CÁC Vị CHÂN Sư đại THỦ ấn - 123doc

Những mẩu chuyện thú vị có tính cách giải trí này lại là một kiểu sách giáo khoa của các dòng tu Mật tông Ấn Độ, được bậc thầy truyền lại cho các môn đồ từ thế kỷ này sang thế kỷ khác..

Trang 2

KEITH DOWMAN

CÁC VỊ CHÂN SƯ

ĐẠI THỦ ẤN

NGUYÊN TÁC MASTERS OF MAHAMUDRA

OF THE 84 BUDDHIST SIDDHAS

NGUYÊN THẠNH LÊ TRUNG HƯNG Việt dịch

NGUYỄN MINH TIẾN hiệu đính

NHÀ XUẤT BẢN TÔN GIÁO

Trang 3

ĐÔI NÉT VỀ SOẠN GIẢ

Trong Phật giáo Tây Tạng, Đại thủ ấn

(Mahamudra) tiêu biểu cho mức độ thành tựu cao nhất của Chân đế Đó là sự kết hợp bất khả phân ly giữa bi và trí, giữa tánh không và phương tiện

Tám mươi tư vị Thánh tăng trong tác phẩm này là những vị đạo sư tiêu biểu đã tu tập đến mức thành tựu Họ sống từ khoảng thế kỷ 8 đến thế kỷ

12 tại Ấn Độ

Trong số các bậc thầy vĩ đại này, có những vị sống một lối sống vượt thoát ra khỏi tập tục truyền thống như Tilopa, Naropa và Marpa

Sau nhiều năm dày công nghiên cứu, Keith Dowman đã sưu tập và dịch ra Anh ngữ những bài đạo ca và các truyền thuyết về các vị đạo sư này Nhờ sự hỗ trợ và chỉ dẫn của các bậc thầy, Keith Dowman cũng đã viết chú giải về cuộc đời và cách

tu tập, hành trì của các vị đạo sư này

Trang 4

Trong phần giới thiệu, Dowman đã trình bày một số ý niệm cơ bản về Đại thủ ấn Bằng một giọng văn sống động, giàu ảnh tượng, Keith Dowman đã giải mã những đoạn văn kỳ bí của Mật tông, giúp độc giả dễ dàng hơn trong việc thâm nhập vào thế giới của huyền thuật.

Keith Dowman đã có những tác phẩm thành công

và giá trị như: Thiên Nữ (Sky-Dancer), Cuộc đời bí

ẩn và những bài đạo ca của nữ đạo sư Yeshe Sogyel (The secret and songs of the Lady Yeshe Sogyel), Truyền thuyết về Đại Thánh Đường (The Legend of the Great Stupa)

Hiện nay tác giả đang sống và tu tập tại Kathmandu thuộc quốc gia Nepal

Trang 5

CÁC BẬC CHÂN SƯ ĐẠI THỦ ẤN

Tập sách này trong nguyên ngữ Tây Tạng được

biên soạn từ quyển Truyền thuyết về 84 vị Thánh tăng (Grub thob brgyad bcu tsa bzhi’i lo rgyus) do ngài Mondup Sherab ghi chép từ lời kể của ngài Abhayadatta Sri (thế kỷ 12th) và quyển Tâm chứng của 84 vị Thánh tăng (Grub thob brgyad bcu rtogs pa’i snying po rdo rje’i lu) của ngài Vira Prakash, đã được Keith Dowman và Bhaga Tulku Pema Tenzin

dịch sang Anh ngữ Phần giới thiệu và các chú giải,

nhận xét là của Keith Dowman, hình minh họa là

của H R Downs Sách đã được phát hành tại Hoa

Kỳ vào năm 1985 (The State University of New York Press, Albany, NY., 1985) với độ dày 454 trang Sách cũng đã từng được dịch sang tiếng Đức vào

năm 1991 với nhan đề Die Meister der Mahamudra

(Diederichs, Munchen, 1991)

Bản dịch Việt ngữ được giới thiệu lần này là của

Nguyên Thạnh Lê Trung Hưng, được dịch từ bản tiếng Anh Masters of Mahamudra of the Eighty- four Buddhist Siddhas của Keith Dowman.

Trang 6

Kính dâng

Một con người luôn luôn hoan hỷ tùy thuận

chúng sinh trong niềm an lạc; người mà mỗi lời nói ra là một sự khai thị thích hợp với trình

độ căn cơ của người nghe; người mà mọi cử chỉ, thái

độ, oai nghi đều là nguồn thông tin diễn đạt chân pháp; người mà biết rõ tâm mình và tâm kẻ khác; người mà có khả năng truyền sự an lạc của mình đến các bằng hữu và khách quen, khiến cho tất cả đều hoan hỷ đến cùng tột như lên đến được các vì sao để hoà mình vào điệu múa của vũ trụ Người đó chính

là một vị Lạt-ma Trước hết tôi cung kính đảnh lễ một con người như thế Con người kỳ diệu ấy là Lạt-

ma Kanjur Ngài sinh ra ở miền đông Tây Tạng, trở

thành một nhà sư bác học và uyên áo thuộc tu viện

Riwoche, tỉnh Amdo, Tây Tạng Ngài kết thúc cuộc đời như một kẻ di tản đến vùng Djeering nước Ấn

Độ ở tuổi tám mươi tư Nguyện cầu cho những lời chú nguyện của Ngài trực truyền đến tâm chúng

ta và xin hồi hướng công đức này đến tất cả chúng hữu tình khiến họ thoát vòng sinh tử luân hồi, đồng chứng vào pháp giới

Trang 7

LỜI TỰA

pháp tu tối thượng của Mật tông nhằm

đạt tới đạo quả vô thượng, tức Phật tính; tự thân phảp môn này là cứu cánh rốt ráo Theo nghĩa của

từ nguyên, Maha là to lớn, Mudra là dấu ấn Như vậy, Mahamudra tức Đại thủ ấn Đại thủ ấn vừa là

phương tiện thiện xảo, vừa là cứu cánh rốt ráo Tám mươi tư vị đại sư trong tác phẩm này là

những vị tổ sư của phái Đại thủ ấn truyền thống,

sống trong thời kỳ từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ 12 Những thiền sư này đããhình thành và sáng tạo những phương cách thiền định đặc thù để tự tu tập và giác ngộ Về sau, các môn đồ của họ cũng

đã thành công khi áp dụng những phương cách

thiền định này Các bậc thiền sư Đại thủ ấn khi ngộ được chân tính thì được gọi là Đại thành tựu giả (Mahasiddha)

Tác phẩm này được rút tỉa từ kinh văn Tây

Tạng, gọi là Truyền thuyết về tám mươi tư vị thánh tăng (Grub thob brgyad bcu tsa bzhi’i lo rgyus) được

