Các Ma Túy Dạng Kích Thích được Sử Dụng Phổ Biến Hiện Nay

Ma túy kích thích dạng Amphetamine Ma túy kích thích dạng Amphetamine có một số loại gồm: Amphetamine Amphetamine là chữ viết tắt từ công thức hóa học alpha-methylphenethylamine, là một hợp chất có 2 đồng phân đối hình và có tính chất kích thích hệ thần kinh trung ương. Đây là một loại thuốc được kê toa ở nhiều quốc gia. Trong y khoa, Amphetamine được sử dụng trong điều trị rối loạn tăng động giảm chú ý, chứng ngủ rũ, béo phì và trước đây được dùng để điều trị nghẹt mũi và trầm cảm, tăng cường thành tích thể thao và nhận thức. Amphetamine hiện nay được sử dụng bất hợp pháp cho mục đích giải trí và dùng như một chất kích thích tình dục và gia tăng khoái cảm. Amphetamine có thể sử dụng bằng đường uống, hít và đôi khi được sử dụng bằng đường tiêm chích.

Amphetamine dạng thuốc Ở liều điều trị, Amphetamine gây ra các hiệu ứng cảm xúc và nhận thức như sảng khoái, thay đổi ham muốn tình dục, tăng sự tỉnh táo và kiểm soát nhận thức được cải thiện. Nó gây ra các hiệu ứng vật lý như cải thiện thời gian phản ứng, chống mệt mỏi và tăng sức mạnh cơ bắp. Liều lớn hơn của Amphetamine có thể làm suy giảm chức năng nhận thức và gây tiêu cơ vân. Nghiện là một nguy cơ nghiêm trọng khi sử dụng Amphetamine giải trí ở liều cao, thường không xảy ra khi sử dụng trong y khoa với liều điều trị. Liều rất cao có thể dẫn đến rối loạn tâm thần (ví dụ: ảo tưởng và hoang tưởng) hiếm khi xảy ra ở liều điều trị. Liều giải trí thường lớn hơn nhiều so với liều điều trị theo quy định và có nguy cơ tác dụng phụ nghiêm trọng hơn nhiều.

Methamphetamine Methamphetamine có cấu trúc và có nhiều đặc tính tương tự như Amphetamine và cũng có 2 đồng phân đối hình. Methamphetamine là một chất kích thích hệ thần kinh trung ương mạnh, trong y khoa có thể được chỉ định điều trị cho chứng rối loạn tăng động giảm chú ý và béo phì nhưng rất ít khi được dùng do nguy hiểm và có hiệu quả kém. Methamphetamine Ở liều thấp đến trung bình, Methamphetamine có thể cải thiện tâm trạng, tăng tỉnh táo, tập trung và năng lượng ở những người mệt mỏi; giảm cảm giác thèm ăn giúp giảm cân. Ở liều rất cao, nó có thể gây ra rối loạn tâm thần, tiêu cơ vân, co giật và xuất huyết não. Sử dụng liều cao lâu dài có thể làm biến đổi tâm trạng một cách không lường trước được, loạn thần (như hoang tưởng, ảo giác, mê sảng và ảo tưởng) và hành vi bạo lực. Trong sử dụng bất hợp pháp cho mục đích giải trí, Methamphetamine làm tăng năng lượng, cải thiện tâm trạng và tăng ham muốn tình dục giúp một người có thể hoạt động tình dục liên tục trong vài ngày. Methamphetamine có tính lệ thuộc cao, tăng thèm muốn sử dụng và xuất hiện triệu chứng cai khi ngừng sử dụng. Ngừng Methamphetamine thường dẫn đến hội chứng cai cấp tính và hội chứng cai sau cấp tính, có thể kéo dài nhiều tháng nhất là với người sử dụng nhiều hoặc lâu dài. Ở liều cao Methamphetamine là chất độc thần kinh đối với các tế bào thần kinh dopaminergic. Methamphetamine đã được chứng minh là có ái lực cao hơn và do đó độc tính cao hơn đối với các tế bào thần kinh serotonergic so với Amphetamine.

