Cảm Nhận Về Bài Thơ Đất Nước ❤️️ 15 Bài Văn Hay Nhất

Cảm Nhận Về Bài Thơ Đất Nước ❤️️ 23+ Bài Văn Hay Nhất ✅ Khám Phá Bài Viết Nghị Luận Văn Học Đặc Sắc Giúp Bạn Định Hướng Làm Văn Đạt Điểm Cao.

NỘI DUNG BÀI VIẾT

Toggle
  • Dàn Ý Cảm Nhận Về Bài Thơ Đất Nước
  • Mở Bài Cảm Nhận Về Bài Thơ Đất Nước Nguyễn Khoa Điềm
  • Đoạn Văn Kết Bài Cảm Nhận Về Bài Thơ Đất Nước
  • Bài Văn Cảm Nhận Về Bài Đất Nước Của Nguyễn Khoa Điềm – Mẫu 1
  • Bài Cảm Nhận Bài Thơ Đất Nước Hay Nhất – Mẫu 2
  • Cảm Nhận Về Bài Thơ Đất Nước Ngắn Gọn – Mẫu 3
  • Cảm Nhận Của Anh Chị Về Bài Thơ Đất Nước Chi Tiết – Mẫu 4
  • Cảm Nhận Bài Thơ Đất Nước Học Sinh Giỏi – Mẫu 5
  • Cảm Nhận Bài Đất Nước Nâng Cao – Mẫu 6
  • Cảm Nhận Bài Đất Nước Facebook – Mẫu 7
  • Cảm Nhận 9 Câu Đầu Bài Thơ Đất Nước – Mẫu 8
  • Cảm Nhận Về Bài Thơ Đất Nước 9 Câu Đầu Ngắn Hay – Mẫu 9
  • Cảm Nhận Về Bài Thơ Đất Nước Từ Câu 10 Đến Câu 29 – Mẫu 10
  • Cảm Nhận Về Bài Thơ Đất Nước Từ Câu 30 Đến Câu 42 – Mẫu 11
  • Cảm Nhận Về Bài Thơ Đất Nước Đoạn 1 – Mẫu 12
  • Cảm Nhận Về Bài Thơ Đất Nước Đoạn 2 – Mẫu 13
  • Cảm Nhận Về Bài Thơ Đất Nước Đoạn 3 – Mẫu 14
  • Cảm Nhận Về Bài Thơ Đất Nước Đoạn 4 – Mẫu 15

Dàn Ý Cảm Nhận Về Bài Thơ Đất Nước

Tham khảo dàn ý cảm nhận về bài thơ Đất Nước dưới đây sẽ giúp các em học sinh xác định được bố cục và những luận điểm trọng tâm khi làm bài.

I. Mở bài cảm nhận về bài thơ Đất Nước:

  • Giới thiệu khái quát về tác giả Nguyễn Khoa Điềm (tiểu sử, sáng tác chính, phong cách thơ…)
  • Giới thiệu về Trường ca Mặt đường khát vọng và đoạn trích Đất nước (hoàn cảnh ra đời, nội dung chính…)

II. Thân bài cảm nhận về bài thơ Đất Nước:

1.Đất nước bình dị, gần gũi được cảm nhận từ nhiều phương diện của đời sống

a) Nguồn gốc của đất nước

  • Đất nước hình thành cùng với những câu chuyện dân gian
  • Đất nước hình thành với những truyền thống mang đậm bản sắc dân tộc: ăn trầu, búi tóc
  • Đất nước hình thành với quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước của cha ông
  • Đất nước hình thành với quá trình lao động sản xuất của cha ông: cái kèo cái cột thành tên, một nắng hai sương
  • Tác giả có cái nhìn mới mẻ về cội nguồn đất nước, đất nước bắt nguồn từ chiều sâu văn hóa, văn học, lịch sử và truyền thống dân tộc.

b) Định nghĩa về đất nước

-Không gian đất nước:

  • Tác giả tách hai yếu tố đất và nước để cảm nhận một cách độc đáo
  • Đất nước là không gian gắn với cuộc sông của mỗi người, của anh và của em, là nơi hẹn hò của anh, em, của chúng ta: nơi ta hẹn hò, nơi anh đến trường, nơi em tắm
  • Không gian mênh mông với rừng vàng biển bạc
  • Là nơi sinh tồn và phát triển của cả cộng đồng dân tộc

-Thời gian lịch sử của đất nước:

  • Được nhìn xuyên suốt mạch thời gian từ quá khứ đến hiện tại
  • Từ hiện tại đến tương lai

-Suy tư về trách nhiệm của mỗi cá nhân với đất nước:

  • “Phải biết gắn bó và san sẻ”, đóng góp, hi sinh để góp phần dựng xây đất nước
  • Qua cái nhìn toàn diện của nhà thơ, đất nước hiện lên vừa gần gũi, thân thuộc lại vừa thiêng liêng, hào hùng và trường tồn đến muôn đời sau.

2.Tư tưởng cốt lõi: đất nước của nhân dân

-Thiên nhiên của đất nước không phải đơn thuần là sản phẩm của tạo hóa mà hơn hết nó là một phần máu thịt của con người, do con người tạo nên:

  • Tình nghĩa thủy chung, thắm thiết: núi Vọng Phu, hòn Trống Mái
  • Chiến đấu bảo vệ đất nước: chuyện Thánh Gióng
  • Cội nguồn thiêng liêng: đất tổ Hùng Vương
  • Truyền thống hiếu học: núi Bút non Nghiên
  • Hình ảnh đất nước tươi đẹp: con cóc, con gà…
  • Những cuộc di dân khai phá đất nước

-Lịch sử 4000 năm của dân tộc được tạo nên từ mồ hôi và cả chính xương máu của nhân dân:

  • Họ là những người con trai, con gái bình dị nhưng luôn thường trực tình yêu nước, họ vừa lao động sản xuât vừa hăng hái chiến đấu
  • Tác giả nhấn mạnh đến những con người vô danh làm nên lịch sử, khẳng định vai trò của mỗi cá nhân với lịch sử dân tộc.
  • Nhân dân là những người đã tạo ra và giữ gìn những giá trị vật chất, tinh thần cho đất nước: văn hóa: “truyền hạt lúa”, “truyền lửa”, “truyền giọng nói”, “gánh theo tên xã, tên làng”, … từ đó xây dựng nền móng phát triển đất nước lâu bền
  • Tư tưởng cốt lõi là tư tưởng đất nước của nhân dân: “Đất nước này là đất nước của nhân dân/Đất nước của nhân dân đất nước của ca dao huyền thoại”. Đất nước ấy thể hiện qua tâm hồn con người: biết yêu thương, biết quý trọng trọng tình nghĩa, công sức và biết chiến đấu vì đất nước.
  • Tư tưởng đất nước nhân dân của Nguyễn Khoa Điềm có sự kế thừa và phát triển trong thời đại mới, thời đại chống Mĩ cứu nước

III. Kết bài cảm nhận về bài thơ Đất Nước:

-Khẳng định lại giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật của đoạn trích

  • Nội dung: bài thơ thể hiện cách nhìn mới mẻ, độc đáo về đất nước trên nhiều góc độ khác nhau: văn hóa, lịch sử, địa lí…Từ đó, làm nổi bật tư tưởng “Đất nước của nhân dân”
  • Nghệ thuật: giọng thơ trữ tình, chính trị đằm thắm, dạt dào cảm xúc, sử dụng hình ảnh, yếu tố văn học, văn hóa dân gian….

-Bài học đối với thế hệ trẻ hiện nay: đất nước luôn dung dị, gần gũi và tồn tại trong cuộc sống hằng ngày của mỗi người, vì vậy, chúng ta hãy thể hiện lòng yêu nước của mình từ những hành động nhỏ nhất

Ngoài cảm nhận về bài thơ Đất Nước, tham khảo trọn bộ ☀️ Dàn Ý Đất Nước Nguyễn Khoa Điềm ☀️ Trọn Bộ Chuẩn Nhất

Mở Bài Cảm Nhận Về Bài Thơ Đất Nước Nguyễn Khoa Điềm

Gợi ý mở bài cảm nhận về bài thơ Đất Nước nguyễn khoa điềm dưới đây sẽ giúp các em học sinh nắm được cách dẫn dắt giới thiệu hay.

Đề tài đất nước là một trong những đề tài muôn thuở của thơ văn Việt Nam nói chung và trong các lĩnh vực khác nói riêng. Chúng ta đã bắt gặp hình ảnh đất nước rất nhiều không chỉ trong văn học, thơ ca mà cả trong những lời ca, câu hát của bà và mẹ. Hình ảnh đất nước chìm trong đau thương, mất mát qua thơ Hoàng Cầm; gặp đất nước đang đổi mới từng ngày qua thơ Nguyễn Đình Thi.

Nhưng có lẽ đất nước được nhìn từ nhiều khía cạnh, đầy đủ và trọn vẹn nhất vẫn là qua bài thơ “Đất nước” của Nguyễn Khoa Điềm. Hình hài đất nước từ khi được sinh ra cho đến khi phải trải qua bao nhiêu sóng gió chiến tranh được tái diễn sinh động qua một hồn thơ tinh tế, phóng khoáng của Nguyễn Khoa Điềm. Tác giả nhìn đất nước từ nhiều khía cạnh, trải qua bao nhiêu thăng trầm của lịch sử. Đất nước là tên gọi thiêng liêng, bình dị nhưng chất chứa bao nhiêu ngọn nguồn của cảm xúc chính tác giả.

Bên cạnh cảm nhận về bài thơ Đất Nước, gợi ý cho bạn 🌹 Mở Bài Đất Nước Của Nguyễn Khoa Điềm 🌹 20 Mẫu Hay

Đoạn Văn Kết Bài Cảm Nhận Về Bài Thơ Đất Nước

Tham khảo và vận dụng đoạn văn kết bài cảm nhận về bài thơ Đất Nước dưới đây để hoàn thiện hơn bài viết của mình.

Tiếp nối dòng mạch thơ ca yêu nước trong lịch sử văn học dân tộc, Đất Nước trong trường ca Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm đã mang nội dung cảm nhận cùng cách thể hiện thật độc đáo. Thành công của đoạn trích Đất Nước này góp phần chứng tỏ tầm trí tuệ, sức khám phá của một nhà thơ trưởng thành cùng thời đại kháng chiến chống Mĩ cứu nước anh hùng.

Đọc chương Đất Nước, có thể thấy rõ dấu ấn của vốn tri thức văn hoá nhà trường và sách vở, sự ảnh hưởng phong cách của một nhà thơ nào đó. Tuy nhiên, đó vẫn là chương tiêu biểu và tinh tuý nhất của trường ca Mặt đường khát vọng. Bài thơ vẫn tạo nên được những rung động âm vang trong lòng người đọc là nhờ tác giả từ những cảm xúc chân thành, từ sự trải nghiệm của bản mà nói lên những suy nghĩ chung của cả thế hệ mình về đất nước.

Cùng với cảm nhận về bài thơ Đất Nước, khám phá thêm 💕 Kết Bài Đất Nước Của Nguyễn Khoa Điềm 💕 20 Mẫu Đặc Sắc

Bài Văn Cảm Nhận Về Bài Đất Nước Của Nguyễn Khoa Điềm – Mẫu 1

SCR.VN tiếp tục bật mí thêm cho bạn Bài Văn Cảm Nhận Về Bài Đất Nước Của Nguyễn Khoa Điềm

Trong những ngày tham gia kháng chiến chống Mỹ ở chiến trường Trị Thiên, Nguyễn Khoa Điềm đã có những xúc cảm, suy tư nồng thắm sâu sắc về đất nước về nhân dân trong quá trình dựng nước và giữ nước. Từ đó, nhà thơ đi đến sự nhận thức đúng đắn về vai trò trách nhiệm của thế hệ thanh niên trí thức – những người chủ chân chính của đất nước, phải tham gia tích cực vào cuộc kháng chiến của nhân dân để giải phóng dân tộc, đưa đất nước đi xa hơn đến những tháng ngày mơ mộng.

Trường ca Mặt đường khát vọng hình thành trong bối cảnh ấy, và có thể xem chương Đất Nước là nơi dồn nén cảm xúc và kết tinh những suy tư có tính chân lý của Nguyễn Khoa Điềm về Đất Nước và Nhân Dân, được chuyển tải qua những lời nghệ thuật dung dị, lại có khả năng truyền cảm sâu sắc đến bao thế hệ độc giả.

Mở đầu cho dòng suy tưởng, Nguyễn Khoa Điềm nhận thức về sự tồn tại lâu dài của đất nước trong suốt “thời gian đằng đẵng” bốn ngàn năm văn hiến. Thi nhân khẳng định:

Khi ta lớn lên đất nước đã có rồi..Đất nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa”… mẹ thường hay kể.

Âm hưởng của lời thơ lắng đọng như giọng kể chuyện tâm tình thủ thỉ giữa những kẻ thân thương, gợi ra ở người nghe dòng liên tưởng trôi về một thời quá khứ xa xăm, trong ấy trầm tích bao huyền sử tự hào về cuộc sống chiến đấu của cha ông. Nhà thơ đã sử dụng thi pháp tuyệt vời ở câu thơ bỏ ngỏ.

Sau trạng ngữ chỉ thời gian “Ngày xửa ngày xưa”…, lời kể của mẹ được chuyển sang cho người đọc tự liên tưởng hình dung về bao hình tượng đẹp một thời làm xôn xao tuổi mộng vàng như Thánh Gióng, Trần Quốc Toản, Mai An Tiêm… Cả một nền văn hoá, văn học dân gian với bao thần thoại, truyền thuyết phong phú làm sao có thể gói trọn trong mấy vần thơ. Thi nhân như trao cho người đọc chiếc chìa khoá để tự mình khám phá cái kho tàng văn hoá phong phú tổ tiên trao lại.

Lần về mảnh vườn cổ tích ấy, những ai có lòng chắc chắn sẽ tự mình chắt chiu được những giọt mật mà bồi dưỡng tâm hồn thiện chân, tìm đến một lẽ sống đẹp.Truy tìm về cội nguồn Đất Nước, khó ai có thể xác định minh bạch cái ngày tháng khởi thuỷ của nó, cho dù là nhà khảo cổ hay sử gia. Nguyễn Khoa Điềm lại xác định cái buổi ban đầu ấy qua một nét sống giản dị nhưng đậm đà của những người mẹ, người bà Việt Nam:

Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ănĐất Nước lớn lên khi mình biết trồng tre mà đánh giặc

Không ai lấy tiêu chuẩn đo lường của nhà khoa học để bắt bẻ thi nhân. Nguyễn Khoa Điềm khẳng định chân lí bằng một trực cảm thiên tài để lí giải một cách cụ thể sinh động về sự khởi nguyên và phát triển của đất nước qua hình tượng miếng trầu, cây tre. Những hình tượng bình thường quen thuộc trong đời sống của nhân dân Việt Nam, nhưng mãi cho đến khi Nguyễn Khoa Điềm phát biểu, cái chân lí ngỡ là hiển nhiên đấy, người đọc lắng lại một khoảnh khắc, sau đó ngớ ra bao điều thú vị.

Bởi lẽ, thẩm thấu vào các tế bào mỏng manh ấy, là những mối quan hệ tình nghĩa truyền thống đẹp của con người Việt Nam.Trong tục cúng lễ, miếng trầu quả cau là biểu tượng cho tấm lòng thành của con cháu gửi đến hồn thiêng những bậc đã khuất, là nhịp cầu giao cảm với tiền nhân. Miếng trầu gợi ra huyền sử tình yêu, nói lên mối quan hệ vợ chồng chung thuỷ, nghĩa anh em Tân – Lang trọn vẹn.