đánh giá rất cao vì tính sử liệu và cụ thể của các

Trang 8

Các vị chân sư Đại thủ ấn

phương pháp tu tập mà những đại thiền sư này đã

áp dụng và thành tựu

Trước hết, về mặt lịch sử có một số mẩu chuyện

kể về các thiền sư kiệt xuất và có thật trong lịch sử

Phật giáo như các ngài Nagarjuna, Sahara, Luipa, Virupa với pháp lực, thần thông và trí tuệ xuất

chúng của các ngài Những mẩu chuyện thú vị có tính cách giải trí này lại là một kiểu sách giáo khoa

của các dòng tu Mật tông Ấn Độ, được bậc thầy

truyền lại cho các môn đồ từ thế kỷ này sang thế

kỷ khác

Thứ hai, thông qua những truyền thuyết về các đạo sư này, chúng ta có thể lãnh hội các mẩu

chuyện đó như những phúng dụ (allegory) mà trong

đó các giai thoại (anectote) có những nét tương đồng

và tính ẩn dụ dùng làm phương tiện khai tâm cho môn đồ thuộc các dòng tu mật Một số truyền thuyết được thu gọn lại chỉ bao gồm các chi tiết về tiểu sử

Trang 9

Các vị Chân sư Đại thủ ấn

Thật vậy, chúng ta có tám mươi tư truyền thuyết đáng tin cậy, tám mươi tư khuôn mẫu phương cách thiền định, tám mươi tư nhân cách mà một số mang tính lịch sử và một số mang tính tiêu bản, sống ở Ấn

Độ trong giai đoạn từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ 12 Tựa đề của tám mươi chương trong tác phẩm này đều là tên của các vị thánh tăng Dưới những

tựa đề là các bài kệ gọi là Chứng đạo ca (songs of realization) được dịch từ một tài liệu Tây Tạng, có tên là Tâm chứng của tám mươi tư vị thánh tăng (Grub thob brgyad bcu rtogs pai’i snying po rdo rge’i glu) Các đạo ca này do một học giả có tên Prakasa

thu thập và biên soạn Đây là những bài hát miêu tả bản chất chứng ngộ của các bậc thầy và con đường

mà họ đã đi qua để đạt đến đích Tất cả đều được diễn đạt bằng ngôn ngữ của Phật giáo và giàu hình

ảnh của pháp môn Đại thủ ấn truyền thống Bên

dưới mỗi bài kệ là truyền thuyết về vị đạo sư và ở đoạn giữa là phép hướng dẫn thiền định của đạo sư

ấy Các truyền thuyết này do một học giả người Ấn

Độ là Abhayadatta, kể lại cho một nhà sư Tây Tạng

có tên Mondrup Sherb vào thế kỷ thứ 12

Phần giới thiệu tác phẩm này cũng là phần giới

thiệu và giải thích căn bản về Mật tông Phật Gìáo,

Trang 10

Các vị chân sư Đại thủ ấn

có thể giúp cho người đọc thâm nhập vào nội dung của tác phẩm và các phương cách thiền định của

Đại thủ ấn, cũng như thâm nhập vào các ý niệm và

thuật ngữ của pháp thiền trong các truyền thuyết Sau mỗi câu chuyện là lời bình dành cho những độc giả có ý muốn xem các truyền thuyết là khuôn mẫu

để tu tập, phương cách thiền định trong Tantra gọi

là Sadhana, tạm gọi là sự hành trì

Sadhana có nghĩa là “sự nỗ lực và phép tu luyện

để tồn tại một cách có chủ đích” (the endeavour and method of intentional existential praxis) Tài liệu

trong phần này chủ yếu là định nghĩa các từ ngữ và nói về ý nghĩa của giáo pháp được đề cập Các tư liệu soạn thảo được rút tỉa từ nhiều nguồn khác nhau: từ

các kinh văn truyền khẩu ở Tây Tạng do một

Lạt-ma tái sinh của tu viện Arunachal Pradesh ở Ấn Độ, tên là Bhaga Tulku thuộc dòng tu Nyingma; từ một học giả cư sĩ tên là Se Kusho Chompel Namgyel;

từ các phương pháp thiền định tương tự được khẩu

truyền trong các dòng tu, đặc biệt là Đại thủ ấn do

cố Lạt-ma Gyelwa Karmapa và các lạt-ma khác của dòng Kahgyu; từ các giai đoạn tu tập “phát sinh” và

“thành tựu” được giảng dạy trong dòng Nyingma và giáo lý của Đại cứu kính (dzogchen); từ các Tantra gốc, đặc biệt là của các dòng Mật giáo Samvara, Guhysamaja, Hevajra và Candamaharosama; từ

Trang 11

Các vị Chân sư Đại thủ ấn

Thánh nữ (Vajra Yogini) trong nhiều hoá thân; và

từ những đạo ca (doha) của các bậc thánh tăng

Nhưng dù chúng ta có được những khẩu quyết và

lý thuyết, những nghiên cứu kinh viện và óc phân tích, cũng không thể dựa vào đó để tu tập có kết quả, vì hầu hết các phương thức thiền quán trong

Mật tông đều được dạy một cách tóm lược và tùy căn

cơ khác nhau của từng môn đồ

Việc được pháp tu tập Mật tông, sự điểm đạo để nhập vào đàn pháp (mandala) và việc truyền trao

các phương thức thiền định chỉ là những giai đoạn

sơ cơ để hành giả có những bước chuẩn bị cần thiết,

trong đó có việc quán tưởng một hình ảnh (Im) Việc

nhận ra các thực thể tâm linh và kích xúc chúng được minh thị bằng những biểu tượng phức tạp nơi

hình ảnh của một vị Hộ thần (Deva), ví dụ như việc

nhận ra các trạng thái tỉnh giác khác nhau của tâm Điều đó chỉ có thể thực hiện trong thiền quán, nghĩa

là trong những điều kiện tối ưu Dó đó, phần bình luận phản ánh những kinh nghiệm trong truyền thống tu thiền của các bậc đạo sư mà bản thân người phê bình cũng đã có được sau 12 năm tu tập Các hành giả sơ cơ ở phương Tây tìm kiếm bản

chất của tâm qua trung gian của Tantra thường

Trang 12

Các vị chân sư Đại thủ ấn

không gặp trở ngại về khả năng tu tập, nhưng việc giải thích sai lệch ý nghĩa của các biểu tượng thiêng

liêng và ảnh tượng của vị thủ thần (Yidam) khiến họ

không thể thâm nhập vào chân nghĩa của các thuật

ngữ và các ý niệm của Mật tông cũng như những vấn đề của thế giới luận (the realm of hermeneutics)

tạo ra cho họ những trở ngại lớn nhất

Do đó, việc nghiên cứu các bản dịch của kinh văn Mật giáo mà không có lời bình giảng hay thiếu sự khẩu truyền của một bậc thầy đã chứng ngộ chính bằng phương pháp kể trên sẽ tạo ra các kết quả trái ngược, nếu không muốn nói là một mối nguy hiểm thật sự đối với sự lành mạnh

Phần minh chứng cho các luận giải và các bản sao dịch được tìm thấy ở Tây Tạng và Ấn Độ trong

thời kỳ giáo lý Mật tông bắt đầu được truyền bá

một cách rộng rãi và công khai, những phương thức quan trọng của pháp môn này cũng được công bố lại

bằng các phương ngữ (idioms) của hai quốc gia đó.