Methcathinone Methcathinone (α-methylamino-propiophenone hoặc ephedrone) (đôi khi được gọi là "cat" hoặc "kat" hoặc "M-Kat"). Methcathinone không được dùng cho mục đích y khoa mà chủ yếu được sử dụng bất hợp pháp cho mục đích giải trí do tác dụng kích thích và hưng phấn mạnh mẽ. Đường dùng chủ yếu là hít (vào mũi) nhưng có thể dùng đường uống, tiêm tĩnh mạch hay hút. Methcathinone Tác dụng của Methcathinone tương tự như Methamphetamine, mặc dù ở những lần dùng ban đầu được xem là ít mãnh liệt hơn và có thể gây sảng khoái nhiều hơn. Methcatinone thường gây tăng huyết áp và nhịp tim nhanh. MDMA MDMA là tên viết tắt của 3,4-Methyl enedioxy Methamphetamine, thường được gọi là thuốc lắc (E, X, XTC). MDMA chưa được cấp phép sử dụng trong y khoa. Hiện tại, MDMA sử dụng chủ yếu cho mục đích giải trí. Các hiệu ứng mong muốn bao gồm tăng cảm nhận giác quan, tăng năng lượng, sự đồng cảm và cảm giác dễ chịu. Khi dùng đường uống, các hiệu ứng bắt đầu sau 30 đến 45 phút và kéo dài 3 đến 6 giờ. Đường dùng chủ yếu của MDMA là đường uống mặc dù đã có báo cáo về một số cá nhân tiêm chích MDMA. MDMA/Thuốc lắc Các tác dụng bất lợi bao gồm lệ thuộc và các vấn đề về trí nhớ, hoang tưởng, khó ngủ, nghiến răng, mờ mắt, đổ mồ hôi và nhịp tim nhanh. Tử vong do sử dụng MDMA cũng đã được báo cáo do tăng nhiệt độ cơ thể và mất nước. Sau khi sử dụng mọi người thường cảm thấy chán nản và mệt mỏi. Dùng MDMA lâu dài sẽ dẫn đến rối loạn giấc ngủ, chán ăn, khó tập trung, trầm cảm, bệnh tim. Các chất hướng thần mới Hiện nay có rất nhiều ma túy dạng kích thích thuộc nhóm hướng thần mới (NPS). Các ma túy dạng kích thích mới là các chất gây lạm dụng hoặc nghiện không được kiểm soát, các ma túy này có thể gây ra mối hiểm họa cho sức khỏe công cộng. Hai loại ma túy dạng kích thích mới phổ biến là Mephedrone và MDPV. Mephedrone Mephedrone, (4-methyl Methcathinone; 4-MMC) còn được gọi là muối tắm, drone và meo meo là một ma túy dạng kích thích tổng hợp. Tương tự như Methcathinione về mặt hóa học, Mephedrone là dẫn xuất của Cathinone có trong cây Khat ở miền đông châu Phi. Mephedrone có dạng viên hoặc bột và có thể dùng bằng cách nuốt, hít (vào mũi) hoặc tiêm, tạo ra các tác dụng tương tự như MDMA, Amphetamine và Cocaine. Mephedrone Sử dụng trong giải trí, Mephedrone có thể gây hưng phấn, kích thích, tăng cường cảm thụ âm nhạc, cải thiện tâm trạng, giảm sự thù địch, cải thiện chức năng tinh thần, kích thích tình dục nhẹ (tương tự như tác dụng của Cocaine, Amphetamine và MDMA). Mephedrone có thể ở dạng viên nang, viên nén hoặc bột trắng mà người dùng có thể nuốt, hít, tiêm, hút hoặc sử dụng qua trực tràng. Thời gian để bắt đầu cảm nhận ngắn nhất khi tiêm hoặc hít đường mũi (khoảng vài phút) so với đường uống (khoảng 15 đến 45 phút). Thời gian kéo dài của Mephedrone ngắn nhất khi tiêm chích (30 phút) và dài nhất khi uống hoặc khi hít mũi (từ 2 đến 3 giờ). MDPV MDPV (Methylenedioxypyrovalerone) cũng còn được gọi là muối tắm (giống như Mephedrone). Là dẫn xuất của Cathinone, MDPV là ma túy dạng kích thích có tác dụng tương tự như Amphetamine, Cocaine