Và có lẽ từ đó, miếng trầu trở thành vật biểu trưng cho tình yêu và hôn nhân. Miếng trầu giúp dẫn mối tìm nhau, để cho con người phải lứa nên duyên, là nhân tố tạo nên bao đôi uyên ương chắp cánh chung cành. Để rồi khi họ về già, thong thả nhai miếng trầu, nhớ buổi thanh xuân tình nồng nghĩa đượm, mà đột nhiên nở nụ cười mãn nguyện chuyện tình xưa.

Nhà thơ lại liên tưởng song hành về sự lớn mạnh của đất nước từ buổi “dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”. Đất nước Việt có điều kiện thổ nhưỡng phù hợp tạo điều kiện cho cây tre sinh sôi phát triển khắp mọi miền của Tổ Quốc, đem lại một màu xanh bát ngát cho quê hương. Nguyễn Duy cũng từng trăn trở về những phẩm chất kì lạ của cây tre Việt :

Tre xanh xanh tự bao giờ?Chuyện ngày xưa đã có bờ tre xanhThân gầy guộc lá mong manhMà sao nên luỹ nên thành tre ơi?Ở đâu tre cũng xanh tươiCho dù đất sỏi đất vôi bạc màu?

Cây tre hiền hậu trên mỗi làng quê. Nó như là sự đồng hiện những phẩm chất đôi khi ngỡ là đối lập trong cốt cách con người Việt Nam: thật thà chất phác, đôn hậu thuỷ chung, yêu chuộng hoà bình như cây tre mềm mại để hoá thành những vật dụng xinh xắn trong cuộc sống con người: nhỏ nhắn như cây tăm, đôi đũa; êm ái như chiếc nôi ru ta lớn lên vào đời; yên ổn vững chắc như “cái kèo cái cột thành tên”, làm nên ngôi nhà tổ ấm cho mọi gia đình đoàn tụ bên nhau; siêng năng tích góp mỡ màu dồn thành sự sống như Nguyễn Duy so sánh:

Rễ siêng không ngại đất nghèoTre bao nhiêu rễ bấy nhiêu cần cù.

Đến khi cả dân tộc lên đường ra trận, quyết giành lại độc lập tự do, thì tre cũng đứng thẳng hiên ngang bất khuất cùng chia lửa với dân tộc Việt , thậm chí “một cây chông cũng tiến công giặc Mỹ “, bởi “nòi tre đâu chịu mọc cong, chưa lên đã nhọn như chông lạ thường”.

Từ những giá trị vật chất bình dị thân quen, Nguyễn Khoa Điềm gắn dòng suy tưởng đến con người ngàn đời cư trú, lao động, chiến đấu trên mảnh đất Việt để giữ gìn tôn tạo mảnh đất thân yêu. Đó không ai khác là những người mẹ, người cha một đời kính trọng thuỷ chung, “thương nhau bằng gừng cay muối mặn”.

Tình cảm chân thành ấy không phải là lớp son phấn với “sắc màu lộng lẫy, sáo ngữ ồn ào”, mà là những nét duyên như búi tóc mẹ bới sau đầu gọn gàng ý nhị, đủ để làm cho con tim xao xuyến khi gần nhau, và khi xa thì không bao giờ nguôi ngoai nhung nhớ, để rồi họ bật lên những câu ca dao nghe như muối xát tâm can:

Thiếp nhớ chàng tấm phên hư nuộc lạt đứtChàng nhớ thiếp khi đắng nước nghẹn cơmBa trăng là mấy mươi hômMai nam vắng trước chiều nồm quạnh sau.

Nguyễn Khoa Điềm lại có một cách nhìn thấu triệt theo thời gian hao phí lao động để kết tinh một hạt gạo trắng trong. Nó phải trải qua bao nắng sương vất vả gieo cấy, xay giã, giần sàng.Thắm vào trong hạt gạo bé nhỏ ấy là mồ hôi vị mặn nhọc nhằn của giai cấp nông dân. Nhiều người chỉ biết hưởng thụ hững hờ mà quên đi lời dạy “ăn quả nhớ kẻ trồng cây”, nên Nguyễn Khoa Điềm đã khéo léo nhắc nhở chúng ta nhai hạt cơm dẻo nên nhớ đến công lao của người làm ra nó, để không làm họ buồn lòng phải cất lời nhắc nhở:

Ai ơi bưng bát cơm đầyDẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần.

Nguyễn Khoa Điềm thật tài tình, khi ông cụ thể hoá khái niệm đất nước trừu tượng lớn lao cả về chiều “thời gian đằng đẵng”, lẫn “không gian mênh mông” vào trong những hình ảnh nhỏ bé như hạt gạo, nhưng lấp lánh bao tầng ý nghĩa sâu sắc, có giá trị biểu trưng những nét bản chất và tinh hoa của dân tộc, của Đất Nước Việt Nam.

Đề cập đến hạt gạo là nói đến nền kinh tế nông nghiệp đặc trưng, được quy định bởi điều kiện thổ nhưỡng thuận lợi của nước Việt. Nhân dân lao động gắn mình trong môi trường đất đai từ đời này qua đời khác, sẽ định hình nên những nét cốt cách của con người Việt . Họ yêu quý đất đến mức xem “Tấc đất tấc vàng”. Và vì vậy, họ sẵn sàng hiến thân vì non sông đất nước như Chế Lan Viên từng cảm xúc:

Ôi Tổ Quốc ta yêu như máu thịtNhư mẹ cha ta như vợ như chồngÔi Tổ Quốc nếu cần ta chếtCho mỗi ngôi nhà ngọn núi con sông(Sao chiến thắng )

Tính triết lý trong dòng suy tưởng của Nguyễn Khoa Điềm vừa sâu sắc vừa đầy sức thuyết phục. Chỉ vài dòng thơ ngắn và tinh tế, thi nhân đã đi đến một kết luận có tính khẳng định “Đất Nước có từ ngày đó …” và do nhân dân lao động tạo dựng nên, để cho chúng ta hôm nay được thụ hưởng hạnh phúc một cách cụ thể thiết thực, chứ không hề là một tình cảm thuần tuý mơ hồ đã thuộc về quá khứ. Nguyễn Khoa Điềm giải thích một cách đơn giản:

Đất là nơi anh đến trườngNước là nơi em tắmĐất nước là nơi ta hò hẹnĐất nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm.

Nhà thơ nhắc đến ngôi trường cái bến, một toạ độ lưu dấu kỷ niệm tình yêu. Các địa danh ngỡ là rời rạc riêng tư, nhưng thực chất đó là linh hồn của Đất Nước, là dấu ấn tình cảm sâu sắc của con người Việt . Ngôi trường là nơi cung cấp hành trang tri thức cho mỗi chúng ta tự tin để làm chủ cuộc sống.

Dòng sông không chỉ mang phù sa màu mỡ làm xanh những cánh đồng mà là nguồn nước tắm mát đời ta, gắn bó đến mức như Hoàng Cầm mang theo hình ảnh con sông Đuống quê hương trong hồn với dáng nghiêng nghiêng dài theo cuộc kháng chiến. Và khi sông Đuống tạm thời bị quân giặc chiếm đóng, ông đau đớn bàng hoàng đến mức thốt lên lời than nhức nhối:

“Sao xót xa như rụng bàn tay”.

Nêu một địa chỉ hẹn hò mà thành Đất Nước nghe có vẻ mơ hồ, nhưng nó là minh chứng của tình yêu, là khởi phát của một gia đình, và có muôn nhà mới góp thành đất nước. Đó là mối quan hệ biện chứng giữa gia đình và Tổ Quốc, là sự thống nhất liền mạch mỗi tấc đất của quê hương, tồn tại trong “thời gian đằng đẵng, không gian mênh mông”.

Trong ấy, bao thế hệ nối tiếp nhau quản lí đất nước từ dãy Trường Sơn hùng vĩ – “Nơi con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc” cho đến biển bờ Thái Bình Dương vỗ sóng mênh mang – nơi “Con cá ngư ông móng nước biển khơi”. Nguyễn Khoa Điềm với một tình cảm tự hào, ông gợi lại huyền sử lung linh về dòng dõi con Rồng cháu Tiên của dân Lạc Việt gợi ra cái chất keo đồng bào huyết mạch – yếu tố tạo nên tình đoàn kết “dân mình đoàn tụ” bên nhau đứng vững như Trường Sơn thử thách với bao mưa gió của trời, của đời.

Những ai đã khuấtNhững ai bây giờYêu nhau và sinh con đẻ cáiGánh vác phần người đi trước để lạiDặn dò con cháu chuyện mai sau.Hàng năm ăn đâu làm đâuCũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ.

Nguyễn Khoa Điềm trong chiều xúc cảm hướng nội, ông còn thấy ra Đất Nước đã thâm nhập vào trong chiều sâu của mỗi con người. Trong chính bản thân thi sĩ đã chan hoà bóng hình tinh hoa của đất nước, tan trong dòng máu thắm, vang lên trong âm điệu giọng nói ngọt ngào. Nhà thơ cảm nghiệm rằng:

Trong anh và em hôm nayĐều có một phần Đất NướcKhi hai đứa cầm tayĐất Nước trong chúng ta hài hoà nồng thắmKhi chúng ta cầm tay mọi ngườiĐất Nước vẹn tròn to lớn.

Quả là tinh tế! Nguyễn Khoa Điềm như đang tự phân thân để kiểm chứng lại mình. Đất Nước trong ta hài hoà nồng thắm, thấy được qua màu da, giọng nói, nếp nghĩ, cách làm. Mang quốc tịch Việt , khi ta so sánh trong mối tương quan với bạn bè quốc tế, thì nhận diện sự khác biệt ấy không mấy khó khăn. Nó giúp ta tự hào với lịch sử anh hùng, với giang sơn cẩm tú, với dân tộc nhân ái bao dung, với mỗi con người thuỷ chung trách nhiệm, để rồi lòng dặn lòng rằng:

Mai sau này con ta lớn lênCon sẽ mang Đất Nước đi xaĐến những tháng ngày mơ mộngEm ơi em Đất Nước là máu xương của mìnhPhải biết gắn bó và san sẻPhải biết hoá thân cho dáng hình xứ sởLàm nên Đất Nước muôn đời…

Nhà thơ với con mắt thăm thẳm nhìn sâu về “bốn nghìn năm đất nước”, lung linh trong cõi mênh mang sông núi Việt Nam ấy, không ai khác là Nhân Dân bình dị, nhưng:

Họ đã sống và chếtGiản dị và bình tâmKhông ai nhớ mặt đặt tênNhưng họ đã làm ra Đất Nước.Từ những ý niệm đúng đắn ấy nhà thơ đi đến một kết luận quan trọng:Đất nước này là Đất Nước của nhân dânĐất Nước của Nhân Dân, Đất Nước của ca dao thần thoại.

Chân lí hiển nhiên là vậy nhưng không phải ai cũng ý thức. Nguyễn Khoa Điềm nhắc lại và nhấn mạnh qua từ “Nhân Dân” viết hoa trân trọng ấy, thiết nghĩ không thừa đối với những kẻ phôi phai tình đất nước. Nhà thơ so sánh Đất Nước như một dòng sông chảy mãi từ quá khứ cho đến tương lai trường tồn cùng nhân loại. Trên dòng chảy ấy tất có những thác ghềnh, nhưng điều ấy có hề chi khi nhân dân là người chèo lái con thuyền Tổ quốc, thì nói như Bác Hồ: “khó vạn lần dân liệu cũng xong”.

Thi nhân đã khép lại dòng suy tưởng của mình bằng một giai điệu đầy lạc quan:

Ôi những dòng sông bắt nước từ đâuMà khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hátNgười đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thácGợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi…

Tiếng hát của Nguyễn Khoa Điềm cất lên trong thời gian khó bởi cuộc chiến tranh chống Mỹ chưa thành, nhưng lịch sử luôn như dòng nước chảy xuôi ; vấn đề là con người “biết trồng tre đợi ngày thành gậy, đi trả thù mà không sợ dài lâu”.

Hôm nay, nhìn lại Đất Nước vẹn tròn to lớn, dù kinh tế còn khó khăn, nhưng chúng ta lại có sức mạnh của độc lập tự do làm tiền đề căn bản, có nhân dân sáng tạo anh hùng, chắc chắn lớp con cháu hôm nay “sẽ mang Đất Nước đi xa, đến những tháng ngày mơ mộng” trong một tương lai không xa, để Nhân Dân từng chịu quá nhiều vất vả nhọc nhằn trong quá khứ có được cuộc đời hạnh phúc trong bầu không khí hoà bình thắm tình hữu nghị.

Gửi đến bạn 🍃 Sơ Đồ Tư Duy Đất Nước Nguyễn Khoa Điềm 🍃 16 Mẫu Hay

Bài Cảm Nhận Bài Thơ Đất Nước Hay Nhất – Mẫu 2

Bài Cảm Nhận Bài Thơ Đất Nước Hay Nhất bên dưới sẽ cho bạn thấy rõ được những đặc điểm trong thơ Nguyễn Khoa Điềm. Thường có sự kết hợp hài hòa giữa cảm xúc nồng nàn và suy tư sâu lắng.

Đất nước là đề tài, nguồn cảm hứng bất tận của thơ văn. Mỗi nhà thơ, nhà văn cảm nhận và thể hiện về chủ đề đất nước một cách khác nhau tạo thành một mạch thơ đa dạng và phong phú. Trong nền thơ ca hiện đại của dân tộc, mỗi bài thơ viết về đất nước đều có một bản sắc riêng, mang một phong cách riêng của tác giả.

Nguyễn Khoa Điềm trong đoạn trích “Đất nước” của trường ca Mặt đường khát vọng thể hiện sự cảm nhận đất nước một cách toàn vẹn trong cái nhìn tổng hợp theo chiều dài lịch sử, văn hóa, cũng như cuộc sống đời thường gần gũi, thân thiết hằng ngày. Đoạn thơ vừa giàu chất chất trữ tình vừa giàu chất suy tưởng với một giọng thơ vừa tha thiết vừa trang nghiêm, trầm lắng với những tìm tòi, khám phá mới lạ tiêu biểu cho bản sắc riêng của tác giả.

Trong đoạn trích này, Nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện những xúc cảm và suy tưởng về đất nước dưới dạng kể lể, trò chuyện tâm tình có vẻ phóng túng theo nguồn cảm xúc tuôn trào dưới ngọn bút nhưng thật ra đất nước đã được nhà thơ cảm nhận một cách thống nhất, tập trung trên nhiều bình diện.