Ngôn ngữ trong phần giới thiệu và lời bình đôi khi đề cập đến những ý niệm phương Tây khá

xa lạ với các độc giả của truyền thống Tây Tạng Chẳng hạn, độc giả đã từng quen thuộc với phép

Trang 13

Các vị Chân sư Đại thủ ấn

đồng lượng vị căn (homeopathy) mới có thể lãnh hội

các phương pháp tu tập của Mật Giáo thông qua lý thuyết được cô đọng bằng các ngạn ngữ gốc La-tinh

với nghĩa rộng của nó như “độc trị độc” (the poison

is the panacea) hay “liều lượng nhỏ, hiệu quả cao”, hoặc cụm từ “giao hợp nửa vời” (coitus interruptus)

rất quen thuộc với người phương Tây với nghĩa rộng của cụm từ này, nó ám chỉ những nét tương đồng trong cách tu thiền định của Mật Giáo Đây là phương tiện để diễn đạt ý nghĩa

Ví dụ sau cùng là hình ảnh của một nhà sư hay đạo sĩ đi xuyên tường, bay giữa hư không, hay ăn đất, ăn đá, không xa lạ gì với cách nghĩ của người phương Đông, nhưng nghe chừng có vẻ rất khó chấp nhận đối với những người phương Tây có đầu óc duy lý

Trong ý nghĩ của người phương Đông, tâm không đối kháng với vật Một quan niệm như thế tất nhiên

sẽ có hiệu quả hơn trong việc giải thích công dụng

của tâm Tại sao những con người sùng tín đạo Phật

ở phương Tây lại phải chồng chất thêm vào đầu óc

họ những quan niệm của phương Đông và cách suy nghĩ rập khuôn, trong khi họ đã sẵn có đầy đủ tư lương để đi vào cửa đạo? Nhưng bằng cách nào đi

Trang 14

Các vị chân sư Đại thủ ấn

nữa, họ cũng phải từ bỏ chính bản thân mình, nếu không muốn nói là trừ sạch chấp ngã, mới có thể đến chốn đạo tràng

Do đó, mặc dù phương thức căn bản về giáo pháp được áp dụng trong phần bình luận, vốn được truyền thừa trên 1.200 năm, nhưng ở đây lời bình phẩm phản ánh những kinh nghiệm cá nhân bằng một thứ ngôn ngữ dễ lãnh hội

Sau phần bình luận về phương thức thiền định

(sadhana) là phần sử liệu.

Tất cả các tư liệu lịch sử có liên hệ xa gần với một

đạo sư (siddha) như địa vị trong dòng tu hay khoảng

thời gian trụ thế của ngài được viết chung trong phần biên niên sử Ngoài ra còn có những truyền thuyết hay giai thoại về các đạo sư lỗi lạc được sưu tập từ các nguồn khác, cũng được đưa vào phần này

để làm sáng tỏ thêm vấn đề Ở phần nào không có

đủ tài liệu tham khảo về một đạo sư, chúng tôi chỉ

đề cập đến danh hiệu của vị ấy mà thôi

Tên của các vị đạo sư trong tác phẩm này có

nguồn gốc Sanskrit và đã được xác minh qua cách phân tích từ nguyên để thay cho Tạng ngữ và thổ ngữ Apabharamsa, và nhiều từ sai sót trong một số

Trang 15

Các vị Chân sư Đại thủ ấn

tư liệu có liên quan đến nguồn gốc tiếng Tây Tạng

đã được điều chỉnh

Thông thường một vị đạo sư có nhiều danh hiệu khác nhau, nhưng do sự hiếm hoi về các tư liệu có giá trị lịch sử nên chúng ta chỉ đạt được kết quả ở một mức độ nhất định nào đó trong việc giải quyết tính chất đa diện của vấn đề lịch sử có liên hệ tới các đạo sư và thời đại của các ngài

Ngoài việc kiểm tra tư liệu một cách toàn diện và tái thẩm định các nguồn tư liệu phổ biến có nguồn

gốc Tạng ngữ, các khám phá mới cũng quan trọng

không kém trước khi cây phả hệ có thể được xem như một công cụ để xác định niên hiệu và mối quan

hệ truyền thừa giữa các đạo sư

Pháp hiệu của các đạo sư được lấy làm tiêu đề cho tám mươi tư truyền thuyết, giúp cho người đọc

dễ nhớ Tuy nhiên, cũng có một số pháp hiệu sai sót

về mặt từ nguyên ngay trong nguyên tác hay do vay

mượn từ Tạng ngữ Hậu tố “pa” đứng sau tên của các đạo sư là rút gọn của Phạn ngữ “pada” Đây là

hình thức tôn vinh một bậc thánh hay một đạo sư, hoặc để chỉ chung cho phái nam trong ngôn ngữ Tây Tạng Để xác định địa vị của một vị đạo sư, chủ yếu

Trang 16

Các vị chân sư Đại thủ ấn

phải dựa trên căn bản phương pháp tu tập của vị ấy, chứ không dựa vào địa vị trong tông phái

Ngoài ra, các danh hiệu Đại đạo sư hay Đại thành tựu giả (Mahasiddha) thật ra cũng có ý nghĩa như Đạo sư mà thôi Theo ngữ pháp của tiếng Sanskrit thì từ giống cái của Mahasiddha là Mahāsiddhā, nhưng các chi tiết ngữ pháp như thế này không

trong việc mô tả các thuật ngữ Phật giáo Tuy nhiên,

Tạng ngữ là ngôn ngữ được sử dụng để ghi lại các

truyền thuyết nên người viết cũng chua thêm vào

sau các từ Sanskrit đề tiện đối chiếu.

Các bức phác họa chân dung trong tác phẩm là

do họa sĩ Hugh R Downs thực hiện, xuất phát từ

những cảm hứng khi ông ta nghiên cứu nền hội họa

cổ truyền Tây Tạng mô tả các hành giả tu chứng

Trang 17

Các vị Chân sư Đại thủ ấn

vẽ góp ý nhưng phải giữ lại bố cục của nguyên tác nhằm không làm mất đi ý nghĩa chính hay những nét đặc trưng của tác phẩm

Trong công việc chuyển dịch các đặc điểm lịch

sử, chúng tôi mạn phép mở rộng phạm vi đề tài chứ không chỉ trình bày các nguyên tắc vật lý siêu hình

cố hữu trong khi mô tả hình tượng, do vậy có thể

có những nét vẽ được sửa đổi một cách tinh tế Việc sửa đổi một vài nét nhỏ trong hình ảnh của một số các đạo sư là để cho phù hợp với yêu cầu của những

hệ phái đặc biệt thuộc Mật tông Chúng tôi cũng có

một số nét thay đổi trong các bức họa và phần này

là trách nhiệm của họa sĩ Hugh R Downs.

