Cách Thức Suy Niệm Kinh Mân Côi

C�ch Thức Suy Niệm Kinh M�n C�i

N

g�y 18/6/2003, t�i đ� nhận được điện thư của một em nữ huynh trưởng Thiếu Nhi Fatima ở Pomona hỏi về việc �suy niệm c�c mầu nhiệm� M�n C�i, v�

  1. �em kh�ng biết l�m sao để suy niệm�,
  2. �l�m sao để bắt đầu việc suy niệm�,
  3. �trong khi suy niệm th� l�m những g�?�.

Tổng Quan Vấn Đề Suy Niệm

Trước hết, ch�ng ta n�n ph�n biệt một ch�t giữa suy nghĩ (thinking, reasoning, inquiring, speculative) v� suy niệm (meditating). T�c động suy nghĩ v� suy niệm kh�c nhau ở cả về đối tượng (oo�ect), mục đ�ch (goal) lẫn nội dung (content) của m�nh.

Suy nghĩ l� t�c động t�m hiểu những vấn đề tự nhi�n theo khoa học, như suy nghĩ về triết l�, thần học, t�m l�, x� hội, ch�nh trị, kinh tế, văn h�a, gi�o dục, h�n nh�n, gia đ�nh v.v. để t�m hiểu tường tận từng vấn đề theo � nghĩa s�u xa, gi� trị đ�ch thực v� t�c dụng cụ thể của mỗi vấn đề li�n quan đến việc thăng tiến c� nh�n con người v� gia đ�nh con người.

C�n suy niệm, n�i chung, thường được hiểu l� một t�c động đạo đức, t�c động t�m hiểu những vấn đề thi�ng li�ng, li�n quan đến niềm tin của mỗi người, như về vấn đề đau khổ, sự chết, đời sau, cứu độ v.v., để nhờ đ� c� thể nhận thức được r� r�ng ơn gọi l�m người đ�ch thực của m�nh hầu ăn ngay ở l�nh hơn, hy sinh phục vụ hơn, nhẫn nại chịu đựng hơn.

Tuy nhi�n việc suy niệm của Kit� gi�o kh�ng phải chỉ tập trung v�o nguy�n t�c động suy tư những vấn đề thi�ng li�ng, những vấn đề của niềm tin, m� c�n bao gồm cả t�c động cầu nguyện nữa, bằng kh�ng, t�c động suy niệm ấy cũng chỉ l� t�c động suy nghĩ về thần linh m� th�i, tương tự như t�c động suy nghĩ về những vấn đề kh�c vậy, chỉ kh�c nhau ở t�nh c�ch của đối tượng, tức thay v� suy nghĩ về vấn đề tự nhi�n th� suy nghĩ đến vấn đề si�u nhi�n.

Đ� l� l� do, khi suy niệm về Lời Ch�a chẳng hạn, Kit� hữu bao giờ cũng phải kết th�c bằng lời cầu nguyện theo những g� m�nh vừa suy niệm, chứ kh�ng phải chỉ suy xem Lời Ch�a dạy c� � nghĩa g�, cần phải �p dụng v�o đời sống ra sao, v� m�nh đ� sống Lời Ch�a dạy tới đ�u v.v., rồi th�i. Nếu chấm dứt ở đ�y, nghĩa l� chỉ suy nghĩ về Lời Ch�a hay t�m hiểu Lời Ch�a m� kh�ng cầu nguyện sau đ�, th� chẳng kh�c g� hạt giống rơi tr�n vệ đường, sỏi đ� hay bụi gai, sẽ kh�ng bao giờ v� kh�ng thể n�o sinh hoa kết tr�i như hạt rơi v�o chỗ đất tốt (x Mt 13:4-8).

