚA

      1. LỜI CHÚA: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo” (Ga 2,5)

  1. CÂU CHUYỆN:

1) SỰ HIỆN DIỆN CỦA CHÚA THÁNH HÓA CUỘC SỐNG GIA ĐÌNH:

Cách đây ít lâu, có một phụ nữ đã kể lại câu chuyện xảy ra trong gia đình bà như sau : “Từ trước đến nay hai vợ chồng tôi luôn nhất trí trong việc mua sắm và trang trí nhà cửa. Tuy nhiên, gần đây, chồng tôi tự nhiên mang về một khung ảnh Thánh Tâm Chúa Giê-su bằng kiếng, có kích thước 40×50 cm, bên trong có thiết kế ánh sáng đèn điện. Mỗi khi đèn sáng thì hình Thánh Tâm Chúa lại sáng lên trông rất đẹp mắt. Ông chồng tôi đòi treo bức ảnh này ở nơi trang trọng nhất trong phòng khách. Theo ý tôi thì không nên treo tại phòng khách vì nhà chúng tôi có nhiều khách lạ thường lui tới. Nhưng lần này chồng tôi quyết tâm bảo thủ ý muốn của mình. Trong lúc tranh cãi, tự nhiên lời Chúa xuất hiện trong tâm trí tôi : “Ai nhìn nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ tuyên bố nhận người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời” (Mt 10,32). Cuối cùng tôi đã bằng lòng theo ý của chồng tôi. Giờ đây, sau mấy năm, tôi thực sự không hối tiếc gì về việc đã chiều theo ý muốn của chồng. Vì bức ảnh Thánh Tâm Chúa đã phát sinh hiệu quả tốt trên gia đình tôi và các khách đến thăm ngôi nhà của chúng tôi. Ngày nọ, có một ông khách sau khi chăm chú nhìn vào bức hình, đã phát biểu như sau: “Bà biết không? Khi nhìn vào khuôn mặt Đức Giê-su trên bức hình này, tôi có cảm tưởng như Người đang nhìn thấu qua tâm hồn tôi !”. Rồi vào một buổi tối kia, một bà bạn sau khi ngồi ngắm bức hình khá lâu cũng đã thốt lên : “Mỗi lần đến đây, lúc nào tôi cũng có cảm giác trong nhà chị chan hòa sự bình an”… Nói chung, khi nhìn vào hình Chúa Giê-su, thì tâm hồn của các người khách đều được nâng cao ! Có thể mọi người sẽ cười nhạo những nhận xét này của tôi, nhưng tôi không quan tâm. Theo thiển ý của tôi: Một khi bạn mời Chúa vào nhà, chắc chắn bạn sẽ được ơn biến đổi nên tốt hơn, không giống như lúc trước nữa !”.

 2) GIÁ TRỊ LỜI CẦU BẦU CỦA MỘT BÀ MẸ:

          Linh mục Sylvano và mục sư Tin lành Henri cùng nhau đến lâu đài Pa-xi-an để xin hoàng tử trợ giúp tài chính cho dự án của mình. Linh mục Sylvano có ý định xin tiền để xây nhà thờ. Còn mục sư Henri thì xin tiền để xây trường học.

          Đến nơi, họ được hoàng tử Auguste tiếp kiến riêng từng người một. Người được vào trước là mục sư Henri. Nhưng chỉ vài phút sau người ta thấy mục sự bước ra với vẻ mặt buồn thiu, vì dự án không được hoàng tử chấp nhận.

          Mục sư ngồi lại chờ linh mục Sylvano để cùng về chung. Ông hết sức ngạc nhiên khi thấy linh mục bước ra khỏi phòng tiếp kiến của hoàng tử, vẻ mặt hớn hở, tay xách một túi tiền khá nặng. Mục sự Henri liền thắc mắc hỏi :

          – Tại sao linh mục lại được tài trợ như thế ?

          Linh mục Sylvano trả lời :

          – Dĩ nhiên đúng như vậy. Thoạt đầu hoàng tử chối từ lời xin của tôi. Nhưng khi nhìn qua bên cạnh thấy có hoàng thái hậu, tôi liền đến trước hoàng thái hậu để xin  ngài bầu cử cho. Và hoàng tử đã đổi ý kiến, nghe lời khẩn cầu của hoàng thái hậu mà tài trợ cho dự án của tôi. Hoàng tử đã thưa với mẹ:”Mẹ đồng ý thì con cũng đồng ý”

(D. Wahrheit, Món quà giáng sinh, 79-80).