Họa sĩ Hugh R Downs từng theo học môn hội

họa truyền thống Tây Tạng dưới sự hướng dẫn của

một nhà sư họa sĩ Du-già là Sherpa Au Lashe Ông

ta có kinh nghiệm trong việc diễn đạt các hình ảnh được mô tả trong kinh văn Mật tông Điều này đã

được xác nhận qua tác phẩm “Nhịp điệu làng mã” (Rhythms of a Hymalayan village), ấn hành năm 1980 tại San Fransisco, Hoa Kỳ.

Hy-Phần trình bày của ông mô tả phong thái uy nghi nhất của một đạo sư, lại nhấn mạnh vào yếu tố tu

Trang 18

Các vị chân sư Đại thủ ấn

tinh tế trong phong thái của ngài Phần chú thích bên dưới các bức minh họa được trích dẫn từ các tác phẩm Tây Tạng nhưng không rõ nguồn gốc nguyên thủy

Tôi mang ơn sự giúp đỡ của nhiều người để có được những thuận duyên hoàn thành tác phẩm này trong thời gian mười năm, đặc biệt là món nợ tích

lũy nhiều năm đối với các Lạt-ma của tôi Vì vậy, tất

cả công đức của việc thực hiện quyển sách này tôi xin cung kính hồi hướng đến quý ngài

Tôi cũng vô cùng biết ơn Lạt-ma Kalzang đã giúp

tôi trong việc ấn hành tác phẩm, ngài là người ban

cho tôi nguồn cảm hứng; ngài Chatral Rimpoche chủ biên, ngài Dujom Rimpoche đã ban phép lành cho

tác phẩm và cho phép tôi có thẩm quyền dịch thuật,

ngài Bhga Tulku truyền khẩu, các ngài Taklung Rimpoche và Sekusho Chomphel Namgyel đã giúp

tôi dịch những đoạn văn khó và tất cả những ai đã đóng góp phần hiểu biết về truyền thống của các đạo sư

Tôi cũng chân thành cảm ơn Roger Dean, Donald Lehmkuhl, Noel Cobb, Peter Cooper (Ngawong Tenzin), Peter Hansen quá cố, Georgie Downes,

Trang 19

Các vị Chân sư Đại thủ ấn

Keith Redman và đặc biệt là Meryl, vợ tôi, về những

giúp đỡ thực tiễn, những đóng góp cả công sức và tiền của cũng như sự yểm trợ tinh thần

Tôi cũng cảm tạ Tony Luthenherger, Fred Lane, Stuart Hammil và những người đã giúp tôi có những

tiện nghi sinh hoạt trong lúc di chuyển từ nơi này

đến nơi khác, thư viện Mimi Church về tư liệu các

đạo sư

Cuối cùng tôi cảm tạ ý kiến đánh giá cao của

Michele Martin về giáo pháp và các phương thức tu

tập trong tác phẩm, cũng như những góp ý quý giá

để tác phẩm được ấn hành một cách thuận lợi Đó chính là điều biết ơn nhất của tôi

KEITH DOWNMAN

Chabahil Ganeshantan Kathmandu - Nepal

Tháng Chạp - 1984

Trang 20

Các vị chân sư Đại thủ ấn

Trang 21

LỜI GIỚI THIỆU

Sức phát triển của bộ môn Tantra tại Ấn Độ

thiên về tâm lực xảy ra đồng thời với mối

đe doạ huỷ diệt ngày một lớn ở biên giới tây bắc Ấn

Độ Ngay từ đầu thế kỷ 8, khi thế lực hùng mạnh

của người Ả Rập trải dài từ Morocco đến xứ Sindh (Pakistan) thì tại Ấn Độ, phần lớn những người kế

vị đế quốc vinh quang Gupta lại bận rộn với cuộc

chiến tranh huynh đệ tương tàn, và nền văn hoá Ấn

Độ bắt đầu đi vào thời kỳ ruỗng nát

Cơ chế tôn giáo cũ mất dần hiệu lực kiểm soát, nên xã hội phải nương vào các luật lệ rất khắt khe

về đẳng cấp Do đó, nghi lễ và nền triết học kinh viện thống lãnh đời sống xã hội Không có một sức mạnh xã hội đoàn kết thống nhất để đối phó với sự

đe doạ của các đạo quân Hồi giáo cuồng tín đi đến đâu cướp phá và tàn sát đến đó

Trong khi quân Hồi tiến hành cuộc chiến tranh

huỷ diệt Phật giáo ở Trung Á thì pháp môn Tantra gia tăng ảnh hưởng, đặc biệt là ở Oddiyana thuộc

khu vực ranh giới đông bắc Ấn Độ Tại đây, triều đại

Phật giáo Pala đang thời cực thịnh.

Trang 22

Các vị chân sư Đại thủ ấn

Phải chăng do ngẫu nhiên mà trong thời kỳ chớm hoang tàn người Ấn đã nương tựa vào pháp môn

Tantra, một môn vật lý siêu hình với giáo thuyết

bất nhị tuyệt đối và giải thoát cùng với hình ảnh các vị thần dữ tợn ăn thịt, uống máu? Phải chăng

vì vô tình mà qua nhiều thế kỷ phương Tây chối bỏ

Tantra nay quay lại thừa nhận giá trị siêu việt của

nó, đem lòng tín mộ và đồng thời lo ngại sự thất

truyền của pháp môn Tantra này.

Gần 4 thế kỷ trôi qua - kể từ giữa năm 711, khi

xứ Sindh bị xâm lược, cho đến thế kỷ 12 - giáo pháp của Đức Phật Thích-ca Mâu-ni bị quân xâm lược

Thổ huỷ báng, mạo phạm Nhưng cũng chính trong giai đoạn từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ 12 lại là thời

kỳ chói lọi nhất của nền văn minh thuần tuý Hindu.

Suốt thời kỳ này, quốc gia Tây Tạng đã kịp thời

nắm bắt tinh tuý của Tantra Phật giáo và các kinh điển Mật tông chính yếu đều được dịch sang Tạng ngữ, nhờ vậy đã tránh được sự thất truyền vì các đại

tu viện và thư viện của Ấn Độ bị quân thù đốt phá

Khi thủ phủ Java trở thành thuộc địa thì đồng thời một đại tu viện được xây dựng ở Borobohur

Mặc dù những thành quả nghệ thuật ở quê nhà bị

Trang 23

Các vị Chân sư Đại thủ ấn

tông của đế quốc Pala (gồm Bengal, Bihar, Orissa và Assam ) vẫn được bảo tồn.