Một th� dụ điển h�nh nữa cho thấy t�c động suy niệm của Kit� hữu l� t�c động bao giờ cũng gồm cả t�c động cầu nguyện được t�m thấy ở nơi c�c ngắm M�n C�i, v� ở phần cuối của mỗi ngắm đều c� một lời cầu xin. Chẳng hạn: �Thứ năm th� ngắm, Đức Ch�a Gi�su chịu chết tr�n c�y Th�nh Gi�, ta h�y xin cho được đ�ng đanh x�c thịt v�o Th�nh Gi� Ch�a�. Qua ngắm thứ năm M�a Thương n�y, cũng như c�c ngắm kh�c theo kiểu Việt Nam (v� kiểu Mỹ kh�ng hề đề cập đến phần thứ hai), ch�ng ta thấy r� c� hai phần r� rệt, phần nhất l� phần suy niệm, hay suy �ngắm� cũng vậy, suy ngắm �Đức Ch�a Gi�su chịu chết tr�n c�y Th�nh Gi� v� phần thứ hai l� phần cầu nguyện, hay cầu �xin� cũng thế, cầu xin �cho được đ�ng đanh x�c thịt v�o Th�nh Gi� Ch�a�.

Như thế, việc suy niệm của Kit� gi�o l� t�c động suy nghĩ v� cầu nguyện, suy trước cầu sau, đ�ng hơn, suy nghĩ để cầu nguyện. Tự bản chất của m�nh ấy, suy niệm thực sự l� khởi điểm của việc cầu nguyện, l� cửa ng� đi v�o đời sống cầu nguyện, l� bậc cầu nguyện thứ nhất trong ba bậc cầu nguyện của Kit� gi�o: suy niệm (meditation), chi�m niệm (contemplation) v� thần hiệp (union).

Thật vậy, cầu nguyện kh�ng phải l� một việc tầm thường m� l� cả một nghệ thuật v� l� một tiến tr�nh, chẳng những vượt tr�n tất cả mọi nghệ thuật v� tiến tr�nh tr�n đời n�y, kể cả nghệ thuật gi�o dục v� tiến tr�nh th�nh nh�n l� những g� vốn kh� khăn nhất, tinh tế nhất v� linh thi�ng nhất, m� c�n l� việc li�n hệ đến phần rỗi đời đời của Kit� hữu nữa. Bởi v�, cầu nguyện ch�nh l� t�c động linh hồn giao tiếp với �Thi�n Ch�a l� Thần Linh� (Jn 4:24), trước hết bằng tr� kh�n hướng về Ch�a qua việc suy niệm, để linh hồn mỗi ng�y một � thức niềm tin của m�nh, từ từ đi đến chỗ l�ng muốn của họ thực sự cảm nghiệm thần linh, một cảm nghiệm l� bản chất của việc chi�m niệm, l�m cho họ lu�n khao kh�t Ch�a, nhờ đ�, nhờ khả năng chi�m niệm hay cảm nghiệm thần linh n�y, nhờ l�ng muốn lu�n kh�t kh�t Ch�a ấy, sự sống của linh hồn sẵn s�ng đ�p ứng trọn vẹn tất cả những t�c động thần linh, những đ�i hỏi thần linh, những giới luật thần linh, ở mọi nơi v� trong mọi l�c, tức l� linh hồn chi�m niệm tiến tới tuyệt đỉnh của đời sống cầu nguyện, cũng ch�nh l� tầm mức th�nh thiện, đ� l� tầm mức được n�n một với thần linh, với Thi�n Ch�a, hay được thần hiệp.

Tuy nhi�n, để biết chắc chắn linh hồn đ� thực sự đạt đến bậc cầu nguyện thượng thặng n�y, đạt đến độ �c�c con ở trong Th�y v� Th�y ở trong c�c con� (Jn 15:5) th� phải xem họ c� �sinh mu�n v�n hoa tr�i� chứng nh�n t�ng đồ hay chăng; nếu kh�ng, đời sống cầu nguyện của họ, d� sốt sắng đến đ�u, đến xuất thần ngất tr�, thậm ch� c� l�n tới tầng trời thứ ba như Vị T�ng Đồ D�n Ngoại Phaol� (x 2Cor 12:2), cũng chẳng kh�c g� như t�nh trạng của một người c� đủ mọi ơn lạ phi thường xuất ch�ng m� kh�ng c� đức mến cũng chỉ l� hư kh�ng (x 1Cor 13:1-3), hay như t�nh trạng của một c�y vả xum xu� hoa l� c�nh nhưng kh�ng c� tr�i, đ�ng bị nguyền rủa (x Mt 21:18-19), hoặc như người con cả ở nh� với cha, kh�ng hề tr�i lệnh cha bao giờ m� vẫn l� đứa con hoang đ�ng chẳng hiểu cha g� hết (x Lk 15:29,31).