Tác giả cảm nhận và suy tưởng về đất nước theo chiều dài thời gian lịch sử – từ quá khứ đến hiện tại và hướng về tương lai. Đất nước hình thành từ xa xưa một quá trình suốt bốn ngàn năm lịch sử, trường tồn trong đời sống nhân dân, trong những sinh hoạt, những hình ảnh gần gũi của đời sống nhân dân:

Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi.Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa ” của mẹ thường hay kểĐất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ănĐất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc

Nghĩ suy về lịch sử đất nước, tác giả không điểm lại các triều đại, các tên tuổi vua quan anh hùng mà coi trọng, nhấn mạnh vai trò công lao của những con người vô danh nhưng họ đã đóng góp biết bao công sức xây dựng và giữ gìn đất nước:

Khi có giặc người con trai ra trậnNgười con gái trở về nuôi cái cùng conNgày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánhNhiều người đã trở thành anh hùngNhiều anh hùng cả anh và em đều nhớNhưng em biết khôngCó biết bao người con gái, con traiTrong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổiHọ đã sống và đã chếtGiản dị và bình tâmKhông ai nhớ mặt đặt tênNhưng họ đã làm ra Đất Nước

Tác giả khẳng định nhân dân ta làm ra đất nước không chỉ giữ nước mà còn sáng tạo ra những giá trị vật chất, tinh thần:

Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ănĐất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặcTóc mẹ thì bới sau đầuCha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặnCái kèo, cái cột thành tênHạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàngĐất Nước có từ ngày đó…

Đất nước cũng còn là một không gian cụ thể, nơi sinh tồn của cả một cộng đồng dân tộc. Không gian, lãnh thổ ấy được tạo lập từ buổi sơ khai với những truyền thuyết về nguồn gốc tổ tiên:

Thời gian đằng đẵngKhông gian mênh môngĐất Nước là nơi dân mình đoàn tụĐất là nơi chim vềNước là nơi rồng ởLạc Long Quân và Âu CơĐẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng

Đất nước còn là cái không gian gần gũi, hình ảnh quen thuộc, thiết tha trong cuộc sống hằng ngày của mỗi người chúng ta, rất bình dị và xiết bao trữ tình:

Đất là nơi anh đến trườngNước là nơi em tắmĐất Nước là nơi ta hò hẹnĐất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm

Tư tưởng xuyên suốt đoạn thơ, bao trùm toàn đoạn là tư tưởng “Đất nước của nhân dân”, chính quan niệm này, tư tưởng này đã chi phối, gợi mở nguồn cảm hứng và giúp nhà thơ sáng tạo hơn những hình tượng thơ mang đậm chất liệu của văn học dân gian. Tư tưởng “Đất nước của nhân dân ” được biểu hiện bằng những hình ảnh, những chi tiết cụ thể. Mỗi hình tượng đều gợi nhớ những truyền thống của dân tộc, những sinh hoạt của nhân dân đậm đà tình nghĩa, đầy chất thơ:

Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng PhuCặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống MáiGót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lạiChín mươi chín con voi góp mình dựng đất tổ Hùng Vương

Mỗi địa danh trên đất nước đều gắn với những tên tuổi nôm na, bình dị của nhân dân: Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm.

Và ở đâu trên khắp ruộng đồng, bờ bãiChẳng mang một dáng hình, một ao nước, một lối sống ông cha

Tư tưởng “Đất nước nhân dân” còn là biểu hiện bằng những nhận thức khái quát sâu sắc:

Em ơi emĐất Nước là máu xương của mìnhPhải biết gắn bó và san sẻPhải biết hóa thân cho dáng hình xứ sởLàm nên, Đất Nước muôn đời

Đi vào chiều sâu, bề dày của văn học dân gian, tác giả khám phá những vẻ đẹp tâm hồn, tính cách của nhân dân – chính là những yếu tố làm nên cái hồn của đất nước. Những nét nổi bật của tâm hồn, tính cách dân tộc đó là những tâm hồn say đắm trong tình yêu, nhân hậu, nghĩa tình:

Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầmĐất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi”.

Tâm hồn nhân dân thật nhân hậu nghĩa tình nhưng khi cần phải đối phó với kẻ thù thì tính cách lại vô cùng quyết liệt:

Có ngoại xâm thì chống ngoại xâmCó nội thù thì vùng lên đánh bạiĐể Đất Nước này là Đất Nước của nhân dân

Những cảm nhận và suy tưởng về đất nước của Nguyễn Khoa Điềm được tác giả diễn tả bằng một hình thức thể hiện đặc sắc vừa quen thuộc vừa cách tân.

Câu thơ với tiếng dài, ngắn linh hoạt tạo một nhịp điệu phóng khoáng cùng với giọng kể tâm tình góp phần biểu hiện mạch cảm xúc tuôn chảy dạt dào khá tự do. Giọng thơ có nhiều chỗ trầm bổng, sâu lắng, thiết tha, âm vang càng lúc càng thấm sâu vào tâm hồn người đọc như những cơn mưa ngâu rất nhẹ nhàng càng lúc càng thấm sâu vào lòng đất:

Ôi những dòng sông bắt nước từ đâuMà khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hátNgười đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thácGợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi…

Sự thay đổi kiểu câu, biến đổi giọng điệu linh hoạt làm tăng sức mạnh biểu hiện vừa trữ tình vừa giàu chất chính luận, khái quát, trí tuệ. Đoạn thơ rất giàu hình ảnh, vừa giản dị, gần gũi vừa có sức gợi cảm phong phú, gợi trí tưởng người đọc liên tưởng đến những hình tượng trong ca dao, truyện cổ, dân ca… Chỉ một câu thơ “Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm ” cũng đã gợi lên mấy câu ca dao ngọt ngào, đằm thắm biết bao:

Khăn thương nhớ aiKhăn rơi xuống đất Khăn thương nhớ aiKhăn vắt trên vai

Tóm lại đoạn trích Đất Nước của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã chứa đựng một nội dung sâu sắc: tư tưởng “Đất Nước của nhân dân”. Nội dung tư tưởng này được thể hiện trong một hình thức nghệ thuật sinh động, thấm sâu vào từng hình ảnh, từng chi tiết, từng lời thơ. Cùng với các tác giả khác cùng thời, Nguyễn Khoa Điềm đã đóng góp một cách nhìn, cách cảm, cách nghĩ mới lạ về chủ đề Đất Nước.

Xem nhiều hơn 🌹 Bình Giảng Đất Nước 🌹 15 Bài Văn Ngắn Gọn Hay Nhất

Cảm Nhận Về Bài Thơ Đất Nước Ngắn Gọn – Mẫu 3

SCR.VN tiết lộ cho bạn đọc bài Văn Mẫu Cảm Nhận Về Bài Thơ Đất Nước Ngắn Gọn để bạn thấy được những suy tư sâu lắng của người trí thức về đất nước, con người Việt Nam.

Chương V – ta quen gọi nó là bài thơ Đất Nước – có lẽ là chương hay nhất. Nó là nhận thức chín mùi của thế hệ trẻ Việt Nam về “Đất nước”. Nó là điểm tựa để họ xây dựng vai trò vị trí của mình trong cuộc đấu tranh vĩ đại chung của dân tộc.

Điều dễ nhận thấy đầu tiên là tác giả nhìn đất nước ở tầm gần vậy mà khuôn mặt đất nước rất gần gũi thân quen. Nó bình dân, lam lũ nhưng không kém phần cao cả. Cả nhà thơ đâu đó nói về Đất Nước dường như đồng nhất cảm xúc nói tới quê hương mình, Hoàng Cầm bao lần thốt lên trìu mến : “Quê hương ta lúa nếp thơm nồng; ruộng ta khô; nhà ta cháy; quê hương ta từ ngày khủng khiếp”. Nguyễn Đình Thi và Tố Hữu nhìn đất nước trong không gian Việt Bắc. Có những câu thơ quan tâm đến nét hoành tráng, kì vĩ của đất nước:

Đẹp vô cùng Tổ quốc ta ơi !Rừng cọ đồi chè đồng xanh ngào ngạt(Tố Hữu)

Hoặc Nguyễn Đình Thi:

Nước Việt Nam từ máu lửaRũ bùn đứng dậy sáng loà.

Thế nhưng Nguyễn Khoa Điềm lại nói chuyện với người yêu của mình bằng giọng tâm tình thủ thỉ:

Khi ta lớn lên… đánh giặc.

Nhà thơ đã nhìn Đất nước theo quan hệ ruộ rà thân thiết ta gặp mẹ cha ta, bà mình, dân mình, ta gặp những câu chuyệ cổ tích, nhìn phong tục ăn trầu của bà, nhìn những bờ tre và sự yêu thương nhau bằng “gừng cay muối mặn”, thậm chí: “cái cột, cái kèo, hạt gạo…” tất cả đó là Đất nước. Vậy là, những giá trị truyền thống về văn hoá vật chất, văn hoá tinh thần đã có từ ngày xửa ngày xưa khởi đầu của nó vẫn duy trì đến bây giờ.

“Đất nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn”, nghe qua rất vô lí nhưng ngẫm suy thì nó lại nói lên được đặc trưng văn hoá nước Việt có thể nói là văn hoá trầu cau. Nó đã có một câu chuyện cổ tích, là phong tục được vị vua tổ Hùng Vương ban truyền, nó là vật để người ta giao đãi tình cảm… Miếng trầu là biểu tượng đặc trưng nhất của văn hoá trọng nghĩa, trọng tình của người Việt.

Có cách nhìn về Đất nước như vậy nên tác giả đặc biệt nhấn mạnh đến tình cảm, ân nghĩa, thuỷ chung. Hình ảnh “cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”, câu thơ biết quí công “cầm vàng lặn lội” muốn nói chính là chữ tình sâu thẳm của người Việt.

Sau khi trả lời câu hỏi Đất nước có tự bao giờ Nguyễn Khoa Điềm muốn giả quyết câu hỏi thứ hai Đất nước là gì? Bằng cách đưa ra định nghĩa với mẫu câu: “Đất nước là nơi” – tác giả quan tâm đến cái bình dị không gian Đất nước, người đọc rất ngỡ ngàng và cảm thấy rất thi vị khi Nguyễn Khoa Điềm không ngần ngại nói Đất nước là những chuyện thầm kín, riêng tư bài ca Đất nước là của chúng mình.

Đất là nơi… em tắm.

Thành tố âm dương ấy hợp lại đã trở thành:

Đất nước… hò hẹn.

Và một áng văn tương tự đã bay qua nỗi nhớ để dịnh nghĩa Đất nước đầy e ấp và tình tứ:

Đất nước… nhớ thầm.

Chỉ có hai thành tố là đất và nước thế nhưng mỗi lúc tháo rời nó ra, nó dẫn ta vào mê cung huyền bí, vừa thân thuộc, vừa lạ lẫm vô tận y như một đứa trẻ cứ tháo ra rồi lắp lại mà vẫn chưa hết nỗi đam mê, nhà thơ của chúng ta cũng hồn nhiên làm cái điều ngộ nghĩnh ấy để cho thoả cái điều mình muốn nói.

Càng suy ngẫm đầy trách nhiệm đầy tư duy sắc sảo, đầy khám phá mới mẻ gây hứng thú cho người đọc. Định nghĩa Đất nước tác giả quan tâm đến không gian văn hóa nhưng cũng không quên cái thời gian văn háo đã làm nên một lịch sử dài đằng đẵng của cha ông. Lịch sử ấy gắn bó với địa danh, địa lí cụ thể những chi tiết rất đời thường bình dị đã cát lên thành lời thơ đầy xao xuyến tâm linh con người Việt Nam.

Những ai đã khuất…Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ.

Hai tiếng “cúi đầu” đã gợi lên ấn tượng sâu đậm trong văn hoá tâm linh người Việt, đó là sự thầm kín, ngưỡng vọng thiêng liêng đối với cội nguồn, đối với sức mạnh tinh thần cưu mang và chở che con cháu của Tổ: Chính là cộng đồng từ bọc trứng Âu Cơ, là dân tộc là đất nước, nó là dòng họ gia đình, sợi khói nhang trên bàn thờ gia tiên có năng lực đánh thức tâm linh người Việt hơn tất cả. Nói về 4.000 năm lịch sử của cha ông chúng ta Chế Lan Viên rất tự hào với nữhng anh hùng, với những người con ưu tú của dân tộc.

Hỡi dân tộc tiếng hát 4.000 nămTổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng? (…)Khi Nguyễn Trãi làm thơ và đánh giặcNguyễn Du viết Kiều đất nước hoá thành vănKhi Nguyễn Huệ cưỡi voi vào cửa BắcHưng Đạo diệt quân Nguyên trên sóng Bạch Đằng.Riêng Nguyễn Khoa Điềm, nhà thơ muốn nói nhiều hơn về:Có biết bao người con gái con trai…..Nhưng họ đã làm ra đất nước.

Vậy là sau khi giải đáp hai câu hỏi: Đất nước bắt nguồn từ đâu? Đất nước là gì? Nguyễn Khoa Điềm đã đi vào phần hạt nhân của bài thơ: Ai đã làm ra Đất nước? tương tự như nói về địa danh, địa lí, nhà thơ không ca ngợi cái đẹp, cái trù phú như Hoàng Cầm:

Quê hương ta lúa nếp thơm nồng…

Ở thơ Nguyễn Đình Thi:

Những cánh đồng thơm mát…

Nguyễn Khao Điềm chú ý nhiều đế những miền đất, những thắng cảnh mà tên gọi của chúng rát nôm na đậm đà chúng nói với ta nhiều điều vê cuộc sống cần lao:

Những người vợ nhớ chồng…Ông Trang, bà Đen, bà Điểm.

Tiếp theo là những câu thơ có tầm khái quát:

Và ở đâu… núi sông ta.

Với cách dẫn dắt câu chuyện như vậy, nhà thơ đã phát biểu trực tiếp tư tưởng “Đất nước của Nhân dân”.

Nhân dân đông đảo, nhân dân bao dung làm nên dáng vẻ, tầm vóc của đất nước. Họ là những người chân đất sáng suốt đã đúc kết những triết lý cao cả mà ta hằng tâm niệm mà ta thuộc về nhân dân nên ca ngợi dất nước có quyền nói về đời riêng của mình. Hàng loại các đại từ họ đã nói lên vai trò của nhân dân.

Những người sáng tạo văn hoá vật chất và tinh thần : “Họ giữ, họ truyền lửa, họ truyền giọng điệu, họ gánh theo, họ đắp đập”. Hàng loạt những từ “giữ” và “truyền” rồi “gánh, đắp đập, be bờ” đã tạo nên độ dày của bề mặt văn hoá , đã nổi lên hình tượng nhân dân sáng tạo ra đất nước bằng cuộc lao động lớn, một cuộc chạy tiếp sức để lưu truyền mãi ngọn lửa văn hoá qua các thế hệ. Các nhà thơ khác nhau thời kháng chiến chống Mỹ có khuynh hướng ca tụng đất nước ở tầm vóc quốc tế:

Ta vì ta ba chục triệu ngườiCũng vì ba ngàn triệu trên đờiVui gì hơn làm người lính đi đầuTrong đêm tối ta làm ngọn lửa(Tố Hữu)

Tư tưởng đất nước của nhân dân được rất nhiều nhà thơ nói tới. Tuy nhiên các tư tưởng không phải lạ lẫm gì này được Nguyễn Khoa Điềm nói bằng tất cả sự trải nghiệm và xúc động thật sự của chính mình. Ông đã đưa vốn trí thức về văn hoá dân gian cộng với suy ngẫm nghiêm túc tạo cho bài thơ vừa thuyết phục lí trí lại da diết trữ tình. Đất nước này chính là của nhân dân, trong nhân dân có anh và em vì thế tác giả nghiêm trang đề nghị:

Em ơi em…muôn đời.

Rất tự nhiên không hề bị lên gân giả tạo, văn hoá trọng chữ tình sẽ là lối cư xử uống nước nhớ nguồn.