Các di tích đền đài tu viện do các hoàng đế triều

đại Pala xây dựng đã chứng minh giá trị nghệ thuật tuyệt vời của Mật tông Nền nghệ thuật chịu ảnh hưởng đậm đà của Tantra đã miêu tả các đặc điểm

của nền văn minh Ấn Độ thuộc thời kỳ này Những con người biểu trưng cho đặc tính, mục đích và lý tưởng của một nền văn hoá Họ là động cơ, là lực lượng điều hướng những năng lực đầy sáng tạo để làm chuyển biến cả một dân tộc và thay đổi nền móng xã hội Ấn, làm mẫu mực, và là những ngôi

sao sáng trên bầu trời huyền thuật của pháp môn Tantra Những con người ấy được tôn vinh là Đạo

sư (Siddha).

Tám mươi tư vị đạo sư này là những vị tiêu biểu, đại diện cho hàng ngàn vị khác thông suốt về pháp

môn huyền thuật Điều đáng lưu tâm là các đạo sư

này xuất thân từ nhiều giai cấp, tầng lớp xã hội khác nhau Họ có thể xuất thân từ hàng vua chúa,

quan lại, thầy tế lễ, các nhà Du-già, thi sĩ, nhạc sĩ,

thợ thủ công, nông dân hoặc một phụ nữ nội trợ, thậm chí có thể là một cô gái lầu xanh

Trang 24

Các vị chân sư Đại thủ ấn

Tám mươi tư vị đạo sư mà cuộc đời và các phương pháp tu tập của quý ngài được mô tả trong các truyền thuyết được đưa vào tác phẩm này là những

đạo sư Mật tông Phật giáo, hoàn toàn khác hẳn với các môn huyền thuật (tantra) của thần Siva và giáo phái thờ Đại Mẫu.

Trong 84 vị ấy, lừng danh nhất là các đạo sư Tilopa, Naropa, Saraha, Luipa, Ghantapa, Dombipa Họ

là những bậc chứng ngộ, những nhà Du-già khất

thực, sống lẫn lộn và hoà nhập vào tầng lớp bình dân nghèo khổ ở tận cùng đáy xã hội Các đạo sư này giáo hoá quần chúng bằng chính hành vi, thái

độ, cung cách của các ngài và sử dụng các phương pháp gây chấn động tâm linh hơn là thuyết giảng suông về giáo lý

Một số trong các vị ấy là những người chủ trương bài trừ mê tín, đập đổ tượng thờ và không chịu ép mình vào những khuôn khổ cứng nhắc Họ đánh đổ các hủ tục và tập quán xấu đã có từ lâu đời để tạo một luồng sinh khí mới và sống động cho xã hội Chế độ đẳng cấp và các nghi thức thuần tuý tôn giáo theo chủ nghĩa kinh viện tự động huỷ diệt khi các vị đạo sư này thể hiện giáo pháp bằng lối sống phóng khoáng đầy giải thoát Vì vậy, các ngài không

Trang 25

Các vị Chân sư Đại thủ ấn

viện dẫn thứ ngôn ngữ kinh viện để giáo hoá, mà bằng những ngôn từ giản dị, bình dân, dùng thổ ngữ

để viết lên những bài đạo ca trác tuyệt có nội dung đánh đổ những tư tưởng sai lệch, những điều xấu xa của xã hội, cũng như những tà kiến về tín ngưỡng.Các ngài giáo hoá những gì có liên quan đến thực tại nhiều hơn là những ý niệm siêu hình Các ngài giáo hoá lý tưởng của cuộc sống chứ không phải cách

ép xác, khổ hạnh hay xa lánh gia đình

Không một nguyên tắc chính thức nào và cũng không có một sự đồng nhất nào về hình tướng, về cung cách giáo huấn Đó chính là đặc điểm của các đấng đạo sư này

Dưới sự bảo trợ của các hoàng đế Pala vùng Đông

Ấn, nơi mà đại đa số các đạo sư sinh sống, một cuộc cách mạng đã manh nha hình thành

Nhiều đại tu viện được xây dựng hoặc được trùng

tu trở lại hay mở rộng Tuy nhiên, thái độ chỉ trích công khai của các ngài về hình thức lễ nghi rỗng tuếch của tôn giáo, chủ nghĩa kinh viện, sự bịp bợm

và thói đạo đức giả cũng như những phê phán về chế độ đẳng cấp của thời ấy có phần nhẹ nhàng hơn

so với thời kỳ của ngài Naropa ở thế kỷ 11.

Trang 26

Các vị chân sư Đại thủ ấn

Mật tông được phổ biến rộng rãi trong xã hội nhờ

một số đạo sư thuộc các thế hệ sau nắm giữ quyền hành thế tục Họ tạo ảnh hưởng sâu rộng trong đời sống nhân dân và có những hoạt động gắn liền với những biến cố lịch sử ở nhiều mức độ khác nhau

Ngoài ra, tính chất uyển chuyển linh động của Mật tông cho phép các đạo sư khai ngộ và truyền tâm ấn

cho một môn đồ khi người này vẫn giữ địa vị thế tục cũng như tài sản và các thú vui ngũ dục, như trường

hợp của đạo sư Lilapa chẳng hạn.

Nguyên tắc rộng rãi bao dung này chính là yếu

tố cơ bản có sức hút và tính thuyết phục mạnh mẽ

của pháp môn Tantra trong Phật giáo Bởi một lý do

dễ hiểu là tại Ấn Độ trải qua hàng chục thế kỷ, chủ nghĩa khoái lạc thường được xem như một phương thức để giải phóng tinh thần

Tính chất vô tổ chức cùng thái độ khai trừ các

nghi thức tôn giáo đã chiếm ưu thế trong Bí mật pháp Tuy nhiên, Mật tông vẫn giữ được sự chân

truyền cho đến ngày nay

Vốn là một pháp môn bí mật nên trải qua nhiều

thế kỷ Tantra mới được truyền ra ngoài Lai lịch

của nó cũng chỉ là những phỏng đoán nhờ dựa vào

Trang 27

Các vị Chân sư Đại thủ ấn

niên kỷ của các pháp sư Mật tông Ban đầu, Tantra

được ngụy trang dưới hình thức cầu đảo của các bộ tộc thờ Đại Mẫu, sau đó lan dần xuống các đẳng cấp

thấp hơn trong xã hội Hindu Một bản sao lục về

pháp thuật với nhiều mục đích khác nhau như chữa bệnh, trừ tà trở thành một bộ phận của các giáo phái bí mật Qua nhiều thế kỷ, khi các bản sao lục được Phạn hoá và thường là ngụy tạo hơn là chính bản gốc, các giáo phái bí mật lần lượt xóa bỏ các

vị thần của đạo Bà-la-môn cùng các nghi thức và các nguyên tắc của mật chú Cho nên càng về sau triết học của Áo nghĩa thư, các kinh điển của khoa Du-già cũng như các giáo pháp của Phật giáo Đại thừa cũng rơi vào một số phận tương tự Tuy nhiên,

có một sự chuyển hoá quan trọng là cơ cấu nghi

thức Mật giáo trở thành một hệ thống siêu hình với

mục đích giải phóng con người ra khỏi khổ đau Và

Kapalika, một giáo phái tương tự như dòng Tantra của Saiva, do nhiều tu sĩ Phật giáo hình thành Đây

là dòng Mật tông đầu tiên.

