Các Bài Suy Niệm Chúa Nhật XXIV Thường Niên B

Các bài suy niệm CHÚA NHẬT 24 THƯỜNG NIÊN – B

Lời Chúa: Is 50,5-9a; Gc 2,14-18; Mc 8,27-35

Jesus

MỤC LỤC

1. Đức Kitô

2. Đau khổ

3. Suy niệm của Maurice Brouard

4. Đời sống đời đời thì chắc chắn – Charles E. Miller

5. Tưởng lầm – ĐTGM. Ngô Quang Kiệt

6. Đối với chúng ta, Chúa Giêsu là ai?

7. Thách đố của niềm tin

8. Bạn nghĩ gì về Đức Kitô – Gm. Arthur Tonne

9. Thiên hạ nói Thầy là ai? – Noel Quesson

10. Kitô-hữu là ai?

11. Đức Kitô

12. Đau khổ

13. Đau khổ

14. Đức tin

15. Đức Giêsu

16. Từ bỏ

17. Anh em bảo Thầy là ai?

18. Suy niệm của Lm Trần Bình Trọng

19. Chú giải mục vụ của Jacques Hervieux

20. Chú giải của Noel Quesson

1. Đức Kitô.

Người ta bảo Thầy là ai? Qua câu hỏi này, phải chăng Chúa Giêsu đã khởi sự quan tâm tới dư luận của quần chúng về Ngài? Hay Ngài muốn làm một cuộc thăm dò ý kiến về kết quả công việc Ngài đã làm? Không phải là như vậy. Ở đây, Chúa Giêsu muốn chuẩn bị các môn đệ của Ngài đón nhận những điều Ngài sắp nói với các ông về điểm then chốt của sứ mạng Ngài và cũng là điểm khó nuốt đối với mọi người.

Dư luận, như các môn đệ ghi nhận được, tuy chưa rõ đích xác Ngài là ai nhưng cũng tỏ ra đã thấy được những điểm khác người trong giáo huấn và trong hành động của Ngài. Tuy nhiên điều Chúa Giêsu muốn nhắm tới ở đây chính là việc các môn đệ bày tỏ ý kiến của mình về Ngài. Do dó mà Ngài mới đạt thêm câu hỏi thứ hai: Còn các con, các con bảo Thầy là ai?

Tin không phải là lặp lại ý kiến, lập trường của kẻ khác mà là biểu lộ chính ý kiến, chính lập trường của mình. Phêrô đã trả lời đúng câu hỏi Chúa Giêsu đã đặt ra: Thầy là Đức Kitô. Qua câu trả lời, Phêrô đã tuyên xưng lòng tin của ông nơi Thầy mình. Ông đã nhận ra được Thầy mình là ai.

Nhưng sự việc diễn ra sau đó lại chứng tỏ cho chúng ta thấy rằng lòng tin của Phêrô chưa trọn vẹn. Ông mới chỉ có những hiểu biết đúng về Thầy. Thực ra, như chính Chúa Giêsu đã khẳng định, chẳng phải tự ông đã biết được Ngài là Đức Kitô, mà là do Chúa Cha mà ông biết được điều đó. Lòng tin ấy, sự hiểu biết ấy chỉ trọn vẹn khi ông chấp nhận đi con đường Chúa Giêsu đang chuẩn bị đi tức là con đường cứu độ, con đường thập giá.

Và ở điểm này, Phêrô đã vấp ngã thật nặng nề, bởi vì ông đã đi vào chương trình cứu độ của Thiên Chúa, không phải bằng cái nhìn của Thiên Chúa, hay đúng hơn, theo như Ngài hoạch định, mà là bằng chính cái nhìn của ông, theo cách tính toán của ông. Lời can ngăn của Phêrô đã trở thành việc cản trở chương trình cứu độ của Thiên Chúa được thực hiện. Phêrô không muốn Thầy mình bị bắt, bị giết đi trong khi chính Chúa Giêsu lại thấy rằng đó là con đường Ngài phải đi. Đó là con đường của Ngài và đó cũng là con đường của những ai muốn theo Ngài, muốn trở nên môn đệ của Ngài.

Còn các con, các con bảo Thầy là ai? Câu hỏi này vẫn tiếp tục được đặt ra cho mỗi người chúng ta hôm nay. Và chúng ta có thể như Phêrô, đã trả lời đúng câu hỏi của Ngài với tất cả vốn liếng về Thánh Kinh và thần học, về giáo lý của chúng ta. Thế nhưng trong hành động thì sao? Phải chăng trong hành động chúng ta đã là những người ngăn cản việc thực hiện chương trình cứu chuộc của Thiên Chúa bằng thái độ khước từ đau khổ, khước từ thập giá mà chúng ta gặp phải trong cuộc sống thường ngày.

2. Đau khổ.

Kinh nghiệm cho thấy: Đau khổ là một cái gì gắn liền với thân phận con người. Giáo lý nhà Phật thì cho rằng: Đời là bể khổ mà mỗi người chúng ta là một cánh bèo trôi dạt trên đó.

Tuy nhiên, đau khổ không phải chỉ là một cái gì đáng nguyền rủa và lẩn tránh, trái lại nó còn có một giá trị tích cực, đem lại nhiều lợi ích cho chúng ta như tục ngữ đã bảo: Lửa thử vàng, gian nan thử đức. Hay như Khổng Tử cũng đã bảo: Ngọc không dũa không sáng, người không bị gian nan thử thách, thì cũng khó mà trở nên hoàn thiện.

Cũng trong chiều hướng ấy mà Chúa Giêsu đã phán qua đoạn Tin mừng sáng hôm nay: Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo Ta.

Sau đây tôi xin đưa ra một vài trường hợp cụ thể để nói lên sự thật ấy.

Trường hợp thứ nhất là của O’Neill. Mãi đến năm 23 tuổi, ông vẫn còn là một kẻ thất bại, sống không mục đích, không định hướng, không kỷ luật. Thế rồi ông bị đau và chính nhờ thời gian nằm điều trị tại bệnh viện, ông mới có được dịp may để suy nghĩ và định hướng cho cuộc đời mình. Ông đã khám phá ra tài năng soạn kịch của ông, để rồi ông đã trở thành một người nổi tiếng.

Trường hợp thứ hai là của bà Golda Meir. Lúc ban đầu bà rất thất vọng vì mình chỉ là một cô gái trời bắt xấu. Thế nhưng về sau, bà mới nhận ra rằng: không được đẹp đối với bà lại là một may mắn, bởi vì điều đó đòi buộc bà phải phát triển những tài năng sâu kín hơn. Cuối cùng bà hiểu ra rằng phụ nữ không được ỷ lại vào sắc đẹp của mình, nhưng trái lại phải làm việc chăm chỉ, nhờ đó mang lại lợi ích cho bản thân. Nói cách khác, bà đã biết chấp nhận thập giá của mình, can đảm vác nó lên vai để rồi cuối cùng bà đã trở thành vị nữ thủ tướng đầu tiên của người Do Thái.

Một tác giả nổi tiếng, Oscar Wilde đã viết: Đau khổ chính là mảnh đất thánh. Đức Kitô không thể đi vào tâm hồn chúng ta bằng nẻo đường nào khác ngoài trái tim đã tan nát.

Từ những kinh nghiệm trên, chúng ta đi tới kết luận: Cuộc đời không phải lúc nào cũng chỉ là một mầu hồng, trái lại rất nhiều khi nó bị nhuộm bởi một màu đen với những đau khổ và cay đắng.

Tuy nhiên, dưới ánh sáng Phúc âm, thì đau khổ không nhất thiết sẽ đem lại chết chóc và hủy diệt, bởi vì nó có thể trở nên một nguồn sống. Thiên Chúa thường dùng khổ đau để biến đổi chúng ta thành người tốt lành hơn, thánh thiện hơn, khiêm nhường hơn, cảm thông hơn. Đau khổ có thể mở mắt cho chúng ta thấy được cuộc đời tốt đẹp hơn là chúng ta đã từng mơ ước.

Ngoài ra, đau khổ sẽ giúp chúng ta nhận ra bàn tay yêu thương của Thiên Chúa bởi vì giữa ánh nắng chói chang của mặt trời, chúng ta không thể nào nhìn thấy những vì sao. Trái lại, vào những đêm khuya tăm tối chúng ta sẽ dễ dàng thấy được những ánh sao trên bầu trời. Cũng vậy, nhiều người trong chúng ta đã tìm thấy Chúa giữa những đêm đen của khổ đau, mà trong những lúc hạnh phúc chói chang họ đã quên lãng Ngài. Hãy biết đón nhận thập giá cuộc đời, bởi vì mọi sự đều là hồng ân.

3. Suy niệm của Maurice Brouard.

KHÓ NHỌC THAY KHI LÀM CHO

NHỮNG KẺ CHÂN THÀNH VỠ MỘNG!

Khởi hành.

Một cô bé mười hai tuổi bơi lội rất giỏi, thầy giáo của cô nhận thấy cô có triển vọng rất lớn cho thế vận hội Montréal. Khi trở về nhà cô đã vội nói với mẹ dự tính của mình. Bà vạch ra cho cô một bức tranh rất thực tế, thậm chí rất u ám về những đòi hỏi vô cùng khắc nghiệt của việc chuẩn bị cho một cuộc thi đấu như thế. Ngoài việc học mà cô không thể lơ là được, cô phải tập dượt gắt gao sáu ngày mỗi tuần trong bốn năm, những giao tiếp xã hội hầu như không còn nữa, lại không chắc chắn thành công, thêm với những mệt nhọc… Mẹ cô để cô tự do quyết định, sau khi cố gắng vạch cho cô thấy những ảo tưởng của cô.

Dẹp đi những ảo tưởng của những người chân thành: đó là điều mà thánh Marcô muốn làm trong Tin Mừng chúng ta vừa nghe, và trước hết ngài muốn nhắn nhủ các Kitô hữu thành Roma. Thánh Marcô cảm hứng từ lối ứng xử của Chúa Giêsu với các môn đệ.

1. Chúa Giêsu tìm cách dẹp ảo tưởng của những kẻ muốn theo Ngài.

Nhân dịp Phêrô tuyên xưng đức tin, một lời tuyên xưng hẳn là tuyệt vời, nhưng rõ ràng còn rất bất toàn, Chúa Giêsu đã nói thẳng với các môn đệ “Thầy là Đấng Mêsia”, nghĩa là: “Con đã theo Thầy từ một năm rưỡi nay, con đã nghe Thầy giảng dạy, con đã chứng kiến những phép lạ Thầy làm, con đã nhìn thấy cách Thầy sống, đối với con Thầy là chứng nhân của Thiên Chúa và của Nước Trời. Vì vậy con đã theo Thầy để Thầy dẫn con đến Thiên Chúa”. Phêrô thành thật bày tỏ kinh nghiệm của mình, và Chúa Giêsu không hề phản đối lời tuyên xưng đức tin của ông. Tuy nhiên Chúa tiếp lời ông ngày bằng việc loan báo cuộc tử nạn của Ngài và lần đầu tiên, Ngài dạy cho các ông hay rằng Con Người phải đau khổ nhiều… Lúc đó, Phêrô bị sốc đến nỗi ông tự cho phép mình trách móc Thầy. Nhưng Chúa Giêsu liền đưa ông lại đúng vị trí của ông: “Satan, hãy lui lại đằng sau Thầy… con không hiểu gì về kế hoạch của Thiên Chúa”. Rồi Ngài thêm: “Ai muốn đi theo Thầy, thì hãy bỏ mình, vác thập giá mà theo Thầy. Vì ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất”

Vậy là Chúa Giêsu tìm cách dẹp đi ảo tưởng của những kẻ chân thành, nhưng Ngài không thành công. Chỉ đến ngày lễ Thánh Thần hiện xuống các tông đồ của Ngài mới sáng mắt ra.

2. Thánh Marcô muốn dẹp đi ảo tưởng của các Kitô hữu thành Roma.

Biết rằng các Kitô hữu thành Roma xao xuyến trước những cuộc bách hại nổi lên chống họ và “một số sẵn sàng chối rằng họ tuyên xưng Chúa Giêsu là Đấng Kitô để khỏi chết”, thánh Marcô phản ứng cách mạnh mẽ. Ai muốn trở nên môn đệ Chúa Kitô thì phải giống như Ngài. Marcô muốn dẹp đi ảo tưởng của các Kitô hữu ngỡ ngàng vì thấy mình phải đương đầu với những cuộc bách hại.

3. Một Kitô hữu không ảo tưởng: Đức Cha Romero.

Tháng ba năm 1980, chúng ta có một chứng tá lẫy lừng từ Châu Mỹ La Tinh. Bất chấp những nguy hiểm đến tính mạng, Đức tổng Giám mục San Salvador, Đức Cha Romero, đã dám nhân danh Tin Mừng tố cáo những bất công trong xứ sở của ngài. Sau đó ngài đã bị ám sát trong nhà thờ lúc đang cử hành Thánh lễ. Đó là một Kitô hữu không ảo tưởng.

Câu hỏi.

Chúng ta nghĩ gì về Chúa Giêsu? Chúng ta chẳng sống trong ảo tưởng khi cho rằng có được sự sống đời đời là điều dễ dàng ư?

Lời Chúa và Thánh Thể.

Khi cử hành Bí tích Thánh Thể vào chiều thứ năm tuần thánh. Thầy chí ái của chúng ta đã hiến dâng mạng sống cho Cha Ngài vì yêu mến Cha và vì ơn cứu độ của tất cả mọi người. Ta hãy cử hành Thánh lễ trong tinh thần phục vụ đó, và sẵn sàng chấp nhận hy sinh theo gương Ngài.

4. Đời sống đời đời thì chắc chắn – Charles E. Miller.

(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng’)

Một bé gái bảy tuổi đã lái một máy bay xuyên qua đất nước, đi theo có cha của bé và một người huấn luyện viên bay. Cuộc bay kết thúc bằng một tai nạn. Nhiều người trẻ đã quyết định trèo lên một ngọn núi cao nhất khi họ đi du lịch mặc dù họ không có kinh nghiệm. Một tảng đá bất chợt bị sút ra, một người đã bị trượt xuống và kéo tất cả cùng chết. Động cơ thúc đẩy người ta liều lĩnh đó là gì? Để lướt thắng sợ hãi, để vượt lên phía trước những nguy hiểm qua những cuộc phiêu lưu nguy hiểm? Đối với một đứa bé gái, Jessica Dubroff và cha của cô bé, họ đã làm như thế để nhận một phần thưởng. Đối với những người leo núi, điều đó là niềm tự hào của sự chinh phục. Đôi khi những người tìm kiếm cảm giác thì đổ cho định mệnh. Họ nói rằng cần có sự liều lĩnh bất cứ khi nào anh lái một chiếc xe hơi và như vậy chúng ta sẽ không phải lo lắng về sự may rủi, để sống một đời sống thật tràn đầy.

Chúa Giêsu không phải là một người tin vào định mệnh, nhưng Ngài biết cuộc sống của Ngài sẽ chấm dứt thế nào. Đó là kế hoạch của Cha Ngài muốn cho Ngài sẽ chết trên thánh giá, không phải để Ngài nhận một phần thưởng như ước ao nồng nhiệt của bố Jessica, nhưng là Người có thể mang lại cho chúng ta món quà sự sống đời đời. Người biết rằng sứ vụ của Người giống như các tiên tri có trước Người, sẽ phải chịu sự giận dữ của kẻ thù và những kẻ thù đó mạnh mẽ đủ để kết án tử Người, Người sẵn lòng trèo lên núi Calvario để giang cánh tay của mình trên thánh giá, để âu yếm tất cả chúng ta trong tình yêu thần linh của Người. Cái chết của Người không phải là một tai họa nhưng là hoàn thành sứ vụ của Ngài trên mặt đất này. Đó là một cuộc chinh phục vĩ đại trên tội lỗi và cái chết đời đời.

Không có sự liều lĩnh nơi Chúa Giêsu, liều lĩnh có nghĩa là một cơ hội của sự tổn hại hay sự chết. Chúa Giêsu đã chết là một điều chắc chắn. Khi thánh Phêrô với chủ ý tốt nhất đã cố gắng ngăn cản Người đừng theo con đường thánh giá, Chúa Giêsu đã đáp lời một cách mạnh mẽ: Người đã nói với Phêrô rằng ông không được xét đoán theo loài người nhưng là theo tiêu chuẩn của Thiên Chúa. Trong mầu nhiệm sâu thẳm của Thiên Chúa, cái chết của Con Người thì thật cần thiết cho sự cứu độ của chúng ta.