Chưa bao giờ thơ ca Việt Nam lại nở rộ những vần thơ đất nước như thời chống Mỹ:

Đất nước của những người con gái con traiĐẹp như hoa hồng, cứng hơn sắt thépKhi xa nhau không hề rơi nước mắtNước mắt dành cho ngày gặp mặt(Nam Hà)

Đó là đất nước của những đoàn quân:

Quân đến, quân đi cỏ tranh ùa giá rétDãy Trường Sơn trùng điệp những sư đoàn(Bằng Việt)

Và:

Đất nước tôi thon thả giọt đàn bầuNghe nặng nỗi đau của mẹBa lần tiễn con đi, hai lần khóc thầm lặng lẽ(Tạ Hữu Yên)

Do có đóng góp riêng rất độc đáo, Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm đã chinh phục được lòng độc giả từ khi nó ra đời. Và nó có lẽ sẽ chịu đựng được những thử thách của thời gian. Chúng ta ai chẳng có một tình yêu Tổ Quốc và có lúc ta phải thốt lên lời của Nguyễn Khoa Điềm:

Mọi tin yêu ngay thẳng gọi ta vàoTa ngã vào người đất nước Việt Nam ơi !

Tiếp theo đón đọc 🌻 Phân Tích Bài Thơ Đất Nước Nguyễn Khoa Điềm 🌻 Hay Nhất

Cảm Nhận Của Anh Chị Về Bài Thơ Đất Nước Chi Tiết – Mẫu 4

Với đề bài nêu Cảm Nhận Của Anh Chị Về Bài Thơ Đất Nước thì bạn đọc có thể tham khảo bài viết chi tiết dưới đây ngay nhé.

Từ bao đời nay, đất nước luôn là đề tài muôn thuở, là nơi gặp gỡ của các nhà thơ, nhà văn từ khắp mọi miền, tình yêu quê hương đất nước dường như đã đi vào từng câu hát, từng lời văn, lời thơ. Không giống như đất nước của Nguyễn Đình Thi hay Hoàng Cầm, qua ánh nhìn của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm, hình hài đất nước hiện lên thật đầy đủ và trọn vẹn. Bài thơ “Đất nước” của tác giả xoay quanh cuộc sống sự gần gũi, bình dị với tình yêu chan chứa của nhân dân Việt Nam, nhưng cũng đầy kiên cường, mạnh mẽ vươn lên trên mọi sóng gió.

Ngay từ đầu, những vần thơ đầy nhẹ nhàng, bình dị đến thân thương đã dẫn dắt người đọc trở về thuở sơ khai, khi đất nước mới được sinh ra:

“Khi ta lớn Đất Nước đã có rồiĐất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa…” mẹ thường hay kểĐất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ănĐất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc…Tóc mẹ thì bới sau đầuCha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặnCái kèo, cái cột thành tênHạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàngĐất Nước có từ ngày đó… “

Bằng những lời thơ bình dị mà tinh tế, khái niệm “Đất nước” đã được nêu lên thật cụ thể. Đất nước hiện ra thật đẹp đẽ, giản đơn mộc mạc hơn bao giờ hết, không biết có từ bao giờ, chỉ biết trong những câu chuyện mẹ kể từ rất bé thì đất nước đã có rồi. Người đọc như được dẫn dắt trở về với quá khứ, với những điều thân quen đầy nhưng nhớ “ngày xửa ngày xưa”, một khoảng

Không gian dài đằng đẵng hiện lên, thật xa vời nhưng cũng gần gũi đến lạ thường. Không xác định được một mốc dấu cụ thể, chính xác. Tiếp theo, đất nước được hiện lên qua miếng trầu bà ăn, qua hình ảnh những lũy tre xanh bên làng quanh năm mưa nắng nhọc nhằn.

Đất nước đã lớn lên và vượt qua bao khó khăn từ khi người dân mình biết trồng tre đánh giặc, bảo vệ xóm làng, bảo vệ từng tấc đất thân yêu của quê hương. Hay cả những hình ảnh thật đơn giản, nhưng lại có một tình cảm dào dạt chan chứa, là hình ảnh mẹ bới tóc sau đầu, cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn. Rồi cả những hình ảnh mộc mạc tưởng như vô tri, vô giác nhưng lại mang một linh hồn của sự sống “cái cột”, “cái kèo”, hạt gạo tinh trắng tượng trưng cho hình ảnh đẹp đẽ của đất nước trải qua biết bao thăng trầm, chông gai.

Đất nước được thấy qua cái nhìn đơn giản của người dân lao động chất phác, chân lấm tay bùn nhưng tình cảm vẫn luôn nồng nàn, đằm thắm.

Bằng những lời thơ bình dị như thế, đất nước tiếp tục được nhà thơ vẽ ra qua cái nhìn của một tình yêu trong sáng, thuần khiết lứa đôi:

“Đất là nơi anh đến trườngNước là nơi em tắmĐất Nước là nơi ta hò hẹnĐất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm”Đất là nơi anh đến trường, nước là nơi em tắm,

Đất Nước là nơi hẹn hò, là nỗi nhớ thầm da diết. Một sự hội tụ đầy tương xứng đẹp đẽ đến bất ngờ, sự nảy mầm và ra hoa kết trái của Đất-Nước như chính tình yêu xanh tươi được vun đúc để tạo thành nỗi nhớ vô bến bờ. Đất nước được hình thành từ chính những tình yêu lứa đôi chung thủy, mặn nồng hòa quyện vào tình yêu to lớn của quê hương đất nước.

Không phải là một khoảng không thênh thang, rộng lớn bao la, Đất nước còn hiện hữu trong chính không gian sinh hoạt, cuộc sống bình dị của người dân:

“Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi”Thời gian đằng đẵng”

Như quay ngược thời gian, mảnh đất đầu tiên đã có, những người con đất việt đầu tiên đã đặt chân lên cái nền móng của quê hương từ thời tổ tiên Lạc Long Quân và Âu Cơ:

“Đất là nơi Chim vềNước là nơi Rồng ởLạc Long Quân và Âu CơĐẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng”

Cội nguồn của một dân tộc hào hùng dần lộ ra qua những lời thơ quá rõ ràng của tác giả. Khẳng định chắc chắn rằng đất nước đã có từ rất lâu, từ thời Lạc Long Quân và Âu cơ, những người tổ đã khai hoang nên mảnh đất màu mỡ, xanh tươi của cuộc sống với biết bao trang sử hào hùng, lẫm liệt.

Hay đất nước lại trở về với sự gần gũi quanh ta, về với mái nhà của sự yêu thương, che chở:

“Những ai đã khuấtNhững ai bây giờYêu nhau và sinh con đẻ cáiGánh vác phần người đi trước để lạiDặn dò con cháu chuyện mai sauHằng năm ăn đâu làm đâuCũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ TổTrong anh và em hôm nayĐều có một phần Đất NướcKhi hai đứa cầm tayĐất Nước trong chúng ta hài hòa nồng thắmKhi chúng ta cầm tay mọi ngườiĐất Nước vẹn tròn, to lớn”

Tác giả như khẳng định một trách nhiệm to lớn cho thế hệ đi sau, nó như một cây cầu còn dang dở trên con đường đi tới ngày mai của đất nước. Không chỉ có vậy, đất nước vẹn tròn, to lớn khi tất cả mọi người cùng nắm tay, cùng nhau xây dựng, vun đắp nên một đất nước hòa bình, tươi đẹp.

Và hơn thế nữa, đất nước sẽ còn đi xa, đi tới những chân trời mộng mơ, và mãi trường tồn vững vàng:

“Mai này con ta lớn lênCon sẽ mang Đất Nước đi xaĐến những tháng ngày mơ mộngEm ơi em Đất Nước là máu xương của mìnhPhải biết gắn bó và san sẻPhải biết hóa thân cho dáng hình xứ sởLàm nên Đất Nước muôn đời… “

Gánh nặng như được sẻ chia cho thế hệ sau, giữ gìn đất nước hòa bình và luôn thật tươi đẹp để có thể vươn xa hơn trong tương lai. Như một lời nhắn nhủ đầy tha thiết, dạy cho con cháu phải biết sống và đấu tranh cho chính quê hương thân yêu, san sẻ và gắn bó cùng đất nước như chính xương thịt, ruột gan của mình để làm nên Đất Nước muôn đời.

Đi sâu vào từng ngõ ngách trên đất nước Việt Nam, tác giả đã vẽ nên một bức tranh toàn cảnh với đầy đủ những núi non trập trùng, hiên ngang như chính dáng hình đất nước, cả những dòng sông sâu thẳm, nước xanh một màu. Đất Nước hiện hữu khắp mọi nơi, tác giả như muốn nói rằng đất nước là do nhân dân làm nên từ muôn đời bằng chính tình yêu nồng thắm, chân thành:

“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng PhuCặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống MáiGót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lạiChín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng VươngNhững con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳmNgười học trò nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút non NghiênCon cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnhNhững người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà ĐiểmVà ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãiChẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông chaÔi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấyNhững cuộc đời đã hóa núi sông ta”

Bằng ngòi bút ví von mà chân thực tác giả Nguyễn Khoa Điềm lần lượt vẽ nên những chiến công hiển hách của cha ông ta. Là hình ảnh những người con đất Việt hi sinh cả tuổi xuân, cả cuộc đời mình để góp xương, góp máu cho Đất nước, để lại con thơ, vợ hiền da diết ngóng trông. Là tình yêu vững bền như những tảng đá lớn, đứng hiên ngang chẳng ngại gió mưa. Những vết dấu oai hùng, dũng mãnh bước qua để đời đời còn nhắc mãi,…

Đất nước có một phần xương máu của những con người bất khuất, trung kiên, một đời vì Đất nước, nguyện hi sinh tất cả để đất nước được trường tồn hơn bốn nghìn năm và lâu hơn thế. Vẽ ra bức tranh toàn cảnh rộng lớn của đất nước, sự tươi đẹp của non sông gắn liền với những trang sử hào hùng của cả một dân tộc.

Để làm nên một người anh hùng thì có biết bao nhiêu người anh hùng đã ngã xuống, mà không ai biết tên họ, không ai còn nhớ. Để làm ra đất nước những vị anh hùng dân tộc đã ngã xuống không một chút do dự, nuối tiếc, sẵn sàng đánh đổi tất cả để thấy được sự tươi đẹp của Đất Nước mai sau:

“Em ơi emHãy nhìn rất xa…. .Họ đã sống và chếtGiản dị và bình tâmKhông ai nhớ mặt đặt tênNhưng họ đã làm ra Đất Nước”

Cuộc chiến không lại từ đấy, bàn tay chai sạn vì cầm súng lại tiếp tục cầm cuốc, cầm cày tiếp tục xây dựng đất nước. Bảo vệ Đất nước khỏi nòng súng giặc ngoại xâm rất gian nan, nhưng công cuộc sản xuất kinh tế để làm nên Đất nước giàu mạnh cũng chẳng hề dễ dàng. Họ tiếp tục truyền lửa cho thế hệ sau, không bao giờ quên ơn đức của thế hệ đi trước và tiếp tục làm nên lịch sử đời đời của dân tộc, của Đất nước:

“Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồngHọ chuyển lửa qua mỗi nhà, từ hòn than qua con cúiHọ truyền giọng điệu mình cho con tập nóiHọ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dânHọ đắp đập be bờ cho người sau trồng cây hái tráiCó ngoại xâm thì chống ngoại xâmCó nội thù thì vùng lên đánh bạiĐể Đất Nước là Đất Nước nhân dânĐất Nước của nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại”

Tình yêu Đất Nước như được truyền đời đời, khắc sâu vào trong trái tim của mỗi con người Việt Nam, tình yêu đó chợt cất lên thành những câu hát thân thương hay là cả một truyền thống văn hóa trăm sắc màu:

“Dạy anh biết “yêu em từ thuở trong nôi”Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lộiBiết trồng tre đợi ngày thành gậyĐi trả thù mà không sợ dài lâuÔi những dòng sông bắt nước từ đâuMà khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hátNgười đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thácGợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi”

Bằng lời văn giản dị mà tinh tế, đầy sức thuyết phục đã làm rõ nét hình ảnh Đất nước trong cuộc sống của mỗi con người. Dáng vẻ Đất Nước đầy thân thương như chẳng thể nào phai mờ trong những thứ nhỏ nhặt nhưng không chút tầm thường.

Hướng Dẫn Cách Nhận 🌼 Thẻ Cào Miễn Phí 🌼 Nhận Thẻ Cào Free Mới Nhất

Cảm Nhận Bài Thơ Đất Nước Học Sinh Giỏi – Mẫu 5

Đón đọc bài văn cảm nhận bài thơ Đất Nước học sinh giỏi dưới đây để trau dồi cho mình những ý văn hay và đặc sắc.

Giai đoạn những năm 1945-1975 là giai đoạn có sự ra đời của nhiều tác phẩm xuất sắc viết về đề tài đất nước, trong đó nổi bật có Nguyễn Đình Thi với một đất nước đau thương mà anh dũng trong bài thơ cùng tên, có một Tạ Hữu Yên với hình tượng đất nước buồn xót xa “thon thả giọt đàn bầu…đau nỗi đau người mẹ 3 lần tiễn con đi, hai lần khóc thầm lặng lẽ” trong Đất nước tôi, một Chế Lan Viên với hình tượng đất nước trầm ngâm, lắng đọng thấm đượm hơi thở dân tộc trong Thời sự hè 72 – Bình luận.

Và ấn tượng ta lại có một Nguyễn Khoa Điềm với hình tượng đất nước mang âm hưởng sử thi, bắt nguồn từ những huyền thoại, một đất nước có quá trình hình thành, lớn lên và tồn tại, một đất nước của nhân dân và bắt nguồn từ nhân dân. Có thể nói Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm là một bài thơ mang đậm phong cách triết luận trữ tình mà ở đó người ta thấy yếu tố trữ tình và triết luận hòa hợp với nhau một cách chặt chẽ và xuyên suốt, xuất phát từ vốn kiến thức sâu rộng của nhà thơ về bề dày văn hóa và lịch sử của dân tộc.

Nhắc đến Nguyễn Khoa Điềm tức là nhắc đến một nhà thơ có phong cách viết thơ triết luận đậm đà, ông luôn có một mối liên hệ chặt chẽ giữa tư tưởng triết lý sắc sảo cùng với những giá trị truyền thống văn hóa cổ xưa của dân tộc Việt Nam ta.

Đọc thơ ông ta phát hiện ra rằng, Nguyễn Khoa Điềm là một nhà thơ có sức liên tưởng mạnh mẽ, ông hết đưa người đọc đi từ quá khứ đến hiện tại, rồi lại dẫn từ những đau thương vất vả đến hạnh phúc, vui vầy, đưa nhận thức của con người từ sách vở khô khan bước ra đến với thực tiễn, lái từ tình cảm gần gũi, thân thuộc sang đến cảm xúc hào hùng, bi tráng.

Đặc biệt trong Đất Nước, Nguyễn Khoa Điềm đã dùng chính cái chất trữ tình để thể hiện tính triết luận sâu sắc với chất liệu văn hóa dân gian mà có người đã nhận xét rất đúng rằng “Thơ ca Nguyễn Khoa Điềm chứa đựng nhiều chất liệu văn học và văn hoá dân gian. Câu thơ dù ở thể thơ truyền thống hay thơ tự do bao giờ cũng phảng phất phong vị của ca dao, tục ngữ. Chất hiền minh của trí tuệ dân gian thấm đẫm trong từng từ”.

