Cái Tôi Và Quá Trình Xã Hội Hóa Cá Nhân – Phần I - Caphesach

I/ Dẫn luận

Để giới thiệu các thực nghiệm nghiên cứu về cái tôi và sự xã hội hóa ở trẻ em, chúng tôi xin trình bày một số quan điểm có ý nghĩa lý luận nghiên cứu về cái tôi theo dòng lịch sử. Xuất phát từ mục tiêu là cung cấp những tri thức liên quan đến các thực nghiệm nên những khái nhiệm như cái tôi cá nhân, cái tôi xã hội, hình ảnh bản thân, các đặc điểm và quá trình xã hội hóa cá nhân… chỉ được chúng tôi trình bày một cách căn bản và cô đọng nhất theo nghĩa dẫn luận. Quan điểm không đi sâu và trình bày một cách mở rộng các khái niệm lý luận được nhìn nhận từ trong tất cả các phần tiếp sau theo quan điểm tập trung vào các vấn đề về sự hình thành các đặc điểm tâm lý cá nhân và quá trình xã hội hóa tạo nên các đặc điểm của cái tôi cá nhân. Các thực nghiệm lý giải về ảnh hưởng của mối quan hệ ấu thơ giữa cha mẹ – con cái và ảnh hưởng của giáo dục đối với sự hình thành các giá trị đạo đức, giá trị sống ở cá nhân.

1/ Cái tôi

Cái tôi là một khái niệm mang đặc điểm cá nhân, thể hiện những đánh giá về bản thân dưới ảnh hưởng của bối cảnh xã hội. Khái niệm bao gồm một tổ hợp có một không hai các đặc trưng thể chất và tâm lý của một cá nhân trong điều kiện xã hội cụ thể. Khái niệm cái tôi bao hàm một cách nhìn hai chiều cạnh: chiều cạnh cá nhân mà mỗi người tự bày tỏ mình là ai (hay còn gọi là cái tôi cá nhân) và chiều cạnh xã hội được xác định bởi các qui tắc, chuẩn mực mà cá nhân khi tham gia vào các mối quan hệ xã hội họ phải thực hiện các vai xã hội như mọi người mong đợi (hay còn gọi là cái tôi xã hội). Hai chiều cạnh này thống nhất biện chứng với nhau trong quá trình hình thành và phát triển cái tôi.

Khái niệm cái tôi được nghiên cứu lần đầu tiên bởi các nhà triết học như Decartes, Locke, Hume vào thế kỷ XVII. Ở giai đoạn lịch sử này, cái tôi được nghiên cứu tách rời bối cảnh xã hội mà con người sống trong đó. Cách nhìn này không được tâm lý học xã hội hiện đại chấp nhận vì sự nhận thức của cá nhân không thể không bị ảnh hưởng bởi xã hội, bởi những người khác.

Nhà tâm lý học người Mỹ William James (1890) có quan điểm nghiên cứu về cái tôi khá thuyết phục. Ông cho rằng khái niệm về cái tôi được phát triển từ sự so sánh xã hội. Chúng ta tự so sánh mình với “Những người quan trọng khác” và sử dụng thông tin này để phát triển quan điểm của chúng ta. Như vậy, thông qua kinh nghiệm của bản thân, đặc biệt là ảnh hưởng của người khác mà cá nhân nhận ra mình: Tôi là ai? Tôi sẽ là người như thế nào? Họ muốn tôi là người như thế nào?….

Khái niệm “Cái tôi lăng kính” được Cooley đưa ra nhằm chỉ ra rằng con người có xu hướng soi vào người khác để nhận biết bản thân mình và hành xử theo sự chờ đợi của xã hội với những đánh giá tốt xấu, đúng sai. Như vậy, sự tìm kiếm hình ảnh bản thân trong quá trình trưởng thành của cá nhân phụ thuộc vào sự đánh giá của những người xung quanh, đặc biệt là những người mà cá nhân cảm thấy có giá trị với mình. Ví dụ, phụ nữ đánh giá bản thân mình thông qua “Cái tôi lăng kính” của nam giới. Có không ít phụ nữ cảm thấy không hài lòng với bản thân họ, họ luôn tự trách mình chỉ vì trong con mắt của nam giới họ trở nên “béo quá”, hay “thiếu nữ tính”!