Chúng ta có thể cảm thấy rằng có một sự liều lĩnh khi theo Chúa Giêsu, nhưng không phải vậy. Đó là một sự chắc chắn. Nếu chúng ta theo Người cách trung thành, chúng ta sẽ nghe Người dạy: “Ai từ bỏ chính mình mang lấy thập giá của mình mà theo Ta”. Thánh giá của chúng ta không có nghĩa là hình khổ đóng đinh theo nghĩa chữ. Trong từ chuyên môn Công giáo, chúng ta nói về những người đặc biệt có những gánh nặng khó khăn phải chịu đựng trong cuộc sống thì người đó đang mang một thánh giá nặng. Chúng ta hiểu rằng thánh giá đối với chúng ta có nghĩa là mất môt công việc, hoặc là mắc một cơn bệnh nặng, hoặc cần thiết làm một hy sinh có ý nghĩa để chăm sóc gia đình hoặc những phần tử trong gia đình đang bị đau khổ hay bị sốc. Thánh giá dành cho cha mẹ có thể là nhìn thấy con cái của mình rời bỏ Giáo Hội hoặc sa vào rượu chè say sưa, hoặc trai gái. Thánh giá đối với con cái có thể là đau buồn trong cuộc sống, thấy cha mẹ say sưa hoặc đau buồn khi họ ly dị khiến cho gia đình tan tác. Thánh giá cho tất cả chúng ta là cái chết của một người thân yêu.

Thánh giá trong cuộc sống của chúng ta không thể trở thành một bi kịch. Điều đó sẽ không chinh phục được sự chú ý của cả nước như chuyến bay của Jessica Dubroff đã làm, nó có liên hệ đến việc thách đố, nó cũng không liên quan tới nỗi say mê của những người leo núi. Nhưng quan trọng hơn thánh giá không mang đến một bi kịch. Nó không có nghĩa là một tai họa. Thay vào đó, mang thánh giá đối với chúng ta là theo ý muốn của Thiên Chúa mà Ngài sẽ dẫn chúng ta đến sự sống đời đời. Thánh giá có nghĩa là sống trong sự hợp nhất với Chúa Giêsu, điều đó có nghĩa là chia sẻ những đau khổ của Chúa Giêsu và cái chết của Người, Đấng sẽ ban cho chúng ta những đặc ân của Cha, là hạnh phúc đời đời của Người và Thánh Thần trên thiên đàng. Chúng ta sẽ không sợ thánh giá. Thánh giá là ý muốn của Thiên Chúa dành cho chúng ta, đó là con đường thật sự để sống một đời sống viên mãn.

5. Tưởng lầm – ĐTGM. Ngô Quang Kiệt.

Trong đời sống có rất nhiều điều hiểu lầm. Chẳng hạn xưa kia khi thấy mặt trời cứ sáng mọc tối lặn, người ta tưởng rằng trái đất đứng yên và mặt trời di chuyển chung quanh trái đất. Nhưng khoa học tiến bộ đã minh chứng mặt trời đứng yên, chính trái đất mới xoay chung quanh mình và chung quanh mặt trời.

Trong đời sống đạo cũng đã có những hiểu lầm như thế. Người ta cứ tưởng Đấng cứu thế sẽ uy nghi từ trên mây trời hiện đến. Không ngờ Người lại do một thôn nữ dưới đất sinh. Người ta cứ tưởng Đấng cứu thế phải ngự trong lâu đài sang trọng của vua chúa. Nhưng không ngờ Người lại sinh ra trong chuồng bò lừa. Người ta cứ tưởng Đấng cứu thế phải uy quyền lẫm liệt. Nhưng không ngờ Người lại quá hiền lành khiêm nhường. Người ta cứ tưởng Đấng cứu thế phải đánh đông dẹp bắc, đập tan quân thù, đưa nước Do Thái lên địa vị bá chủ. Nhưng không ngờ Người chịu thua hết mọi người, chịu hành hạ, chịu sỉ nhục, chịu chết như một kẻ tội lỗi. Người ta cứ tưởng Đấng cứu thế là một ông vua có kẻ hầu người hạ. Nhưng không ngờ chính Người lại quỳ xuống hầu hạ, rửa chân cho các môn đệ.

Có quan niệm sai lầm về Thiên Chúa, người ta cũng sai lầm về người môn đệ. Người ta cứ tưởng theo Chúa thì sẽ được chức cao quyền trọng trong Nước Chúa. Nên bà Giêbêđê mới xin Chúa cho hai người con là Gioan và Giacôbê được ngồi bên tả và bên hữu Chúa trong Nước Chúa. Nhưng không ngờ Chúa không hứa cho chức quyền mà chỉ hứa cho uống chén Người sẽ uống, nghĩa là phải chết. Người ta cứ tưởng người làm lớn trong Nước Chúa sẽ được trọng vọng, được phục dịch. Nhưng không ngờ Chúa lại bảo: “Ai trong anh em muốn làm lớn thì phải phục vụ anh em”. Người ta cứ tưởng theo Chúa thì Chúa sẽ cho mọi sự may mắn ở đời, được thành công. Được giàu sang. Nhưng không ngờ Chúa lại bảo: “Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ mình đi, vác thập giá mình mà theo”.

Hôm nay, sau khi nghe các môn đệ báo cáo về dư luận quần chúng, Đức Giêsu thấy họ quá sai lầm về Người, về vai trò Cứu thế của Người, về con đường cứu chuộc. Nên Người đã dậy rõ ràng cho các môn đệ biết Đấng Cứu thế thực là Con Thiên Chúa. Nhưng con đường Người đi là con đường thập giá. Người phải chịu đau khổ, chịu hành hạ, chịu sỉ nhục, và phải chịu chết.

Người cũng cho các môn đệ biết ai muốn theo Người cũng sẽ phải đi vào con đường của Người. Phải từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Người.

Phải chăng Thiên Chúa muốn hành hạ con người, muốn con người tàn lụi chứ không muốn con người phát triển, muốn con người phải chịu đau khổ chứ không muốn con người được hạnh phúc? Tại sao trên trần gian, người ta thường hứa hẹn cho những người theo mình hạnh phúc sung sướng mà Chúa thì làm ngược lại, chỉ hứa cho những người theo mình thánh giá và đau khổ?

Thưa, chắc chắn Chúa muốn cho con người được hạnh phúc. Chính vì muốn con người được hạnh phúc mà Chúa đã phải xuống trần gian để cứu chuộc con người. Nhưng thứ hạnh phúc mà Chúa muốn ban tặng cho con người không phải là thứ hạnh phúc giả tạo dễ dàng và mau qua. Chúa muốn cho con người được hạnh phúc vĩnh cửu, hạnh phúc đích thật, hạnh phúc không bao giờ tàn úa. Muốn được hạnh phúc đó, con người phải kinh qua những vất vả, đau đớn. Đau đớn nhất là phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình. Những vất vả đau đớn không phải là vì Chúa độc ác muốn hành hạ con người. Những đau đớn từ bỏ mình không phải là vì Chúa muốn con người đi vào tàn lụi diệt vong. Nhưng đó là qui luật, là điều kiện để được sự sống, được hạnh phúc đích thật.

Chính Đức Giêsu cũng phải đi qua con đường thập giá khổ nhục mới đến hạnh phúc. Chính Người phải kinh qua cái chết đau đớn mới tới ngày phục sinh vinh quang. Nên Chúa đã nói với các môn đệ: “Ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Tôi và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy”.

Thành ra, đau khổ Chúa hứa không phải để hành hạ con người, nhưng là con đường dẫn con người đến hạnh phúc đích thực. Thập giá và cái chết không phải để đưa con người vào tàn lụi, nhưng chính là điều kiện để con người được tái sinh và triển nở trong đời sống mới, đời sống vĩnh cửu với hạnh phúc không bao giờ tàn.

Những lời Chúa nói hôm nay, tuy khó nghe và khó chấp nhận. Nhưng đó là sự thật và là con đường đưa ta đến hạnh phúc và sự sống vĩnh cửu. Chúa đã không lừa mị ta, không hứa hẹn cho ta những gì dễ dãi, chóng qua. Chúa chỉ cho ta đường ngay nẻo chính. Chúa mời gọi ta phải dũng mạnh, can đảm và quyết liệt trong cuộc chạy đua dành lấy hạnh phúc nước trời.

Lạy Chúa, xin cho con biết từ bỏ mình, vác thập giá mình mà bước theo Chúa. Amen.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1) Đâu là những hiểu sai lầm về Chúa?

2) Đâu là những hiểu sai lầm về người môn đệ của Chúa?

3) Có phải Chúa muốn ta khổ sở khi bảo ta phải từ bỏ mình không?

4) Tại sao Chúa phải chịu đau khổ?

6. Đối với chúng ta, Chúa Giêsu là ai?

(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’ – Achille Degeest).

Với đoạn phúc âm theo thánh Maccô này, chúng ta gặp một đường cao điểm, thật vậy, cho tới đây, thánh Marcô cho thấy Chúa Giêsu dần dần tỏ mình ra bằng lời giảng dạy và các phép lạ Người làm, nhưng Chúa để cho người ta ngạc nhiên, thắc mắc. Người ta như thể được dự một cảnh chờ đợi, hồi hộp và tự hỏi: Ông này là ai? Cả những môn đệ cũng thắc mắc, tuy nhiên thấy Chúa không phải là một thầy rabbi khác. Thầy sắp dẫn họ đến chỗ tuyên xưng đức tin bằng một câu do Phêrô thay mặt các môn đệ nói lên. Chúa hỏi: còn các ngươi, các ngươi nói Ta là ai? –kẻ sau này sẽ là thánh Phêrô, trả lời: Ngài là Đức Kitô, tức là Đấng cứu thế. Khi họ nhận ra Đấng cứu thế trong Đức Giêsu, các môn đệ vượt được chặng đầu có tính cách quyết định trong tiến trình đức tin của các ông.

Tuy nhiên, một câu hỏi khác rất nghiêm trọng được nêu lên: Chúa là vị Cứu-thế nào? Dân Do thái mong đợi một Đấng Cứu-thế có quyền uy trần tục. Thế mà Đức Giêsu là Đấng Cứu-thế dùng sự thống khổ và cái chết để cứu chuộc. Các môn đệ sẽ làm thế nào để có thể chấp nhận cái thực tại họ không thể nào quan niệm được. Lời đáp cho câu hỏi này nổi bật lên trong phần ký sự còn lại, và người ta sẽ thấy, chỉ mãi sau này Chúa sống lại rồi, các môn đệ mới thấu hiểu bản tính đích thật cứu thế của Chúa. Từ sự kiện đó chúng ta có thể rút ra vài suy niệm:

1) Chúa đưa ra một câu đáp rất cứng cỏi, cho Phêrô là kẻ không muốn chấp nhận lời Chúa tiên báo cuộc Thương khó của Người: ‘Xéo ra phía sau Ta, hỡi Satan; vì ý tưởng của ngươi không phải là ý tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người’. Chúa phản ứng giống như trước đây Người phản ứng chống lại trước cám dỗ, với một phản xạ nóng nảy; quyền hành, cương quyết. Những ý tưởng theo thói thường của Phêrô mang theo một cám dỗ giống như cám dỗ đã đến với Chúa trong hoang địa, nó dự tính làm cho Chúa đi trật con đường sứ mạng của Người, nhưng ở đây nó cũng đụng phải bản tính thánh-thiện của Chúa trước sau vẫn thế.

Đàng khác, những lời tuyên bố của Chúa đẩy các môn đệ vào một thử thách ghê gớm. Chắc chắn là các ông đã phải cần có một sự trợ giúp nội tâm mãnh liệt để không bỏ Chúa vì Người làm đảo lộn ý niệm của họ về Đấng Cứu thế.

Hai câu hỏi: Ta phải nghĩ gì về những kẻ lợi dụng phúc âm làm mạch nuôi dưỡng một ý thức hệ của thế gian, một chuyền thuyết cứu nhân độ thế của trần tục? Phải chăng ngày nay đang có những môn đệ diễn lại, bên cạnh Đức Kitô của Giáo hội, thái độ của Phêrô?

2) Khi loan báo cuộc khổ nạn và sống lại của Người, Chúa đề nghị một thử thách đích thật cho đức tin. Niềm tin vào Chúa thật sự bắt đầu từ khoảnh khắc người ta nhận ra Con Thiên Chúa – Đấng cứu chuộc chết trên thập giá và sống lại.

Đó là niềm tin của các môn đệ, một niềm tin bỡ ngỡ như ta thấy trong ký sự của thánh Marcô -nhưng được củng cố sau ngày Chúa Giêsu sống lại và Chúa Thánh-Thần hiện xuống. Đó là niềm tin của chúng ta hôm nay. Trên bình diện tri thức, chúng ta không gặp khó khăn để có được niềm tin ấy. Chỉ gặp khó khăn khi Chúa mời chúng ta chia sẻ khổ nạn và Thập giá với Người. Chừng nào chúng ta phát hiện Đức Kitô chịu đóng đinh là ai, lúc đó chúng ta mới cảm thấy sự thử thách về đức tin, nhưng hạnh phúc thay, thử thách của chúng ta, đã chói loà bởi hào quang của sự sống lại vinh hiển. Điều mà các môn đệ lúc đó chưa có được, ngày nay chúng ta đã nắm vững rồi, đó là niềm hy vọng được dự vào sự sống lại của Chúa chúng ta.

7. Thách đố của niềm tin.

(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)

Một giai thoại kể lại rằng: Có một thanh niên thích chơi những trò mạo hiểm để tìm cảm giác mạnh. Anh đem theo một chiếc dù đến bên bờ vực thẳm, định chơi cho thoả chí mạo hiểm. Không biết loay hoay thế nào, anh trượt chân. Đang trên đá lăn dài xuống vực sâu, may mắn được một cành cây mọc chìa ra. Thế là anh lơ lửng trên cành. Thật hú vía, tuy chưa qua hết nguy hiểm, nhưng thế này còn có hy vọng thoát được.

Ngước mắt lên bờ vực, anh không thấy bóng dáng một ai. Nhìn xuống, anh choáng váng vì vực quá sâu. Anh cũng biết không thể nào đu lơ lững mãi trên cành được, vì thế, cách cuối cùng là anh cầu nguyện. Thế là anh cầu nguyện: lậy Chúa, xin cứu con, con xin hứa làm bất cứ điều gì Chúa muốn.

Bỗng anh nghe như có tiếng Chúa nói: Được, Ta sẽ cứu con. Nhưng trước khi cứu, Ta muốn biết là con có thực sự tin rằng Ta làm được việc này không?

– Lạy Chúa, con tin chứ! Con tin chắc là Chúa cứu được con mà! Cứu ngay đi Chúa ơi, con mỏi tay lắm rồi!

– Được, nếu con tin Ta thì hãy buông tay ra.

Chàng thanh niên vẫn bám chặt vào cành cây chứ không chịu buông. Rồi anh ngẩng lên bờ vực và la lớn: “Có ai trên đó không, cứu tôi với’.

Thưa anh chị em, giả sử chúng ta là chàng thanh niên đó, liệu chúng ta có dám buông tay ra không? Đức tin của chúng ta có đủ mạnh để tin vào quyền năng của Chúa qua những nghịch cảnh đang xẩy ra trong đời, hay chúng ta sẽ tìm cách bám víu vào những thực tại khác?

Muốn đi theo ai, muốn ở với ai, thì phải biết rõ người ấy, biết người ấy xuất thân từ đâu và có đáng tin không. Muốn “đi theo Chúa Giêsu và ở với Chúa Giêsu” thì người Kitô hữu phải biết Chúa Giêsu là ai, đường lối của Ngài như thế nào? Bài Tin Mừng hôm nay giúp chúng ta hiểu về con người Giêsu ấy.