Sau đ�y l� t�m lược bản chất v� tiến tr�nh cầu nguyện theo tu đức Kit� gi�o:

Cầu nguyện l� t�c động giao tiếp thần linh

1. Qua việc suy niệm bằng tr� kh�n (� thức � đức tin);

2. Qua việc chi�m niệm bằng l�ng muốn (Khao kh�t � đức cậy);

3. Qua việc thần hiệp bằng sự sống (Mật thiết � đức mến).

Linh hồn thần hiệp đạt đến tầm v�c Ch�a Kit�, phản ảnh Ng�i như một nh�n chứng sống động

Linh hồn c�ng tiến s�u v�o đời sống cầu nguyện linh hồn c�ng thấy m�nh trở th�nh những con người �t�n thờ đ�ch thực�, những người t�n thờ Thi�n Ch�a �trong Thần Linh v� ch�n l�� (x. Jn 4:23-24), được thể hiện qua việc cầu nguyện một c�ch đơn giản hơn v� thanh tho�t hơn.

Đơn giản hơn, ở chỗ, họ kh�ng cần �lảm nhảm� v� kh�ng c�n �nhiều lời� nữa (x Mt 6:7), như khi họ mới bước v�o đời sống thi�ng li�ng, đời sống cầu nguyện, l�c m�, ở v�o tr�nh độ cầu nguyện bấy giờ, họ cảm thấy họ cần phải đọc hết kinh n�y đến kinh kia, đọc đủ bộ những g� họ nghĩ l� cần thiết họ mới y�n t�m, mới xong từng lần cầu nguyện. Tuy nhi�n, n�i như thế kh�ng c� nghĩa l� một khi l�n đến bậc cầu nguyện cao th� kh�ng cần hay kh�ng c�n khẩu nguyện nữa, song khẩu nguyện bấy giờ đối với họ kh�ng phải l� đường lối, l� phương tiện để họ đến với Thi�n Ch�a, gặp gỡ Thi�n Ch�a, tr�i lại, l� b�y tỏ nỗi l�ng khao kh�t thần linh của họ, thể hiện tất cả � thức đức tin của họ. C� thể n�i, khẩu nguyện của những linh hồn đ� tiến cao trong đời sống cầu nguyện l� �những lời than kh�n tả� (Rm 8:26), những lời than phản ảnh Kinh Lạy Cha của Ch�a Gi�su (x Mt 6:9-13) hay Ca Vịnh Ngợi Khen của Mẹ Maria (x Lk 1:46-55), những lời than rất đơn sơ nhưng hết sức s�u xa v� gồm t�m tất cả mọi sự, những lời cần phải lập đi lập lại nhiều lần như Kinh K�nh Mừng, hay như lời tuy�n xưng ba lần của T�ng Đồ Ph�r� b�n bờ hồ Tib�ria trước Đấng Phục Sinh: �Lạy Th�y, Th�y qu� r� con y�u mến Th�y� (Jn 20:15-17).