  1. THẢO LUẬN: THẾ NÀO LÀ MỘT GIA ĐÌNH CÔNG GIÁO ĐẠO ĐỨC THƯC SỰ?

Một người kia có dịp nghỉ hè tại nhà một bạn thân. Sau kỳ nghỉ đã viết thư cám ơn bạn ấy. Trong thư có đoạn nhận xét về gia đình của bạn mình như sau: “Tôi cảm thấy gia đình bạn là một gia đình công giáo đạo đức thực sự: Cách bài trí trong nhà bạn thật ấn tượng với những tranh ảnh đạo được treo trên tường thay vì những tranh lịch người mẫu ăn mặc hở hang. Tôi không quên được những lời cầu nguyện sốt sắng của từng thành viên trong gia đình bạn trước các bữa ăn. Tôi cảm thấy một bầu khí đầm ấm yêu thương và bình an ở trong ngôi nhà của bạn: Các thành viên đều quan tâm săn sóc lẫn nhau. Tôi chưa bao giờ nghe thấy tiếng tranh cãi to tiếng, những lời tục tĩu hay những lời chỉ trích nói hành người vắng mặt trong ngôi nhà của bạn”… Còn gia đình của chúng ta hiện nay có những phẩm chất đạo đức như gia đình trong câu chuyện trên hay không?

  1. SUY NIỆM:

Tin Mừng Chúa nhật hôm nay thuật lại câu chuyện Đức Giê-su thể hiện lòng thương xót đối với tha nhân: Dù chưa tới Giờ hành động, nhưng nghe lời Mẹ Ma-ria chuyển cầu, Đức Giêsu đã biến nước lã trở thành rượu ngon để giúp đôi tân hôn. Phép lạ biến nước thành rượu này cũng là gương mẫu thúc đẩy chúng ta hãy tỏ lòng thương xót đối với tha nhân đang gặp hoàn cảnh khó khăn cần sự trợ giúp. Nếu các gia đình tín hữu biết lắng nghe và thực thi lời dạy của Chúa Giêsu noi gương Mẹ Maria, thì chắc chắn nhiều anh em chưa biết Chúa cũng sẽ được ơn hiểu biết để tin theo Chúa như các tông đồ khi xưa.

1) Cảm thông với người bất hạnh noi gương đức Maria:

Khi nhận ra bữa tiệc cưới sắp hết rượu cưới nửa chừng hết rượu, Đức Maria đã nói khó với con mình lag Chúa Giêsu: “Họ hết rượu rồi”. Nhiều người trong số khách dự tiệc hôm đó có thể cũng nghĩ về việc can thiệp của Đức Maria giống như câu Chúa Giêsu trả lời Đức Mẹ: “Thưa Bà, chuyện đó can gì đến Bà và Con ?”. Tuy vậy, Đức Mẹ vẫn tin tưởng vào tình thương của con nên đã nói với những người giúp việc: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo”. Mẹ biết Người sẽ can thiệp để cứu đôi tân hôn và gia đình, vì Người luôn có lòng từ bi thương xót đối với những ai đang gặp hoàn cảnh khốn khó gian nan.

Ngày nay, Mẹ vẫn nói nhỏ bên tai Chúa: “Họ hết rượu rồi”. Mẹ luôn cầu bầu với Chúa :

Để bao mối tình yêu đang nhạt phai được trở nên nồng thắm trở lại.

Để bao gia đình đang thiếu vắng tình yêu được củng cố và nên thuận hoà yêu thương nhau.

Để bao tâm hồn đang chao đảo được lấy lại niềm tin và hy vọng vào Chúa.

 Người ta tính trung bình hiện nay trên thế giới, cứ mỗi một tiếng đồng hồ lại có tới cả trăm đôi vợ chồng đưa nhau ra tòa xin ly hôn. Con số vợ chồng ly hôn lại còn tăng mạnh hơn lên tới 50% tại các nước phương tây, nghĩa là cứ hai cặp vợ chồng kết hôn, thì có một cặp bị thất bại sau một thời gian sống chung.