Chúa Giêsu đặt cho các môn đệ câu hỏi: “Người ta bảo Thầy là ai?” trước khi đòi hỏi chính các môn đệ của mình phải bày tỏ ý kiến riêng, Chúa Giêsu đã thực hiện một cuộc thăm dò ngay trong nội bộ mình xem người khác nói về Ngài như thế nào? Có nhiều ý kiến, nhưng rõ ràng dân chúng đã thấy được một số nét căn bản nơi con người Giêsu. Nơi giáo huấn của Ngài, người ta thấy được sức sống và sự siêu thoát khỏi những ràng buộc vô lý của lề luật. Thế nhưng, điều quan trọng không phải chỉ biết đúng về Chúa Giêsu mà con phải biết đủ về Ngài nữa: Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa làm người, Ngài là Thiên Chúa thật và là người thật.

Nhờ các phương tiện truyền thống và nhờ học hành, kiến thức của ta ngày càng gia tăng. Nhưng ta có một sự hiểu biết sâu xa về Chúa chưa? Cần phải xác tín như Thánh Phaolô: “Cái lợi tuyệt vời là được biết Chúa Giêsu kitô, Chúa của tôi” (Pl 3,8).

Các môn đệ là những người “ở với Chúa Giêsu”, cũng ăn cùng uống, gắn bó, gần gũi với Ngài và được Ngài dạy dỗ đặc biệt cùng chứng kiến nhiều phép lạ, giờ đây, các ông phải bày tỏ lập trường. Chắc hẳn giây phút thinh lặng nặng nề khi bị hỏi: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?”. Phêrô thay mặt anh em tuyên xưng đức tin “Thầy là Đấng Kitô”. Phêrô đã cứu nguy cho anh em! Thế nhưng sau đó ông lại can ngăn Thấy Giêsu. Ông đã cản Chúa Giêsu làm theo ý Chúa Cha. Và như vậy là đi theo đường lối của Satan. Rõ ràng ông chưa hiểu bao nhiêu về đường lối của Chúa. Thực ra, ông và các bạn đã hiểu Đấng Kitô theo nghĩa trần thế, một Đấng Cứu thế hiển hách, oai phong… thành ra ông không sao hiểu được việc “Con Người sẽ phải chịu nhiều đau khổ và phải chết…”.

Thưa anh chị em,

Để biết Chúa Giêsu Kitô là ai và đâu là đường lối của Ngài, ta cần phải giũ bỏ những hình ảnh trần tục ta vẫn có về Chúa Kitô, những hình ảnh do con người tạo ra: một Đức Kitô của quyền lực, của thống trị… Nên nhớ bài học cùng Ngài: “Anh em hãy học cùng Tôi, vì Tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường”.

Vậy thì, đối với tôi, Đức Giêsu Kitô là ai? Sau khi đã tin vào Chúa một thời gian, ta vẫn có thể đặt lại câu hỏi này: Bấy lâu nay, Đức Giêsu là ai đối với tôi? Đức Giêsu không thay đổi, “hôm qua cũng như hôm nay và mãi mãi” Ngài là Đấng Cứu Độ duy nhất. Nhưng mỗi ngày, sau mỗi biến cố, có khi ta lại khám phá ra những nét mới mẻ nơi sự phong phú của Ngài. Đời ta luôn là một chuỗi những câu trả lời cho câu hỏi của Chúa Giêsu: “Còn con, con bảo Thầy là ai?”. Và cuộc đời của ta sẽ chuyển biến tuỳ theo câu trả lời này của mình.

Trong đêm canh thức với hai triệu bạn trẻ từ các nước trên thế giới về Rôma tham dự Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới lần thứ 15 (15-20/8/2000) Đức Giáo Hoàng Gioan – Phaolô II đã hỏi lại các bạn trẻ câu hỏi của Chúa Giêsu: “Các con nói Đức Giêsu là ai?” – Có khó tin trong thế giới hôm nay không? Có khó tin trong Ngàn Năm Thứ Ba này không? Vâng, khó đấy. Không cần phải dấu diếm điều này. Khó khăn, nhưng với sự trợ giúp của ơn thánh, điều đó vẫn có thể làm được, như Chúa Giêsu đã giả thích cho Phêrô: “Chẳng phải bởi xác thịt hay máu huyết đã mạc khải cho anh điều đó, nhưng là Cha Thầy, Đấng ngự trên trời”(Mt 16,17).

“Ngày nay, để tin vào Chúa Giêsu, để theo Chúa như Phêrô, Tôma, các Tông Đồ tiền khởi và các chứng nhân, như trong quá khứ, đòi hỏi chúng ta phải lựa chọn một lập trường, sự lựa chọn này nhiều khi gian nan đến độ là một cuộc tử đạo mới: cuộc tử đạo của những người, hiện tại cũng như quá khứ, được mời gọi lội ngược giòng chảy để đi theo Thầy Chí Thánh”… Hôm nay các bạn tụ họp nơi đây để tuyên xưng rằng trong thế kỷ này, chúng ta sẽ không để mình trở thành trong thế kỷ này, chúng ta sẽ không để mình trở thành dụng cụ của bạo lực và tàn phá. Chúng ta sẽ đấu tranh gìn giữ hoà bình dù có phải hy sinh tính mạng. Chúng ta sẽ không thối lui trước một thế giới mà người ta còn chết vì đói, thất học và không có việc làm. Chúng ta sẽ bảo vệ sự sống ở mỗi thời kỳ của nó. Chúng ta sẽ chiến đấu tới cùng để làm trái đất này dễ sống hơn cho mọi người”.

Các bạn trẻ thân mến của thế kỷ đang bắt đầu, khi nói “vâng” với Chúa Giêsu, các bạn có thể nói “vâng” với tất cả các lý tưởng cao đẹp của các bạn. Tôi cầu xin Chúa Giêsu thống trị trong lòng các bạn và trong tất cả nhân loại trong thế kỷ mới này cũng như trong ngàn năm mới này. Đừng sợ phó thác cho Ngài. Ngài sẽ dẫn dắt các bạn, sẽ ban cho các bạn sức mạnh để theo Ngài trong mọi ngày và trong mọi tình huống.

Cầu xin Đức Mẹ Rất Thánh, người Trinh Nữ nói “Xin vâng” với Thiên Chúa trong suốt cuộc đời Người, xin Thánh Phêrô và Phaolô và các Thánh đã thắp sáng cuộc hành trình của Giáo Hội qua mọi thế hệ, gìn giữ các bạn luôn trung tín với quyết tâm thánh thiện này (ĐGH Gioan Phaolô II 19/8/200).

8. Bạn nghĩ gì về Đức Kitô – Gm. Arthur Tonne.

Charles Lamb sống ở nước Anh hai trăm năm trước đây. Suốt 33 năm ông làm một công việc buồn tẻ là thơ ký trong một văn phòng công ty hàng hải. Tuy nhiên ông đã thành một nhà văn được tín nhiệm, đặc biệt ông nổi tiếng vì tính hài hước nhẹ nhàng, lòng thông cảm dịu dàng và lòng nhiệt thành hiếm có đối với gia đình và bạn hữu.

Một buổi chiều kia, dăm sáu người bạn tụ họp trong nhà ông Lamb để bàn luận vài đề tài văn chương như: “Chúng ta cảm thấy thế nào nếu chúng ta có thể nói tay đôi với một vài văn sĩ nổi tiếng trên thế giới, họ đã qua đời”. Vài người gợi ý: “Chúng ta sẽ cảm thấy thế nào nếu Dante bước vào trong phòng này. Dante đã viết cuốn “Hài kịch thánh” về thiên đàng, địa ngục và luyện ngục. Một người khác thêm: “Giả sử Shakespear tham dự với chúng ta đêm nay”. Lamb hô to: “Tôi sẽ giơ tay đầy niềm vui. Đón tiếp một vị vua của các nhà tư tưởng. Hân hạnh biết bao?”. Cuối cùng một người tuyên bố: “Giả sử Đức Kitô vào phòng này?”. Nét mặt Charles Lamb bỗng nghiêm nghị khi ông nói: “Dĩ nhiên, tất cả chúng ta sẽ quỳ xuống”. Đó là sự khác biệt giữa Đức Kitô và tất cả mọi người đàn ông khác trong lịch sử. Đức Kitô là Thiên Chúa. Mọi người khác chỉ là người.

Trong bài Tin Mừng hôm nay Đức Giêsu hỏi các Tông đồ “Người ta nói Ta là ai?”.

Chúa chúng ta hỏi chúng ta cùng một câu hỏi ấy: “Con nghĩ Ta là ai?”. Mỗi người chúng ta phải trả lời câu hỏi quan trọng của mọi thời đại ấy.

Chúng ta cân nhắc những câu trả lời của những người nghĩ Đức Kitô chỉ là một người. Có người diễn tả Đức Kitô như một người chữa bệnh bằng niềm tin, Người chữa mọi thứ bệnh tật, yếu đau. Họ không nói làm sao Chúa chữa được. Chỉ có cách phải nhận Người đã làm được vì Người là Thiên Chúa. Có người nói Đức Kitô là một người phù thủy. Người khác lại bảo là một người theo nghĩa nhân đạo, chú ý đến loài người và có thể giúp cho họ. Có người diễn tả Chúa Giêsu như một nhà tâm lý hoàn hảo, Người hiểu được cái động lực và nghị lực của con người. Nhiều người mô tả Chúa như một nhà kiến tạo hòa bình hoặc yêu thiên nhiên xuất sắc.

Những người cải taọ xã hội nhìn Đức Kitô như một kiểu mẫu lý tưởng. Cả những người cộng sản cũng hướng về Đức Kitô như một nhà lãnh đạo cách mạng. Người lao động tin cậy Đức Kitô như lý tưởng con người. Cả những người Hippi cũng cố gắng biện minh lối sống vô trách nhiệm của họ khi họ nói về Chúa Kitô –Đấng đã phán: “Đừng lo lắng về đồ ăn thức uống hoặc áo quần”.

Nhưng hầu hết những người ngưỡng mộ Chúa Kitô như vậy đã nhận rằng Đức Giêsu là Thiên Chúa. Trong số những người đó, bạn đồng ý với những nhóm người nào? Trong suy tư và trong cách sống của bạn, Đức Giêsu có thực là Thiên Chúa không?

Như thánh Phêrô, chúng ta phải tuyên xưng Đức Giêsu là Thiên Chúa, có Con Thiên Chúa hằng sống.

Tóm lại, Đức Giêsu là Thiên Chúa thật cũng như là người thật, đó là trọng tâm của Kinh Thánh, là trung tâm của lịch sử, là chủ đề của ngày lễ hôm nay, trong Thánh Lễ này. Đó là lý do chúng ta quỳ gối tôn thờ Đấng Chúa-Người trên bàn thờ này, như Lamb và các bạn của ông.

Xin Chúa chúc lành bạn.

9. Thiên hạ nói Thầy là ai? – Noel Quesson.

Năm 1904, Hàn lâm viện Hoàng gia Anh đã tổ chức một cuộc triển lãm, và họa sĩ Cô-xê (Smith Kosse) đã trưng bày một bức ảnh tựa đề: “Người bị khinh chê chối bỏ”. Họa sĩ vẽ Chúa Giêsu đứng trước nhà thờ chính tóa Thánh Phaolô, trong một khu phố đông đúc ở trung tâm Luân đôn, nhưng không một ai để ý tới Chúa. Một người đàn ông vừa đi vừa đọc báo, suýt đâm thẳng vào Chúa. Một khoa học gia bận bịu với những ống nghiệm, không nhìn lên Chúa. Một chức sắc trong hàng giáo phẩm hiên ngang ngẩng đầu tiến bước, nhưng không thấy Đức Kitô. Có một nhà thần học đang hăng say thuyết minh về Đức Kitô mà không nhìn về Người. Duy chỉ có một nữ tu nhìn về Chúa, nhưng vẫn tiếp tục đi con đường của mình.

Ông Barclay (William Barclay), một học giả Kinh Thánh nổi tiếng đã bình luận về bức họa: “Những hoàn cảnh này thường xảy ra trong cuộc sống hôm nay. Nếu Đức Kitô tái xuất hiện, có lẽ cũng chả ai chú ý tới. Người ta còn bận tâm về đủ thứ chuyện cao sâu hơn là việc lưu tâm tới Chúa hoặc theo dõi Lời Chúa. Chuyện đó lạ đời, nhưng lại thực sự xảy ra ngay lần Chúa xuống trần gian hai ngàn năm trước. Sau một thời gian Chúa xuất hiện rao giảng Tin Mừng Cứu độ. Người đã làm bao phép lạ sôi nổi, gây chấn động trong dân chúng, rồi Chúa hỏi các môn đệ xem người ta bảo Chúa là ai, thì mỗi người lại nói mỗi khác. Người thì bảo là Gioan Tẩy Giả Phục Sinh, người nói là Êli, người khác bảo là một ngôn sứ… Tất cả nói đúng nhưng chưa đủ. Chỉ có Phêrô mới có thể nói đúng và đầy đủ về Chúa: “Thầy là Đấng Cứu Thế”.

Lời tuyên bố của Phêrô là câu trả lời Chúa Giêsu muốn có. Nhưng Chúa cũng nói ngay đó là do Cha trên trời tỏ bày cho, chứ không phải nhờ học hỏi hay nghiên cứu. Phêrô và các Tông đồ được ơn soi sáng, được dạy dỗ và hướng dẫn để hiểu biết sự thật về Đức Kitô, vì các ông là môn đệ Chúa, sẽ tiếp tục sự nghiệp Chúa nơi trần thế. Lời tuyên bố này rõ ràng là một ơn mạc khải, vì chính Phêrô nói ra mà cũng không hiểu tường tận về lời mình nói. Ngay lúc đó Chúa Giêsu đã nói cho các môn đệ về số phận của Người. Chúa nói sẽ chịu đau khổ nhiều, bị bắt, bị hành hạ, bị giết chết, nhưng sau ba ngày sẽ sống lại. Nghe vậy, các môn đệ khó chịu, các ông đã không để ý tới việc Chúa sẽ sống lại, và cho là Chúa thất bại, thua kẻ thù. Vì thế, Phêrô kéo Chúa ra một chỗ và can ngăn Chúa đừng nói vậy, đừng để chuyện đó xảy ra. Vì thế, Chúa Giêsu nổi giận mắng ông: “Satan, hãy lui đi!”.

Chúa Cứu Thế sẽ cứu chuộc trần gian bằng thập giá. Đó là điều quan trọng vì Chúa đòi buộc các môn đệ của Người cũng đi con đường này: “Ai muốn theo Thầy hãy bỏ mình đi, vác thập giá mà theo. Vì ai muốn cứu mạng mình thì sẽ mất. Còn ai sẵn sàng bỏ mạng sống vì Thầy và vì Tin Mừng thì sẽ cứu được sự sống mình”.

Lạy Chúa, xin giúp chúng con hiểu biết Chúa hơn để chúng con biết vác thập giá đi theo Chúa và được vào hưởng vinh quang với Chúa.

10. Kitô-hữu là ai?

Như chúng ta đã biết: qua lời giảng dạy, qua việc làm và nhất là qua cuộc sống của mình, Chúa Giêsu đã trở thành một vấn đề, một câu hỏi cho những kẻ còn nghi ngờ về Ngài. Vậy Ngài là ai? Kẻ thì bảo Ngài là Êlia, là Gioan Tẩy giả, là một tiên tri. Mỗi người một câu trả lời. Nhưng điều quan trọng chính là niềm xác tín vào Chúa của mỗi người chúng ta, bởi vì chính Chúa đã hỏi các môn đệ:

– Còn các con, các con bảo Thầy là ai?

Câu hỏi ấy Chúa cũng không ngừng đặt ra cho chúng ta ngày hôm nay và qua chúng ta, mọi người cũng sẽ tiếp tục tự hỏi:

– Kitô hữu, bạn là ai?

Đúng thế, người Kitô hữu qua lời nói, qua việc làm và nhất là qua cuộc sống của mình phải là một câu hỏi cho những người chung quanh. Dù âm thầm nhỏ bé đến đâu chăng nữa, thì đời sống của người Kitô hữu phải làm cho những người chung quanh thắc mắc.

Dĩ nhiên câu hỏi càng trở nên khẩn thiết hơn khi cuộc sống của người Kitô hữu mang tính cách chứng nhân giữa một xã hội đầy giành giật và bon chen, đầy bạo lực và bất công.

Đời sống của họ sẽ là một câu hỏi nếu như họ thực thi tinh thần nghèo khó, chấp nhận thua thiệt mất mát hơn là bán đứng lương tâm của mình để chạy theo những lợi lộc bất chính.

