CÁC TRƯỜNG HỢP GIAO DỊCH DÂN SỰ VÔ HIỆU VÀ HẬU QUẢ ...

Theo quy định tại Điều 116 Bộ luật dân sự 2015 (BLDS) thì "giao dịch dân sự" là hợp đồng hoặc hành vi pháp lý đơn phương làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự.

Một giao dịch dân sự có hiệu lực và làm phát sinh các quyền, nghĩa vụ của các chủ thể liên quan khi và chỉ khi giao dịch dân sự đó đáp ứng đầy đủ các điều kiện có hiệu lực theo quy định pháp luật. Hiểu một cách đơn giản, giao dịch dân sự được xác lập khi nó đáp ứng nguyện vọng cũng như mục đích muốn đạt được của các chủ thể xác lập giao dịch.

Tuy nhiên, trong một số trường hợp, mặc cho giao dịch dân sự đã được xác lập trước đó nhưng nó có thể bị vô hiệu khi giao dịch này trái quy định của pháp luật và không thể hiện đúng ý chí các bên chủ thể khi tham gia xác lập giao dịch dân sự.

Điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự

Giao dịch dân sự không tự nhiên phát sinh hiệu lực tại thời điểm xác lập mà nó chỉ được coi là có hiệu lực khi đáp ứng được các điều kiện quy định tại Điều 117, 119 BLDS:

- Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập;

- Chủ thể tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện;

- Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội.

- Hình thức của giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự trong trường hợp luật có quy định.

+ Giao dịch dân sự được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể.

+ Giao dịch dân sự thông qua phương tiện điện tử dưới hình thức thông điệp dữ liệu theo quy định của pháp luật về giao dịch điện tử được coi là giao dịch bằng văn bản.

+ Trường hợp luật quy định giao dịch dân sự phải được thể hiện bằng văn bản có công chứng, chứng thực, đăng ký thì phải tuân theo quy định đó.

Các trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu

Những quy định về sự vô hiệu của giao dịch dân sự đóng vai trò rất quan trọng trong việc đảm bảo cân bằng lợi ích xã hội, vì nó là cơ sở phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên trong giao dịch dân sự, chỉ khi các chủ thể của giao dịch này đạt được nguyện vọng khi xác lập giao dịch thì lúc đó giao dịch dân sự mới đạt được ý nghĩa, mục đích của việt đặt ra quy định này.

Theo Điều 122 BLDS thì giao dịch dân sự bị coi là vô hiệu nếu không có đủ các điều kiện quy định tại Điều 117 nói trên. Cụ thể:

1. Giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội (Điều 123 BLDS)

Giao dịch dân sự có mục đích, nội dung vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội thì vô hiệu.

Điều cấm của luật là những quy định của luật không cho phép chủ thể thực hiện những hành vi nhất định.

Đạo đức xã hội là những chuẩn mực ứng xử chung trong đời sống xã hội, được cộng đồng thừa nhận và tôn trọng.

2. Giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo (Điều 124 BLDS)

Khi các bên xác lập giao dịch dân sự một cách giả tạo nhằm che giấu một giao dịch dân sự khác thì giao dịch dân sự giả tạo vô hiệu, còn giao dịch dân sự bị che giấu vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp giao dịch đó cũng vô hiệu theo quy định của Bộ luật này hoặc luật khác có liên quan.

Trường hợp xác lập giao dịch dân sự giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba thì giao dịch dân sự đó vô hiệu.

3. Giao dịch dân sự vô hiệu do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện (Điều 125 BLDS)

Khi giao dịch dân sự do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi hoặc người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện thì theo yêu cầu của người đại diện của người đó, Tòa án tuyên bố giao dịch đó vô hiệu nếu theo quy định của pháp luật giao dịch này phải do người đại diện của họ xác lập, thực hiện hoặc đồng ý, trừ trường hợp sau:

+ Giao dịch dân sự của người chưa đủ sáu tuổi, người mất năng lực hành vi dân sự nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu hàng ngày của người đó;

+ Giao dịch dân sự chỉ làm phát sinh quyền hoặc chỉ miễn trừ nghĩa vụ cho người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự với người đã xác lập, thực hiện giao dịch với họ;

+ Giao dịch dân sự được người xác lập giao dịch thừa nhận hiệu lực sau khi đã thành niên hoặc sau khi khôi phục năng lực hành vi dân sự.