Trước hết tính triết luận trữ tình trong Đất Nước thể hiện ở lòng tự hào về cội nguồn dân tộc.

“Đất là nơi Chim vềNước là nơi Rồng ởLạc Long Quân và Âu CơĐẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng”

Xuất phát từ tư tưởng triết lý hài hòa âm, dương, vạn vật đều có đôi có cặp của người Việt, Nguyễn Khoa Điềm đã dẫn ta về với truyền thuyết Lạc Long Quân và u Cơ, với chiếc bọc trăm trứng nở ra trăm người con. Tuy nhiên nhà thơ sẽ không chỉ đơn giản dừng lại ở việc gợi nhắc lại truyền thuyết mà ở đoạn thơ trên còn có một sự liên tưởng sâu xa.

Trong văn hóa cổ xưa hình ảnh Chim vẫn luôn tượng trưng cho bầu trời phương Nam, điều này xuất phát từ những truyền thuyết về việc chim Lạc bay về phương Nam mở đất, thêm vào đó hình tượng Rồng lại là thần thú của đại diện cho các quốc gia phương Đông.

Như vậy sự tương ứng giữa hai chỉnh thể Nước – Chim và Đất – Rồng cùng với sự tích Lạc Long Quân – u Cơ giải thích về dòng giống Tiên, Rồng của người Việt đã trở thành một sự suy luận hợp lý làm tiền đề khơi mào cho khái niệm hoàn chỉnh của về Đất Nước, một nước Nam ở phương Đông. Quả thật là một tư tưởng triết luận sâu sắc.

Nguyễn Khoa Điềm cũng suy luận về cơ sở Đất Nước dựa vào chính nền nông nghiệp lúa nước đã có từ lâu đời ở nước ta trong câu thơ “Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng/ Đất nước có từ ngày đó”. Chính nền văn hóa lúa nước đã dựng xây và hình thành nên Đất Nước, chi phối và ảnh hưởng rất lớn đến đời sống và sinh hoạt của người Việt Nam.

Từ chính những hạt thóc, hạt lúa nhỏ bé ấy đã làm nên Đất Nước, đã dựng xây nên một quốc gia có nền nông nghiệp phát triển, và ngày hôm nay nó đã mạnh mẽ trở thành nước xuất khẩu lúa gạo đứng đầu thế giới.

Không chỉ thế từ nền văn hóa lúa nước, Nguyễn Khoa Điềm tiếp tục dẫn dắt người đọc đến với văn hóa làng, xã truyền thống rất đặc trưng của dân tộc Việt Nam.

“Không ai nhớ mặt đặt tênNhưng họ đã làm ra Đất NướcHọ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồngHọ truyền lửa cho mỗi nhà từ hòn than qua con cúiHọ truyền giọng điệu mình cho con tập nóiHọ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dânHọ đắp đập be bờ cho người sau trông cây hái trái”.

Mà theo như Nguyễn Khoa Điềm, theo phong cách triết luận của ông thì chính những con người dung dị, tầm thường, không ai nhớ mặt đặt tên ấy đã làm nên Đất Nước, chính họ đã sống bình tâm, an lành, miệt mài lao động, xây xóm, dựng làng trên khắp mọi miền đất nước và rất nhiều xóm làng với những sinh hoạt đậm nét truyền thống như vậy đã làm nên một Việt Nam thuần nông chất phác.

Cũng từ nền văn hóa lúa nước Nguyễn Khoa Điềm lại liên tưởng đến mối liên quan giữa Đất Nước và nền văn hóa sông nước, một yếu tố điển hình của nền nông nghiệp lúa nước lâu đời.

“Ôi những dòng sông bắt nước từ đâuMà khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hátNgười đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thácGợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi”

Một lần nữa ta tách biệt Đất Nước thành hai yếu tố Đất và Nước, hai yếu tố tối cần trong nông nghiệp và trở nên rất gần gũi quen thuộc đối với mỗi người dân Việt, từ đó khái niệm Đất Nước trong tâm tưởng của mỗi người nông dân đã không còn trở nên quá xa lạ mà đã được Nguyễn Khoa Điềm lý giải một cách tinh tế, sâu sắc.

Cuộc sống của người trồng lúa đã gắn liền với nền nông nghiệp lúa nước, và sinh sống dựa vào môi trường sông nước, nên đôi khi trong tiềm thức Tổ quốc hay quốc gia cũng chỉ gọi ngắn gọn bằng một chữ Nước mà vẫn đầy đủ ý nghĩa.

Phong cách triết luận của Nguyễn Khoa Điềm còn nằm ở cái cách ông đưa các chất liệu văn học dân gian vào thơ của mình, mà ở đó Đất Nước được phô bày với tất cả những vẻ đẹp vừa đậm đà bản sắc vừa có chất lung linh huyền ảo từ những câu chuyện xa xưa vận vào. Đó là một Đất Nước bước ra từ màn sương khói xa xăm của truyền thuyết, thần thoại và ca dao cổ.

“Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân dânĐất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoạiDạy anh biết “yêu em từ thuở trong nôi”Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lộiBiết trồng tre đợi ngày thành gậyĐi trả thù mà không sợ dài lâu”

Và cả trong “Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn” để gợi nhắc về những nét tính cách thủy chung, son sắt của người Việt, một chất liệu đã từng nằm trong ca dao, tục ngữ Việt Nam, nét tính cách đẹp ấy góp vào truyền thống của dân tộc để dựng xây nên Đất Nước. Và rồi Đất Nước cũng bước ra từ những câu chuyện cổ tích từ những cái “ngày xửa ngày xưa mẹ thường hay kể” rất thân thương và gần gũi với mỗi con người ngay từ thuở còn nằm ngửa trong nôi, nghe mẹ ru hời.

Đất Nước cũng hình thành từ những phong tục tập quán lâu đời của người Việt, đó là một thành tố quan trọng để hình thành nên một quốc gia, là nét đặc trưng để phân biệt với các dân tộc khác, là lòng tự tôn của dân tộc. Mà trong Đất Nước Nguyễn Khoa Điềm đã đề cập đến bằng những câu thơ rất hay có sự liên kết, gắn bó với nhau thành một chỉnh thể về phong tục tập quán của dân ta.

Từ miếng trầu trong “Đất Nước bắt đầu từ miếng trầu mà ăn”, khiến người ta liên tưởng đến tục ăn trầu nhuộm răng có từ thời các vua Hùng dựng nước và giữ nước, đồng thời cũng hướng về một câu chuyện cổ tích nổi tiếng Tấm Cám, như vậy chính ra Đất Nước gắn với miếng trầu vừa đủ cả hai yếu tố cổ tích và yếu tố hiện thực trong phong tục tập quán của dân tộc.

Rồi từ tục ăn trầu nhuộm răng với quan niệm “Cái răng cái tóc là góc con người” Nguyễn Khoa Điềm tiếp tục mở rộng suy tưởng của mình sang đến tục búi tóc thấp của đàn bà, con gái Việt trong “Tóc mẹ thì thì búi sau đầu”.

Không chỉ dừng lại ở đó, từ mái tóc của người mẹ nhà thơ tiếp tục liên kết đến cách đặt tên cho đứa con trong câu “Cái kèo, cái cột thành tên”, trong ý thức tâm linh của người Việt xưa việc đặt tên con càng xấu thì đứa trẻ càng không thu hút sự chú ý của quỷ thần, ma mãnh để mà bình yên lớn lên, tình cảm yêu thương gắn bó trong gia đình cũng được hiện lên một cách nổi bật như vậy.

Có thể nói rằng những nét phong tục tập quán độc đáo mà Nguyễn Khoa Điềm đưa vào triết luận thơ đã làm cho chỉnh thể Đất Nước càng thêm vững chắc, sâu đậm, thêm linh thiêng, xứng danh một đất nước hơn 4000 năm văn hiến với những vẻ đẹp căng tràn chất hiện thực lẫn chất huyền thoại.

Bên cạnh tư tưởng triết luận Đất Nước được hình thành và tạo dựng trong các phạm trù văn hóa truyền thống, thì Nguyễn Khoa Điềm còn mở ra một hình tượng Đất Nước được gây dựng từ những truyền thống lịch sử xuyên suốt từ thuở dựng nước cho đến tận ngày hôm nay và nó được thể hiện ở nhiều góc độ khác nhau trong Đất Nước. Thứ nhất Đất Nước của một dân tộc có truyền thống đánh giặc giữ nước, truyền thống nổi bật và kiêu hùng làm nên phẩm giá quý báu của cả một dân tộc “Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre và đánh giặc”.

“Khi có giặc người con trai ra trậnNgười con gái trở về nuôi cái cùng conNgày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánhNhiều người đã trở thành anh hùngNhiều anh hùng cả anh và em đều nhớ”

Và phẩm chất kiên cường, mạnh mẽ, chiến đấu không ngừng nghỉ, căm ghét giặc cỏ, thói mọi vô cùng, quyết tâm đánh đuổi đến cùng:

“Có ngoại xâm thì chống ngoại xâmCó nội thù thì vùng lên đánh bại”

Không kể là đàn bà hay đàn ông, họ đều sẵn sàng chiến đấu sẵn sàng hy sinh để bảo vệ Đất Nước mà không nao núng. Truyền thống ấy đã có từ thời Phù Đổng Thiên Vương thuở vua Hùng thứ 6 chiến thắng giặc n xâm lược, rồi cưỡi ngựa sắt trở về trời để lại những dấu tích huy hoàng, oanh liệt.

Và cuối cùng tổng kết lại, tất cả những quan điểm triết luận của Nguyễn Khoa Điềm đều hướng về một quan niệm dân chủ truyền thống: Đất nước của nhân dân, do nhân dân gây dựng mà có. Chính bản thân ông khi nói về Trường ca Mặt đường khát vọng ông cũng thể hiện rất rõ ràng tư tưởng triết luận, chính luận xuyên suốt được ông dùng phong thái trữ tình diễn đạt, rằng: “Ý tưởng xuyên suốt của tôi trong chương này là thể hiện một Đất nước của nhân dân, do đó, từ ngữ, hình ảnh, chất liệu thơ được sử dụng đều nhằm làm rõ ý tưởng này”.

Ở đó hình ảnh nhân dân đã hiện lên thật mạnh mẽ, kiêu hùng và thẳng thắn, chân thật “Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm/ Có nội thù thì vùng lên đánh bại/Để Đất Nước này là Đất nước của Nhân dân”. Chính nhân dân đã làm nên Đất Nước, gây dựng đất nước bằng những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp, bằng những chất liệu văn học dân gian, bằng phong tục tập quán lâu đời.

Từ hình tượng Đất Nước Nguyễn Khoa Điềm làm nổi bật hình tượng nhân dân một cách vừa cụ thể vừa khái quát hóa, đặt nhân dân vào trung tâm của Đất Nước, điều ấy thể hiện trong một đoạn thơ khá dài:

“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng PhuCặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống MáiGót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lạiChín mươi chín con voi góp mình dựng Đất tổ Hùng VươngNhững con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳmNgười học trò nghèo giúp cho Đất Nước mình núi Bút, non Nghiên.Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnhNhững người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà ĐiểmVà ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãiChẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông chaÔi Đất Nước sau bốn ngàn năm đi đâu ta cũng thấyNhững cuộc đời đã hoá núi sông ta…”

Về yếu tố trữ tình, chủ yếu thể hiện trong giọng điệu thơ tha thiết, thấm đẫm phong vị của nền văn hóa truyền thống dân tộc. Lòng yêu nước sâu sắc, nồng nàn đã trở thành cảm hứng chính chi phối toàn bộ nhịp thơ, là cơ sở để Nguyễn Khoa Điềm tìm về tận cội nguồn, dốc hết sức liên tưởng, triết luận để phác họa ra một Đất Nước hòa chỉnh từ văn hóa đến lịch sử và cả nhân dân.

Từ lòng yêu nước thiết tha nồng đượm ấy đã mở ra những tình cảm khác ấy là lòng yêu và trân trọng những giá trị văn hóa có bề dày lịch sử, tấm lòng tự hào trước những phẩm chất tốt đẹp của người Việt, trước thiên nhiên, trước những thành tựu do nhân dân gây dựng nên từ hạt gạo nhỏ bé cho đến Đất Nước lớn lao. Cuối cùng chính là tấm lòng biết ơn sâu sắc, luôn hướng về cội nguồn dân tộc, trân trọng và gìn giữ của Nguyễn Khoa Điềm trong từng câu thơ.

Bằng phong cách triết luận, trữ tình sâu sắc Nguyễn Khoa Điềm đã đem đến một Đất Nước với dáng hình mới mẻ, khác hẳn so với các nhà thơ cùng thời, một Đất Nước nồng đượm phong vị của chất liệu văn hóa dân tộc, của hơi thở lịch sử kiêu hùng. Một Đất Nước gần gũi và chân thực, các yếu tố cấu thành có sự liên kết chặt chẽ, văn hóa và lịch sử vừa tách rời vừa thống nhất cùng với nhân dân làm nên Đất Nước – hai tiếng yêu thương.

Không chỉ có cảm nhận về bài thơ Đất Nước, có thể bạn sẽ thích 🔥 Bình Giảng Tây Tiến 🔥 15 Bài Văn Ngắn Gọn Hay Nhất

Cảm Nhận Bài Đất Nước Nâng Cao – Mẫu 6

Tham khảo bài văn mẫu cảm nhận bài Đất Nước nâng cao dưới đây với những nội dung cảm thụ văn học chuyên sâu.

Đoạn Đất Nước trích gần chọn chương V của trường ca Mặt đường khát vọng, thể hiện khá tập trung những cảm nhận sâu sắc và có phần mới mẻ về đất nước của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm. Nếu không đọc kĩ trọn vẹn trường ca Mặt đường khát vọng dễ nhầm tưởng rằng dường như chương V này không đề cập trực tiếp đến các vấn đề của thanh niên trí thức miền Nam, không nói đến hiện thực sôi động trong cuộc chiến đấu trong các thành thị miền Nam thời Mĩ – Ngụy, do đó nó không thật gắn bó chặt chẽ với toàn bộ tác phẩm.

Song, thực ra chương này lại là hạt nhân quan trọng nhất của tác phẩm: Sự ý thức về đất nước, về nhân dân đã dẫn đến sự ý thức về trách nhiệm của thế hệ trẻ, trong cuộc chiến tranh oanh liệt vì đất nước, vì nhân dân.

Trong văn học Việt Nam, đất nước vốn là một đề tài lớn. Điều đó có thể giải thích bằng đặc điểm quá trình lịch sử đấu tranh sinh tồn của dân tộc. Trải qua hàng ngàn năm phải liên tục chiến đấu gìn giữ đất nước, hơn ai hết, người Việt Nam luôn luôn gắn bó sâu nặng với đất nước, với đồng bào.

Trong văn học viết thời phong kiến đã có những kiệt tác viết về đất nước như bài thơ Thần của Lí Thường Kiệt, Bài cáo bình Ngô của Nguyễn Trãi. Từ sau Cách mạng Tháng Tám đề tài này thường xuyên xuất hiện trong văn học: Nguyễn Đình Thi viết bài Đất nước nổi tiếng chủ yếu thời kì chống Pháp.