Có những kẻ đã lấy hận thù làm luật sống, thì người Kitô hữu mãi mãi là một câu hỏi, nếu như họ vẫn yêu thương mọi người, kể cả kẻ thù địch và bước theo Chúa cho đến cùng.

Giữa một xã hội mà nhiều người đang buông xuôi thất vọng, người Kitô hữu mãi mãi là một câu hỏi nếu họ biết sống lạc quan, tin tưởng vào một Đấng có tình yêu thương trải dài trong suốt lịch sử con người.

Giữa một xã hội mà sự thành thật đã trở nên như một đồ dùng xa xỉ, người Kitô hữu sẽ mãi mãi là một câu hỏi nếu họ vẫn tiếp tục sống tử tế, cư xử tốt đẹp với mọi người.

Sống như thế quả là một đòi hỏi cam go, nhưng đó không chỉ là một cố gắng suông, mà còn là kết quả của việc chúng ta gắn bó mật thiết với Chúa. Bởi vì không có ơn Ngài trợ giúp, chúng ta sẽ không bao giờ thực hiện được như vậy.

Kết thúc thông điệp “Hòa Bình Trên Thế Giới”, Đức Thánh Cha Gioan 23, đã viết như sau: Mỗi người Kitô hữu trong thế giới là một mảnh sao băng, một tụ điểm của tình yêu, một thứ men sống động giữa những người anh em của mình. Người Kitô hữu sẽ đóng trọn vai trò ấy hơn khi họ còn sống kết hiệp mật thiết với Thiên Chúa. Sống trọn vẹn những cam kết trên, thì quả thật người Kitô hữu là một thách thức, một câu hỏi đối với người khác…

Đúng thế, người Kitô hữu không sống cho mình, nhưng sống cho người khác.

Một mảnh sao băng chợt sáng lên rồi tắt lịm, nhưng cũng đủ thu hút cái nhìn của con người về một góc trời nào đó.

Một hạt men nhỏ bé vô danh mất hút trong đống bột, nhưng cũng đủ làm dạy cả khối bột.

Sự hiện diện của người Kitô hữu luôn có sức thu hút, tạo nên những ấn tượng tốt nơi người khác, nếu như chúng ta biết sống gắn bó mật thiết với Chúa.

Lý tưởng là như vậy, còn trong thực tế thì sao? Liệu cuộc sống của chúng ta đã trở thành một câu hỏi, một vấn đề cho những người chung quanh phải băn khoăn và suy nghĩ hay chưa?

11. Đức Kitô.

Nhóm Mười Hai, tức là các tông đồ, sau một thời gian dài được ở bên Chúa, được nghe những lời Chúa giảng dạy, và được chứng kiến những việc Chúa làm, nay đến Chúa muốn các ông phải dứt khoát lập trường, phải bày tỏ lòng tin của các ông. Nhưng đây cũng là khúc quanh quan trọng: Chúa bắt đầu tỏ ra cho các môn đệ biết con đường đau khổ Ngài phải đi để hoàn thành sứ mạng. Bởi vậy việc ông Phêrô tuyên xưng lòng tin và việc Chúa Giêsu báo trước con đường đau khổ của Ngài là một biến cố bản lề trong quá trình thi hành sứ mạng của Chúa cũng như trong quá trình huấn luyện các môn đệ, vì khi nói về con đường đau khổ của Ngài thì Chúa cũng nói về con đường mà những ai tin Ngài phải đi. Đó là nội dung bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta có thể dễ dàng nhận ra ba điều rõ ràng: Thứ nhất, Chúa Giêsu hỏi các môn đệ: dân chúng nói Ngài là ai và chính các ông nói Ngài là ai? Thứ hai, Chúa Giêsu báo trước cho các môn đệ biết về con đường đau khổ của Ngài. Thứ ba, Chúa Giêsu cho biết đây cũng là con đường của các môn đệ và của mọi người khi đi theo Ngài. Sau đây chúng ta chỉ tìm hiểu điều thứ nhất mà thôi.

Dân chúng nói Chúa Giêsu là ai và các môn đệ nói Chúa Giêsu là ai? Từ hai câu hỏi của Chúa chúng ta có thể đặt ra hai câu hỏi cho chúng ta: chúng ta tự hỏi và tự trả lời: đối với tôi, Đức Kitô là ai? và đối với mọi người, tôi là ai? Trước hết, đối với tôi, Đức Kitô là ai? Đây là một câu hỏi quan trọng, câu hỏi này dẫn chúng ta vào việc kiểm điểm niềm tin và cách sống của mình: có thật chúng ta tin Chúa Giêsu là Đấng Kitô của Thiên Chúa, nghĩa là Đấng được Thiên Chúa sai đến để cứu chuộc chúng ta và chỉ cho chúng ta con đường sống không? Nếu tin như thế thì cuộc sống của chúng ta sẽ tốt đẹp, hay chúng ta vẫn tin một đàng, sống một nẻo, xem ra niềm tin và cuộc sống là hai thực thể tách rời nhau, không ăn nhập gì với nhau.

Có thể nói, đối với một số không nhỏ người Công giáo, thì Đức Kitô vẫn chỉ là một khái niệm mông lung, mờ nhạt thuộc niềm tin. Vì thế, trả lời được câu hỏi: đối với tôi, Đức Kitô là ai? Không phải chỉ là chuyện kiến thức, sách vở, lặp lại những gì đã đọc được trong sách báo hay nghe được qua các bài giảng, nhưng trả lời được câu hỏi ấy chính là chuyện của cuộc sống, của chọn lựa cá nhân thâm tín và dấn thân.

Chúng ta hãy nhìn vào ông Nây Am-troong, ông là một phi hành gia đầu tiên của Mỹ đã đặt chân lên mặt trăng ngày 20.7.1969. Khi còn là một sinh viên, ông đã ghi trong cuốn sổ tay câu hỏi của Chúa Giêsu: “Anh em bảo Thầy là ai?” và ông đã trả lời: “Ngài là người không hề phạm tội, là người vị tha, là người biết quan tâm săn sóc kẻ khác, là người gần gũi Thiên Chúa”. Như vậy, ông Am-troong đã không trả lời theo thần học hay giáo lý cho câu hỏi “Anh em bảo Thầy là ai?”, nhưng ông đã đưa ra câu trả lời của riêng mình, ông đã nhìn sâu vào tâm hồn mình và nói ra cảm nghiệm về Chúa Giêsu trong cuộc sống riêng tư của ông.

Mỗi người chúng ta cũng phải làm giống như ông Am-troong, chúng ta cũng phải nhìn sâu trong tâm hồn mình để nói ra cảm nghiệm về Chúa Giêsu trong chính cuộc sống của mình, và cảm nghiệm này mang tính riêng tư không ai giống ai. Vậy, đối với tôi, Đức Kitô là ai? Nói chính xác hơn, mỗi người chúng ta hãy hỏi: “Hôm nay, đối với tôi, Đức Kitô là ai rồi?”. Phải thêm hai chữ “hôm nay” và chữ “rồi” vào câu hỏi, bởi vì “hôm nay” chứ không phải hôm qua hay hôm nào khác, và chữ “rồi” cũng thật quan trọng, bởi vì có thể trong quá khứ, chúng ta đã gặp Ngài, đã yêu Ngài hết mình, nhưng rồi hôm nay, Ngài thì không thay đổi, nhưng tình chúng ta yêu Ngài có đổi thay chăng? Thế nên, mỗi ngày chúng ta phải tự hỏi để đừng bao giờ Đức Kitô trở thành kỷ niệm, chỉ còn là một niềm tin trong quá khứ, để đừng bao giờ bỏ Ngài lủi thủi bước bên cạnh đời chúng ta.

Câu hỏi thứ hai, đối với mọi người, tôi là ai? trong những dòng cuối của sứ điệp “Hòa bình dưới thế”, Đức cố Giáo Hoàng Gioan XXIII, được mệnh danh là vị Giáo Hoàng nhân từ, dễ thương, đã đưa ra cho chúng ta một định nghĩa: thế nào là một người Kitô hữu chân chính như sau: “Mỗi người tín hữu trong thế giới là một mảnh sao băng, là một tụ điểm của tình yêu, là một thứ men sống động giữa những người anh em của mình. Nếu người tín hữu đóng trọn vai trò ấy, họ sẽ là người Kitô hữu chân chính”.

Sống trọn những cam kết trên quả thật người Kitô hữu luôn là một thách thức, một câu hỏi, một sự hiện diện quấy rầy đối với mọi người. Thực vậy, một mảnh sao băng khi chợt sáng lên rồi tắt lịm, nhưng cũng đủ thu hút cái nhìn của con người về một góc trời nào đó. Một hạt men bé nhỏ, mất hút trong khối bột, nhưng cũng đủ sức làm dậy nên cả khối bột. Một thể hiện yêu thương, dù nhẹ nhàng đơn giản cũng đủ sưởi ấm cõi lòng, đủ sức chinh phục hay cảm hóa bất cứ người nào. Như thế đó, sự hiện diện của người Kitô hữu luôn có sức thu hút, tạo được ảnh hưởng tốt cho người khác, với điều kiện họ phải sống đúng danh nghĩa người Kitô. Và như thế, qua cuộc sống của mình, sự hiện diện của chúng ta cũng luôn là một câu hỏi cho những người chung quanh, nghĩa là nhìn vào đời sống chúng ta, họ bảo chúng ta là ai?

Tóm lại, người ta có nhận ra tôi là người Kitô không? Nghĩa là sự hiện diện của chúng ta ở bất cứ nơi nào, gặp gỡ bất cứ ai, người ta có nhận ra chúng ta là người Kitô không? Không phải chúng ta tự xưng, tự giới thiệu mà cách sống của chúng ta khiến người khác phải đặt câu hỏi hoặc phải cảm phục đời sống tốt đẹp của chúng ta. Và như thế chúng ta đã trả lời được câu hỏi: đối với mọi người, tôi là ai? Tôi là một người Kitô hữu, đơn giản thế thôi.

12. Đau khổ.

Nhìn thấy Chúa Giêsu làm những phép lạ, nhiều người Do thái đã băn khoăn tự hỏi:

– Liệu Ngài có phải là Đấng cứu thế hay không?

Đã từ lâu họ sống dưới ách thống trị của đế quốc La mã, cho nên cũng đã từ lâu họ, trông chờ một đấng cứu thế đến giải phóng họ và đem lại cho quê hương họ sự phồn thịnh.

Sống trong một hoàn cảnh như vậy, các môn đệ phần nào cũng đã chia sẻ quan niệm ấy, thế nhưng Chúa Giêsu thì khác, Ngài đã không suy nghĩ và hành động như họ.

Sau phép lạ bánh hóa nhiều, nuôi sống năm ngàn người giữa chốn hoang vu. Dân chúng đã nồng nhiệt tung hô Chúa và họ muốn tôn Ngài lên làm vua. Trước ý đồ ấy, Chúa Giêsu đã trốn lên núi một mình.

Các môn đệ cũng không hơn gì những người Do thái. Trước khi Chúa Giêsu về trời, các ông đã hỏi Ngài:

– Phải chăng đã đến lúc Thày lập nước Israel?

Mặc dù nhiều lần Chúa Giêsu đã nói cho các ông biết Ngài không đến nhằm mục đích chính trị, nhưng đến để giải thoát con người khỏi tội lỗi và dẫn đưa họ về cùng Thiên Chúa, Đấng đã yêu thương họ.

Mặc dù các ông cũng đã tin, nhưng giấc mơ về nền độc lập của dân tộc vẫn âm ỉ cháy trong cõi lòng các ông.

Thái độ của Chúa Giêsu trước vấn đề quyền bính đã là một sự khó hiểu đối với các ông, huống nữa là vấn đề đau khổ, thập giá và cái chết của Ngài. Làm sao các ông có thể dễ dàng chấp nhận?

Thực vậy, bài Phúc Am hôm nay đã cho chúng ta thấy, sau khi Phêrô tuyên xưng đức tin, Chúa Giêsu đã nói trước cho các ông biết:

– Con Người sẽ đi lên Giêrusalem, ở đó Ngài sẽ phải đau khổ và sẽ phải chết, nhưng ngày thứ ba Ngài sẽ sống lại.

Phản ứng của Phêrô thật là bộc trực và thẳng thắn, ông kéo Chúa Giêsu ra một chỗ và nói:

– Ước chi Thiên Chúa sẽ gìn giữ Thày để Thày khỏi phải như thế.

Có lẽ phản ứng của các tông đồ khác cũng như vậy. Một khi đã yêu mến Chúa, thì làm sao các ông có thể chấp nhận Ngài phải khổ đau. Hơn thế nữa, như mọi người Do thái khác, các ông quan niệm đau khổ là như một sự chúc dữ của Thiên Chúa.

Trước một người mù từ khi mới sinh, các ông đã chẳng hỏi Chúa Giêsu:

– Nó bị mù là do tội của nó hay là do tội của cha mẹ nó?

Chúa Giêsu hiểu điều ấy, nhưng Ngài cũng không thể chấp nhận để các ông làm cản trở chương trình tình thương của Thiên Chúa. Cuộc thương khó của Ngài phải được nhìn trong toàn bộ chương trình cứu độ mà Thiên Chúa đã ươm mơ từ muôn ngàn thuở trước.

Bởi đó Chúa Giêsu đã quở trách Phêrô:

– Hỡi satan hãy xéo đi, ngươi làm cản trở cho Ta vì ngươi chỉ nhìn thấy những việc của loài người mà chẳng nhìn thấy những việc của Thiên Chúa.

Ít lần sau Chúa Giêsu lại tiên báo một lần nữa cho các ông:

– Chẳng bao lâu nữa Con Người sẽ bị nộp vào tay người ta, họ sẽ giết chết Ngài, nhưng ngày thứ ba Ngài sẽ sống lại.

Lần này thì các ông không dám lên tiếng, nhưng Phúc âm đã ghi lại rằng:

– Các ông đã tỏ ra buồn bã.

Rồi cùng với thời gian, những sự việc đã xảy ra đúng như lời Chúa đã tiên báo: Ngài đã bị treo trên thập giá. Dưới mắt các ông thì đây là một thất bại ê chề.

Chính vì thế, hai môn đệ trên đường đi Emmaus đã nói với Chúa Giêsu:

– Chúng tôi hy vọng Ngài sẽ cứu thoát Israel, nhưng những sự kiện đau buồn ấy đã xảy ra ba ngày rồi.

Chỉ dưới sự soi dẫn của Chúa, các ông mới hiểu được rằng: Ngài sẽ phải đau khổ để được bước vào chốn vinh quang, và để đem lại cho chúng ta ơn cứu độ.

Còn chúng ta thì sao? Chúng ta có tìm thấy ý nghĩa đích thực của những đau khổ gặp phải, hay là chúng ta cũng đã phản ứng như Phêrô và các tông đồ ngày xưa?

13. Đau khổ.

Thời Chúa Giêsu, vác thập giá là một cực hình khổ nhất, nhưng thông dụng nhất mà người Rôma đế quốc đã đem áp dụng ở Do thái. Vậy nói tới thập giá, đối với thời Chúa Giêsu, là một khổ hình và chắc chắn chết nhục nhã. Người nào vác thập giá là người bị đưa tới pháp trường để chịu đóng đinh mình vào cây thập giá đó. Vác thập giá lên vai có nghĩa là bắt đầu đi đến chỗ chết. Vác thập giá cũng có nghĩa là bắt đầu đau khổ thực sự. Vì thế, những đau khổ trong cuộc đời chính là thập giá Chúa bảo chúng ta phải vác mà đi theo Ngài. Đây chính là vấn đề chúng ta muốn hiểu biết: vấn đề đau khổ trong cuộc đời.

Từ xưa đến nay, có một vấn đề gai góc, một vấn đề nan giải, một vấn đề làm cho nhiều người thắc mắc và thất vọng. Đó là vấn đề đau khổ. Người ta sinh ra trong tiếng khóc, trải qua cuộc đời đầy nước mắt, rồi âm thầm nằm xuống trong tiếng khóc chân thật hay giả dối của người khác. Cho nên, Kinh Thánh nói: “Đời là thung lũng nước mắt”. Đã là thung lũng nước mắt thì cũng là bể khổ, vì sao vậy? Xưa nay các nhà hiền triết đã nát óc đi tìm một câu trả lời thỏa đáng. Đức Phật Thích Ca đi tu cũng vì muốn tìm một câu trả lời cho câu hỏi gai góc ấy.