Thanh tho�t hơn ở chỗ họ chẳng những kh�ng c�n bị chi phối bởi c�c lời lẽ cầu nguyện nữa m� cũng kh�ng c�n bị giới hạn bởi ho�n cảnh thuận tiện li�n quan đến nơi chốn hay thời gian cầu nguyện nữa, v� đối với linh hồn đ� l�n đến bậc cầu nguyện cao, đ� thực l�ng khao kh�t Thi�n Ch�a, đến nỗi chỉ c� một m�nh Ng�i mới l� tất cả mọi sự của họ v� cho họ, tức đến nỗi họ thực sự cảm thấy họ kh�ng thể n�o sống m� kh�ng c� Ng�i, th� l�c n�o họ cũng c� thể giao tiếp với Thi�n Ch�a, cũng c� thể cầu nguyện. Đối với họ, với linh hồn li�n lỉ giao tiếp với Thi�n Ch�a bằng l�ng khao kh�t thần linh, th� kh�ng c�n khoảng c�ch giữa cầu nguyện v� hoạt động. Đang hoạt động, nếu cần phải tạm ngưng ngay để tham dự tức thời v�o giờ cầu nguyện chung, như tham dự buổi đọc kinh hay tham dự Phụng Vụ, họ vẫn giữ được t�m hồn bằng an, kh�ng cần phải trải qua giai đoạn chuyển tiếp của việc trấn an t�m hồn, lắng đọng � thức, mới c� thể phần n�o tr�nh khỏi t�nh trạng bị lo ra chia tr� trong khi cầu nguyện. Thậm ch� c�ng bận rộn l�m việc, c�ng bị thử th�ch đau khổ, họ lại c�ng gắn b� với Thi�n Ch�a hơn, lại c�ng được dịp để b�y tỏ, để thể hiện l�ng họ chỉ muốn sống cho Ng�i, Đấng đ� y�u thế gian đến ban Con Một m�nh (x Jn 3:16) v� kh�ng dung tha Con v� họ (x Rm 8:32). Tấm gương cầu nguyện li�n lỉ v� cầu nguyện vượt thời kh�ng (beyond time and place) n�y được thấy sống động nhất v� hiển nhi�n nhất nơi Vị T�ng Đồ D�n Ngoại Phaol� khi Ng�i tuy�n bố kh�ng g� c� thể l�m ch�ng ta, đặc biệt nhất l� Ng�i, t�ch khỏi t�nh y�u Ch�a Kit� (x Rm 8:35-39).

C�ch Thức Suy Niệm Kinh M�n C�i

Theo cấu tr�c chuy�n biệt của m�nh, Kinh M�n C�i l� một kinh nguyện c� hai phần r� rệt, phần khẩu nguyện v� phần t�m nguyện. Phần khẩu nguyện l� phần đọc c�c kinh nguyện, đặc biệt Kinh K�nh Mừng l� kinh ch�nh yếu, kinh được lập đi lập lại 10 lần ở mỗi Mầu Nhiệm M�n C�i. Phần t�m nguyện l� phần suy niệm c�c Mầu Nhiệm M�n C�i cũng l� Mầu Nhiệm Ch�a Kit�. Hai phần n�y l�m n�n Kinh M�n C�i như x�c với hồn l�m n�n bản t�nh con người, đến nỗi, thiếu một trong hai sẽ kh�ng c�n phải l� v� được gọi l� Kinh M�n C�i nữa. Trong T�ng Thư Kinh M�n C�i Trinh Nữ Maria của m�nh, Đức Th�nh Cha Gioan Phaol� II, ở đoạn 12, đ� lập lại � tưởng của Đức Gi�o Ho�ng Phaol� VI về việc đọc Kinh M�n C�i m� kh�ng suy ngắm Mầu Nhiệm M�n C�i th� như x�c kh�ng hồn.

Thế nhưng, vấn đề độc nhất v� nhị của Kinh M�n C�i, một đặc t�nh nổi bật v� l� một đặc t�nh ho�n to�n kh�ng giống với bất cứ một kinh nguyện n�o kh�c ở đ�y đ� l� t�nh c�ch c� vẻ m�u thuẫn v� đối ngược giữa khẩu nguyện v� t�m nguyện của Kinh M�n C�i. Bởi v�, trong khi khẩu nguyện đọc �K�nh Mừng Maria đầy ơn ph�c� th� t�m nguyện lại suy về đủ thứ �Mầu Nhiệm Ch�a Kit�� kh�c nhau. Ch�c tụng (khẩu nguyện) người n�y (Mẹ Maria) m� lại nh�n ngắm (t�m nguyện) người kia (Ch�a Kit�, Con Mẹ). Đ� l� l� do, việc lập đi lập lại 10 lần Kinh M�n C�i c� vẻ đơn điệu v� nh�m ch�n, cộng th�m việc đọc một đ�ng suy một nẻo như thế, tự bản chất đ� c� t�nh c�ch �chia tr� rồi, lại c�ng l�m cho việc lần hạt M�n C�i hay đọc Kinh M�n C�i, nếu kh�ng hết sức � tứ, như kinh nghiệm cho thấy, trở th�nh m�y m�c. Bởi vậy, một khi giải quyết được vấn đề �chia tr� của ch�nh Kinh M�n C�i (đọc một đ�ng suy một nẻo) th� hiện tượng �chia tr� nơi con người lần hạt M�n C�i cũng sẽ được chữa trị, v� cốt l�i của vấn đề C�ch Thức Suy Niệm Kinh M�n C�i sẽ được s�ng tỏ.