G. Mead (1934), khi nghiên cứu về cái tôi đã rất coi trọng yếu tố tương tác xã hội tạo nên cái tôi. Mead cho rằng cái tôi luôn có mối quan hệ với cái mình (le Soi), đó là khía cạnh cá nhân thể hiện những giá trị và chuẩn mực xã hội, mà cá nhân ở trong đó. Theo Mead, cái tôi là cá nhân với tư cách trước hết là đối tượng của bản thân nó, và điều này diễn ra trong chừng mực nó biến những thái độ của người khác về nó thành của chính nó. Theo cách này, mọi cá nhân đều tự hình dung mình theo cách nhìn của “người khác phổ biến”.

Nycky Hayes cho rằng khái niệm về cái tôi bao gồm hai thành phần. Đó là tự nhận thức về bản thân và tự trọng. Tự nhận thức về bản thân là hình ảnh cái tôi thực tế, như chiều cao, cân nặng, thể tạng, những cảm giác vui buồn, những điều thích và không thích, kinh nghiệm cá nhân… Điều này được cá nhà tâm lý học xã hội gọi là cái tôi thể chất. Còn tự trong liên quan đến sự đánh giá của cá nhân và sự nhập tâm quan điểm xã hội về một đặc điểm hay phẩm chất nào đó của chính bản thân cá nhân đó.

Coopezsmith cho rằng ở mỗi cá nhân mức độ tự trọng là rất khác nhau, nó là một phần của cái tôi xã hội. Những cá nhân có lòng tự trọng cao, thường thể hiện ở sự thành công trong hoạt động, là người diễn cảm tốt. Trong khi đó người có lòng tự trọng thấp thường có ít tham vọng, động cơ hoạt động thấp. Những người này cũng dễ bị bệnh mất ngủ, nhức đầu và rối loạn tiêu hóa. Tự trọng là một phần của cái tôi xã hội.

Nghiên cứu về cái tôi xã hội, nhiều tác giả xem xét nó trong việc thực hiện các vai trò xã hội của cá nhân, Goffman (1959) cho rằng con người phải đảm nhận nhiều vai trò xã hội khác nhau trong cuộc sống. Ban đầu, khi cá nhân bước vào một vai trò xã hội mới, việc “tập đóng vai” như thể một trò chơi của cá nhân. Dần dần cá nhân nhập tâm hóa vai trò xã hội đó và dần dần nó trở thành một phần của cái tôi cá nhân của chính họ.

Theo Shibutani, cái tôi khi tham dự vào các hoạt động xã hội thường bộ lộ ở năm điểm: Tính ổn định của cái tôi thể hiện ở chỗ ngay cả khi vai trò xã hội của cá nhân đã thay đổi những sự hiện diện của cái tôi vẫn tương đối ổn định. Tính thống nhất cho thấy hành vi ứng xử của cá nhân luôn tương hợp với suy nghĩ và tình cảm của họ. Điều này giúp cho người khác có thể nhận biết được xu hướng hành động của cá nhân ngay cả khi các điều kiện, bối cảnh thay đổi. Đó chính là sự ổn định nhân cách của con người. Tự nhận thức về bản thân là đặc điểm thứ ba của cái tôi. Khi hành động cá nhân thường nhận thức được vị trí, vai trò của mình trong các mối quan hệ xã hội cụ thể. Tuy nhiên, mức độ tự nhận thức về bản thân của các cá nhân là rất khác nhau, trong đó phụ thuộc rất nhiều về học vấn, tính cách, sự thích nghi xã hội… của mỗi cá nhân. Mức độ tự nhận thức về cá nhân có ảnh hưởng đến sự tự đánh giá của cá nhân. Điều này đôi khi có sự khác biệt trong cách tự đánh giá của mỗi người – có “độ vênh” giữa tự đánh giá bản thân của cá nhân với so với đánh giá của người khác về cá nhân đó. Nhìn chung, cá nhân có xu hướng tự đánh giá bản thân cao hơn so với năng lực thực, ngay cả khi sự thể hiện ra bên ngoài của họ lại nghịch chiều – thể hiện sự tự ti. Và cuối cùng, khía cạnh ý thức xã hội cho thấy cái tôi cá nhân hoạt động như một chiều kích của bối cảnh xã hội, trong đó cá nhân nhập tâm các quy tắc, chuẩn mực để hòa nhập vào các vai trò xã hội. Như vậy, các vai trò mà cá nhân thực hiện trong xã hội luôn quy định cách thức hành xử của cá nhân.