Nếu ngày xưa Chúa Giêsu đã biến Luật pháp nhạt như nước lã thời Cựu Ước trở thành Tin Mừng yêu thương nồng thắm như rượu nho thời Tân Ước; thì ngày nay, Người cũng muốn chúng ta biến cuộc đời lạt lẽo vô vị hướng chiều về thế gian trở thành vui tươi hạnh phúc hướng về tình “mến Chúa, yêu người”, để mọi người đều nhận được niềm vui ơn cứu độ của Chúa Giêsu.

2) “Người bảo gì các anh cứ việc làm theo”: Cuộc sống của mỗi người cũng như của gia đình chúng ta không thiếu những bất trắc và sự cố bất ngờ. Tuy nhiên, nếu biết tin vào tình thương và quyền năng của Chúa và sự chuyển cầu đắc lực của Đức Maria thì chắc chắn chúng ta sẽ vượt qua mọi hoàn cảnh khó khăn, với điều kiện chúng ta phải làm theo lời Mẹ Ma-ri-a dạy trong Tin Mừng hôm nay: “Giêsu bảo gì, các anh cứ việc làm theo” (Ga 2,5).

Mỗi gia đình tín hữu chúng ta hãy mời Chúa Giê-su và Mẹ Maria đến nhà bằng việc thiết lập bàn thờ Chúa tại nơi trang trọng nhất trong nhà và tổ chức đọc kinh tối chung gia đình hằng ngày. Trong giờ kinh tối, các thành viên gia đình cùng nghe Lời Chúa và cầu nguyện cho nhau, động viên nhau thực hành lời Chúa bằng lối ứng xử lịch sự tế nhị và sẵn sàng cảm thông tha thứ những lỗi lầm cho nhau như lời thánh Phaolô khuyên các tín hữu Côlôxê: “Anh em là những người được Thiên Chúa tuyển lựa, hiến thánh và yêu thương. Vì thế, anh em hãy có lòng thương cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hòa và nhẫn nại. Hãy chịu đựng và tha thứ cho nhau, nếu trong anh em người này có điều gì phải trách móc người kia. Chúa đã tha thứ cho anh em, thì anh em cũng vậy, anh em phải tha thứ cho nhau” (Col 3,12-13).

Vậy mỗi buổi sáng khi vừa thức dậy, chúng ta hãy dành ra một phút hiệp cùng Mẹ Maria cầu xin Chúa Giêsu giúp chúng ta thực hành theo lời Chúa dạy trong ngày sống mới.

3) Hãy mời Chúa Giê-su đến nhà: Trong Tin mừng, những ai đón nhận Đức Giê-su đến nhà đều nhận được những ơn lành hồn xác. Chẳng hạn:

– Đức Giê-su đến thăm gia đình ông Si-mon và đã cho bà nhạc mẫu của ông khỏi cơn sốt nặng (x. Mt 1,29.31);

– Người cũng đến nhà ông Gia-ia để phục sinh con gái ông vừa chết nằm trên giường (x. Mc 5,22.38-43);

– Người đến dự tiệc tại nhà viên thủ lãnh nhóm Pha-ri-sêu và đã chữa lành cho một người mắc bệnh phù thủng (x. Lc 14,1-4);

– Người đến ở trọ nhà viên trưởng thu thuế Gia-kêu để biến ông từ một kẻ tham lam trở thành người lương thiện, trở lại làm con cháu của tổ phụ Áp-ra-ham (x. Lc 19,8-10);

– Người vào ở trọ nhà hai môn đệ làng Em-mau để mở lòng hai ông nhận ra Người đã từ cõi chết sống lại qua nghi thức “bẻ bánh” (x. Lc 24,13-32)…

Tin mừng hôm nay cũng cho thấy đôi tân hôn đã mời Đức Giê-su và Mẹ Ma-ri-a đến nhà dự tiệc cưới và nhờ Mẹ cầu bầu, Đức Giê-su đã làm phép lạ đầu tiên biến nước lã thành rượu ngon giúp đỡ cho đôi tân hôn, và các môn đệ đã tin Người thực là Đấng Thiên Sai.