Trước hết, vấn đề n�y được giải quyết với � thức Ch�a Kit� thực sự l� t�m điểm của Kinh M�n C�i, như ch�ng ta đ� chia sẻ với nhau ở b�i về đề t�i n�y trước đ�y. M� nếu Ch�a Kit� l� t�m điểm của Kinh M�n C�i th� quả thực cầu Kinh M�n C�i n�i chung v� đọc Kinh K�nh Mừng n�i ri�ng l� t�c động �c�ng với Mẹ Maria chi�m ngưỡng dung nhan Ch�a Kit��, đ�ng như Đức Th�nh Cha Gioan Phaol� II đ� định nghĩa trong T�ng Thư Kinh M�n C�i Trinh Nữ Maria của Ng�i ở đầu đoạn 3. Vậy phương ph�p hay c�ch thức cầu Kinh M�n C�i tuyệt vời nhất v� xứng hợp nhất đ� l� c�ng Mẹ Maria chi�m ngưỡng Ch�a Kit� nơi c�c Mầu Nhiệm M�n C�i.

Bởi thế, mỗi lần cầm tr�ng hạt M�n C�i l�n để sửa soạn cầu Kinh M�n C�i, ch�ng ta h�y nhớ rằng ch�ng ta sắp sửa c�ng với Mẹ Maria chi�m ngưỡng dung nhan Ch�a Kit�. Để rồi, mỗi lần đọc lời �K�nh Mừng Maria đầy ơn ph�c� l� ch�ng ta c�ng Mẹ b�y tỏ đức tin của ch�ng ta v�o �Gi�su con l�ng b� gồm ph�c lạ� ở mỗi một Mầu Nhiệm Ch�a Kit� được ch�ng ta chi�m ngắm bằng con mắt của Mẹ v� tưởng niệm bằng con tim của Mẹ. Chỉ khi n�o ch�ng ta biết chi�m ngưỡng dung nhan Ch�a Kit� bằng con mắt của Mẹ Maria, v� tưởng niệm Mầu Nhiệm Ch�a Kit� bằng con tim của Mẹ Maria, ch�ng ta mới c� thể thực sự v� ho�n to�n cảm nhận được Thực Tại Thần Linh của c�c mầu nhiệm ấy, tức mới c� thể cảm nhận được ch�nh Ch�a Kit�, Lời Nhập Thể của ch�ng ta, Emmanuel của ch�ng ta, Vị Thi�n Ch�a ở giữa nh�n loại ch�ng ta (x Mt 1:23; Is 7:14), ở c�ng Gi�o Hội cho đến tận thế (x Mt 28:20), v� ở trong mỗi chi thể Kit� hữu c�nh nho của Người để sinh mu�n v�n hoa tr�i (x Jn 15:5).

Thế nhưng, l�m thế n�o để ch�ng ta c� thể chi�m ngưỡng dung nhan Ch�a Kit� bằng con mắt của Mẹ Maria, v� tưởng niệm Mầu Nhiệm Ch�a Kit� bằng con tim của Mẹ Maria?