Không hiểu lý do sự đau khổ, người ta tìm cách hủy diệt người đau khổ mà họ cho là những chiếc gai phản tiến hóa. Đã có một thời chính phủ Nhật Bản ra lệnh tập trung tất cả những người mắc bệnh phong cùi trên một hòn đảo nằm ở giữa biển Thái Bình Dương và tưới xăng thiêu rụi cả hòn đảo chứa đầy bệnh nhân ấy. Họ mắc bệnh nan y, họ không có quyền sống. Trong thế chiến thứ hai, nhà độc tài Hitler đã ra lệnh cho giám đốc bệnh viện Bê-then thủ tiêu tất cả mọi bệnh nhân mắc bệnh tâm thần, vì họ là thành phần vô dụng, ăn hại xã hội và quốc gia. Không tin ở Thiên Chúa thì người ta không làm sao hiểu nổi vấn đề đau khổ. Và người ta có thể tuyệt vọng khi không làm sao tránh được đau khổ và bệnh tật. Văn hào vô thần Hen-ri đờ Mông-thơ-lan, thuộc hàn lâm viện Pháp, lúc về già, bị mù. Vì không chịu được sự đau khổ ấy, ông đã dùng súng lục bắn vào họng tự sát.

Vấn đề đau khổ, ai sẽ đem lại cho chúng ta một câu trả lời thỏa đáng? Chỉ có một Đấng là Chúa Giêsu mới có thể trả lời cho chúng ta. Và nhờ ánh sáng Tin Mừng của Chúa chúng ta mới hiểu được nguyên do của đau khổ, đó chính là tội lỗi. Đau khổ đã xuất hiện từ khi loài người bắt đầu phạm tội và sẽ còn mãi cho đến tận thế. Mở trang đầu của Kinh thánh, chúng ta thấy Chúa dựng nên vạn vật, chim trời, cá biển, cầm thú và con người, rồi Kinh Thánh kết luận: “Mọi sự Chúa dựng nên đều tốt đẹp, rất tốt đẹp”. Nhưng rồi chương trình tốt đẹp ấy đã bị đổ vỡ. Tội lỗi đã len vào thế gian. Và vì tội thì có sự chết nữa. Nghĩa là từ ngày nguyên tổ phạm tội thì đau khổ báo trước sự chết và sự chết đã ngự trị trên trần gian. Mỗi ngày có biết bao nhiêu tiếng khóc, có biết bao nhiêu dòng nước mắt. Mỗi ngày có hàng vạn người chết. Bản án còn vang lên: “Vì ngươi đã phạm tội thì trái đất sẽ sinh gai góc, ngươi phải làm ăn vất vả, đổ mồ hôi trán mới có ăn và ngươi là tro bụi thì sẽ hoàn về tro bụi”. Từ đó, đời là bể khổ, đời là thung lũng nước mắt. Đau khổ là do tội lỗi phát sinh. Chúa Giêsu đến trần gian, Ngài gánh lấy tội lỗi nhân loại. Nhờ sự chết và sống lại, Ngài đã cứu chúng ta khỏi tội lỗi. Nhưng Ngài không cất đi hình phạt của tội lỗi là gian nan đau khổ. Hơn nữa, Ngài dùng đau khổ làm giá cứu chuộc chúng ta. Vì thế, đời sống Chúa Giêsu là một đời đầy gian lao đau khổ. Cuộc sống ấy đi dần đến một cái chết ghê sợ nhất trên đời, nhưng Ngài chấp nhận. Ngài mong chờ nữa, vì không có máu đổ ra thì không có ơn cứu chuộc.

Chúa đã chịu đau khổ để đền tội chúng ta, thì Ngài cũng thánh hóa sự đau khổ để nêu gương sáng cho chúng ta. Hơn nữa, Ngài lấy sự nhẫn nại chịu đau khổ như là một điều kiện để theo Ngài, để làm môn đệ của Ngài: “Ai muốn theo tôi, hãy vác thập giá mình mà theo”. Từ đây không ai có thể tự hào là môn đệ Chúa mà không tham gia vào cuộc thương khó của Chúa, không vui lòng lãnh nhận phần đau khổ riêng tư của mình. Vì thế, khi gặp đau khổ, Chúa dạy chúng ta đừng buông xuôi, đừng thất vọng, đừng lồng lộn rủa trời, chửi đất mà hãy đến cầu xin với Chúa: Hãy đến với tôi, hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng, tôi sẽ nâng đỡ bổ sức cho”.

14. Đức tin.

Có hai loại đức tin. Loại thứ nhất là đức tin của những người tin tưởng vì họ đi theo truyền thống của tổ tiên, họ mạnh mẽ duy trì truyền thống đức tin ấy. Đây có thể gọi là đức tin thừa hưởng. Loại thứ hai có thể được gọi là đức tin cá nhân. Có một sự khác nhau quan trọng giữa hai loại ấy. Người sở hữu một đức tin thừa hưởng hoặc kế thừa có lợi thế là họ không bị cám dỗ dễ dàng. Cả khi phải đương đầu với những lý lẽ triết học có thể nói ngược lại đức tin của họ. Đức tin này được duy trì mạnh mẽ vì thuộc về truyền thống mà họ thừa hưởng từ tổ tiên họ. Ngoài ra họ không bao giờ lệ thuộc vào tư duy triết học. Nhưng họ cũng có những sự bất lợi. Đức tin của họ thường không có lý luận hoặc suy tư vững chắc, và thường là một đức tin của tập quán và lề thói cổ xưa.

Người sở hữu một đức tin cá nhân cũng có một lợi thế. Họ đã khám phá Thiên Chúa với lý lẽ của họ, và vì thế, lý lẽ này rất mạnh trong đức tin của họ. Nhưng họ cũng có một điều bất lợi. Họ có thể bị thuyết phục bởi lý luận, và nếu đối đầu với những lý lẽ chống lại mạnh mẽ, họ có thể bị cám dỗ bỏ đức tin. Để có thể chống cự lại những thử thách, đức tin phải có nền tảng trong những gì vượt xa hơn kinh nghiệm cá nhân của mình.

Những người có được đức tin của họ theo hai cách trên được hưởng lợi thế mỗi cách. Họ phụ thuộc mạnh mẽ vào truyền thống của tổ tiên, nhưng đồng thời được hưởng ưu điểm của khả năng tư duy những sự vật khách quan. Vì thế, họ có được đức tin tốt nhất và hoàn hảo nhất.

Sinh ra trong đức tin chưa đủ. Một đức tin thừa hưởng là một đức tin đã qua sử dụng và có thể rất trống rỗng. Nói rằng: “Cha mẹ tôi là những tín hữu” chưa đủ. Mỗi thế hệ phải tòng giáo lại. Có người đã nói rằng nhiều người đi lễ không tốt hơn những người ngoại giáo tân tòng. Điều này xem ra khắt khe quá. Tuy nhiên, chúng ta thấy nhiều khuôn mặt buồn chán và mệt mỏi trong nhà thờ, khuôn mặt của những người đến trễ và bỏ ra về khi thánh lễ chưa xong.

Câu hỏi mà Đức Giêsu hỏi các tông đồ là câu hỏi quan trọng nhất trong Tin Mừng. Nó liên quan đến căn tính của Đức Giêsu. Người hỏi họ câu hỏi ấy không phải vì Người mà là vì họ. Một câu hỏi bắt người ta phải suy nghĩ về niềm tin của họ.

Trước tiên Người hỏi: “Người ta nói Thầy là ai?” Các môn đệ thuật lại với Người. Những câu đáp là những câu không trúng. Kế đó, Người quay lại họ và hỏi “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” Và Phêrô đáp: “Thầy là Đấng Kitô”. Đấng Kitô có nghĩa là Đấng Mêsia. Thánh Matthêu đã ghi lại câu trả lời của Phêrô như sau: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”. Đây là cốt lõi của đức tin trên đó Giáo hội được xây dựng.

Điều quan trọng là chúng ta phải đưa ra câu trả lời của mình tức là có khả năng khẳng định giá trị và niềm tin của mình như những Kitô hữu. Nếu chỉ lặp lại những câu trả lời chính thức sẽ không đủ. Chúng ta phải làm cho đức tin của mình thành xác tín, khi sống đức tin ấy và để nó ảnh hưởng lên đời sống chúng ta. Đức tin của cha mẹ chúng ta không phải là đức tin của chúng ta chừng nào chúng ta chưa tự mình bước đi.

Chúng ta cần trưởng thành trong sự hiểu biết đức tin. Chúng ta phải tin bằng chính niềm xác tín của bản thân. trong Giáo hội, càng có nhiều người như thế, thì Giáo hội càng được thiết lập vững vàng trên đá tảng.

Rõ ràng Phêrô không hoàn toàn hiểu hết những lời ông nói. Khi ông thừa nhận Đức Giêsu là Đấng Mêsia, ông không biết Đức Giêsu là một Đấng Mêsia đau khổ. Đó là một điều ông phải học biết và học biết một cách khó khăn.

Phêrô đã thực hiện một tuyên xưng hoàn hảo về đức tin. Ông có một đức tin hoàn toàn đúng với ngôn ngữ của ông. Nhưng khi phải hành động theo đức tin ấy, ông thất bại. Điểm kém cỏi nhất của ông là khi ông chối Chúa. Điều này cho chúng ta thấy rằng chúng ta cần ân sủng của Thiên Chúa, không chỉ để tuyên xưng đức tin, mà còn để sống đức tin ấy.

15. Đức Giêsu.

Đức Giêsu là ai? Đó là một câu hỏi được đặt ra không phải chỉ trong thời Đức Giêsu còn ở dưới thế, mà còn được đặt ra ngay trong thời đại chúng ta ngày nay. Câu hỏi được đặt ra không phải chỉ vì tò mò muốn biết dư luận nghĩ sao về nhân vật Giêsu, nhưng nó được đặt ra để chờ đợi một câu trả lời có ảnh hưởng quyết định trên lối sống của người trả lời.

Ngày xưa, nhiều người Do thái trả lời rằng Giêsu cũng chỉ là một người nào đó như các tiên tri, như Êlia, như Gioan hay như bất cứ một tiên tri nào khác. Mà theo họ nghĩ, tiên tri là những người tuy rao giảng một giáo thuyết hay, tuy làm được một số việc lạ lùng hơn người, nhưng nhiều khi cũng quấy rầy cuộc sống bình an của họ. Bởi thế khi không muốn bị quấy rầy nữa thì họ không ngại giết chết các tiên tri: họ đã lùng bắt Êlia, họ đã bỏ tù Giêrêmia, họ đã chém đầu Gioan tẩy giả và họ cũng đã đóng đinh Giêsu.

Riêng Phêrô thì trả lời rằng Giêsu chính là Đức Kitô, nghĩa là một người có thừa khả năng để cứu rỗi đời mình và đáng cho mình đi theo cho đến hơi thở cuối cùng. Chính vì thế mặc dù muốn theo Thầy thì phải bỏ mình vác thập giá, nhưng Phêrô đã sẵn sàng trung thành với Thầy cho đến chết.

Giêsu là ai? Câu hỏi này ngày nay cũng gặp được nhiều câu trả lời khác nhau, và mỗi câu trả lời kéo lôi theo một nếp sống khác nhau. Có hai câu trả lời tiêu biểu sau đây ở trong 2 quyển tiểu thuyết:

. Quyển “The last temptation” (Cơn cám dỗ cuối cùng) mô tả Giêsu như một chàng thanh niên khỏe mạnh, đẹp trai, nhiều khả năng. Chàng có một người yêu tên là Mađalêna. Nhưng một ngày nào đó, Giêsu bỗng bị ám ảnh rằng mình không thể sống nếp sống tầm thường mà phải sống như siêu nhân. Vì thế chàng từ bỏ tình yêu của nàng Mađalêna và lên đường rao giảng một thứ giáo thuyết siêu nhiên. Mađalêna thất tình buông trôi cuộc đời trong nếp sống trụy lạc, đĩ thõa. Còn Giêsu thì thu thập được một số đồ đệ và hăng say truyền bá lý tưởng siêu nhiên. Nhưng lý tưởng đó lại không phù hợp với những mục đích chính trị của các tư tế, biệt phái và luật sĩ. Cho nên cuối cùng, Giêsu bị họ bắt và kết án đóng đinh. Trong những giây phút hấp hối trên thập giá, Giêsu bị hôn mê, cơn hôn mê khiến Giêsu nhìn lại cuộc đời của mình. Chàng mơ thấy mình từ bỏ lý tưởng siêu nhiên, cưới Mađalêna làm vợ, sinh được một bầy con ngoan, đẹp, sống rất hạnh phúc với gia đình, nhưng bị các đồ đệ và các tín đồ nhiếc móc. Giêsu bừng tỉnh dậy lắc đầu xua đuổi cơn cám dỗ ấy. (Giêsu đã chiến thắng cơn cám dỗ cuối cùng). Nhưng sau đó gục đầu tắt thở.

Đó là một câu trả lời, rằng: Giêsu chỉ là một người phàm, tuy người phàm này theo đuổi một lý tưởng siêu nhiên và do đó cũng đáng được người khác kính trọng, nhưng cái lý tưởng đó không thể thực hiện được. Thành thử chúng ta dù kính trọng Ngài nhưng không thể sống theo Ngài được.

Có lẽ đó là câu trả lời của rất nhiều người thời nay. Họ nhìn nhận Giêsu là một vĩ nhân, họ nhìn nhận đạo Đức Giêsu là đạo tốt. Nhưng cái đạo đó chẳng giúp ích gì cho cuộc sống. Cuộc sống của họ cần có vật chất, cần có tiền bạc, cần có sự nghiệp, công danh, chứ không cần đến lý tưởng tôn giáo bao nhiêu. Vì thế họ lao mình vào cuộc sống vật chất, để sang một bên những vấn đề lý tưởng tôn giáo cho hạng đàn bà, trẻ nít, hay có cho mình thì cũng là tới khi về già, gần đất xa trời.

. Câu trả lời thứ hai chúng ta gặp trong quyển “Quovadis”: quyển truyện này lấy khung cảnh thời hoàng đế Néron của đế quốc Lamã đang thịnh trị. Tất cả các nước chư hầu đều phải gửi một con tin sang thủ đô Rôma. Đó là một cách để bảo đảm sự tùng phục của các chư hầu. Trong số các con tin ấy có một nàng con gái đẹp tuyệt vời làm cho người cháu của hoàng đế Néron si mê. Chàng này vừa có địa vị, vừa có thế lực, vừa có bạc vàng. Chàng tin chắc mình sẽ chinh phục được con tim của người đẹp. Lúc đó bạo Cháu Néron cũng đang thẳng tay bắt giết những người theo đạo Đức Giêsu. Phêrô đã phải sợ hãi bỏ thành Rôma chạy trốn. Nhưng đang khi đi trên đường thì Phêrô gặp Đức Giêsu từ ngoài thành vác thập giá đi vào. Phêrô hỏi “Quovadis”, tiếng Latinh nghĩa là “Thưa Thầy, Thầy đi đâu vậy?” Đức Giêsu trả lời: Ta vác thập giá vào Rôma để chịu đóng đinh một lần nữa, vì con đã không dám chịu đóng đinh. Phêrô nghe vậy vội trở vào Rôma và cùng với các tín hữu khác chịu đựng những cuộc bắt bớ, cho đến chết. Tấm gương anh dũng của các tín hữu Đức Giêsu đã làm cho nàng con gái đang làm con tin ấy cảm phục và tìm ra được lý tưởng cho đời mình.

Đó là câu trả lời: Thầy là Đức Kitô con Thiên Chúa hằng sống. Con xin theo Thầy cho dù phải vác thập giá và phải bỏ mình vì Thầy!