4) “Nầy, Ta đứng ngoài cửa mà gõ”: Ngày nay Chúa Giê-su vẫn đang đứng ngòai cửa linh hồn chúng ta và gõ. Những ai mở cửa đón Chúa, thì Người sẽ vào nhà và dùng bữa tối với kẻ ấy, và kẻ ấy sẽ dùng bữa chung với Người (x Kh 3:20). Vậy chúng ta có sẵn sàng mở cửa lòng đón rước Chúa Giêsu và Mẹ Maria vào nhà linh hồn mình, hầu nhận được ơn cứu độ của Chúa hay không? Chúng ta có biết noi gương Chúa Giêsu và Mẹ Maria thể hiện lòng thương xót bằng việc sẵn sàng giúp đỡ tha nhân vượt qua hoàn cảnh khó khăn đang gặp phải hay không?

  1. NGUYỆN CẦU:

– LẠY CHÚA GIÊ-SU. Xin hãy đến chúc phúc cho gia đình chúng con. Ước chi cánh cửa nhà chúng con luôn rộng mở để tiếp đón những kẻ không nhà. Xin chúc lành cho ngôi nhà của chúng con luôn có sự hiện diện của Chúa, thể hiện qua việc trưng bày các tượng ảnh trên bàn thờ trong nhà, nhất là qua cách ứng xử lịch sự tế nhị giữa các thành viên trong gia đình. Xin cho chúng con biết hiệp cùng Mẹ Ma-ri-a mở tai lắng nghe và thực hành Lời Chúa giữa đời thường.

– LẠY CHÚA. Xin cho đôi tay chúng con luôn rộng mở để sẵn sàng chia sẻ cơm áo cho những kẻ nghèo đói bệnh tật và bất hạnh. Xin cho trái tim chúng con luôn hướng về Chúa là nguồn sống và là hạnh phúc của chúng con. Nhờ đó, chúng con sẽ chu toàn được sứ mệnh làm chứng nhân của lòng Chúa thương xót giữa xã hội Việt Nam hôm nay.

X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.

Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.

Về mục lục

.

HỌ HẾT RƯỢU RỒI

Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu

 Suy Niệm

Ðức Giêsu, Mẹ Ngài và các môn đệ cùng có mặt trong một đám cưới ở làng quê Cana. Ðám cưới là một cuộc vui kéo dài cả tuần. Tiếc thay, tiệc nửa chừng thì hết rượu. Ðức Giêsu đã làm dấu lạ đầu tiên trong Tin Mừng Gioan. Ngài đã biến nước thành rượu. Ngài trả lại bầu khí vui tươi cho đám cưới.

Tin Mừng Gioan hay kể lại những dấu lạ có ý nghĩa. Những dấu lạ vén mở con người Ðức Giêsu. Làm bánh hóa nhiều cho thấy Ðức Giêsu là Bánh thật. Chữa người mù bẩm sinh cho thấy Ðức Giêsu là Ánh Sáng. Hoàn sinh Ladarô cho thấy Ðức Giêsu là sự Sống Lại. Dấu lạ ở tiệc cưới Cana cũng cho ta biết Ngài. Thứ nước dùng cho nghi thức tẩy uế của Do Thái giáo, Ðức Giêsu biến nó thành rượu ngon, một lượng rượu khổng lồ vượt quá mức đòi hỏi. Ngài biến nước của Cựu Ước thành rượu của Tân Ước. Như thế Ngài đã mở ra một thời đại mới thời đại thiên sai, chan chứa niềm vui cứu độ. Ðức Giêsu cho thấy mình chính là Ðấng Mêsia. Ngài đến để thiết lập một trật tự mới dồi dào và phong phú, như rượu vừa nhiều vừa ngon.

Cựu Ước không làm con người mãn nguyện. Con người vẫn khát khao và tìm kiếm hạnh phúc. Nhưng hạnh phúc vẫn là cái gì bèo bọt, mong manh. Ðức Giêsu đã dự tiệc cưới ở Cana. Ngài muốn dự mọi bữa tiệc liên hoan của con người. Ngài muốn chia sẻ và bảo vệ niềm vui bé nhỏ nơi họ. Ðừng để Ðức Giêsu đứng ngoài hạnh phúc của bạn. Ðừng coi Ngài là người ganh ghét với niềm vui bạn có. Nếu bạn nghe lời Ngài, đổ nước đầy các chum rỗng, bạn sẽ gặp được hạnh phúc vững bền.