Cùng thế hệ với Nguyễn Khoa Điềm, Nguyễn Duy, Thanh Thảo, Hữu Thỉnh… đều có những tác phâm thể hiện đề tài đất nước, ở đề tài này, các tác giả ghi nhận những thành công nhất định. Nhưng đoạn trích Đất Nước nói riêng, và trường ca Mặt đường khát vọng nói chung vẫn chiếm được cảm tình của người đọc bởi nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã nâng đến cho đề tài này một số nội dung có phần mới mẻ và một cách phô diễn khá độc đáo, hấp dẫn, không giống bất kì cây bút nào đi trước.

Cảm nhận về đất nước của Nguyễn Khoa Điềm bắt đầu thật bình dị. Dưới góc nhìn và cảm nhận của nhà thơ trẻ (khi viết trường ca này Nguyễn Khoa Điềm mới 28 tuổi, nhưng có học vấn cử nhân văn khoa), đất nước là những gì vô cùng gần gũi, bình dị, gắn bó thật sâu nặng với mỗi con người, mỗi gia đình, hiện diện từng giây, từng phút trong cuộc sống thường nhật vừa lả trừu tượng, song lại hết sức cụ thể đối với từng thành viên.

Theo tác giả, đất nước chẳng có gì xa lạ. Đất nước có trong những câu chuyện mà mỗi bà mẹ kể cho con nghe hay bắt đầu bằng câu “Ngày xửa ngày xưa…”. Đất Nước còn lả những tập quán lưu giữ từ ngàn đời nay, biểu hiện ở miếng trầu bây giờ vẫn ăn, hay thói quen “bới tóc sau đầu” của mẹ. Đất nước còn là mối quan hệ thủy. chung son sắt giữa người với người cùng sống trên dải đất Việt Nam.

Điều ấy, trước hết được chứng minh bằng quan hệ bền vững trước sau của mẹ với cha – của vợ với chồng. Trong căn nhà đơn sơ, bao thế hệ người Việt Nam đã sinh con đẻ cái, cần mẫn, lam lũ sớm trưa không bao giờ thiếu mái rạ, cây tre. Trong căn nhà rất đỗi quen thân ẩy, không thể thiếu cái kèo, cái cột… Đây cũng chính là đất nước!

Cái mới lạ, sức hấp dẫn ở đoạn thơ này chính là cách nói hết sức bình dị của nhà thơ. Điều này đã khơi dậy trong tiềm thức sâu xa của người đọc những kỉ niệm, những ấn tượng về một quê hương Việt Nam, con người Việt Nam quen thuộc gần gũi mà bất kì một người đọc nào cũng đã từng chứng kiến, khiến họ không khỏi bồi hồi xao xuyến nhận ra: Trong đất nước có một phần máu thịt của mình.

Tiếp tục mạch cảm hứng ở khổ đầu, đến khổ thơ tiếp theo, nhiều khi Nguyễn Khoa Điềm tách riêng hai yếu tố đất và nước. Đất nước chính là sự hợp thành của hai yếu tố đất và nước. Nó luôn gần gũi với cuộc sống mỗi người:

Đất là nơi anh đến trường,Nước là nơi em tắm,Đất Nước là nơi ta hò hẹn,Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầmĐất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”Nước là nơi “con cá ngư ông móng nuúc biển khơi”

Tiếp theo, nhà thơ cảm nhận đất nước qua độ dài vô tận của “thời gian đằng đẵng” lẫn độ dài vô tận của “không gian mênh mông”. Và thời gian không chỉ dài mà điều quan trọng hơn là trên nền thời gian ấy đã có bao biến thiên lịch sử vừa chân thực vừa phảng phất chất huyền thoại. Đồng bào ta vẫn tự hào là con Rồng cháu Tiên, cha là Lạc Long Quân và mẹ là Âu Cơ.

Như vậy thời gian chủ yếu được cảm nhận trong chiều sâu của lịch sử hình thành và phát triển của đất nước, của dân tộc. Không gian vừa là núi cao sông rộng, muôn trùng núi bạc, bát ngát biển khơi, lại vừa là nơi sinh sống của bao nhiêu người Việt Nam từ thế hệ này qua thế hệ khác:

Những ai đã khuất,Những ai bây giờ,Yêu nhau và sinh con đẻ cái,Gánh vác phần người đi trước để lại,Dặn dò con cháu chuyện mai sau,Hàng năm ăn đâu làm đâu,Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ.

Đất nước gắn bó thân thiết với mỗi con người, khi tuổi ấu thơ “Đất là nơi anh đến trường – Nước là nơi em tắm” cũng như khi ta lớn hơn bước vào đời “Yêu nhau và sinh con đẻ cáỉ”

Bởi vậy như một tất yếu, mỗi thành viên phải có nghĩa vụ đối với đất nước này. Nhờ sự dắt dẫn ở phần trên, nhờ xúc cảm chân thành, lời nhắn nhủ có vẻ như là “hô khẩu hiệu” của tác giả, ở phần sau được người đọc chấp nhận một cách khá tự nhiên, rất ít có cảm giác sống sượng:

Em ơi em, Đất Nước là máu xương của mình,Phải biết gắn bó và san sẻ,Phải biết hoá thân cho dáng hình xứ sở,Làm nên Đất Nước muôn đời…

Như vậy, đất nước được cảm nhận một cách khá phong phú, có sự kết hợp hài hoà trên nhiều lĩnh vực: những phong tục lâu đời, những truyền thống văn hoá, giữa không gian và thời gian, giữa cá nhân và cộng đồng, giữa cái to lớn hùng vĩ với những sinh hoạt thường nhật của mỗi một con người.

Nếu một số tác phẩm trước đây, đất nước được biểu hiện bằng một giọng điệu trang trọng, uy nghi, chủ yếu với những hình ảnh lớn lao, thì ở Mặt đường khát vọng đất nước được thể hiện bằng những hình ảnh gần gũi với một giọng thơ thiết tha lắng đọng, ý thơ được phát triển một cách khá tự do, tự nhiên; nhưng đoạn thơ vẫn đảm bảo được kết cấu hợp lí.

Điều đặc biệt đáng lưu ý là tác giả đã sừ dụng một cách hết sức linh hoạt, sáng tạo vốn hiểu biết phong phú về văn hoá dân gian. Chẳng hạn, muốn diễn đạt ý tường đất nước ta có từ lâu đời, tác giả cho người đọc liên tường đến kho tàng truyện cổ tích. Truyện cổ tích thường bắt đầu bằng lời kể Ngày xửa ngày xưa…

Tiếp đến nhà thơ giúp người đọc nhớ đến truyện Trầu cau bất hủ bằng câu: “Đất nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn”. Và mấy ai không nghĩ đến truyền thuyết Thánh Gióng, khi đọc câu thơ “Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”. Còn câu “Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn chính là sự vận dụng tuyệt vời câu ca dao từng làm rung động con tim bao người Việt Nam:

Tay nâng chén muối đĩa gừngGừng cay muối mặn, xin đừng quên nhau.

Song, cũng có lúc tác giả trích nguyên văn một số câu dân ca:

Con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạcCon cá ngư ông móng nước biển khơi…

Cho dù chỉ sử dụng ý trong ca dao trong các truyện dân gian, hay là trích nguyên văn, nhìn chung Nguyễn Khoa Điềm đều tạo nên được những câu thơ những ý thơ mới. Những ý thơ này gắn bó một cách khá chặt chẽ với nhau, chẳng hạn, đang nói chuyện “ngày xửa ngày xưa”… nhà thơ chuyển đột ngột đến bây giờ (Đất là nơi anh đến truờng – Nước là nơi em tắm). Rồi từ đó, tác phẩm lại dẫn người đọc vào thế giới xa xưa với dân ca và truyền thuyết( truyện Sự tích trăm trứng, dân ca xứ Huế…)

Cách diễn đạt ấy khá khêu gợi trí tường tượng người đọc. Các yếu tố văn hóa dân gian đã góp phần không nhỏ biểu hiện tư tưởng cốt lõi của tác phẩm Đất Nước của nhân dân. Đồng thời nó tạo được ở người đọc ấn tượng sâu sắc về đất nước Việt Nam phong phú, sống động lạ thường, muôn màu muôn vẻ dài theo không gian và thời gian, gần gũi thân thiết với từng con người Việt Nam.

Ngày nay đọc lại đoạn trích này, chúng ta càng thấy rõ phần nào những cống hiến của Nguyễn Khoa Điềm đối với sự phát triển của thơ ca thời chống Mĩ Sự dồi dào trong xúc cảm và chiều sâu trí tuệ đã khiến cho đoạn thơ có tính chính luận trên đây ít bị cũ kĩ theo thời gian, có phần tránh được số phận của một số bài thơ cùng thời.

Bên cạnh cảm nhận về bài thơ Đất Nước, tiếp tục tham khảo 🔥 Phân Tích Tây Tiến 🔥 Tuyển Tập Những Bài Hay Nhất

Cảm Nhận Bài Đất Nước Facebook – Mẫu 7

Chia sẻ cảm nhận bài Đất Nước facebook dưới đây sẽ giúp các em học sinh có thêm cho mình những gợi ý làm bài phong phú hơn.

Không biết từ bao giờ, hình tượng đất nước đã đi vào thơ ca Việt Nam một cách tự nhiên đến thế. Biết bao áng văn, áng thơ đã viết về hình tượng này nhưng mỗi nghệ sĩ lại có những cách nhìn nhận riêng. Với Nguyễn Khoa Điềm, đất nước là những gì gần gũi và thiêng liêng nhất.

Trong toàn bộ đoạn trích “Đất Nước”, tác giả đã khắc họa hình tượng đất nước qua nhiều phương diện khác nhau như lịch sử, văn hóa, không gian, thời gian.

“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồiĐất Nước có trong những cái ngày xửa ngày xưa mẹ thường hay kể.Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ănĐất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặcTóc mẹ thì bới sau đầuCha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặnCái kèo cái cột thành tênHạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàngĐất Nước có từ ngày đó”

Vậy là đất nước đã xuất hiện, ra đời từ rất lâu rồi. Ngược theo dòng lịch sử thì đất nước ta đã có từ hơn bốn ngàn năm về trước. Đất nước hiện hữu trong những câu chuyện cổ tích của mẹ, trong miếng trầu của bà và “lớn lên” khi dân ta biết trồng tre làm vũ khí đánh đuổi quân xâm lược để bảo vệ nước nhà. Đất nước giống như một sinh thể sống, có quá trình sinh ra, lớn lên và tồn tại song song với cuộc sống của con người. “Miếng trầu bà ăn” gợi chúng ta nhớ đến sự tích “Trầu cau”.

Ngoài ra miếng trầu còn là “đầu câu chuyện”, người ta thường mời nhau ăn trầu để thể hiện sự hiếu khách, lịch sự của mình. Chi tiết “dân mình biết trồng tre mà đánh giặc” khiến bạn đọc liên tưởng đến truyền thuyết “Thánh Gióng” – người đã nhổ những bụi tre ven đường để quật vào giặc n khiến chúng bỏ chạy tan tác. Không chỉ vậy, đất nước còn gắn liền với các phong tục tập quán của nhân dân ta như tục búi tóc sau đầu của người phụ nữ Việt, lối sống tình nghĩa thủy chung, thương nhau gừng cay muối mặn.

Từ khi có đất nước, nhân dân ta biết lấy tên cái kèo, cái cột để đặt tên cho các con với mong muốn các con sẽ khỏe mạnh, ngoan ngoãn. Từ khi ấy, nhân dân ta cũng biết lao động cần cù để làm ra hạt gạo, phục vụ nhu cầu sống hàng ngày. Đất nước không chỉ “bắt đầu”, “lớn lên” mà còn trưởng thành, vững chãi, hùng mạnh hơn sau những cuộc chiến đấu chống ngoại xâm và các thế lực thù địch âm mưu phá hoại đất nước.

Đất nước hiện hữu từ trong những gì bé nhỏ, bình dị và thân thuộc nhất của cuộc sống đời thường. Nó hiện diện trong các loại hình văn học dân gian, hiện diện trong các phong tục tập quán, những truyền thống, lối sống của nhân dân ta và hiện diện cả trong “anh”, trong “em”:

“Trong anh và em hôm nayĐều có một phần Đất Nước”

Đất nước là một phần máu thịt của mỗi con người, gắn bó với cuộc đời riêng của mỗi chúng ta:

“Đất là nơi anh đến trườngNước là nơi em tắmĐất Nước là nơi ta hò hẹnĐất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm”

Song hành cùng “thời gian đằng đẵng” là “không gian mênh mông”. Nhà thơ chiết tự hai từ “Đất” và “Nước” để bạn đọc hiểu rõ hơn về hai tiếng gọi cao quý, thiêng liêng ấy. Đất Nước gắn với những bước chân của “anh” đến trường, nơi “em” tắm, nơi “ta” hò hẹn, nơi “em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm”.

Tác giả nhận ra những gì nhỏ bé, giản đơn nhất cũng góp phần không nhỏ để làm nên đất nước. Ông ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn con người Việt Nam, ca ngợi những phong tục tập quán mang đậm bản sắc văn hóa Việt Nam từ bao đời nay.

Vẻ đẹp hình tượng đất nước được tạo nên bởi sự thống nhất, hài hòa của nhiều phương diện. Đất nước trở nên đẹp hơn trong khoảnh khắc dân mình đoàn tụ. Đó là lối sống nghĩa tình, là truyền thống “uống nước nhớ nguồn” của dân tộc ta. Đất nước máu xương, là tâm hồn nên mỗi chúng ta phải biết:

“Em ơi em Đất Nước là máu xương của mìnhPhải biết gắn bó và san sẻPhải biết hóa thân cho dáng hình xứ sởLàm nên Đất Nước muôn đời”

Đất nước đẹp như vậy nên mỗi người cần có trách nhiệm gắn bó, phát triển đất nước để đất nước ngày càng giàu đẹp.

Đất nước được tạo ra bởi những con người vô danh nhưng họ lại vô cùng anh dũng:

“Có biết bao người con gái con traiTrong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổiHọ đã sống và chếtGiản dị và bình tâmKhông ai nhớ mặt đặt tênNhưng họ đã làm ra Đất Nước”

Họ không được tất cả mọi người nhớ mặt, nhớ tên nhưng họ đã kiên cường chiến đấu để các thế hệ sau có được một đất nước như ngày hôm nay. Họ sống giản dị, lặng lẽ cống hiến và hi sinh cho dân tộc. Họ đã hóa thân vào dáng hình xứ sở trường tồn cùng thời gian.

Tư tưởng đất nước của nhân dân được Nguyễn Khoa Điềm thể hiện rõ rệt trong đoạn trích này:

“Để Đất Nước này là Đất Nước nhân dânĐất Nước của nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại”

Ông khẳng định đất nước của nhân dân bởi chính nhân dân là người làm nên đất nước. Họ đã giữ gìn những truyền thống văn hóa của dân tộc để những giá trị ấy không bị mai một:

“Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồngHọ chuyền lửa qua mỗi nhà, từ hòn than qua con cúiHọ truyền giọng điệu mình cho con tập nóiHọ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dânHọ đắp đập be bờ cho người sau trồng cây hái trái”

Bằng giọng điệu suy tư, ngôn từ mộc mạc và sự linh hoạt trong việc sử dụng các thành ngữ, các chất liệu văn hóa dân gian, Nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện được vẻ đẹp của hình tượng đất nước. Đó là vẻ đẹp giản dị, thân thuộc nhưng vô cùng thiêng liêng. Cách nhìn nhận này đã góp phần tạo nên sự đa dạng của hình tượng đất nước trong văn học Việt Nam.