Nhưng mãi đến thế thế kỷ 4 hoặc 5, do nhu cầu

truyền thừa để giữ vững mối đạo, các kinh điển Mật tông mới được chép lại trên lá cọ Trước đó chúng chỉ

được truyền khẩu

Trang 28

Các vị chân sư Đại thủ ấn

Bộ kinh Manjusri Mulakalpa bao gồm các tư tưởng Đại thừa lẫn Kim cương Mạn-đà-la của Ngũ Phật Thiền Định, nhưng Guhyasamaja Tantra lại được xem là tác phẩm đầu tiên trong số các Tantra gốc mô tả khoa Du-già, gồm các mạn-đà-la, mật chú

và các nghi thức để triệu thỉnh một vị thần đặc biệt nào đó cùng với quyến thuộc của ngài Đây chính

là trường hợp của Guhyasamaja Có lẽ môn Tantra

này được biên soạn vào thế kỷ 6 hoặc 7, nhưng mãi

đến thế kỷ 8 mới được ngài Indrabhuti truyền ra

ngoài

Thế kỷ 8 và 9 đã chứng kiến một sự khải huyền

(revelation) của các môn Tổng trì (Major Tantras), đặc biệt là Thai tạng thừa của Phật giáo pha lẫn một số yếu tố của giáo phái thờ Đại Mẫu (Sakta) Khi kinh văn Tantra được viết ra thì không còn

giữ bí mật được nữa Có lẽ có nhiều lý do để giữ bí mật, nhưng lý do quan trọng nhất là tránh sự thù

địch đối với đạo Bà-la-môn, vốn là một tôn giáo lớn

vào bậc nhất thời ấy

Một trong những khía cạnh có tính thu hút của

Tantra Phật giáo là việc truyền trao rộng rãi pháp

tu cho mọi tầng lớp quần chúng, cả nam lẫn nữ, khác với sự độc quyền truyền thừa cho một giai cấp

Trang 29

Các vị Chân sư Đại thủ ấn

được ưu đãi trong xã hội Hơn nữa, phép tu có phần

phóng khoáng do không chịu ảnh hưởng của Tantra Sakta (Đại Mẫu) nên cho phép dùng rượu thịt và

tính giao giữa tầng lớp quý tộc với giai cấp hạ tiện

Đây là những điều cấm kỵ đối với đạo Bà-la-môn.

Một trong những thành công lớn nhất của các

nhà sư Phật giáo là biến môn Tantra thành một cái

gì đó mà xã hội đương thời có thể chấp nhận được,

và mặc dù các hình thức Tantra Phật giáo được phổ

biến vào thời ấy có phần thoả hiệp với tôn giáo lớn

(Bà-la-môn) nhưng về học thuyết cơ bản vẫn có sự

đối địch cho đến ngày nay

Chính nhờ sự thoả hiệp ấy mà Phật giáo đã thu hút được những tâm hồn vĩ đại, những học giả đạo sĩ thông thái và uyên bác có khả năng trước tác nhiều

bộ luận quan trọng về Tantra, cũng như chú giải rành mạch những điểm tối nghĩa của Tantra bằng

chính giáo pháp và các nguyên lý của Phật giáo Đại thừa Các ngài còn lược bỏ những dấu vết thô thiển của pháp môn này để tạo thành một dấu ấn lớn

Trước khi mô tả các pháp Du-già và phương thức

tu luyện của những pháp sư đa dạng này, có lẽ cần

định nghĩa một số từ Sanskrit mà ở đây chúng tôi sẽ

Trang 30

Các vị chân sư Đại thủ ấn

giữ nguyên không dịch vì không có thuật ngữ tương đương

Trước hết là từ siddha Về mặt ngôn ngữ, siddha

là người tu pháp môn Mật tông hay Tantra và đã thành tựu đạo quả, nên cũng được dịch là “thành tựu giả” (người đã thành tựu) Sự thành tựu này được gọi là siddhi Từ siddhi có hai nghĩa: một là

thần thông, hai là Phật trí, hay trí giác ngộ Do vậy

siddha thông thường có thể dịch là thánh tăng, pháp

sư, đạo sư hay kim cương sư Nhưng những từ này

không đủ sức diễn tả hết mật hạnh của các ngài Đối với một người bình thường chưa được khai tâm thì

siddha trước hết ám chỉ một con người có các phép thần thông quảng đại Nếu một hành giả Du-già có

thể đi xuyên qua tường, bay trên không trung, chữa lành các bệnh tật, biến rượu thành nước, đọc được ý nghĩ của người khác vị ấy được phong tặng danh

hiệu Siddha Nhưng cũng vị sư Du-già ấy, nếu có

tia nhìn lấp lánh vẻ điên dại trong đôi mắt, bùn đất trét đầy thân thể, hát lên những lời ngô nghê khiến người nghe phải rơi lệ sự xuất hiện bất ngờ của vị

ấy khiến cho một đám đông đang ẩu đả phải chấm dứt ngay lập tức; vị ấy có thể khiến cho một phụ nữ hiền thục đoan trang từ bỏ mái ấm gia đình, dùng

Trang 31

Các vị Chân sư Đại thủ ấn

bình bát là chiếc sọ người, chuyện trò với các loài chim chóc, ngủ chung với người bệnh hủi, quở mắng những kẻ mị dân và những người có hành vi trái với luân thường đạo lý, giữa búi tóc bện dài hàng thước

có đính một viên kim cương - biểu tượng cho sự kiên

cố và tánh bất hoại: vị ấy chính là Mahasiddha Cho

nên nếu chỉ căn cứ vào hình tướng bên ngoài của các vị này, phàm phu không thể nhận biết được mục đích của họ qua những hành động cử chỉ dị thường

Các vị siddha, hay Kim cương sư Mật tông có thể

xuất hiện trong nhiều hình tướng hoặc ở những địa

vị xã hội khác nhau Có thể đó là một kẻ bán rong, một vị quan, một ông hoàng, tu sĩ, đày tớ, nô lệ, hay một kẻ có cuộc sống lang thang đây đó, thậm chí có thể là một cô gái lầu xanh