Dấu lạ Cana chủ yếu cho ta thấy Ðức Giêsu là ai, nhưng Ðức Maria cũng có một vai trò đáng kể. Mẹ hiện diện trong tiệc cưới như thân mẫu Ðức Giêsu. Mẹ thấy rõ sự lúng túng lo âu của chàng rể. “Họ hết rượu rồi”: Mẹ chỉ nói với Con như vậy. Câu nói của Mẹ ẩn chứa một lời nài xin kín đáo. Mẹ mong Con làm một điều gì đó mà Mẹ không rõ. “Người bảo gì, các anh hãy làm.” Quả thật Ðức Giêsu có bảo và các gia nhân có làm, nhờ đó dấu lạ Cana được thực hiện. Qua sự đóng góp của Mẹ trong dấu lạ mở màn này, đức tin của các môn đệ được củng cố và lớn lên.

Hôm nay Mẹ vẫn nói nhỏ với Chúa: Họ hết rượu rồi! Niềm vui chợt tắt, tình yêu nhạt phai, gia đình tan vỡ… Cần biết bao sự hiện diện của Chúa và Mẹ trong mỗi gia đình, giữa lúc khó khăn bối rối. “Người bảo gì, các con hãy làm”: Ðó vẫn là lời Mẹ nhắn nhủ chúng ta hôm nay.

Cầu Nguyện

Lạy Mẹ Maria, khi đọc Phúc Âm, lúc nào chúng con cũng thấy Mẹ lên đường. Mẹ đi giúp bà Isave, rồi đi Bêlem sinh Ðức Giêsu. Mẹ đưa con đi trốn, rồi dâng Con trong đền thờ. Mẹ tìm Con bị lạc và đi dự tiệc cưới ở Cana. Mẹ đi thăm Ðức Giêsu khi Ngài đang rao giảng. Và cuối cùng Mẹ đã theo Ngài đến tận Núi Sọ.

Mẹ lên đường để đáp lại một tiếng gọi âm thầm hay rõ ràng, từ ngoài hay từ trong, từ con người hay từ Thiên Chúa. Chúng con thấy Mẹ luôn đi với Ðức Giêsu trong mọi bước đường của cuộc sống. Chẳng phải con đường nào cũng là thảm hoa. Có những con đường đầy máu và nước mắt.

Xin Mẹ dạy chúng con đừng sợ lên đường mỗi ngày, đừng sợ đáp lại những tiếng gọi mới của Chúa dù phải chấp nhận đoạn tuyệt chia ly.

Xin giữ chúng con luôn đi trên Ðường-Giêsu để chúng con trở thành nẻo đường khiêm hạ đưa con người hôm nay đến gặp gỡ Thiên Chúa.

Về mục lục

.

CHÚA ĐÃ HIỂN LINH ĐIỀU GÌ

TRONG PHÉP LẠ ĐẦU TIÊN TẠI CANA

Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty

Khi tường thuật phép lạ đầu tiên tại Cana, tác giả Gio-an đã xác định, mục đích Đức Giê-su làm chính là: để “bày tỏ vinh quang của Người”. Đã từ lâu tôi thấy câu khảng định này không thuyết phục: phép lạ chẳng có gì là hoành tráng để đáng được gọi là bày tỏ vinh quang…, nó giống như một trò ảo thuật tầm thường ‘hóa nước thành rượu’; cả tới cách làm tôi thấy cũng có vẻ như lén lút bất cập, có quá ít người được chứng kiến, và hầu như chẳng gây được ấn tượng gì lớn ngay trong số các thực khách. Cả ba cuốn Phúc âm Nhất lãm cũng đâu có đề cập gì tới phép lạ mà Gio-an cho là ‘quan trọng’ bậc nhất ấy. Chính vì thế mà tôi ao ước: có được cặp mắt bén nhạy (hay khác thường) của Gioan, để chiêm ngắm cái phép lạ ‘tầm thường’ được cho là phi thường này. Gio-an là môn đệ đã từng khảng định rằng: mình ‘đã nghe… đã thấy tận mắt… đã chiêm ngưỡng… đã chạm đến’ một điều gì đó vĩ đại lắm mà ông gọi là ‘Lời sự sống’ (xem 1 Ga 1:1-4). Chắc hẳn, qua phép lạ Đức Giê-su thực hiện tại Ca-na, lần đầu tiên ông cho rằng: mình đã được tận mắt chiêm ngưỡng ‘Lời hằng sống’ đó.