Đức Giêsu không phải chỉ là siêu nhân mà còn là Con Thiên Chúa. Và vì là Con Thiên Chúa cho nên lý tưởng Ngài đề ra cho ta không phải chỉ là một thứ lý tưởng viển vông không thể thực hiện. Là Con Thiên Chúa, Ngài thừa sức giúp chúng ta thực hiện được lý tưởng của Ngài cho dù có phải trải qua muôn ngàn gian truân khổ sợ. Mà chính cái lý tưởng ấy mới khiến chúng ta sống xứng đáng là người. Con người nếu chỉ biết mê ăn uống, có tiền bạc, có vật chất, sinh ra để ăn, ăn rồi đói, đói rồi phải kiếm ăn, cứ như vậy cho đến lúc chết thì chẳng khác gì hơn con vật. Đức Giêsu muốn giúp chúng ta sống hơn con vật, cho nên Ngài đã chọn kiếp là người, sống cho chúng ta thấy và sống theo để chúng ta sống xứng đáng là người. Chẳng những là người mà còn là Con Thiên Chúa như Ngài. Mà muốn được như Ngài, chúng ta phải đi theo Ngài, phải bỏ mình đi, phải vác thập giá… Nghĩa là phải cố gắng vươn lên, vươn lên cao hơn những nhu cầu vật chất xác thịt tầm thường. Chúa Giêsu đã tiên phong sống được như thế và Ngài sẽ giúp chúng ta sống được như thế, nếu chúng ta nhớ làm theo Lời Ngài: Ai muốn theo ta, hãy bỏ mình, vác thập giá mà theo Ta. Quả thật, ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất. Còn ai chịu mất mạng sống mình vì Ta và vì Tin Mừng thì sẽ được sống đời đời”.

Trên đây là hai câu trả lời tiêu biểu cho câu hỏi “Giêsu là ai?” Còn câu trả lời của chúng ta là gì? Nếu chúng ta trả lời như Phêrô “Thầy là Đức Kitô” thì chúng ta cũng hãy can đảm bỏ mình vác thập giá đi theo Thầy”.

16. Từ bỏ.

Wiliam Oscar Wilde kể một huyền thoại sâu sắc: “Họa mi và bông hồng đỏ”. Một sớm mùa hè, họa mi làm tổ trên cành dương đã nghe trọn lời than thở của một chàng trai bên cửa sổ: “Nếu anh không kiếm nổi bông hồng đỏ để em cài ngực áo trong buổi dạ hội đêm nay, em sẽ xa anh mãi mãi”. Họa mi dư hiểu chàng trai đã lang thang khắp các nương đồng. Nhưng tìm đâu ra một bông hồng đỏ dưới nắng cháy mùa hạ này? Trời ơi, người tình sẽ chắp cánh bay xa. Họa mi không chịu nổi dằn vặt bi thương của chàng. Họa mi phải ra tay thôi. Nàng khép cánh trước cây hoa hồng bên giếng nước nài xin:

– Chị hồng ơi, chị có vui lòng tặng em một bông hồng đỏ thắm không?

– Họa mi ơi! Em vô tâm như những chiếc gai trên thân chị. Mùa hạ nắng cháy sao em lại xin hoa hồng đỏ?

Chị hồng rung rung cành lá giận dỗi. Họa mi tiếp tục tìm kiếm. Nàng nép mình đậu trên một cành hồng ngoài xa hàng giậu.

– Chị hồng ơi có phép mầu nào nở cho em một bông hồng đỏ?

– Họa mi ơi! Đời cần hoa chi cho thương đau?

– Sao cũng được, miễn em kết chặt một mối tình.

– Được, nhưng phép mầu cần phải có mầu đỏ.

– Bằng mọi giá chị ạ.

– Bằng giá sinh mạng?

– Kể cả sinh mạng em.

– Họa mi ơi! Hãy đặt cổ em trên gai nhọn của chị, hãy hót cho chị, cho cây cỏ, cho đất trời khúc tình ca thắm thiết nhất đời em. Hãy đổ máu cho bông hồng nở. Hãy nhuộm máu cho bông hồng đỏ. Mình sẽ có một bông hồng đỏ như máu đẹp nhất trần gian.

Họa mi đã hót đến giây phút cuối cuộc đời, đã đổ đến giọt máu cuối cùng, đã chết rũ trên cành hồng cạnh đóa hồng bí nhiệm đỏ thắm.

Chàng trai mừng vui tiếng cười mở hội. Bông hồng được hái về trau chuốt trước khi có mặt trong đêm dạ hội. Điều lạ lùng nhất mà cũng phi lý nhất, phi lý như chính cuộc đời phi lý, là người tình đã khước từ đóa hồng bí nhiệm, vì trên ngực áo một bông hồng giả đang ngự trị… Sáng hôm sau, dân làng bắt gặp một đóa hồng bị nghiền nát, nằm tả tơi dưới vết bánh xe bò.

Câu chuyện trên đây là một huyền thoại, nhưng huyền thoại chuyên chở một nội dung rất thực: Đó là nét thực của tình yêu, của tự do, của hy sinh. Tình yêu phải được nuôi dưỡng bằng hy sinh, bằng máu, bằng cả sinh mạng. “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình”. Đây là một lời mời gọi hoàn toàn tự do. Con người có toàn quyền lựa chọn. Chúa không bắt buộc nhưng mời gọi. Người mời gọi chúng ta từ bỏ mình, nghĩa là từ bỏ mọi sự, kể cả mạng sống.

Nói đến từ bỏ là đụng đến hy sinh, nói đến hy sinh là phải thiệt thòi mất mát. Cũng như nói đến tình yêu là đụng đến tự do, và đụng đến tự do là phải dấn thân mạo hiểm. Có thể được chấp nhận hay bị từ khước. Có thể “được cả” mà cũng có thể “ngã về không”. Chính cái bấp bênh trong tình yêu, trong chọn lựa, mới làm bừng sáng nét cao đẹp của hy sinh, từ bỏ.

Hy sinh bao giờ cũng có hương thơm của hạnh phúc. Từ bỏ bao giờ cũng cho tâm hồn nét thanh cao. Hy sinh và từ bỏ là chuẩn bị luống cày cho hạt giống mọc lên.

Nhưng “Từ bỏ chính mình” không phải là quyết định một lần để thay cho suốt cả đời mà là thái độ luôn sẵn sàng từ bỏ trong mọi giây phút của cuộc sống.

“Ai liều mạng sống vì Ta sẽ được sống”. Quả thật, bỏ mình vì Chúa, chúng ta chẳng lỗ lã chút nào. Chúng ta chối từ cái tương đối để được Đấng tuyệt đối, khước từ cái mau qua để đón nhận cái vĩnh hằng, từ bỏ cuộc sống hay chết để được sự sống đời đời, vì “Ai biết chết thì sẽ biết sống”.

17. Anh em bảo Thầy là ai?

(Trích trong ‘Manna’)

Suy Niệm

“Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?”

Đức Giêsu đặt câu hỏi trên cho các môn đệ sau khi họ đã ở với Ngài và được Ngài sai đi (x. Mc 3,14), sau khi họ đã thấy việc Ngài làm, nghe lời Ngài giảng.

Hôm nay Đức Giêsu cũng đặt câu hỏi này cho tôi sau khi tôi đã theo đạo một thời gian dài, đã cầu nguyện và tham dự các bí tích…

“Còn anh, anh bảo Thầy là ai?”

Câu hỏi này nhắm thẳng vào tôi, đòi tôi phải trả lời. Tôi không được trả lời qua loa hay máy móc.

Câu trả lời của tôi phải bắt nguồn từ một kinh nghiệm, kinh nghiệm gặp gỡ và quen biết Đức Giêsu. Chẳng nên theo một người mà mình không quen và tin tưởng.

Đời tín hữu là một hành trình tìm kiếm không ngừng để khám phá ra khuôn mặt luôn mới mẻ của Đức Giêsu.

Ngài thật là một mầu nhiệm khôn dò và quá phong phú. Chúng ta chỉ mon men đến gần, nhưng không sao múc cạn được mầu nhiệm ấy. Phải thanh lọc những hình ảnh ta vốn có về Ngài.

Người làng Na-da-rét cứ nghĩ Đức Giêsu chỉ là bác thợ. Gioan Tẩy Giả nghĩ Ngài là một Mê-si-a vinh quang toàn thắng.

Phải gột bỏ cái biết cũ về Ngài để đón nhận một Đức Kitô khác, vượt xa điều mình nghĩ.

“Tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa”.

Cần trở nên trẻ thơ để nhận ra khuôn mặt thật của Giêsu.

Hôm nay, chúng ta dễ dàng trả lời như Phêrô: “Thầy là Đức Kitô”, và hơn Phêrô: “Thầy là Ngôi Lời nhập thể, là Con Thiên Chúa”. Nhưng vấn đề không phải chỉ là trả lời đúng câu hỏi mà còn là sống tận căn thân phận của Thầy.

Ngay sau khi loan báo con đường khổ nạn mình sắp đi, Đức Giêsu loan báo con đường dành cho người môn đệ. Môn đệ chỉ có một con đường, con đường của Thầy.

Thầy đã sống phận người với tất cả bấp bênh tăm tối, tôi có dám sống phận người của tôi trong niềm vui không?

Thầy đã chịu chết vì làm chứng cho sự thật, tôi có dám hiến mạng tôi vì Thầy và vì Tin Mừng không?

Thầy đã vượt qua đau khổ để vào vinh quang bất diệt, tôi có dám chọn con đường khiêm hạ và nghèo khó không?

“Người ta bảo Thầy là ai?”

Ta cần biết cái nhìn của con người hôm nay về Đức Giêsu.

Nhiều cái nhìn đúng nhưng chưa đủ.

Truyền giáo là giúp người ta biết đúng và đủ về Ngài. Không phải là cái biết lý thuyết trong sách vở, nhưng là cái biết thân tình của người môn đệ.

Cuộc sống của ta vén mở căn tính của Đức Giêsu.

Dung mạo của ta phải mang nét đặc trưng của Ngài.

Đức Giêsu đã nói: “Ai thấy Thầy là thấy Cha” (Ga 14,9).

Chúng ta ao ước nói: “Ai thấy tôi là thấy Đức Giêsu”.

Gợi Ý Chia Sẻ

“Đức Giêsu là ai?” Bạn hãy trả lời câu hỏi này cho một người bạn trẻ đang tìm hiểu đạo.

Tin là bước theo Đức Giêsu trên con đường khổ giá. Bạn có thấy theo Chúa là khó không? Đoạn Tin Mừng hôm nay có giúp bạn vác thập giá một cách an bình hơn không?

Cầu Nguyện

Lạy Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa,

Chúa đã làm người như chúng con, nên Chúa hiểu gánh nặng của phận người.

Cuộc đời đầy cạm bẫy mời mọc mà con người lại yếu đuối mong manh.

Hạnh phúc thường được trộn bằng nước mắt, và giữa ánh sáng, cũng có những bóng mờ đe dọa.

Lạy Chúa Giêsu,

Nếu có lúc con mệt mỏi và xao xuyến, xin nhắc con nhớ rằng trong Vườn Dầu Chúa đã buồn muốn chết được.

Nếu có lúc con thấy bóng tối bủa vây, xin nhắc con nhớ rằng trên thập giá Chúa đã thốt lên: Sao Cha bỏ con?

Xin nâng đỡ con, để con đừng bỏ cuộc.

Xin đồng hành với con, để con không cô đơn.

Xin cho con yêu đời luôn dù đời chẳng luôn đáng yêu.

Xin cho con can đảm đối diện với những thách đố vì biết rằng cuối cùng chiến thắng thuộc về người có niềm hy vọng lớn hơn. Amen.

18. Suy niệm của Lm Trần Bình Trọng.

QUA ĐAU KHỔ THÁNH GIÁ

TỚI VINH QUANG PHỤC SINH

Theo quan niệm Do thái thời bấy giờ, thì Đấng cứu thế phải là nhà lãnh đạo trổi vượt, một nhà cải cách xã hội tài ba, một tướng lãnh lừng danh, bách chiến bách thắng để có thể lật đổ ách thống trị của ngoại bang là người La mã đang cai trị họ thời vua Hêrôđê và đưa dân tộc họ lên hàng số một, làm bá chủ hoàn cầu. Ngay cả các tông đồ đã theo Chúa ba năm, nghe lời Người giảng dạy và chứng kiến phép lạ Người làm, cũng còn nuôi quan niệm sai lầm về Đấng Cứu Thế.

Tới lúc mà Đức Giêsu muốn biết xem người ta nói gì về Người khi hỏi các tông đồ: Người ta bảo Thầy là ai (Mc 8,27)? Sau khi họ thuật lại về việc người ta gán cho Thầy các ông là nhân vật nọ nhân vật kia như ông Gioan Tẩy Giả, ông Êlia hay một ngôn sứ nào đó trong Thánh kinh, thì Chúa muốn biết xem các tông đồ nghĩ Người là ai? Đối với Đức Giêsu, người ta bảo Người là ai không quan trọng cho bằng việc các tông đồ bảo Thầy của họ là ai. Phêrô đại diện các tông đồ trả lời: Thầy là Đấng Kitô (Mc 8,29).

Mặc dù nhận ra Thầy mình là Đấng Kitô, thánh Phêrô vẫn chưa hiểu đủ về bản tính của Đấng Kitô cũng như vai trò và sứ mệnh của Người. Nói cách khác tầm hiểu biết của thánh Phêrô về Đức Kitô lúc đó còn giới hạn và mơ hồ. Do đó các tông đồ không thể nào quan niệm được rằng Thầy mình có thể chịu đau khổ. Đối với các tông đồ thì việc Thầy họ chịu đau khổ không thể nào chấp nhận được. Vì thế ông Phêrô lên tiếng can ngăn Thầy mình khỏi phải chịu đau khổ. Ông muốn Đấng Kitô đi theo đường lối của loài người, nghĩa là tránh cảnh khổ nạn. Sở dĩ có sự can ngăn như thế là vì các tông đồ chưa hiểu lời Thánh kinh. Các ông chưa biết rằng người đầy tớ của Giavê chịu đau khổ mà ngôn sứ Isaia nói đến hôm nay ám chỉ về Đấng Cứu thế, là Thầy của họ. Và trong Phúc âm hôm nay Chúa Giêsu cũng áp dụng lời tiên tri về người đầy tớ của Giavê về cho Người.

Để loại bỏ những quan niệm sai lầm về Đấng Cứu thế, Đức Giêsu lập tức tiên báo về cuộc khổ hình và tử nạn mà Người sẽ phải chịu. Đây là lần thứ nhất Đức Giêsu tiên báo về cuộc khổ nạn thập giá của Người. Và sau này Chúa còn tiên báo hai lần nừa về của khổ nạn của Người. Như vậy Đức Giêsu cho ta thấy điều nghịch lí của đạo Kitô giáo. Khi ta chịu đau khổ thiệt thòi vì yêu mến Chúa, ta sẽ tìm được sự sống mới trong Chúa. Do đó mà thánh Augustinô mới đặt bút viết: Đâu có yêu, đó không còn đau khổ. Giả như có khổ đi nữa, người ta lại chấp nhận đau khổ vì yêu.

Chìa khoá để mở cửa cho sự hiểu biết và đương đầu với đau khổ là ý nghĩa và mục đích. Chúa Cứu thế đến để đem lại ý nghĩa và mục đích cho đau khổ và sự chết. Người tín hữu không chuốc lấy đau khổ chỉ vì muốn khổ, như là một đường cùng không lối thoát. Nếu dừng lại ở đau khổ thánh giá là ta chọn đi con đường cụt và ta sẽ bị bế tắc. Nói như vậy có nghĩa là khi gặp những đau khổ về phần xác như bệnh tật hoặc phần tinh thần như những lo âu, sợ hãi, ta cần đi bác sĩ và uống thuốc chữa trị. Bác sĩ và thuốc men là dụng cụ Chúa dùng để chữa trị bệnh tật loài người. Đôi khi Chúa còn chữa trị bệnh tật loài người cách trực tiếp mà không cần đến bác sĩ hay thuốc men. Cách thế chữa trị như vậy, được gọi là phép lạ. Vậy khi phải mang bệnh tật về phần xác hay tinh thần và sau khi đã tìm cách chữa trị, mà vẫn không thuyên giảm, ta cần học chịu đựng vì yêu mến Chúa, để được tham dự vào cuộc khổ nạn của Chúa, thì việc chịu đựng mới mang lại ý nghĩa và ơn ích thiêng liêng. Chịu đau khổ như vậy vì lòng mến Chúa, thì được kết hiệp với cuộc khổ nạn của Chúa để cầu cho phần rỗi linh hồn. Ta cũng cần tiếp tục cầu nguyện, xin Chúa ban thêm đức tin và sức mạnh để ta có thể chịu đựng vì yêu mến Chúa.