4. Giao dịch dân sự vô hiệu do bị nhầm lẫn (Điều 126 BLDS)

Trường hợp giao dịch dân sự được xác lập có sự nhầm lẫn làm cho một bên hoặc các bên không đạt được mục đích của việc xác lập giao dịch thì bên bị nhầm lẫn có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu, trừ trường hợp sau:

Giao dịch dân sự được xác lập có sự nhầm lẫn không vô hiệu trong trường hợp mục đích xác lập giao dịch dân sự của các bên đã đạt được hoặc các bên có thể khắc phục ngay được sự nhầm lẫn làm cho mục đích của việc xác lập giao dịch dân sự vẫn đạt được.

5. Giao dịch dân sự vô hiệu do bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép (Điều 127 BLDS)

Khi một bên tham gia giao dịch dân sự do bị lừa dối hoặc bị đe dọa, cưỡng ép thì có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự đó là vô hiệu.

Lừa dối trong giao dịch dân sự là hành vi cố ý của một bên hoặc của người thứ ba nhằm làm cho bên kia hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội dung của giao dịch dân sự nên đã xác lập giao dịch đó.

Đe dọa, cưỡng ép trong giao dịch dân sự là hành vi cố ý của một bên hoặc người thứ ba làm cho bên kia buộc phải thực hiện giao dịch dân sự nhằm tránh thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín, nhân phẩm, tài sản của mình hoặc của người thân thích của mình.

6. Giao dịch dân sự vô hiệu do người xác lập không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình (Điều 128 BLDS)

Người có năng lực hành vi dân sự nhưng đã xác lập giao dịch vào đúng thời điểm không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình thì có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự đó là vô hiệu.

7. Giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức (Điều 129 BLDS)

Giao dịch dân sự vi phạm quy định điều kiện có hiệu lực về hình thức thì vô hiệu, trừ trường hợp sau đây:

+ Giao dịch dân sự đã được xác lập theo quy định phải bằng văn bản nhưng văn bản không đúng quy định của luật mà một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch thì theo yêu cầu của một bên hoặc các bên, Tòa án ra quyết định công nhận hiệu lực của giao dịch đó.

+ Giao dịch dân sự đã được xác lập bằng văn bản nhưng vi phạm quy định bắt buộc về công chứng, chứng thực mà một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch thì theo yêu cầu của một bên hoặc các bên, Tòa án ra quyết định công nhận hiệu lực của giao dịch đó. Trong trường hợp này, các bên không phải thực hiện việc công chứng, chứng thực.

Như vậy, có thể thấy, đối với các giao dịch dân sự bị vô hiệu theo quy định tại Điều 123, 124 BLDS thì các giao dịch đó sẽ tự động vô hiệu mà không cần có yêu cầu của các bên chủ thể trong giao dịch đệ đơn lên trình Tòa án ra quyết định tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu, trường hợp này ta có thể coi đây là các trường hợp giao dịch dân sự bị vô hiệu tuyệt đối.

Đối với các trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu còn lại, một giao dịch dân sự sẽ được xem là vô hiệu khi có đơn yêu cầu của các chủ thể liên quan và có quyết định có hiệu lực của Tòa án tuyên một giao dịch dân sự vô hiệu, trường hợp này các giao dịch được coi là vô hiệu tương đối.

Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu

Một giao dịch dân sự có thể bị vô hiệu toàn phần hoặc từng phần, khi vô hiệu từng phần thì chỉ phần nội dung bị vô hiệu mới bị vô hiệu, các phần còn lại của giao dịch vẫn có hiệu lực theo quy định pháp luật

Khi các giao dịch dân sự vô hiệu thì hậu quả của chúng sẽ được giải quyết theo quy định tại Điều 131 BLDS:

+ Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm giao dịch được xác lập.

+ Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận.

+ Trường hợp không thể hoàn trả được bằng hiện vật thì trị giá thành tiền để hoàn trả.

+ Bên ngay tình trong việc thu hoa lợi, lợi tức không phải hoàn trả lại hoa lợi, lợi tức đó.

+ Bên có lỗi gây thiệt hại thì phải bồi thường.

+ Việc giải quyết hậu quả của giao dịch dân sự vô hiệu liên quan đến quyền nhân thân do Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định.

Trên đây là những tư vấn của Tư vấn Như Ý về vấn đề này, rất mong bài viết sẽ hữu ích cho bạn.

Nếu có bất kỳ thắc mắc hay cần tư vấn về thủ tục liên quan đến doanh nghiệp, đầu tư, sở hữu trí tuệ, thuế - kế toán và giấy phép hoạt động, bạn có thể liên hệ với chúng tôi thông qua:

Facebook: www.facebook.com/nhuylawfirm

Hotline: (028) 2202.89.89 hoặc 0914.39.47.96

Email: [email protected]

Tác giả bài viết: Thu Phương.

Từ khóa » điều 116 Bộ Luật Dân Sự 2015