Tiếp theo cảm nhận về bài thơ Đất Nước, gợi ý cho bạn 🌳 Sơ Đồ Tư Duy Tây Tiến 🌳 16 Mẫu Vẽ Tóm Tắt Ngắn Hay

Cảm Nhận 9 Câu Đầu Bài Thơ Đất Nước – Mẫu 8

Cảm Nhận 9 Câu Đầu Bài Thơ Đất Nước để thấy được tác giả miêu tả nguồn cội của đất nước được hiện lên rất đỗi bình dị và thân thương qua những câu chuyện ngày xưa mẹ kể, miếng trầu bà ăn.

Trong những năm tháng kháng chiến chống Mĩ gian khổ, có biết bao nhiêu bài thơ, bài văn ra đời để cổ vũ tinh thần chiến đấu cho quân và dân ta ngoài mặt trận. Một trong số các tác phẩm khơi gợi lòng yêu nước đó không thể không kể đến Trường ca Mặt đường khát vọng của tác giả Nguyễn Khoa Điềm mà nổi bật là đoạn trích Đất nước.

Mở đầu đoạn trích, tác giả lí giải về cội nguồn của Đất nước vô cùng thân thương. Và cội nguồn đó được lí giải vô cùng tinh tế qua 9 câu đầu của bài thơ:

“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi…Đất Nước có từ ngày đó…”

Mở đầu đoạn thơ, tác khẳng định trực tiếp rằng Đất nước này đã tồn tại từ rất lâu rồi, khi mà con người mới sinh ra trên mảnh đất của họ thì chính nơi đó là đất nước, là quê hương. Đất Nước ra đời từ rất xa xưa như một sự tất yếu, trong chiều sâu của lịch sử thời các vua Hùng dựng nước và giữ nước đã đi vào sử sách được lưu truyền đến tận bây giờ.

Đất nước trước hết không phải là một khái niệm trừu tượng mà là những gì rất gần gũi, thân thiết ở ngay trong cuộc sống bình dị của mỗi con người. Từ lời hát mẹ ru, từ những câu chuyện “ngày xửa ngày xưa” mà mẹ kể đã nuôi dưỡng chúng ta khôn lớn. Làm ta hiểu hơn về văn hóa của ta, theo ta đi hết cuộc đời và trở thành một phần kí ức tốt đẹp khiến ta không thể quên.

Những câu chuyện cổ tích, những bài học đạo lí làm người, ước mơ khát vọng của nhân dân về lẽ công bằng được gửi gắm vào câu ca dao đó đã góp phần tạo nên Đất nước đa dạng về văn hóa như hiện nay.

“Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ănĐất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”

Nhai trầu từ lâu đã trở thành một thói quen không thể thiếu của những người phụ nữ Việt Nam nhất là các bà, các mẹ. Cây tre cũng là hình ảnh biểu tượng của người nông dân Việt Nam, hiền lành, thật thà, chăm chỉ và chất phác nhưng cũng rất kiên cường bất khuất.

Bên cạnh truyền thống về lòng yêu nước, tác giả Nguyễn Khoa Điềm còn nhắc đến những hình ảnh mang đậm vẻ đẹp thuần phong mĩ tục giản dị của con người Việt Nam :

“Tóc mẹ thì bới sau đầuCha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”

Từ ngày xưa, hình ảnh người phụ nữ Việt Nam luôn gắn liền với mái tóc dài, được búi gọn gàng ngay sau đầu. Vẻ đẹp đó của một người bà, người mẹ, người chị, của một người con gái Việt Nam mộc mạc, giản dị nhưng lại rất nữ tính, thuần hậu rất riêng.

Ngoài những phong tục tập quán và tình yêu thương của con người, Nguyễn Khoa Điềm còn nêu lên truyền thống lao động sản xuất của người dân:

“Cái kèo, cái cột thành tênHạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng”

Từ xa xưa, con người đã biết chặt gỗ mà làm nhà. Những ngôi nhà đó sử dụng kèo, cột giằng giữ vào nhau vững chãi, bền chặt tránh được mưa gió và thú dữ. Đó cũng chính là ngôi nhà tổ ấm cho mọi gia đình có thể đoàn tụ, quây quần bên nhau, cùng nhau chia sẻ niềm vui nỗi buồn; từ đó hình thành nên làng, xóm và Đất nước.

Ngôi nhà là mái ấm, là nơi con người “an cư lạc nghiệp” siêng năng tích góp của cải dồn thành sự phát triển đất nước. Nhà thơ vận dụng khéo léo câu thành ngữ “Một nắng hai sương” để nói lên sự cần cù chăm chỉ của cha ông ta trong lao động sản xuất. Các động từ “xay – giã – dần – sàng” đó là quy trình sản xuất ra hạt gạo. .

Từ tất cả các yếu tố trên, nhà thơ khẳng định: “Đất Nước có từ ngày đó…”

“Ngày đó” là ngày nào, chúng ta không hề biết, tác giả cũng không thể biết. Chỉ biết rằng ngày đó chính là ngày ta bắt đầu có truyền thống, có những phong tục tập quán, có nhiều văn hoá riêng biệt khác với quốc gia khác. Đó là ngày ta có Đất nước của dân tộc Việt Nam.

Bằng việc vận dụng khéo léo và mềm mại các chất liệu văn hóa dân gian như phong tục ăn trầu, tục búi lệ tóc, truyền thống đánh giặc ngoại xâm, truyền thống làm nông nghiệp và các câu ca dao, tục ngữ cùng các thành ngữ…

Cùng với ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, lời thơ nhẹ nhàng đúng giọng thủ thỉ tâm tình và điệp từ “Đất nước”, tác giả Nguyễn Khoa Điềm đã mang đến cho bạn đọc một cách nhìn mới mẻ về cội nguồn của đất nước.

Nhiều năm tháng qua đi nhưng đoạn thơ cùng với bản trường ca “Mặt đường khát vọng” vẫn giữ nguyên vẹn những giá trị tốt đẹp ban đầu của nó và để lại ấn tượng đẹp đẽ. Đọng lại trong tâm tư của bao thế hệ con người Việt Nam trước đây, bây giờ và cả sau này.

Đón đọc tuyển tập ☔ Phân Tích 9 Câu Đầu Đất Nước ☔ Dàn Ý, 10 Bài Cảm Nhận Hay

Cảm Nhận Về Bài Thơ Đất Nước 9 Câu Đầu Ngắn Hay – Mẫu 9

Tham khảo bài văn mẫu cảm nhận về bài thơ Đất Nước 9 câu đầu ngắn hay dưới đây với những ý văn hàm súc và sinh động.

Bài thơ Đất nước được trích trong trường ca Mặt đường khát vọng của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm là một bài thơ hay và xúc động về tình cảm của một người con Đất nước với Tổ quốc yêu thương của mình. Bài thơ có giá trị nội dung và nghệ thuật đặc sắc giàu giá trị văn hóa, giá trị nhân văn sâu sắc mà tiêu biểu là 9 câu thơ đầu trong bài thơ.

Đất nước chính là sự xuất hiện của hàng loạt những hình ảnh có ý nghĩa biểu trưng nhưng rất gần gũi:

“Khi ta lớn lên Đất nước đã có rồiĐất nước có trong những cái ngày xửa ngày xưa mẹ thường hay kểĐất nước bắt đầu từ miếng trầu bây giờ bà ănĐất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc…”

Bốn từ “ngày xửa ngày xưa” sao quá đỗi quen thuộc với chúng ta. Nó xuất hiện trong những câu chuyện cổ tích bà kể, trong những lời ru tha thiết của mẹ ru con trong giấc say nồng. Nó thể hiện sự kì diệu về sự sinh thành và phát triển của Đất nước, của những đặc trưng rất riêng của con người Đất nước.

Hình ảnh Đất nước vừa hiện lên vừa giản dị gần gũi, vừa thiêng liêng sâu lắng bởi nó gắn với thế giới tâm hồn con người, được nuôi dưỡng bởi việc truyền đời cho con cháu đời sau, những cái “ngày xưa” ấy là bao kỉ niệm cho những chiến tích lịch sử văn hóa đã qua. Đất nước được nói đến qua khía cạnh, bắt đầu với miếng trầu có nghĩa là Đất nước được hình thành trong lối sống tình nghĩa.

“Miếng trầu bắt đầu câu chuyện”, thể hiện lối sống giản dị, chân chất của con người Đất nước. Lối sống nghĩa tình ấy trở thành truyền thống đạo lí tốt đẹp của dân tộc ta. Đất nước được hình thành trong tình yêu nhưng lại lớn mạnh và trưởng thành nhờ những cuộc đấu tranh bảo vệ dân tộc

“Tóc mẹ thì bới sau đầuCha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặnCái kèo cái cột thành tênHạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng”

“Tóc mẹ thì bới sau đầu” hình ảnh người phụ nữ Việt với mái tóc bới sau đầu, hình ảnh thật gần gũi, thân quen in sâu trong nếp nghĩ, gợi suy ngẫm về con người trong cuộc sống lam lũ vất vả nhưng vẫn duyên dáng, đẹp dịu hiền, đảm đang. Hình ảnh ấy qua bao năm tháng vẫn không thay đổi, vẫn gợi suy ngẫm về cái đẹp giản dị mà thiêng liêng.

Đất nước còn hiện lên trong sự gắn liền với một lối sống đẹp, cái cội nguồn của sự sống, đó chính là ân nghĩa vợ chồng. Con người Việt ta từ xưa đã luôn coi trọng đạo lý, coi gia đình và hôn nhân là điều thiêng liêng và đáng trân trọng. Cha mẹ sinh ra coi cái không phải nuôi con do trách nhiệm mà đó là nghĩa tình, đó là niềm hạnh phúc sum vầy của tình cảm gia đình, càng đông càng vui.

Cuộc sống mưu sinh vất vả nhưng sự thủy chung, sắt son “đồng vợ đồng chồng tát biển Đông cũng cạn” đã giúp cho người Việt ta vượt lên tất cả. Cuộc sống bấp bênh, nhiều khó khăn vất vả, chỉ có “gừng cay” và “muối mặn” chứ ít khi ngọt ngào nhưng cũng chính vì lẽ đó mà con người ta biết trân trọng hạnh phúc nhiều hơn.

Ý thơ giản dị mà ý nghĩa vô cùng sâu sắc. Tình yêu được sinh ra và nuôi dưỡng từ trong khó nghèo, từ trong những hoàn cảnh đầy thử thách thật đáng trân trọng, đáng quý. Đó là lối sống trọn nghĩa, trọn tình, thuỷ chung đã trở thành một truyền thống thiêng liêng được lưu truyền qua bao đời. Cũng chính từ cái tình cảm đáng quý ấy là một tấm gương, bài học đáng quý truyền đời cho các thế hệ sau về cách sống nhân nghĩa ân tình này.

Đất nước còn được gắn liền với những hình ảnh đơn sơ, mộc mạc “cái kèo, cái cột” nhưng chính những thứ đơn sơ, mộc mạc ấy đã tạo nên một mái ấm gia đình, làng xóm, quê hương, Đất nước. Đất nước hiện lên qua cuộc sống lao động sinh hoạt: “Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng”. Sự hình thành và phát triển của Đất nước là một quá trình lâu dài, nhờ những giọt mồ hôi của công sức lao động vất vả, một nắng hai sương mà có được.

Con người lao động đã biết “xay, giã, giần, sàng” để tạo nên hạt gạo để xây dựng Đất nước no ấm. Những hình ảnh trên đều gần gũi, chân thành vô cùng. Cũng chính đi đi lên và trưởng thành trong gian khó mà nhân dân ta biết thương nhau, biết đến sự đoàn kết nhiều hơn, biết trân trọng những giá trị lao động và hun đúc ý chí con người quật cường và gan dạ.

Nguyễn Khoa Điềm có điểm nhìn rất gần gũi, thân thuộc bình dị để miêu tả về Đất nước. Đến với bài thơ ta càng thêm thấu hiểu về quê hương Đất nước với những truyền thống, nét văn hóa đáng trân trọng và ngợi ca. Đất nước trong chúng ta chính là những tình cảm thân thương và gần gũi nhất.

Tiếp tục với cảm nhận về bài thơ Đất Nước, đọc nhiều hơn ☀️ Cảm Nhận 9 Câu Đầu Đất Nước ☀️ 10 Bài Văn Hay Nhất

Cảm Nhận Về Bài Thơ Đất Nước Từ Câu 10 Đến Câu 29 – Mẫu 10

Còn đây, SCR.VN chia sẻ đến bạn đọc bài văn Cảm Nhận Về Bài Thơ Đất Nước Từ Câu 10 Đến Câu 29. Bạn đọc khám phá ngay nhé.

Thơ Nguyễn Khoa Điềm được đánh giá là luôn giàu chất suy tư, cảm súc dồn nén. Bài thơ “Đất nước” là một trong những tác phẩm thành công của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm cho thấy tư tưởng đất nước của nhân dân và tình yêu thương sâu sắc và trách nhiệm của nhà thơ với đất nước.

Đặc biệt Từ Câu 10 Đến Câu 29 đã thể hiện thành công những cảm nhận chân thành, mới mẻ và gần gũi của nhà thơ khi định nghĩa hai từ thân thương “đất nước”:

Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã có cách định nghĩa thật mới mẻ, cụ thể về đất nước. Với ông đất nước là những gì bình dị, rất gần gũi và thân thuộc với mỗi con người:

“Đất là nơi anh đến trườngNước là nơi em tắmĐất Nước là nơi hai ta hò hẹn”

Ông đã mượn lối đối đáp tâm tình thân thương giữa lứa đôi để mang đến một hình ảnh đất nước không trừu tượng mà cụ thể. Tác giả đã khéo léo tách “đất nước” thành hai thành tố “đất” và “nước” để định nghĩa. Với nhà thơ, đất nước là những nơi hiện hữu trong cuộc sống thường ngày của mỗi người, đó là “nơi anh đến trường”, đó là “nơi em tắm”.

Đất nước trong quan điểm của nhà thơ còn là nơi chờ đợi trong nhớ nhung của người con gái dành cho người thương của mình. Để rồi “đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm”. Trong ý thơ này, nhà thơ đã thật tinh tế khi sử dụng hình ảnh của những câu ca dao ngọt ngào, sâu lắng.

“Khăn thương nhớ aiKhăn rơi xuống đấtKhăn thương nhớ aiKhăn vắt lên vai…”

Bằng hình ảnh trong ca dao, nhà thơ đã ngầm định nghĩa đất nước cũng chính là nơi cất lên những câu ca dao hàng ngày trong mỗi miền quê yên bình. Đó là một ý thơ thật đẹp đẽ, giàu hình tượng. Bởi lẽ, ai lớn lên từ vành nôi mà không nghe những lời ru, những câu ca dao ngọt ngào của mẹ.

Nhà thơ tiếp tục say sưa với những định nghĩa về đất nước. Đất nước hiện lên trong những câu thơ tiếp theo là hình ảnh đất nước hùng vĩ, mênh mông có tự lâu đời:

“Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”…Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ”

Không chỉ mượn hình ảnh ca dao thân thuộc, ở ý thơ dưới nhà thơ lại tiếp tục sử dụng những câu dân ca Huế sâu lắng, ý nhị như “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”, “con cá ngư ông móng nước biển khơi” để nếu lên quan niệm về đất nước.

Hình ảnh “con chim phượng hoàng” với “núi bạc”, “con cá ngư ông” với “biển khơi” gợi lên một đất nước huy hoàng, hùng vĩ và giàu đẹp. Đất nước hùng vĩ ấy đã trải qua “thời gian” “không gian” dài và rộng lớn.