Trước hết, �chi�m ngưỡng dung nhan Ch�a Kit� bằng con mắt của Mẹ Maria�. Nếu đ�i mắt của Mẹ Maria l�c n�o cũng �chi�m ngưỡng dung nhan Ch�a Kit�� Con Mẹ, ở chỗ, �nh mắt Mẹ l�c n�o cũng theo d�i từng h�nh vi cử chỉ v� lời n�i của Vị Thi�n Ch�a L�m Người Con Mẹ trong thời gian 30 năm được ở s�t b�n Người v� phục vụ Người, m� c�n ở chỗ tr� kh�n của Mẹ lu�n tưởng nhớ đến Người v� l�ng Mẹ lu�n gắn b� với Người trong thời gian 3 năm xa c�ch Người, cho đến khi đứng dưới c�y thập tự gi� của Người (x Jn 19:25), th� �chi�m ngưỡng dung nhan Ch�a Kit� bằng con mắt của Mẹ Maria� nghĩa l� việc Kit� hữu ch�ng ta hướng về Ch�a Kit� bằng t�m t�nh của Mẹ Maria. C� cầu Kinh M�n C�i với t�m t�nh của Mẹ Maria ấy, mỗi lần đọc Kinh K�nh Mừng đến c�u �V� Gi�su con l�ng b� gồm ph�c lạ�, ch�ng ta mới cảm thấy t�m t�nh Mẹ Maria ra sao trước Mầu Nhiệm Ch�a Kit� được Mẹ bộc lộ qua b�i Ca Vịnh Ngợi Khen của Mẹ: �Linh hồn t�i ngợi khen Ch�a, v� l�ng tr� t�i h�n hoan trong Thi�n Ch�a Đấng cứu độ t�i. Ng�i đ� thương đến phận thấp h�n t�i tớ Ng�i, từ nay mu�n đời sẽ khen t�i diễm ph�c. Thi�n Ch�a l� Đấng to�n năng đ� l�m cho t�i những điều kỳ diệu, danh Ng�i ch� th�nh� (Lk 1:46-49).

Như thế, �chi�m ngưỡng dung nhan Ch�a Kit� bằng con mắt của Mẹ Maria� qua việc cầu Kinh M�n C�i l� c�ng Mẹ Maria �Ngợi Khen Ch�a�, đ�ng như Đức Th�nh Cha Gioan Phaol� II đ� cảm nhận v� chia sẻ ở ngay đoạn thứ nhất Bức T�ng Thư Kinh M�n C�i Trinh Nữ Maria: �Kinh M�n C�i c�n l� tiếng vọng của lời Mẹ Maria cầu nguyện, đ� l� Ca Vịnh Ngợi Khen bất hủ của Mẹ về c�ng cuộc của Việc Nhập Thể cứu chuộc được bắt đầu trong cung l�ng trinh nguy�n của Mẹ�.

Sau nữa, �tưởng niệm Mầu Nhiệm Ch�a Kit� bằng con tim của Mẹ Maria�. Nếu �con tim của Mẹ Maria� đ�y biểu hiệu cho đức tin của Mẹ th� �tưởng niệm Mầu Nhiệm Ch�a Kit� bằng con tim của Mẹ Maria� nghĩa l� �tưởng niệm Mầu Nhiệm Ch�a Kit�� bằng đức tin của Mẹ. Thật vậy, chỉ c� một m�nh Mẹ Maria đầy ơn ph�c mới c� thể chấp nhận trọn vẹn v� đ�p ứng ho�n to�n được tất cả nhưng g� �Thi�n Ch�a l� Thần Linh� (Jn 4:24) muốn mạc khải cho lo�i người biết, một Mạc Khải Thần Linh l�n đến tuyệt đỉnh nơi Ch�a Kit�, Đấng đồng thời cũng l� tất cả Mạc Khải Thần Linh của Thi�n Ch�a. Bởi vậy, khi cầu Kinh M�n C�i n�i chung v� đọc kinh �K�nh mừng Maria đầy ơn ph�c� n�i ri�ng l� ch�ng ta c�ng Mẹ tuy�n xưng đức tin, một đức tin đ� l�m Mẹ diễm ph�c (x Lk 1:45), đ� l�m Mẹ l�c n�o cũng đầy ơn ph�c, kh�ng bao giờ vơi hay thất tho�t đi t� n�o v� lung lay đức tin.