Tiếp đến là từ saddhana, có thể dịch là “tu pháp”

Đó là hành động hợp nhất giữa thân, khẩu và ý do

nguyện lực của vị Bồ Tát Saddhana còn là giới luật

tu tập của một hành giả Du-già được thầy truyền trao Saddhana cũng là nghi thức thiền định của một tu sĩ đã được truyền giới Như vậy, saddhana rất quan trọng đối với một Tantrika, tức hành giả

tu Mật tông Trong thực tế, saddhana chính là toàn

bộ cuộc đời của hành giả Vị này sẽ không thể thâm

Trang 32

Các vị chân sư Đại thủ ấn

nhập vào saddhana một khi còn vi phạm lời thệ

nguyện lúc mới được khai tâm

Việc thực hiện saddhana phải hoàn toàn dựa trên căn bản vô ngã để cống hiến toàn bộ cho sự

giác ngộ và đem tri kiến giải thoát này mà thành tựu đạo quả cho người khác

Trong ngôn ngữ Tây Tạng, saddhana được dịch

là Sgrub Thabs, chỉ có nghĩa là “thành tựu pháp”,

tức là pháp môn tu tập để đạt tới đạo quả

Tùy theo nhân cách của từng vị mà saddhana

của mỗi vị có phần khác nhau Dù ý nghĩa hạn chế

nhưng tựu trung thì các saddhana là những phương

cách thiền định hoàn bị và sáng tạo Mục đích rốt

ráo của saddhana là Mahamudrasiddhi, nghĩa là Thần thông Đại thủ ấn.

Siddhi bao gồm hai nghĩa là thần thông và sự giác ngộ Từ “giác ngộ” ở đây được định nghĩa là

“nắm hiểu rốt ráo tánh nhất quán của các pháp”, tức là tri kiến bất nhị về thật tánh của các pháp.

Trí phát sinh cùng lúc với Bi Sự hội nhập giữa

Bi và Trí chính là Mahamudrasiddhi Nhập vào Ba thân, có đủ Tứ trí thì gọi là Mahamudra.

Trang 33

Các vị Chân sư Đại thủ ấn

Mahamudra là một thuật ngữ siêu hình khó hiểu Trong Tantra Mẹ (mother tantra), mahamudra là biểu tượng của chân đế.

Theo hệ phái Áo Vãi (Kargytpa) hay là dòng Đại thủ ấn, mà tiêu biểu là các đạo sư Tilopa, Naropa và Marpa, thì Mahamudrasiddhi gồm 8 đại thần lực

Nhưng truyền thuyết nói rằng ngài Bồ Tát Long

Thụ truyền cho ngài A-xà-lê Long Trí 6 món thành

tựu như sau:

1 Thấu suốt các pháp

2 Trí huệ thiện xảo

3 Biến hoá thần thông

4 Phương tiện thù thắng

5 Thần túc

6 Phép luyện đan dược trường sinh bất tử

Những pháp thuật như thế có thể được diễn dịch một cách hình tượng về mặt văn chương tùy theo đức tin và trí tuệ của mỗi chúng sinh Do đó sự hiển lộ thần thông của một vị đạo sư như đi xuyên tường chẳng hạn, chỉ là phương tiện để đem lại niềm tin vào pháp lực đối với kẻ kém trí, nhưng đồng thời cũng chứng minh rằng bản chất của thực tướng cũng

Trang 34

Các vị chân sư Đại thủ ấn

Chúng ta cần hiểu rằng tất cả các pháp thuật thần thông ấy đều dựa trên một nguyên lý cơ bản:

“Các pháp đều do tâm tạo.” Đối với một đạo sư không

có sự phân tách riêng biệt giữa thân và tâm, giữa tinh thần và vật chất, giữa ta và người khác.

Vì thế nên các ngài có thể trực nhận được đau khổ của người khác và có thể thực hiện các phép lạ bằng cách vận hành các nguyên tố đất, nước, lửa, gió như những phương tiện cứu độ

Ngay cả một hành giả còn sơ cơ cũng có thể đạt được một số thần thông trong lúc thiền định, nhưng quan trọng nhất là sau khi xả thiền các thần thông

ấy không bị mất Đó mới chính là dấu hiệu của sự chứng đắc

Hành giả phải khéo vận dụng các phương tiện thiện xảo để an tâm mình và người khác, giúp cho các pháp lành tăng trưởng và làm biến đổi ý thức một cách tự phát Vì thần thông sẽ mất đi khi hành giả bị vọng tưởng che lấp, còn trực giác nhạy bén do thiền định lâu ngày sẽ phát sinh

Trong Mật tông các thần lực được tượng trưng bằng hình tướng của bốn thiên nữ (dakini) cai quản bốn đại (đất, nước, lửa, gió)

Trang 35

Đại sư thứ nhất Luipa - Nhà sư Du-già ăn lòng cá thối

Như chó dại dính mật ong nơi mũi Cuồng điên tìm vị ngọt khắp nơi nơi Hãy tiết lộ bí mật của một Lạt-ma Cho kẻ dại khờ kia hiểu rõ Với một con người nhạy cảm Ngộ được chân lý vô sinh Tia nhìn thoáng qua của một Lạt-ma

Là tia chớp thanh tịnh Soi sáng và huỷ diệt ảo ảnh Như con voi đốn ngã quân thù Bằng chiếc vòi tựa gươm đao

Truyền thuyết

Thuở nọ, tại đảo quốc Tích Lan (Sri Lanka),

sau khi quốc vương băng hà, theo truyền thống, thái tử thứ nhất sẽ kế vị vua cha Nhưng các quan thiên văn xét thấy rằng muốn đất nước được an bình thì cần phải trao ngôi báu cho người con thứ Vì vậy, vị hoàng tử trẻ tuổi nghiễm nhiên thành người trị vì cả vương quốc Tích Lan

Mặc dù sống trong cảnh lộng lẫy xa hoa, được cung phụng đầy đủ các món ngon vật lạ, nhưng vị

Trang 36

Các vị chân sư Đại thủ ấn

vua trẻ vẫn cảm thấy chán chường quyền lực và sự giàu sang Bởi xét cho cùng thì nhà vua chẳng được

gì thêm ngoài hai thứ ấy! Và niềm khao khát duy nhất của ngài là thoát khỏi cảnh ràng buộc này.Rủi thay, trong lần đầu bỏ trốn, nhà vua trẻ bị bắt lại và bị xiềng chặt vào chiếc ngai bằng một sợi xích vàng Sau đó, nhờ đút lót cho lính canh, nhà vua lại thoát ra khỏi hoàng cung cùng một người hầu

Ngài đã tưởng thưởng một cách hào phóng cho người hầu cận trung thành trước khi rời bỏ Tích