và MDMA. MDPV tạo ra hiệu ứng bằng cách ức chế tái hấp thu hai chất dẫn truyền thần kinh là Norepinephrine và Dopamine. MDPV có dạng viên hoặc bột và có thể dùng bằng cách nuốt, hít (vào mũi) hoặc tiêm. MDPV ở dạng nguyên chất là một loại bột tinh thể màu trắng, nhưng khi sản xuất có thể lẫn các tạp chất nên thường khiến nó có màu trắng nhạt hoặc màu nâu nhạt. Nó thường được bán dưới dạng bột, viên nang hoặc viên nén. MDPV và các loại Cathinone khác thường được dán nhãn là MDMA để bán. Các tác dụng tâm sinh lý chính kéo dài 2 đến 3 giờ và tác dụng phụ kéo dài thêm vài giờ. MDPV tạo ra hưng phấn, cảm giác đồng cảm (mặc dù ít hơn MDMA), tăng tính xã hội, kích thích tinh thần, thể chất và hưng phấn tình dục. Tác dụng phụ, đặc biệt là ở liều cao có thể bao gồm lo lắng và hoang tưởng, ảo tưởng, co thắt cơ và nhịp tim tăng cao. Trong các trường hợp nặng, MDPV có liên quan đến tiêu cơ vân, chấn thương não và tử vong. Poppers Poppers là một thuật ngữ chỉ một hợp chất hóa học gọi là alkyl nitrat bao gồm Amyl nitrate, Butyl nitrat và Isobutyl nitrat. Amyl nitrite đã được sử dụng như là thuốc giãn mạch trong y học. Amyl nitrite cũng thường bị lạm dụng sử dụng ở câu lạc bộ, vũ trường. Poppers thường được đóng chai như một loại nước hoa dùng để hít và thuốc sẽ hấp thu qua niêm mạc mũi. Tác dụng cơ bản của Poppers là làm cho các cơ bắp thư giãn, đó là lý do Poppers sử dụng khá phổ biến ở những nam quan hệ tình dục đồng giới. Poppers được sử dụng trước lúc quan hệ tình dục để làm giãn các cơ trơn, đặc biệt là cơ vòng hậu môn, làm cho giao hợp qua đường hậu môn dễ dàng hơn. Một tác động nữa của Poppers là giãn mạch, điều này tạo cho người dùng cảm xúc tích cực, làm tăng hưng phấn tình dục. Poppers cũng có thể tác động làm cho quan hệ tình dục có cực khoái kéo dài. Poppers Mặc dù không có nhiều bằng chứng về sự lệ thuộc cũng như rối loạn sử dụng Poppers, tuy nhiên các tác dụng phụ thường gặp của Popper bao gồm nhức đầu và vấn đề về cương dương tạm thời. Khi dùng quá liều sẽ gây khó thở, loạn nhịp tim, suy tim mạch. Các sản phẩm chứa amyl nitrite còn có thể tương tác với các thuốc giãn mạch như viagra và gây ra sự cố giảm huyết áp nghiêm trọng, dẫn đến ngất xỉu, đột quỵ hay nhồi máu cơ tim. Các chất nitrite và nitrate gây ra giãn mạch, hạ huyết áp ngắn, chóng mặt và tim đập nhanh. Nếu dùng quá liều có thể gây ra tím tái, bất tỉnh, hôn mê, thậm chí tử vong. Cocaine Cocaine là loại ma túy bất hợp pháp được sử dụng rộng rãi trên toàn cầu, sau cần sa và Methamphetamine với khoảng từ 14 đến 21 triệu người sử dụng thuốc trong năm qua. Năm 2013, việc sử dụng Cocaine trực tiếp dẫn đến 4.300 ca tử vong. Công ước hợp nhất quốc tế về Ma túy đã khuyến cáo các Quốc gia xem việc sử dụng Cocaine bất hợp pháp để giải trí là tội hình sự. Cocaine Cocaine có thể dùng bằng cách hít vào mũi (để bột Cocaine thấm qua niêm mạc mũi), hút (để khói Cocaine đi vào cơ thể qua phổi) hoặc tiêm vào tĩnh mạch. Cocaine gây cảm giác xa rời thực tế, cảm giác hạnh phúc mãnh liệt hoặc kích động và các triệu chứng như tăng nhịp tim, đổ mồ hôi và giãn