Đ� l� l� do Mẹ Maria chẳng những c� ph�c v� nhận được một c�ch nhưng kh�ng đặc �n được l�m Mẹ Thi�n Ch�a, được cưu mang v� cho con Ch�a Trời b� (x Lk 11:27), m� c�n ở tại ch�nh đức tin của Mẹ nữa, tức ở chỗ Mẹ Maria đ� kh�ng bao giờ hồ nghi người con trai do Mẹ thụ thai �bởi Th�nh Thần� (x Mt 1:20), như sứ thần tuy�n bố với Mẹ, �l� Con Thi�n Ch�a� (x Lk 1:35). D� Vị �Con Thi�n Ch�a� v� c�ng cao cả n�y c� b� nhỏ, yếu đuối, h�n hạ trong hang lừa m�ng cỏ (ở Ngắm thứ ba M�a Vui), c� tầm thường giống như tất cả mọi con người Do Th�i đến l�nh nhận ph�p rửa thống hối của Tiền H� Gioan Tẩy Giả (ở Ngắm thứ nhất Mầu Nhiệm �nh S�ng), c� bất lực kh�ng thể xuống khỏi thập gi� v� chết đi một c�ch v� c�ng nhục nh� giữa hai t�n tử tội (ở Ngắm thứ năm M�a Thương), Mẹ Maria vẫn tin rằng �con trẻ� do Mẹ cưu mang v� hạ sinh ấy thực sự �l� Con Đấng Tối Cao� (Lk 1:32). Mẹ Maria đ� thực sự sống Mầu Nhiệm Ch�a Kit� với một đức tin m�nh liệt đến nỗi Mầu Nhiệm Ch�a Kit� đ� ho�n to�n trở th�nh mầu nhiệm của Mẹ (xem T�ng Thư Kinh M�n C�i Trinh Nữ Maria, đoạn 24), tức Mẹ đ� hiệp nhất n�n một với Ch�a Kit� trong nhiệm cuộc cứu độ với tư c�ch l� Vị Đồng C�ng Cứu Chuộc, một con người duy nhất trong lo�i người đ� được cứu chuộc bằng đặc �n V� Nhiễm Nguy�n Tội.

Như thế, mỗi lần đọc �k�nh mừng Maria đầy ơn ph�c, Đức Ch�a Trời ở c�ng b�. B� c� ph�c lạ hơn mọi người nữ, v� Gi�su con l�ng b� gồm ph�c lạ�, m� �ph�c lạ� đầu ti�n của �Gi�su con l�ng b�� đ�y l� ch�nh con người được diễm ph�c thụ thai v� cưu mang Người, một con người duy nhất được Người cứu chuộc bằng đặc �n V� Nhiễm Nguy�n Tội, l� ch�ng ta trước hết tuy�n xưng niềm tin của m�nh v�o đặc �n v� nhiễm nguy�n tội của Mẹ, v� sau nữa ch�ng ta tỏ ra cảm phục c�ng tri �n niềm tin tuyệt đối của Mẹ v�o Ch�a, một đức tin đ� sinh hạ ch�ng ta trong �n sủng, hơn cả đức tin đ� l�m cho tổ phụ Abraham trở th�nh cha của một d�n tộc đ�ng như sao trời nhiều như c�t biển (x Gen 22:17-18). Với đức tin tuyệt đối của Mẹ v�o Ch�a Kit� như thế m� chỉ c� một m�nh c� nh�n Mẹ Maria mới l� mảnh đất tốt sinh hạt giống gấp trăm (x Mt 13:23, trong khi đ�, v� nhiễm nguy�n tội, mảnh đất tốt c�c th�nh nh�n nam nữ trong Gi�o Hội c�ng lắm sinh hạt giống gấp 30 hay 60 l� c�ng), v� cũng chỉ c� một m�nh Mẹ Maria diễm ph�c v� đ� tin mới thật sự l� c�nh nho sinh nhiều hoa tr�i nhất th�i (x Jn 15:5).

Nếu t�c động Gi�o Hội đ�p ứng lời Ch�a Kit� truyền trong Bữa Tiệc Ly �c�c con h�y l�m việc n�y m� nhớ đến Th�y� (Lk 22:19), qua việc Gi�o Hội cử h�nh Phụng Vụ Th�nh Thể, một cử h�nh l�m hiện thực Mầu Nhiệm Vượt Qua một c�ch b� t�ch tr�n b�n thờ thế n�o, th� việc Kit� hữu �tưởng niệm� Người qua c�c Mầu Nhiệm M�n C�i, cũng l� Mầu Nhiệm Ch�a Kit�, bằng tất cả đức tin của m�nh, cũng l�m cho Người sống động hơn v� hiện thực hơn nơi ch�nh bản th�n họ như vậy. V�, nếu Ch�a Kit� thực sự ngự trong l�ng ch�ng ta bởi đức tin (x Eph 3:17), th� việc �tưởng niệm Mầu Nhiệm Ch�a Kit� bằng con tim của Mẹ Maria�, tức bằng việc ch�ng ta long trọng, � thức v� chủ động cử h�nh Mầu Nhiệm Đức Tin của ch�ng ta, một đức tin phản ảnh đức tin của Mẹ Maria v� c�ng với đức tin của Mẹ Maria, kh�ng phải l� ch�ng ta l�m cho sự sống của Ch�a Kit� tỏ hiện nơi ch�ng ta (x 2Cor 4:10) mỗi ng�y một hơn hay sao?!