Lan để tìm đến Ramesvaram, nơi đức vua Rama

đang trị vì Tại đây, ngài đã đổi chiếc vương miện bằng vàng để lấy một da dê và bộ vương phục quí giá để lấy một bộ quần áo rách nát Kể từ đó, ngài trở thành một đạo sĩ du phương

Vị đạo sĩ vốn là cựu vương này thân tướng oai nghiêm đẹp đẽ nên không mấy khó khăn trong việc khất thực độ thân

Du hành khắp xứ Ấn Độ, cho đến một hôm tình

cờ ngài đặt chân đến vùng Phật tích Vajrasana, nơi xưa kia thái tử Tất-đạt-đa tu thành chánh quả Tại đây, ngài được gặp các nữ Du-già hành giả (Dakini)

truyền cho tâm pháp

Trang 37

Các vị Chân sư Đại thủ ấn

Rời Vajrasana, ngài đi đến Pataliputra (thành

Hoa-thị), kinh đô của nhà vua nằm ven bờ sông Hằng Ban ngày ngài đi khất thực, đêm về nghỉ ngơi nơi mộ địa

Một bữa nọ, trong khi đi khất thực ngài tình cờ dừng chân trước ngưỡng cửa của một thanh lâu Chính nghiệp lực của ngài đã dun rủi đưa đến sự

kỳ ngộ này

Một cô kỹ nữ lầu xanh mà trong tiền kiếp từng

là một dakini chăm chú nhìn vị đạo sĩ một hồi lâu

rồi thốt lên rằng: “Các căn của ông quả là khá thanh tịnh, chỉ hiềm một nỗi tính kiêu mạn vi tế về dòng dõi hoàng tộc vẫn còn phảng phất trong ông.”

Nói xong, cô đổ một ít cháo ôi thiu vào bình bát của ngài

Đi được một quãng, vị đạo sĩ trút thứ cháo lỏng bỏng đã hôi thối không còn ăn được nữa xuống một rãnh nước ở ven đường Cô gái nhìn theo thấy vậy bèn quát lên một cách giận dữ: “Làm thế nào ông có

thể đạt đến Niết-bàn khi tâm ông còn phân biệt sự

dơ sạch của thức ăn? ”

Nghe lời trách mắng như thế, vị đạo sĩ cảm thấy xấu hổ và chợt nhận ra rằng ngài chưa hoàn toàn

Trang 38

Các vị chân sư Đại thủ ấn

dứt trừ hết các phiền não trong tâm Và ngài nhận thức được rằng tâm suy lường phân biệt là trở ngại chính khiến ngài khó đạt tới Phật tính

Ngài liền đi về phía sông Hằng, liên tục thiền quán ròng rã suốt 12 năm để diệt vọng niệm phân biệt và các kiến chấp

Hằng ngày, ngài đi quanh bờ biển lượm các ruột

cá mà ngư dân vứt bỏ rải rác Pháp tu của ngài là vận tâm quán tưởng thứ ruột cá tanh hôi đến tởm lợm ấy trở thành một loại tiên dược thanh khiết Ngài quán chiếu các pháp thế gian là duyên hợp, bản chất của chúng chỉ là một sự rỗng không

Bởi hạnh tu ấy, nhân dân quanh vùng gọi ngài là

Luipa, có nghĩa là “người ăn ruột cá”.

Sau 12 năm tinh cần tu luyện, ngài Luipa đã

chứng đắc thần thông và giác ngộ Ngài trở thành một vị Guru nổi tiếng, và trong các truyền thuyết về

Darikapa và Dengipa cũng có nhắc đến ngài

Hành trì

Truyền thuyết về ngài Luipa đã khôi phục lại

một số sự kiện trùng lắp gần giống như trường hợp

của đức Phật Thích-ca Mâu-ni Luipa là một vị vua

Trang 39

Các vị Chân sư Đại thủ ấn

từ bỏ ngai vàng và các thú vui ngũ dục để đi tìm sự giác ngộ, và ngài cũng đã ra đi trong một đêm tối cùng với một người hầu, để rồi sau đó trở thành một

tu sĩ Cả hai đều đánh đổi vương miện và hoàng bào

để lấy một bộ y phục tồi tàn của dân nghèo Điều

ấy nói lên quyết tâm từ bỏ địa vị cao sang để đi tìm chân lý giải thoát

Có điều là Luipa đã sinh ra vào thời kỳ Phật không

còn tại thế Do đó ngài không gặp Phật để được người trực tiếp trao truyền giới luật và được hướng dẫn các pháp tu đơn giản nhưng có hiệu quả lớn

Để có thể đoạn trừ tạp nhiễm vi tế, vị Kim cương Thánh nữ đã đưa ra phương pháp giải trừ các kiến chấp phân biệt trong tâm của Luipa, vì đó là nguyên

nhân đưa hành giả trở lại sáu nẻo luân hồi Tuy nhiên, muốn thoát khỏi sinh tử luân hồi trong hiện kiếp cần phải có pháp môn thù thắng khế hợp với căn cơ của hành giả

Luipa được xem là bậc thầy của Tantra Mẹ,

nhưng khai ngộ cho ngài lại là một kỹ nữ mà trong

tiền kiếp vốn là một nữ Du-già hành giả (Dakini).

Vị Dakini đã thấu suốt được tâm kiêu mạn vi tế

về dòng dõi, chủng tộc, đẳng cấp còn đọng lại trong

Trang 40

Các vị chân sư Đại thủ ấn

tâm của Luipa, nên qua cách cúng dường cháo thiu

bà đã gián tiếp chỉ cho ngài pháp môn đối trị: Pháp môn dùng thức ăn bất tịnh.

Để đạt tới tâm siêu xuất, cần nuôi dưỡng và kết thân với cái mà ta căm ghét nhất Cách tu tập này hình thành tâm bất nhị, không phân biệt, bởi

vì phải biến mọi kiêu hãnh, phân biệt, định kiến

thành những hạnh lành, giống như ngài Luipa biến

ruột cá tanh hôi thành tiên dược

Nếu hành giả không lãnh hội được chân tính rỗng không thường hằng trong từng xúc niệm liền lập tức rơi vào đối đãi phân biệt, mà cảnh giới nhị phân là cảnh giới của sáu nẻo luân hồi

Để đạt tới cảnh giới Niết-bàn bất nhị, cần phải

đạt được tâm bất nhị Bởi nhờ nơi tâm bất nhị mà hành giả có thể nhận rõ được mùi vị chung của tất

cả các pháp Mùi vị ấy là mùi vị giải thoát thanh tịnh

Xem xét pháp tu của ngài Luipa, ta sẽ thấy được

rõ hơn nếu hiểu được cá biểu trưng cho điều gì trong

xã hội của thời ấy

Trước hết, cá cũng là một chúng sinh hữu tình

Đối với đạo Bà-la-môn, ăn cá đồng nghĩa với sự chối

Từ khóa » Các Vị Chân Sư đại Thủ ấn Pdf