đồng tử. Cocaine liều cao có thể dẫn đến tăng huyết áp và tăng thân nhiệt. Tác dụng của Cocaine bắt đầu trong vòng vài giây (khi hút) đến vài phút sử dụng (khi hít) và kéo dài từ 5 đến 90 phút. Một số ít trường hợp được sử dụng trong y tế như gây tê và giảm chảy máu trong phẫu thuật mũi. Cocaine là chất gây nghiện do đó Cocaine có thể gây lệ thuộc sau khi sử dụng chỉ trong một thời gian ngắn. Các tác hại khác bao gồm tăng nguy cơ đột quỵ, nhồi máu cơ tim, tổn thương phổi và có thể đột tử do nguyên nhân tim mạch. Cocaine buôn bán bất hợp pháp thường được trộn một số tạp chất. Sử dụng lặp lại, Cocaine gây dung nạp và do đó người dùng bị giảm khoái cảm và cảm giác mệt mỏi. Cocaine ở trong máu có thể dễ dàng vượt qua hàng rào máu não và tác dụng thông qua việc ức chế tái hấp thu serotonin, norepinephrine và dopamine và qua đó làm tăng nồng độ của các chất dẫn truyền thần kinh này trong mô não. Các loại và dạng sử dụng của Cocaine thường bao gồm các loại sau: Lá coca khô Ở Boliva, nước uống Kdrink là nước giải khát có ngâm lá coca được công ty Kokka Royal Food & Drink sản xuất và bán công khai. Ở một số khu vực ở Peru và Bolivia, người dân địa phương có thói quen pha lá coca khô (trong bình trà hay với túi lọc) vào nước nóng để tạo sự kích thích nhẹ nhàng và cải thiện tâm trạng cho người uống. Sử dụng trà này không gây cảm giác phê sướng như khi hít hoặc hút cocain. Cocaine dạng bột nhão (paste Cocaine) Cocaine dạng bột nhão là chiết xuất thô từ lá coca có chứa từ 40% đến 90% Cocaine sulfate (do sử dụng acid sulfurice để chiết xuất Cocaine ra khỏi lá cây). Cocaine dạng bột nhão có nhiều tạp chất nên thường được sử dụng làm nguyên liệu để tạo thành Cocaine (base) hoặc Cocaine hydrochloride tinh khiết hơn để hút, hít hay để tiêm tĩnh mạch. Người ta cũng có thể sử dụng Cocaine dạng bột nhão trộn chung với thuốc lá để hút và khi đó sẽ bị nghiện bởi cả Cocaine và thuốc lá. Vì vậy nghiện ở người sử dụng Cocain dạng bột nhão rất khó điều trị. Cocaine hydrochloride Đây là dạng Cocaine tinh chế, mức độ tinh khiết cùng tùy thuộc vào các phương pháp tinh chế khác nhau. Ở người sử dụng Cocaine bất hợp pháp để giải trí, dạng Cocaine này được sử dụng theo đường tiêm chích hoặc hít vào mũi (và hấp thụ qua niêm mạc mũi). Tác dụng của Cocaine với việc hít qua mũi có tác dụng chậm và kéo dài: thời gian để đạt được đến khoái cảm là 5 phút, đạt được tác dụng tối đa vào khoảng 15 phút và thời gian tác dụng kéo dài từ 60 đến 90 phút. Sử dụng Cocaine bằng hít qua mũi sẽ gây tổn thương niêm mạc mũi (trong khi sử dụng và lâu dài) do Cocaine có tính chất co thắt mạch máu và do các tạp chất trong Cocaine. Tiêm Cocaine ở dạng dung dịch sẽ tạo ra nồng độ Cocaine cao trong khoảng thời gian ngắn. Thời gian trung bình để đạt được hiệu quả cao nhất là 3 phút và sự hưng phấn chỉ kéo dài khoảng 30 đến 45 phút. Ngoài sử dụng đường hít và tiêm, Cocaine dạng muối cũng được báo cáo sử dụng theo đường hậu môn. Ngoài các dạng Cocaine được sử dụng như nêu trên, còn có một số các dạng khác của Cocaine cũng được sử dụng.

Từ khóa » Hình ảnh Kẹo Ke đá