Mang lấy gánh nặng của cuộc sống đòi hỏi người tín hữu một đức tin kiên trì và một tâm hồn tín thác vào Chúa. Chỉ bằng việc suy niệm về cuộc khổ nạn của Chúa, bằng kinh nghiệm đau khổ cá nhân và bằng lời cầu nguyện, ta mới có thể cảm nghiệm được ý nghĩa của lời Chúa: Hỡi những ai đang vất vả và mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng (Mt 11,28).

Lời cầu nguyện xin cho được chịu đau khổ vì yêu mến:

Lạy Chúa Giêsu là Thiên Chúa!

Chúa đã chấp nhận đau khổ vì yêu mến loài người.

Con xin dâng lên Chúa những đau khổ của con

về phần xác, phần hồn và tinh thần:

những nỗi lo âu, sợ hãi, cơ đơn và buồn chán

những hiểu lầm và nghi kị,

những thiệt thòi và tủi hổ của đời con.

Xin Chúa đến ở bên con và đồng hành với con

để biến đổi đời sống con. Amen.

19. Chú giải mục vụ của Jacques Hervieux.

LỜI TUYÊN XƯNG ĐỨC TIN CỦA PHÊRÔ (8,27-30)

Chúa Giêsu đưa các môn đệ đi rất xa (c.27a). Chỉ cần nhìn sơ trên bản đồ Palestin thời đó là chúng ta cũng rõ: Xêdarê Philipphe nằm tuốt ở mạn bắc, cận dòng sông Giođan và chân núi Hecmon. Đây là một vùng xa xôi giữa miền đất dân ngoại.

Lợi dụng cuộc đi bộ đường dài với các bạn hữu, Chúa Giêsu đã thăm dò ý kiến của họ về Ngài (c. 27b). Các từ ngữ được dùng ở đây đều nhằm mục đích đó. Chính nhờ đồng hành với Chúa Giêsu, lắng nghe Ngài đặt ra câu hỏi mà chúng ta có thể hiểu được khuông mặt đích thực của Ngài hơn. Câu đầu tiên Ngài hỏi các môn đệ là: “Người ta bảo Thầy là ai?” (c. 27c). đây đúng là một sự thăm dò ý kiến. Trước hết cần phải biết quảng đại quần chúng nghĩ gì về thân thế của Thầy. Đây là một câu hỏi trắc nghiệm thú vị có thể tiết lộ cho thầy được nhiều điều. Trước đây Maccô đã vén lên bức màn cho thấy những ý nghĩ đang lưu hành trong quần chúng Do Thái từ tầng lớp thấp nhất đến tầng lớp cao nhất (x. 6,14- 16). Từ quần chúng vô danh đến ngay chính bản thân Hêrôđê Antipa cũng đưa ra những ý kiến tương tự các ý kiến hiện đang được chính miệng các môn đệ nói ra. Đối với một số người, Chúa Giêsu được đồng hoá với Gioan Tẩy Giả hoặc Êlia; đối với một số khác, Chúa Giêsu được đồng hoá với một trong các tiên tri thời xưa (c. 28). Cái nhìn của quảng đại quần chúng này quả thật thú vị bởi vì nó liệt Thầy vào hàng một vị Mêsia. Tuy nhiên đây cũng chỉ là cái nhìn của người mù ở Betsaiđa lúc mới được Chúa chữa sơ, nghĩa là anh ta vẫn còn thấy lờ mờ (x. 9,23b-24a). Nhận biết Chúa Giêu là vị đại tiên tri như thế cũng rất có giá trị bởi vì đó là bước đầu tiên của của đức tin. Tuy nhiên điều này vẫn còn xa vời chân lý. Vì thế mà Chúa Giêsu đã yêu cầu nhóm môn đệ nói lên rõ ràng hơn về thân thế của Ngài (c. 29).

Và ngay lúc này đây đặt ra cho các môn đệ câu hỏi về thân thế của Thầy họ quả thực là khẩn thiết. Từ nhiều tháng nay, có lẽ khoảng một hai năm rồi, nhóm môn đệ này đã theo nghe Chúa Giêsu giảng dạy cũng như đã chứng kiến các hành vi và cử chỉ của Ngài. Họ đã sát cánh bên Ngài trải qua một cuộc hải hành không chỉ thuộc bình diện địa lý mà còn thuộc bình diện thiêng liêng nữa. Bẫy giờ đã đến lúc thuận tiện để vị Sư Phụ trắc nghiệm các đệ tử sau một thời gian đào tạo đức tin lâu dài cho họ. Chúng ta hoàn toàn có quyền tự hỏi liệu đám bạn hữu Chúa Giêsu có còn bị nhốt kín trong sự “mù loà” mà Ngài từng trách cứ không? (8,17- 18). Liệu họ đã có một nhận thức rõ rệt hơn về thân thế đích thực của Thầy mình chưa?

Câu trả lời của Phêrô vang dội như một tia chớp sáng ngời trong bầu trời tăm tối (c. 29). Cuối cùng thì đây là một lời tuyên xưng đức tin rành mạch. Qua miệng người huynh trưởng, đám môn đệ chứng tỏ được rằng cuối cùng thì họ đã nhận ra được thân thế chính xác của Chúa Giêsu: Ngài là “Đấng Mêsia” nghĩa là Đặc Sứ của Thiên Chúa, Ngài đã được Thiên Chúa chính thức “thánh hiến” để dứt khoát thiết lập Nước Thiên Chúa trên trần gian này.

Maccô để cho phần đầu của Phúc Âm đạt tới tột đỉnh ở đây. Từ đầu tác phẩm, ông không ngừng chứng tỏ Chúa Giêsu là Đấng đã dùng lời nói và hành động của mình để đặt ra câu hỏi này: “Người này là ai vậy?”. Lũ ma quỷ thì đưa ra được câu trả lời rất hay (1,24; 3,,11 v.v…) còn đám người đương đại thì vẫn u mờ tăm tối. Trong tư tưởng của dân Do Thái thời đó, Đấng Mêsia mang khuôn mặt một nhà giải phóng chính trị hơn là một nhà giải phóng tôn giáo. Vì đó trước hết phải phục hồi các quyền lợi của Thiên Chúa bằng cách đẩy bọn Rôma chiếm đóng ra khỏi bờ cõi vương quốc của Đavit, phải mang lại cho dân lợi lộc kinh tế dồi dào, phải tiêu diệt mọi đớn đau bệnh hoạn. Đây phải là vị anh hùng “trần gian” khét tiếng (x.Mt 4,1-11). Như người ta đã thấy, chính Chúa Giêsu đã từng phải điều chỉnh những niềm kỳ vọng lệch lạc về thân thế Ngài sau mỗi khi Ngài đã thực hiện các phép lạ cũng như gặt hái thành công qua việc chiến thắng sự Dữ và sự Chết. Ngài phải không ngừng đưa các thính giả ra khỏi hình ảnh lầm lạc về một Đấng Mêsia thuần tuý trần gian đến để phục hồi cho Israel “thiên đàng đã mất”.

Maccô đã nhấn mạnh thái độ dè dặt của Chúa Giêsu trước những sự đợi chờ quá trần tục này: Ông đã lặp đi lặp lại không ngớt ‘bí mật về Đấng Mêsia”. Và không gì phải ngạc nhiên khi thấy ở đây một lần nữa ông lại đề cập đến “bí mật” này (c. 30). Đây chính là sự câm nín mà Chúa Giêsu từng truyền bảo lũ quỷ (1,25.43- 44), đám bệnh nhân được chữa lành (5,43: 7,36), và ngay cả các môn đệ nữa. Lý do thật đơn giản. Phải theo dõi tiếp trình thuật, quan sát đám môn đệ thời đó, cũng như các độc giả mà họ đại diện, ta mới có thể có được một ý niệm đúng đắn về Chúa Giêsu là loại Mêsia nào. Chỉ nhờ cuộc tử nạn và Phục Sinh của Ngài, Chúa Giêsu mới có thể ban cho những kẻ theo Ngài mãi tới lúc đó, phương cách nắm bắt được chân lý toàn vẹn về mầu nhiệm của thân thế và sứ mệnh Ngài.

Tuy nhiên, chúng ta tin rằng cùng với lời tuyên xưng đức tin của Phêrô, ngưỡng cửa tưởng như không thể vượt đó đã bị vượt qua. Đức Giêsu Nadaret không thể bị giản lược và hình ảnh chung chung người ta có về Ngài: một người như mọi người (x. 6,3), Ngài cũng không thể bị giản lược vào hình ảnh một lương y nổi tiếng có tài năng khiến mọi người kinh ngạc (x. 37- 11); đồng thời cũng không thể đồng hoá Ngài với khuôn mặt một vị tiên tri (x. 6,4- 6). Ngài không phải chỉ là một tiên tri mà Ngài chính là “Đấng Kitô” (từ Hy Lạp này được dùng để dịch tước hiệu “Mashia” trong tiếng Hy Bá có nghĩa là Đấng Mêsia).

Đóng vai kiểu mẫu đức tin tông đồ ở đây, đức tin của Phêrô sẽ là đức tin của Giáo Hội sơ khai sau cuộc Phục Sinh của Ngài. Chúa Giêsu “Kitô” sẽ được công bố là Đấng đem lại ơn cứu độ cho tất cả mọi người: Do Thái cũng như dân ngoại. Ngài giải phóng họ triệt để khỏi mọi tôi ác nặng nề để từ đây họ có thể hợp thành một “nhân loại mới” (Ep 2,13- 22).

LẦN ĐẦU TIÊN LOAN BÁO CUỘC KHỔ NẠN (8,31-33)

Điều mà bây giờ Chúa Giêsu bắt đầu nói với các môn đệ không phải là một lời giảng dạy bổ sung mà là một giáo huấn đích thực thiết lập nên một bước khởi đầu mới mẻ. Trường hợp ở đây quả thực tiện lợi. Các môn đệ, đứng đầu là Phêrô, vừa mới nhìn nhận Thầy mình là Đấng Mêsia (8,29). Lẽ ra khám phá mới có được này phải cho phéphọ nghĩ ngơi chút ít.

Thế nhưng Chúa Giêsu đã quyết định cách khác. Ngài bắt đầu nói ngay cho họ biết là Ngài là Đấng Mêsia sẽ chịu đau khổ (c. 31a). Lời Chúa Giêsu dùng đã được Ngài chọn lựa một cách khôn ngoan. Kể cũng lạ, Ngài không sử dụng tước hiệu “Kitô” mà họ vừa gán cho Ngài, bởi vì tước hiệu này vẫn còn quá mơ hồ trong tâm trí họ, nhằm đến các mục đích chính trị hơn là thiêng liêng. Ngài chủ ý sử dụng tên gọi nổi tiếng “Con Người” mà ngay từ nhận cho mình (x. 2,10 v.v…). Từ ngữ này nhắc nhở đến một nhân cách dấn thân sâu xa và mầu nhiệm của Thiên Chúa cũng như vào ý định Chúa muốn cứu độ trần gian (Đnl 7,13- 14). Tuy nhiên nét mới mẻ ở đây là “Con người” được chỉ định mang lại chiến thắng của Vương Quốc Thiên Chúa trên sự Dữ lại phải chịu khổ nạn và chết đi. Chúng ta cần ghi nhận rằng số phận của ” Con Người” ấy sẽ không phải là một sự kiện mà người ta không biết được cứu cánh của nó. Thành ngữ vắn gọn “sẽ phải” muốn ám chỉ kín đáo sự đau khổ và sự chết của Đấng Mêsia nằm trong ý định khôn dò của Thiên Chúa là muốn cứu độ nhân loại (x. Lc 24,25- 27).

Như thế, Chúa Giêsu đặt các môn đệ trước một mầu nhiệm vượt quá tầm hiểu biết của họ. Ngài nói cho họ về cái chết không thể nào tránh khỏi của Ngài, đồng thời xác định cho họ đôi điều về cái chết này. Đây là cái chết do những kẻ tội lỗi gây ra, nó mặc lấy hình thức bị các vị cầm quyền tôn giáo của dân Chúa chọn khai trừ của cộng đoàn Do Thái (c. 31b). Đặc biệt là Chúa Giêsu loan báo Ngài sẽ chịu một cái chết hung bạo, nghĩa là sẽ bị người ta giết (c. 31c). Theo quan niệm đương thời về Đấng Mêsia thì tất cả điều này hoàn toàn không thể chấp nhận được. Trong tâm trí người Do Thái thời đó, Đấng Mêsia sẽ không thể nào bị đau khổ, chứ đừng nói là sẽ bị giết chết. Ngài phải là một “mẫu” người đặc biệt gần như là thần thoại, được thiên Chúa miễn trừ cho số phận hay chết vốn là thuộc tính chung cho cả loài người. Người ta chờ đợi Ngài sẽ đến qua cuộc trở lại của Êlia, vị tiên tri có khuôn mặt thần thoại là được Chúa lôi về trời mà không phải trải qua cái chết (2V 2,1-18; Mc 6,15; 8,28). Chúa Giêsu đã đưa ra lời phủ nhận tính cách thần thoại của một kiểu mẫu Mêsia lý tưởng, thần bí thoát khỏi mọi quy luật nghiệt ngã của bản tính loài người. Chắc hẳn ngài cũng có phụ hoạ thêm vào lời loan báo về các chết của Ngài một động cơ giúp các môn đệ hy vọng: đó là Ngài sẽ Phục Sinh (c. 31c). Tuy nhiên ngay lúc này, thì lời hứa ấy chỉ được các môn đệ nghe một các rất hời hợt. Dù sao thì lần đầu tiên này về một cái chết dữ dằn đang chờ đón Ngài cũng làm các môn đệ thất điên bát đảo. Maccô đã nêu bật tính chất rõ ràng không úp mở trong các lời nói của Chúa Giêsu (c. 32a).

Phần đầu của Phúc Âm đã đóng lại (1,1-8,30). Trong phần này cái chết của Chúa Giêsu xem ra chỉ thoáng hiện nơi một cuộc tạo phản có thể xẩy ra do phía các địch thủ Ngài (3,6). Còn giờ đây thì Chúa Giêsu mặc khải rõ số phận đang chờ đón Ngài. Chuyện này hẳn làm cho các môn đệ choáng váng. Người ta thấy điều đó qua sự bác bỏ thẳng thừng của người đứng đầu trong họ (c. 32b). Thủ lãnh nhóm Mười Hai, người mà mới thay mặt họ tuyên xưng đức tin vào Đấng Mêsia giờ đây đang dùng hết sức mình phản kháng lại. Ông còn dám la rầy Thầy mình: bởi vì làm sao có thể đi theo một người tự ý gieo mình vào cái chết? Có lý do để ông mất niềm tin đó chứ!

Tuy nhiên Chúa Giêsu vẫn không muốn để cho các môn đệ rơi vào ảo tưởng về sống phận mà họ mường tượng về Ngài. Quang cảnh được ghi nhận ở đây sống động đến độ làm ta ngỡ ngàng giống hệt bức tranh tả chân (c. 33a). người ta như trông thấy rõ diễn biến. Theo thói quen của các đạo sư Do Thái thời ấy, Chúa Giêsu bước đi trước các môn đệ Ngài, họ đi theo sau cách Ngài chừng vài bước. Vì thế Ngài đã phải quay quắt lại để khiển trách Phêrô và ban ông. Lời Ngài quở trách thực sự rất gay gắt (c.33b) có thể nói được rằng đây là một thứ mệnh lệnh. Lập tức vị tông đồ phải trở về vị trí của mình tức là lùi lại phía sau Thầy mình. Ông không có quyền thay thế cho Chúa Giêsu là người duy nhất biết được con đường mình phải đi. Và Chúa Giêsu đã không ngần ngại gán cho người thủ lãnh nhóm bạn hữu Ngài tên gọi “Satan”. Trong tiếng Hy Bá, Satan có nghĩa rõ ràng là “kẻ đối nghịch” nghĩa là kẻ xúi giục con người bất tuân ý Thiên Chúa. Ở đây qua bản thân Phêrô, Chúa Giêsu đã vạch mặt tên cám dỗ là kẻ đã nổi lên chống lại Ngài ngay khi Ngài vừa bắt đầu thi hành sứ mệnh của mình (x. 1,12- 13).