Khái niệm cái tôi luôn gắn với sự tự nhận thức về bản thân. Học thuyết nói về sự tự nhận thức bản thân còn được gọi là tâm lý học về hình ảnh bản thân. Có thể hiểu, hình ảnh bản thân là cách mỗi người hình dung mình là người như thế nào. Sự hình dung về hình ảnh bản thân thường liên quan đến việc cá nhân xem xét ý nghĩ và thái độ, các giá trị cũng như việc cảm nhận về diện mạo bên ngoài của mình. Điều này liên quan đến sự tự ý thức của mỗi người. Theo các nhà tâm lý học, hình ảnh bản thân là những giá trị mà chúng ta nghĩ về bản thân và cách chúng ta sống với nhận thức rằng đó là yếu tố quan trọng nhất quyết định chất lượng cuộc sống của mình.

Một trong những người khai sinh thuyết này (từ góc độ nghiên cứu thực hành) là Tiến sĩ Maxwell Malzt. Ông khám phá ra ma lực của sự tự nhận thức từ công việc phẫu thuật chỉnh hình của mình. Trong nhan đề cuốn cẩm nang đầu tiên Tâm lý học về hình ảnh bản thân, ông đã dùng từ Tâm lý – Điều khiển học để chỉ việc sử dụng sự tự nhận thức bản thân cho quá trình phát triển cá nhân. Maltz nhận thấy sau hàng ngàn ca phẫu thuật chỉnh hình hết sức thành công của ông, các bệnh nhân vẫn cảm thấy mình kém hấp dẫn hoặc vô cùng xấu xí. Trong nhiều trường hợp, ông nhận thấy những bênh nhân đến tìm ông hoàn toàn không cần đến phẫu thuật thẩm mĩ mà chỉ cần thay đổi quan niệm của họ về bản thân. Maltz thấy nhiều bệnh nhân tin rằng ngoại hình hấp dẫn hơn sẽ thay đổi hình ảnh bản thân. Nhưng thường không được như vậy. Sau cuộc phẫu thuật, họ vẫn thấy mình như trước. Thậm chí sự thay đổi lớn lao nhất về ngoại hình cũng không làm thay đổi được khái niệm tiêu cực về bản thân nếu đối tượng không thay đổi cảm nghĩ về mình trước và sau phẫu thuật.

Kết quả nhiều năm nghiên cứu của Maltz đã chứng minh mối quan hệ lý thú giữa ý thức và tiềm thức. Ý thức có khả năng xét đoán những vấn đề về tinh thần và quyết định hành động thế nào là đúng. Chúng ta quyết định một cách có chủ ý điều ta nghĩ về những vấn đề cụ thể nào đó. Ví dụ, ban đầu, một người quyết định không giao tiếp nhiều với mọi người vì xấu hổ về một căn bệnh ngoài da. Nhiều năm sau, khi căn bệnh đã hết, người này vẫn không thể giao tiếp tốt với người khác. Không một thay đổi nào về ngoại hình có thể giúp anh ta thay đổi cái nhìn về hình ảnh bản thân, vì anh ta đã “lập trình” cho tiềm thức phản ứng xấu hổ như thể bệnh ngoài da vẫn còn. Anh ta vẫn phản ứng như trước: thoát khỏi bệnh ngoài da nhưng lại không thay đổi được nhận thức về bản thân mình.