Trước hết: ‘vinh quang’ như Gioan hiểu, có lẽ rất khác với quan niệm thông thường mà chúng ta có. Đối với ông nó phải rất đời thường và gần gũi…, đời thường như một bữa tiệc cưới thiếu rượu, như gia nhân đổ đầy nước vào các chum đá dùng vào việc rửa tay chân trước khi dự tiệc, như ông quản tiệc nếm thử rượu trước khi đãi khách… nhưng trong đó lại tàng ẩn một điều gì đó rất là phi thường, điều có khả năng làm đảo lộn tất cả. Gioan và các môn đệ, đương nhiên là cả Đức Maria nữa, đã nhận ra thứ ‘vinh quang’ đặc biệt đó, và các ngài đã tin.

Tôi không biết phải diễn tả cái suy tư này như thế nào đây cho dễ hiểu; chỉ xin lấy câu chuyện tranh, mà tôi cũng tình cờ xem được để minh họa:

Chuyện tranh ngắn mang tựa đề: ‘Tại Sao Vậy?’ (Why?), và được tôi tải xuống và lưu lại dưới nhan đề ‘Emmanuel – Thiên Chúa ở cùng chúng ta’. Chuyện tranh vẽ: (hình 1) anh chàng nọ quì gối cầu nguyện xin Chúa che chở mình, (hình 2) cầu nguyện xong anh yên tâm đứng lên ra về, (hinh 3) đang đi đột nhiên một viên đá không biết từ đâu rớt trúng đầu anh, (hình 4) anh giận dữ kêu toáng lên “tại sao vậy?”, (hình 5) ngước lại phía sau, anh thấy Đức Giê-su đang giang rộng cánh tay và lấy toàn thân che chắn anh khỏi những hòn đá lớn hơn nhiều đang lao tới, (hình 6) ngoái lại phía anh Người dịu dàng hỏi: “Con có sao không? Xin lỗi nhé, có thể ta đã để trượt mất một viên nhỏ!”.

Thế đấy, tôi thiết nghĩ cái gọi là ‘phép lạ cả thể’ nơi tiệc cưới Ca-na cũng tương tự như thế: chỉ là một tai nạn đời thường cùng với một giúp đỡ âm thầm ít đáng được ai quan tâm. Thế nhưng, những ai có cặp mắt như Ma-ri-a, như Gio-an và các môn đệ… (và phải là cặp mắt của mọi Ki-tô hữu nữa) mới có thể nhận ra rằng: đã có một tình yêu nhân ái vĩ đại đến trong trần gian, đã bắt đầu xuất hiện một Thiên Chúa đầy từ tâm can thiệp vào cuộc sống đời thường của con người. Với cặp mắt đức tin đó, họ nhận ra đây quả là một ‘phép lạ’ cả thể, một ‘sự lạ’ mà cho tới giờ phút đó chưa từng bao giời xảy ra trong lịch sử loài người. Trong đời sống thường ngày vẫn luôn tồn tại một nghịch lý: người ta trầm trồ tấm tắc trước một sự kiện nào đó hoành tráng vĩ đại, nhưng lại không mấy thấy cần tới nó: có cũng được mà không có cũng chẳng sao; trong khi đó, điều xem ra nhỏ mọn tầm thường và âm thầm như: ‘mình được một ai đó quan tâm thương mến’ chẳng hạn, thì hầu như lại không thể thiếu; nếu mất nó, ta hầu như không thiết gì sống nữa, tìm lại được nó thì như là phục hồi được cả một lẽ sống. ‘Phép lạ’ cả thể nhất mà Gio-an phát hiện ra nơi biến cố tầm thường ‘nước lã hóa thành rượu’ trong bữa tiệc cưới tại Ca-na hôm đó có lẽ chính là điều này. Ông đã thấy và ông đã tin rằng: Thiên Chúa yêu thương trần gian và đi vào cuộc sống con người…, và ông còn muốn không ngừng loan báo Tin Mừng này cho hết mọi người: “để chính anh em được hiệp thông với chúng tôi” (1 Ga 1:3). Câu chuyện ‘phép lạ’ mà chúng ta vừa được nghe Gio-an tường thuật đúng là Tin Mừng thứ thiệt đấy! Nói đúng hơn, cần mỗi Ki-tô hữu chúng ta phát hiện ra: đó chính là dấu hiệu khởi đầu của một ‘phép lạ’ cả thể hơn hết: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một…” (Ga 3:16). Hiển linh hay mạc khải của tiệc cưới Ca-na có mục đích để chúng ta từ nay đặt trọn niềm tin tưởng phó thác vào một Thiên Chúa đã Giáng Sinh, đã chêt trên Thập Giá, và đã Phục Sinh để cứu chuộc chúng ta, một Thiên Chúa đầy lòng từ bi và hay thương xót như chưa từng xuất hiện bao giờ trong suốt lịch sử nhân loại trước đó; và hiển linh này có sức mạnh để bắt đầu một cuộc cách mạng làm đảo lộn toàn bộ cuộc sống của người tín hữu trước hết, và của toàn thể nhân loại nói chung.