Sự tình có vẻ quá bi đát. Thực ra qua việc bác bỏ mãnh liệt ý định của Chúa Giêsu, Phêrô chỉ muốn diễn tả niềm hy vọng hoàn toàn mang tính trần tục được dân Do Thái thời đó cưu mang trong lòng: đó là Đấng Mêsia phải là một kẻ chiến thắng, khổ đau và chết chóc không thể làm gì được Ngài. Và để đưa các môn đệ vào lại chính lộ, Chúa Giêsu buộc phải tiêu huỷ giấc mộng ngu dốt của họ về Ngài: tư tưởng của họ thuộc về con người chứ không thuộc về ta (c. 33c).

Có một hố sâu phân cách giữa ý định của Thiên Chúa và những tầm nhìn của loài người. Sẽ còn phải lâu lắm mới vượt qua nổi “điều kỳ chướng” về cái chết của Đấng Mêsia. Trong khi Maccô thảo ra đoạn văn này, Giáo Hội sơ khai vẫn còn luôn luôn đụng phải viên đá vấp phạm của sứ điệp Kitô giáo: “Phần chúng tôi, chúng tôi công bố Đức Kitô chịu đóng đinh, đó là điều kỳ chướng đối với dân Do Thái, là sự điên rồ với dân ngoại” (1Cr 1,23).

Người ta có thể hiểu được tại sao Maccô sẽ dành trọn vẹn phần thứ hai của Phúc Âm (8,31 – 16,20) chinh phục độc giả của ông về cái nhìn then chốt trong đức tin Kitô giáo: đó là Thiên Chúa đã muốn cho Đấng Mêsia của Ngài mặc lấy trọn vẹn thân phận loài người, kể cả việc phải chịu đau khổ và chết, trước khi ban cho Đấng Mêsia ấy, qua cứu cuộc Phục Sinh, quyền xét xử và cứu độ toàn cầu vào thời gian chung cục.

THEO CHÚA GIÊSU BẰNG CÁCH HIẾN DÂNG MẠNG SỐNG CHO NGÀI (8,34-9,1)

Chúa Giêsu đang kêu gọi đám đông theo làm môn đệ Ngài (c. 34a). Có lẽ nào Maccô quên rằng Chúa Giêsu hiện đang ở trong vùng đân dân ngoại và chung quanh Ngài chỉ có các môn đệ mà thôi? (x. 8,27). Điều này không chắc. Nếu ở đây Maccô nối kết “đám đông” vào vòng đai thân hữu của Chúa Giêsu là chính vì ông nghĩ đến “giáo huấn mới mẻ” của Chúa về việc Ngài cần phải chết có liên quan đến quần chúng độc giả của ông. Tác giả Phúc Âm đã lợi dụng Lời loan báo đầu tiên về cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu (8,31) để đựa vào đây một bài giáo lý hợp thời nói về cách thức các Kitô hữu được kêu gọi bước theo Thầy mình (c.34b). Lời mời gọi này quả thật khá khó nghe. Và ở chỗ này Phúc Âm đã sử dụng những từ ngữ đáng gây kinh ngạc! Thập giá là thứ nhục hình quân Rôma sẽ bắt Chúa Giêsu chịu. Vào lúc này đây, Maccô không thể nào biết được Chúa sẽ bị chết kiểu đó. Vì thế, khi soạn lại lời khuyên này và quãng ba mươi lăm đến bốn mươi năm sau khi Chúa Giêsu chịu đóng đinh, hẳn thành ngữ “vác thập giá để theo Ngài” mang một ý nghĩa cực kỳ sâu đậm. Giáo Hội Rôma hiện đang trải qua cơn bách hại. Việc tử đạo, hay nói chính xác hơn, con đường thập giá, đang chờ đón tất cả mọi Kitô hữu đang bị dẫn tới cùng giống y hệt số phận Đấng Mêsia. Bất cứ ai muốn thức sự theo chân Chúa Kitô thi chắc chắn đều bị đòi hỏi phải từ bỏ mình hoàn toàn.

Lý do Chúa Giêsu đưa ra bao hàm một nghịch lý kỳ lạ! (c. 35). Từ chối không dâng hiến mạng sống mình cho Chúa Kitô- tức là cho Phúc Âm- thì đồng nghĩa với đánh mất đi chính mình. Đối với mỗi người, “ơn cứu độ” không hệ tại ở việc cứu vớt cuộc sống hiện tại của mình.

20. Chú giải của Noel Quesson.

Các nhà chú giải Tin Mừng theo Thánh Maccô đều đồng ý công nhận rằng, trong bài Tin Mừng mà chúng ta sắp suy niệm là đỉnh cao của Tin Mừng ông. Cho tới đây, Maccô mới viết trình thuật để minh chứng rằng mọi người vẫn còn thắc mắc về con người đích thực của Đức Giêsu, vị ngôn sứ thuộc Nagiarét:

“Đây là gì?” (Mc 1,27).

“Chúng tôi chưa bao giờ thấy như vậy” (Mc 2,12).

“Ông ấy mất trí rồi ” (Mc 21).

“Thực sự ông này là ai ” (Mc 4,41).

“Tất cả mọi người đều kinh ngạc” (Mc 5,20).

“Bởi đâu ông ta được như thế” (Mc 6,2).

“Đó là ma” (Mc 6,49).

“Ông ấy làm việc gì cũng tốt đẹp cả” (Mc 7,37).

Vâng, sự nhận biết Thiên Chúa trong Đức Giêsu, cũng như sự nhận biết toàn diện con người phát triển dần dần từ trong tâm hồn con người tự do, những con người đã cùng sống và quan sát người. Con đường Đức tin luôn tiệm tiến. Tôi có tiến lên không?

Đức Giêsu và các môn đệ của Người đi tới các làng xã vùng Xêdarê Philípphê. Dọc đường, Người hỏi các môn đệ:

Đó là làng Xêdarê Philípphê: Maccô xác định vị trí rõ ràng và chính xác. Tin Mừng không phải được viết trên không. Vùng này, dưới chân núi Hécmôn, là một nơi xanh tươi nước chảy trên những sườn đồi có tuyết: Nguồn của sông Giođan phát xuất từ đó. Đức Giêsu đã dẫn dắt các bạn hữu đến giữa cảnh thiên nhiên, xa các đám đông. Người biết Người muốn gì? Người sẽ trắc nghiệm đức tin của các môn đệ.

Người ta nói Thầy là ai?

Đây là một cuộc thăm dò dư luận. Những tổ chức Sofrès và Ifop đã dành thời giờ của họ để thăm dò xem ta nghĩ gì về những nhân vật chính trị, về trường học, về một sản phẩm nào đó. Ngày nay, chúng ta có chấp nhận câu hỏi trên đây của Đức Giêsu không?

Các ông đáp: “Họ bảo Thầy là ông Gioan Tẩy Giả, có kẻ thì bảo là ông Êlia, kẻ khác lại cho là một ngôn sứ nào đó.

Vậy thì dư luận cũng khá nhất quán: Người ta cho rằng Đức Giêsu là một vĩ nhân, là Gioan Tẩy giả đã sống lại thì cũng không phải là việc thường, là ngôn sứ Êlia, kẻ phải đến liền trước Đấng Mêsia. Do đó Đức Giêsu được coi như là phát ngôn viên của Thiên Chúa. Ngày nay, đa số người ta cũng vẫn coi Đức Giêsu như là một nhân vật siêu phàm. Ngu dốt thì mới quả quyết ngược lại, hay xem thường Người. Không một người hiểu biết nào đã học lịch sử mà lại có thể chối bỏ sự kiện Đức Giêsu Nagiarét đã ghi dấu ấn của Người lên lich sử hành tinh chúng ta.

Người lại hỏi các ông: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?

Ngày nay, câu hỏi này vẫn còn đặt ra cho chúng ta: Người ta nói gì về Đức Giêsu chung quanh chúng ta?

Không nên trả lời bằng những câu sẵn có. Các bạn hãy nhìn xem những gì các bạn đã sống trong tuần qua, nơi khu phố, trong công viên, trong những ngày nghỉ “Giêsu? Tôi có bao giờ nghĩ nói về ông ấy”.

Giêsu ư? Ta đâu cần biết tới. Trong một khóa huấn luyện thể thao mà người ta hoàn toàn không để ý đến một yếu tố luân lý sơ đẳng nào, tôi đã tự hỏi xem có phải mình đã bất bình thường, khi không làm như những người khác? Nhưng còn bạn, bạn nói gì về tôi? Trong nhóm người kinh doanh, giải trí, làm việc, bạn có bị ‘người ta hạch hỏi về nội dung đức tin của mình không?’ Có thể chúng ta không thích điều đó lắm, vì nó quá bó buộc.

Có thể chúng ta sống một cách nào đó mà không ai nảy ra ý kiến đặt câu hỏi như trên. Điều này không đáng lo ngại sao? Đức tin của chúng ta nơi Đức Giêsu không làm thay đổi gì cuộc sống chúng ta sao? Như Thánh Giacôbê đã nghiêm khắc nhắc nhở chúng ta? (2,14-18).

Ông Phêrô trả lời: “Thầy là Đấng Kitô”

Nói lên quan điểm của người khác chưa đủ. Mỗi người chúng ta cần phải trả lời. Chúng ta nói lên lời “Tuyên xưng đức tin” nào?

Do đó, nhóm Mười Hai mà Thánh Phêrô đứng đầu, sẽ trả lời vượt xa hơn những câu trả lời thông thường của quần chúng. Họ là một thiểu số rất nhỏ. Không ai nghĩ ra một điều như thế, chỉ trừ nhóm này.

Tước vị “Christos” “Meshiah” trong tiếng Hêbrơ có một nghĩa rất mạnh như biến cố bùng nổ tại Israel: Đó là Đấng được Thiên Chúa xức dầu. Đó là Đấng được mọi người mong đợi để đến “hoàn tất lịch sử”. Đấng các Ngôn sứ đã báo trước, Đấng sẽ cho cuộc sống con người có ý nghĩa.

Đức Giêsu liền cấm ngặt các ông không được nói với ai về Người

Bản kịch đã làm nhẹ bản văn Hy Lạp. Đúng ra phải dịch là: ‘Chúa đã la mắng họ để họ đừng nói điều đó với ai cả’. “Bí mật về Đấng Mêsia” là một trong những đề tài của Maccô. Đức Giêsu đã luôn yêu cầu người ta đừng công bố tước vị của Người (Mc 1,34; 1,44-45; 3,11; 5,43; 7,33-36; 8,26; 8,30).

Đó không phải là không công nhận tước vị Mêsia mà Thánh Phêrô gán cho Người, nhưng chỉ là đề cao cảnh giác để người ta đừng tiết lộ Người quá sớm. Thái độ chờ đợi Đấng Mêsia nơi người Do Thái đã quá hàm hồ. Lát nữa chúng ta sẽ nhận ra điều này, khi nghe Phêrô nói. Thiên Chúa không giống như chúng ta thường mong đợi. Thiên Chúa không tìm kiếm vinh hiển, quyền năng, thành công theo nghĩa của loài người. Thiên Chúa ưa ẩn dật. Thiên Chúa thích thinh lặng. Thiên Chúa lánh mình sau tạo vật của Người. Thánh Phaolô sẽ nói rằng: “Người là mầu nhiệm được bao phủ trong im lặng” (Rm 16,25).

Rồi Người bắt đầu dạy cho các ông biết Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày, sống lại

Đây là khúc ngoặt lớn của Tin Mừng Đức Giêsu đang rời xứ Galilê, bắt đầu tiến lên Giêrusalem, và biết rõ mình sẽ bị giết chết tại đó. Thập giá đã hiện ra trước Đấng Mêsia của Thiên Chúa.

Maccô sẽ kể lại cho ta ba lần Chúa loan báo rõ ràng cuộc thương khó của Người (Mc 8,31; 9,31; 10,33). Đây là cớ vấp phạm cho con người.

Về mặt lịch sử, chắc chắn Đức Giêsu đã phân tích rất kỹ những phản ứng bất lợi đối với lời rao giảng của Người: Người đã thấy trước sự kết thúc số phận đời mình và Người đã ý thức tự mình đối chất với nhưng nhà lãnh đạo Do Thái Người kể ra ở đây ba nhóm người làm nên Thượng Hội Đồng, là cấp xét xử tôn giáo cao nhất bây giờ. Người bắt đầu nói với họ rằng cần phải Người bắt đầu nói với họ, Người sẽ bị đau khổ, ruồng bỏ, trục xuất ra khỏi dân tộc và phải chết dữ dằn. Mỗi lần Đức Giêsu loan báo với họ về biến cố đó. Người đều khẳng định về sự Phục sinh của Người. Nhưng lạ thay, các tông đồ hình như không bao giờ nghe được lời cuối này.

Chúng ta cũng vậy, chúng ta không bao giờ nghe Chúa nói đến cùng. Do đó, chúng ta tiếp tục bị khựng lại trước sự dữ trên thế gian, trước những thử thách riêng của ta: Như thể thế gian và những thử thách đó thắng thế luôn mãi, như thể sự Phục sinh, sự sống đời đời không thể có bao giờ. Chúng ta cần thú nhận điều đó.

Người nói rõ điều đó, không úp mở

Tiếc thay, một lần nữa bản dịch lại làm nhẹ bớt bản văn Hy Lạp. Lẽ ra phải dịch như sau: “Một cách quả quyết, Đức Giêsu đã nói Lời”. Lạy Chúa, con cần biết như Maccô đã nói, Chúa đã phát biểu những lời đó “một cách quả quyết” không chút sợ hãi, đầy can đảm. Con cần biết rằng, Chúa là Lời Thiên Chúa qua kiểu nói mạnh mẽ này (Người đã nói lên lời Chúa). Con đoán rằng, nhân cách của Chúa không chỉ là nhân cách của nhà hiền triết, một bậc Thầy, một vĩ nhân, nhưng là sự “hiện diện” của Ngôi Lời Thiên Chúa. “Từ khởi thủy đã có Ngôi Lời” (Ga 1,1) “Người nói Lời cách quả quyết”. Con Người phải bị giết và sống lại; chữ “phải” này làm chúng ta chìm đắm trong “ý định đời đời và không hiểu được” của Thiên Chúa.

Lạy Chúa, Chúa thấy cái chết và sự Phục sinh của Chúa hoàn toàn khác hẳn với biến cố ngẫu nhiên. Đó là chương trình mầu nhiệm của Chúa Cha. Chúng ta cũng cần lưu ý, đây là kinh “Tin kính” đầu tiên, từ chính môi miệng Đức Giêsu thốt lên.

Ông Phê-rô liền kéo riêng Người ra và bắt đầu trách Người. Nhưng khi Đức Giê-su quay lại, nhìn thấy các môn đệ, Người trách ông Phê-rô: “Xa-tan! lui lại đàng sau Thầy!”

Do đó, lệnh truyền giữ bí mật không phải là vô ích.

Mặc dù vừa gán cho Thầy mình tước vị đẹp đẽ, nhưng Phêrô đã không hiểu gì cả. Ông vẫn đợi một Đấng Mêsia vinh quang, chiến thắng theo kiểu loài người, một Đấng Mêsia hoạt động chính trị, một nhà giải phóng trần gian.

Còn chúng ta thì sao? Không phải chỉ đọc kinh “Tin kính” thật đúng là đã đủ. Những từ đúng nhất cũng có thể hàm chứa sai lầm, và những từ không đúng lắm cũng có thể diễn tả chân lý. Các bạn tin ở Đấng Mêsia nào? Có phải Đấng Mêsia của Thánh Phêrô ngày đó không? Con người do trời sai đến để tái lập cách kỳ diệu trật tụ dưới thế gian này? Con người mà chúng ta có thể trút đổ vào tay người đó những trách nhiệm của chúng ta?

Vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người.” Rồi Đức Giê-su gọi đám đông cùng với các môn đệ lại. Người nói với họ rằng: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy

Đức Giêsu kiên quyết loan báo thập giá cho Phêrô. Liền sau đó, Người cũng loan báo điều đó “cho chúng ta”, cho các môn đệ của Người, sau khi đã hỏi: “Anh em nói Thầy là ai?” Người hỏi: “Anh em nói anh em là người thế nào?”. Anh em cho cuộc sống của mình ý nghĩa nào? Sự sống được ban cho anh em để làm gì? Để giữ nó ư? Để cho nó ư? Để yêu thương? Hay để làm gì?

Sưu tầm

Post Views: 701

Từ khóa » Suy Niệm 24 Giờ Khổ Nạn