Hình ảnh bản thân bị quy định bởi người khác, bởi chuẩn mực xã hội. Khi cá nhân hành động theo sự chờ đợi của xã hội, cá nhân sẽ được khen ngợi, ủng hộ. Hành động này lặp đi lặp lại trở thành một phần nhân cách của con người. Hình ảnh bản thân còn phụ thuộc lớn vào kỳ vọng của mỗi người. Nếu cá nhân đòi hỏi cao ở bản thân, họ sẽ đạt được như mong muốn. Nếu cá nhân cho rằng mình kém cỏi, họ sẽ không có khả năng và động lực để hành động, vì vậy họ không thành đạt. Mặt khác, hình ảnh bản thân có ảnh hưởng đến tính chất quan hệ của cá nhân. Một thái độ tiêu cực về bản thân sẽ khiến cá nhân lý giải tiêu cực với các tác động bên ngoài. Ví dụ, người có mặc cảm về bản thân thì một lời nói trung lập nhất cũng đủ làm cho người đó có cảm giác rằng mình đang bị “tấn công”. Ngoài ra, hình ảnh bản thân còn bị ảnh hưởng bởi giới tính. Khi cá nhân nghĩ mình là nam giới hay nữ giới thì họ sẽ hành động thoe khuôn mẫu giới mà xã hội mong đợi.

Có thể nói: Những người có cái nhìn tích cực về bản thân luôn có khuynh hướng hành động thành công trong công việc và ứng xử hợp lý với những người xung quanh. Sự thành công càng củng cố thêm hình ảnh bản thân. Tuy nhiên, không phải lúc nào con người cũng hiểu rõ về bản thân mình, vì không phải lúc nào con người cũng dám đối đầu, nhìn thẳng vào những cảm xúc, những sợ hãi, những ước mơ hay khiếm khuyết của mình. Chấp nhận bản thân với những hiện diện như nó đang có giúp cho các cá nhân ý thức cao về cái tôi của mình.

Theo J. Mead, quá trình phát triển tự ý thức về cái tôi của trẻ trải qua các giai đoạn khác nhau, từ việc “bắt chước”, sao chụp một cách tự nhiên, vô thức và có ý thức những hành vi, lời nói của những người xung quanh, đặc biệt là của cha mẹ, đồng nhất vào các vai trò và thể hiện thông qua hành vi của mình và “đóng vai”.

Từ quá trình đóng vai, trẻ dần dần “nhập vai” những hành vi đã được quy chuẩn trong bối cảnh xã hội cụ thể một cách thành thục. Quá trình xã hội hóa buộc cá nhân phải sắm rất nhiều vai khác nhau. Hành vi nhập vai là sự kết hợp, thống nhất chặt chẽ giữa vai xã hội (chức năng xã hội mà cá nhân đóng) và đặc điểm cá nhân của họ. Như vậy, mỗi vai xã hội được đặc trưng bởi hàng loạt các hành vi ứng xử mà xã hội quy định “là phải thế” hay “cần phải thế”. Với những đặc trưng tâm – sinh lý khác nhau của mỗi cá nhân, hành vi nhập vai của mỗi người đã đem lại những bản sắc riêng, không lặp lại ở người khác. Đó cũng chính là cái tôi của mỗi người. Có thể nói nhận thức về cái tôi luôn gắn liền với năng lực nhận thức xã hội của cá nhân.

(còn tiếp) 

TH: T.Giang – SCDRC

Nguồn tham khảo: Trần Thị Minh Đức – Các thực nghiệm trong tâm lý học xã hội – NXB ĐHQG HN 2008.

Chia sẻ:

  • X
  • Facebook
Thích Đang tải...

Có liên quan

Từ khóa » Cái Tôi Xã Hội Là Gì