Như thế, tuy Kinh M�n C�i, tự bản chất, kh�ng phải l� Kinh Phụng Vụ được Gi�o Hội c�ng nhận, nhưng cũng c� t�nh chất phụng vụ, ở t�c động �tưởng niệm�, �l�m m� nhớ đến Th�y�, cũng như ở t�c dụng hiện thực Mầu Nhiệm Đức Tin, Mầu Nhiệm Ch�a Kit�, d� chỉ hiện thực một c�ch linh thi�ng về tu đức, nhưng lại l� một hiện thực chứng từ cần thiết cho việc hoạt động t�ng đồ truyền gi�o, hoa tr�i của hiện thực phụng vụ. Thật vậy, việc � thức v� chủ động cử h�nh Mầu Nhiệm Đức Tin nơi Phụng Vụ hay qua việc cầu Kinh M�n C�i đều ph�t sinh hoa tr�i th�nh thiện nơi ch�nh bản th�n Kit� hữu cũng như nơi m�i trường sống của Kit� hữu, v� ở đ�u v� l�c n�o Kit� hữu sống đức tin cũng chẳng kh�c g� như trường hợp Mẹ Maria trong Mầu Nhiệm thứ hai M�a Vui, mầu nhiệm Mẹ cưu mang Lời Nhập Thể đến thăm gia đ�nh của Tiền H� Gioan Tẩy Giả v� mang lại �n ph�c cho to�n thể gia đ�nh 3 người n�y. Mầu nhiệm Mẹ Maria cưu mang Lời Nhập Thể đi thăm viếng gia đ�nh Tiền H� Gioan Tẩy Giả đ�y l� ti�u biểu hiển nhi�n nhất v� sống động nhất cho đời sống nội t�m v� t�ng đồ của Kit� hữu, một đời sống nội t�m phải l�m cho linh hồn hăng say l�m việc t�ng đồ, v� ngược lại việc t�ng đồ l� hoa tr�i phong ph� của một đời sống nội t�m li�n lỉ kết hiệp với nguồn sống l� Ch�a Kit�.

T�m lại, Kinh M�n C�i bao gồm hai yếu tố l�m n�n Kit� gi�o l� Mạc Khải Thần Linh v� Đức Tin Đ�p Ứng. Yếu tố Mạc Khải Thần Linh nơi Kinh M�n C�i được gồm t�m trong Mầu Nhiệm M�n C�i, với Lời Nhập Thể l� một Ch�a Kit� Gi�ng Sinh, �nh S�ng, Tử Gi� v� Phục Sinh. Yếu tố Đức Tin Đ�p Ứng nơi Kinh M�n C�i được chất chứa nơi Kinh K�nh Mừng, với h�nh ảnh Mẹ Maria đầy ơn ph�c, tuyệt đối tin tưởng v�o Thi�n Ch�a. Nếu việc lần hạt M�n C�i bao gồm cả khẩu nguyện l� t�c động miệng lưỡi đọc Kinh K�nh Mừng về Mẹ, lẫn t�m nguyện l� t�c động t�m tr� chi�m ngắm Mầu Nhiệm M�n C�i về Ch�a, th� C�ch Thức Suy Niệm Kinh M�n C�i tuyệt hảo nhất v� hiệu nghiệm nhất đ� l� chi�m ngắm dung nhan Ch�a Kit� bằng �nh mắt Mẹ Maria v� tưởng niệm Mầu Nhiệm Ch�a Kit� bằng con tim Mẹ Maria.

Từ khóa » Suy Niêm Kinh Mân Côi