Lạy Mẹ từ nhân, tại tiệc cưới Ca-na chính Mẹ đã nhận ra một khó khăn nhỏ của đời thường, nhưng cũng chính Mẹ đã can thiệp, để qua đó Đức Giê-su bộc lộ được lòng nhân ái của Thiên Chúa, và để các môn đệ tin nhận ra điều đó. Xin chỉ cho con biết nhìn vào những yếu kém đổ vỡ của cuộc sống mình mà khám phá ra sự hiện diện liên tục của Thiên Chúa yêu thương. Xin cho con nhận ra ‘phép lạ vĩ đại nhất’ Chúa đang thực hiện trong đời sống con là ban cho con ơn đức tin để nhận biết và cảm tạ lòng thương xót Chúa. Xin Mẹ cũng can thiệp cho nhiều người nhận ra được‘phép lạ’ cả thể này ngay trong chính đời sống mình, và qua đó họ lớn tiếng ca ngợi lòng nhân ái từ bi Chúa đến muôn đời . A-men.

Về mục lục

.

RƯỢU NGON SẼ KHÔNG THIẾU

Dã Quỳ

Trong thời của Chúa Giêsu cũng như cuộc sống hiện nay của chúng ta, rượu là một phần không thể thiếu của những bữa tiệc mừng. Rượu đem lại niềm vui, tạo bầu khí sinh động. Người xưa nói “Miếng trầu mở đầu câu chuyện”; nhưng thời nay thì dường như “Chén rượu khởi đầu câu chuyện”, vì rượu giúp người ta cởi mở với nhau và dễ dàng giao trao đổi. Niềm vui của buổi tiệc được trọn vẹn khi món ăn đủ và rượu ngon không thiếu. Tin Mừng hôm nay thuật lại một tiệc cưới dở dang hết rượu! Thế nhưng, có thể nói là chỉ hết rượu không ngon, còn rượu ngon sẽ không bao giờ thiếu. Bởi vì:

– Lòng tin và sự Quan Tâm của Mẹ Maria: Ở bữa tiệc cưới tại Cana, Đức Maria, mẹ Chúa Giêsu đã rất chú ý tới nhu cầu của những người khác. Mẹ nhận thấy rằng chủ nhân tiệc cưới không còn rượu để thiết đãi khách nữa. Mẹ hiểu được nỗi khó khăn nan giải này của họ, Mẹ đã đến với Chúa Giêsu và tin chắc chắn Người có thể cứu nguy ở đây. Dù rằng con của Mẹ biểu lộ ngạc nhiên về lời cầu xin, nhưng… Mẹ đã sáng kiến nói với những người giúp việc “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo.” (Ga 2, 5) 

– Lòng tin và sự vâng lời của gia nhân: Các gia nhân nghe lời Đức Maria dặn.Vậy họ đã nhiệt tình đổ đầy nước vào sáu chum đá theo lời Chúa Giêsu đề nghị. Có thể những gia nhân cũng không biết Đức Maria và Chúa Giêsu, nhưng họ thực sự đơn sơ vâng lời và cộng tác với các Ngài. Gia nhân múc nước đổ vào chum và mang nước cho chủ tiệc nếm, hơn ai hết, họ biết chắc đó là nước, thế mà họ vẫn một lòng tin vào những lời Chúa Giêsu truyền dạy “Bây giờ các anh múc và đem cho ông quản tiệc. Họ liền đem cho ông. Khi người quản tiệc nếm thử nước đã hóa thành rượu (mà không biết rượu từ đâu ra, còn gia nhân đã múc nước thì biết.)”(Ga 2,8-9) Chúa Giêsu đã biến đổi nước thành rượu, ngon hơn rượu đã phục vụ trước đó.

– Và bởi vì Chúa Giê su tham dự tiệc cưới: Có Chúa Giê su hiện diện ở đó trong tiệc cưới. Người đã thực hiện  nhiều hơn một cử chỉ quảng đại đối với đôi tân hôn và gia đình họ. Như vậy, khởi đầu sứ mạng, Chúa Giêsu công bố thời đại mới đã đến, thời mà dân đã nóng lòng chờ đợi, trong bối cảnh của một bữa tiệc cưới mà ở đó rượu ngon không bao giờ thiếu. Từ 6 chum nước dùng vào việc thanh tẩy, con số không trọn vẹn (vì là 7 thiếu 1), nói lên Luật cũ không hoàn hảo, Chúa Giêsu đã dùng để hóa thành rượu ngon, rượu của Giao Ước Mới, giao ước đã vượt qua sự giới hạn của Giao Ước cũ với hình ảnh “Họ đã đổ đầy tới miệng.”(Ga 2,7)

Qua dấu lạ này, Chúa Giêsu khai mở một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên lòng nhân hậu kỳ diệu của Thiên Chúa, khởi đi từ bữa tiệc hoàn thành một Giao Ước Mới với dân của Người và với tất cả nhân loại. Tóm lại, đó là bữa tiệc cưới giữa Chúa Giêsu -Tân Lang với nhân loại, trở thành hiền thê của Người. Chúa Giêsu sai gia nhân đưa rượu cho chủ tiệc nếm là việc của một tân lang “…ông mới gọi tân lang lại và nói: Ai ai cũng thết rượu ngon trước…còn anh, anh lại giữ rượu ngon cho đến mãi bây giờ.” (Ga 2, 9-10) Chúa Giê su chính là Tân Lang Tiệc Cưới của Đấng Mê-si-a như lời Gio-an tẩy giả đã làm chứng: “Tôi đây không phải là Đấng Kitô, mà là kẻ được sai đi trước mặt Người. “Ai cưới cô dâu, người ấy là chú rể.” (Ga 3, 28-29) Hình ảnh Tiệc Cưới nói nhiều về Thiên Chúa và về sứ vụ của Chúa Giêsu như chúng ta thấy trong Tin Mừng ( Mt 22,2-10. 25,1-3; Lc, 14,8-11. 12, 36 ).

Ngày hôm nay, chúng ta vẫn còn tiếp tục được mời dự tiệc cưới với Tân Lang Giêsu trong mỗi Thánh Lễ và vui mừng chuẩn bị đến dự Tiệc Cưới Cánh Chung. Cùng với Mẹ Maria, Mẹ của những kẻ tin, chúng ta mời Chúa Giêsu đến nhà chúng ta, tham dự và chia sẻ với chúng ta trong từng chi tiết của cuộc sống. Có Chúa hiện diện, chắc chắn Chúa sẽ  can thiệp, cứu giúp gia đình chúng ta trong những lúc thiếu rượu của tình yêu, của cảm thông, của sự ấm áp…Và có Chúa, chúng ta sẽ có đầy ắp rượu ngon tin yêu.

Nhờ lời chuyển cầu của Mẹ Maria, xin Chúa ban thêm đức tin và hướng dẫn chúng con. Xin Chúa ở lại trong chúng con và dạy chúng con biết làm tất cả những gì Người nói với chúng con. Amen.

Về mục lục

.

TIN LIÊN QUAN

  • Các bài suy niệm Chúa Nhật 4 Mùa Vọng Năm C
  • Các bài suy niệm Chúa Nhật 3 Mùa Vọng Năm C
  • Các Bài suy niệm Lễ Chúa Kitô Vua Vũ Trụ Năm C
  • Các bài suy niệm Chúa Nhật 33 Thường niên_ C
  • Các bài suy niệm Chúa Nhật 32 Thường niên C
  • Các Bài Suy niệm Chúa Nhật 31 Thường niên_ C
  • Các Bài Suy niệm Chúa Nhật Truyền giáo
  • Các bài suy niệm Chúa Nhật 30 Thường niên _C
  • Các bài suy niệm Chúa Nhật 29 Thường niên_ C
  • Các Bài Suy niệm Chúa Nhật 28 Thường niên_ C

Từ khóa » Suy Niệm Chúa Nhật 2 Thường Niên Năm B