Đất nước không chỉ là nơi gần gũi thân thuộc, trải qua bao thăng trầm lịch sử mà còn là vùng đất linh thiêng gắn với truyền thuyết “con rồng cháu tiên”:

“Đất là nơi chim về….Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng”

Nhà thơ nhấn mạnh dân tộc Việt Nam là nơi “đất lành chim đậu”. Nơi có rồng thiêng “thăng long”, có cội nguồn lâu đời. Gắn với truyền thuyết dân gian mà không một ai trên mảnh đất hình chữ S này không nhớ. Tất cả dân tộc Việt Nam đều là anh em một nhà. Dù có lên rừng hay xuống biển thì nguồn cội vẫn được đẻ ra từ trong “bọc trứng”.

Xuyên suốt đoạn thơ, nhà thơ tách hai từ “Đất nước” làm hai thành tố “đất” và “nước” và điệp lại nhiều lần cùng hình ảnh thơ bình dị,. Mang âm hưởng dân gian đã mang đến những định nghĩa rất riêng và sâu sắc của Nguyễn Khoa Điềm về đất nước.

Từ trái tim chân thành và tình yêu quê hương đất nước sâu sắc, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã mang đến những khái niệm rất mới mẻ, cụ thể. Nhưng cũng rất gần gũi, thân thuộc với mỗi con người Việt Nam. Đọc đoạn thơ, người đọc được trở lại với từng không gian gần gũi của miền quê, hòa mình và những câu ca dao, dân ca ngọt ngào.

Ngoài cảm nhận về bài thơ Đất Nước, khám phá thêm 💕 Cảm Nhận Về Nhân Vật Người Đàn Bà Làng Chài 💕 12 Bài Hay

Cảm Nhận Về Bài Thơ Đất Nước Từ Câu 30 Đến Câu 42 – Mẫu 11

Chia sẻ dưới đây bài văn mẫu cảm nhận về bài thơ Đất Nước từ câu 30 đến câu 42 để các em học sinh cùng tham khảo:

Đất nước – hai tiếng thiêng liêng ấy vang lên tự sâu thẳm tâm hồn ta; vừa cao cả, trang trọng; vừa xiết bao gần gũi. Hình tượng Đất Nước đã khơi nguồn cho bao hồn thơ cất cánh. “Mặt đường khát vọng” của Nguyễn Khoa Điềm cũng nằm trong dòng chảy dào dạt ấy và có phần đầy đủ hơn cả khi thống nhất được cội nguồn đất nước và tư tưởng đất nước của nhân dân.

Đặc biệt, trong đoạn thơ từ câu 30 đến câu 42, ta thấy hình tượng đất nước đã đi vào chiều sâu trong sự riêng tư đời người:

“Trong anh và em hôm nayĐều có một phần Đất NướcKhi hai đứa cầm tayĐất Nước trong chúng ta hài hòa nồng thắmKhi chúng ta cầm tay mọi ngườiĐất Nước vẹn tròn, to lớnMai này con ta lớn lênCon sẽ mang Đất Nước đi xaĐến những tháng ngày mơ mộngEm ơi em Đất Nước là máu xương của mìnhPhải biết gắn bó và san sẻPhải biết hóa thân cho dáng hình xứ sởLàm lên Đất Nước muôn đời…”

Khi hai đứa “cầm tay” thì đất nước “hài hòa nồng thắm”, ta “cầm tay mọi người” thì “vẹn tròn, to lớn”. Đất nước mang tình yêu lứa đôi, tình đồng đội quê hương và còn là “cốt nhục tình thâm”, Đất Nước là “máu xương” của ta. Đất nước được nhìn từ cái chung đến cái riêng, cá nhân đến cộng đồng, từ xa đến gần, từ bề rộng về bề sâu, từ cái hữu hình đến cái vô hình. Một cách sắp xếp tự nhiên, chặt chẽ và đượm lí, đượm tình.

Tiếp sau đó là tư tưởng đất nước của nhân dân. Một loạt những câu thơ tự do với biên giới thơ mở rộng. Nhịp thơ chậm lại, mang không khí tâm tình trò chuyện. Nghệ thuật liệt kê và cách điệp lại cấu trúc nhấn mạnh ý thơ và liền mạch.

Lời thơ, giọng thơ sôi nổi, thiết tha và tràn đầy nhiệt huyết, khẳng định những đóng góp của nhân dân trong việc làm ra đất nước. Đó là núi Vọng Phu – những năm tháng chờ đợi chung thủy sừng sững giữa trời.

Đó là núi bút non nghiêng xây đắp bởi lòng hiếu học của những tháng năm miệt mài đèn sách và hàng loạt các địa danh “Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm”, với niềm tự hào vời vợi trong lời ca ngợi non sông gấm vóc, “non kỳ thủy tú”. Con người cùng bảo vật vô tri khác đã “hóa thân cho dáng hình xứ sở” và với tác giả đó là niềm yêu kính trước công lao to lớn của nhân dân, xây đắp “hình sông thế núi”.

Khẳng định đất nước là của nhân dân đồng thời là lời yêu cầu tình yêu đất nước, thức tỉnh lòng tự hào và tinh thần dân tộc trong mỗi người. “Em ơi em” là lời gọi ngọt ngào, tha thiết, trìu mến, đầy thủ thỉ tâm tình. Vậy là nói về những điều lớn lao mà không hề sáo rỗng.

Nhân dân là ai? Là những người “con gái, con trai” bằng tuổi chúng ta, và người ra trận, kẻ ở lại, có những anh hùng “cả anh và em đều nhớ” nhưng cũng có những anh hùng vô danh “Không ai nhớ mặt đặt tên – Nhưng họ đã làm ra đất nước”. “Họ đã sống và chết – Giản dị và bình tâm”, lời thơ giống như một nén hương tận tâm còn vương khói thắp lên cho nhân dân, dân tộc.

Trong suốt bốn nghìn năm đất nước, nhân dân ta truyền giữ hạt lúa, truyền từng ngọn lửa, truyền giọng nói, với những tên xã, tên làng, đắp đập be bờ chống giặc ngoại xâm. Các giá trị vật chất luôn đi kèm văn hóa tinh thần, cả kiến quốc và vệ quốc. Những câu thơ gợi nhắc tới: tiểu đội xe không kính, những cô gái mở đường, anh giải phóng quân:

“Em là cô gái hay nàng tiên?Em có tuổi hay không có tuổi?”

Hoặc:

“Hoan hô anh giải phóng quânKính chào Anh, con người đẹp nhất!”

Tác giả đã chọn tư liệu văn hóa dân tộc trong ca dao, thể hiện cảm xúc, ý nghĩ. Hiện lên rõ mồn một là chân dung tinh thần của nhân dân. Tâm hồn dân tộc gửi vào trong dân gian gian nay trở thành chiều sâu văn hóa. Nhìn ở cả chiều dài, chiều rộng và chiều sâu đều thấy được vai trò của nhân dân vừa làm ra vừa bảo vệ. Cho nên “Đất Nước này là đất nước của nhân dân”.

“Đất Nước” của Nguyễn Khoa Điềm là bản nhạc mang âm hưởng dân gian hóa trong điệu hồn kháng chiến, là lời thúc giục tình yêu nước cho mỗi thế hệ Việt Nam hôm nay và mai sau.

Giới thiệu tuyển tập 💕 Phân Tích Người Đàn Bà Hàng Chài 💕 20 Mẫu Phân Tích Nhân Vật

Cảm Nhận Về Bài Thơ Đất Nước Đoạn 1 – Mẫu 12

Ngoài bài văn mẫu cảm nhận 9 câu đầu ở trên, bạn đọc có thể tham khảo thêm bài văn mẫu Cảm Nhận Về Bài Thơ Đất Nước Đoạn 1 hay bên dưới này nữa nhé.

Đất nước luôn là tiếng gọi thiêng liêng muôn thuở, muôn nơi và của bao triệu trái tim con người. Với Nguyễn Khoa Điềm, ta bắt gặp một cái nhìn toàn vẹn, tổng hợp từ nhiều bình diện khác nhau về một đất nước của nhân dân. Tư tưởng ấy đã quy tụ mọi cách nhìn và cảm nhận của Nguyễn Khoa Điềm về đất nước. Thông qua những vần thơ kết hợp giữa cảm xúc và suy nghĩ, trữ tình và chính luận, nhà thơ muốn thức tỉnh ý thức, tinh thần dân tộc, tình cảm với nhân dân, đất nước của thế hệ trẻ Việt Nam trong những năm chống Mĩ cứu nước.

Mở đầu đoạn trích là giọng thơ nhẹ nhàng, thủ thỉ như những lời tâm tình kết hợp với hình ảnh thơ bình dị gần gũi đưa ta trở về với cội nguồn đất nước:

Khi ta lớn lên Đất nước đã có rồiĐất Nước có trong những cái ngày xửaNgày xưa mẹ thường hay kểĐất Nước bắt đầu từ miếng trầu bây giờ bà ănĐất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc

Đất nước trước hết không phải là một khái niệm trừu tượng mà là những gì rất gần gũi, thân thiết ở ngay trong cuộc sống bình dị của mỗi con người. Đất Nước hiện hình trong câu chuyện cổ tích ngày xửa ngày xưa mẹ kể, trong miếng trầu của bà, cây tre trước ngõ… gợi lên một Đất nước Việt Nam bao dung hiền hậu, thủy chung và sắt son tình nghĩa anh em, nhưng cũng vô cùng quyết liệt khi chống quân xâm lược. Mỗi quả cau, miếng trầu, cây tre đều gợi về một vẻ đẹp tinh thần Đất nước, đều thấm đẫm ngọn nguồn lịch sử dân tộc.

Đất nước còn là hiện thân của những phong tục tập quán ngàn đời, minh chứng của một dân tộc giàu truyền thống văn hóa, giàu tình yêu thương gắn bó với mái ấm gia đình. Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn. Gừng tất nhiên là cay, muối tất nhiên là mặn. Tình yêu cha mẹ mãi mãi mặn nồng như chính chân lí tự nhiên kia. Hình ảnh thơ khiến ta rưng rưng nhớ về một lời nhắc nhở thiết tha về tình nghĩa của một ai đó hôm nào:

Tay bưng đĩa muối chén gừng,Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau.

Đất nước còn là thành quả của công cuộc lao động vất vả để sinh tồn, để dựng xây nhà cửa:

Cái kèo cái cột thành tênHạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàngĐất Nước có từ ngày đó.

Ở đây Đất nước không còn là một khái niệm trừu tượng nữa mà cụ thể, quen thuộc và giản dị biết bao. Việc tác giả sử dụng những chất liệu dân gian để thể hiện suy tưởng của mình về đất nước với quan niệm “Đất nước của nhân dân”.

Với thể thơ tự do cùng những hình ảnh dân gian độc đáo, tác giả đã đưa ra nguồn gốc của Đất nước một cách khác biệt mà cũng rất chính xác. Tác phẩm đã góp phần to lớn vào việc làm phong phú văn chương nước nhà cũng như khẳng định đất nước này là của con người Việt Nam.

Cùng với cảm nhận về bài thơ Đất Nước, đừng bỏ qua 🔥 Phân Tích Đất Nước Đoạn 1 2 🔥 10 Bài Văn Mẫu Hay Nhất

Cảm Nhận Về Bài Thơ Đất Nước Đoạn 2 – Mẫu 13

Gửi tặng đến bạn đọc bài văn mẫu Cảm Nhận Về Bài Thơ Đất Nước Đoạn 2 để bạn thấy rõ hơn cách cảm nhận mới lạ mà cũng quá đỗi bình dị về hai tiếng Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm

Nếu như mở đầu Đất Nước, Nguyễn Khoa Điềm khơi nguồn cho tâm hồn người đọc tìm về cội nguồn, để lý giải sự hình thành Đất Nước. Thì đến đoạn thơ thứ 2, đôi mắt thơ của Nguyễn Khoa Điềm đặt hình ảnh Đất Nước trong chiều rộng của không gian địa lý.

“Đất là nơi anh đến trường….Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi”

Nguyễn Khoa Điềm tiếp tục cho thấy cách sử dụng từ, câu linh hoạt sáng tạo của mình. Nhà thơ đã chiết tự hai từ Đất Nước để phân tích về linh hồn thẳm sâu bên trong nó. Đất là nơi anh đến trường, nước là nơi em tắm. Nghĩa là hình ảnh đất nước hiện lên vô cùng gần gũi, gắn bó khăng khít với cuộc sống của con người.

Xưa kia, viết về Đất Nước các nhà thơ thường gọi nó, họa nó bằng những hình ảnh lung linh hùng vĩ. Nay Nguyễn Khoa Điềm gợi về đất nước còn là không gian tình tự, nơi gắn kết tình cảm. Nơi khơi nguồn và là điểm tựa cho hạnh phúc lứa đôi. Là nơi gửi gắm nỗi nhớ thầm của người con gái.

Hai câu thơ tiếp, để thấy được Đất Nước không chỉ đánh thức ký ức tuổi thơ. Mà còn đánh thức cả những miền kí ức văn hóa cộng đồng, nét đẹp dân gian truyền thống của cộng đồng.

“Thời gian đằng đẵng…Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng”

Đất Nước là sự hun đúc, là sự kết thành giữa dòng chảy trôi bất tận của thời gian mênh mông. Nhưng thời gian ở đây không phải thời gian vô tri. Mà là thời gian của lịch sử của văn hóa. Nhắc lại truyền thuyết Lạc Long Quân Âu Cơ, nhắc về ký ức lịch sử văn hóa cộng đồng. Và đồng thời gợi về nét đẹp văn hóa văn học dân gian của dân tộc.

Nhìn Đất Nước trong cả chiều dài thời gian, chiều rộng không gian, Đất Nước còn là sự kết nối những thế hệ đã qua và thế hệ kế tục

“Những ai đã khuất…Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ”

Để tạo nên bề dày văn hóa, lịch sử của Đất Nước. Chắc chắn là sự đắp bồi, tiếp nối của biết bao thế hệ cháu con đã ngã xuống, hy sinh vì độc lập dân tộc. Đất Nước sáng mãi trong tâm khảm mỗi người bởi sự hi sinh vĩ đại, lớn lao.

Bởi tinh thần dân tộc như ngọn lửa trao truyền bao thế hệ. Tiếp tục mạch lập luận, nhà thơ nhìn Đất Nước trong cả mối quan hệ của mỗi cá nhân:

“Trong anh và em hôm nay….Đến những tháng ngày mơ mộng”.

Trong anh và em, trong mỗi chúng ta, đều thấm nhuần điệu hồn của Đất Nước. Đất nước vì thế là sự thống nhất giữa cái chung và cái riêng, giữa mỗi cá nhân với tất cả cộng đồng. Giữa cái nhỏ bé và cái to lớn, giữa cái gần gũi mộc mạc và cái xa xôi lớn lao. Để từ đó, bắc cây cầu đến trái tim của người đọc, rằng: Đất nước ở trong ta chứ không phải ở ngoài ta, và vì thế:

“Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình…Làm nên Đất Nước muôn đời…”

Viết về Đất Nước, đó là nguồn cảm hứng bất tận và trong mỗi thời kỳ lịch sử. Các nhà thơ, nhà văn lại đằm vào nó điệu hồn của thời đại mình. Ở đây, Nguyễn Khoa Điềm viết Đất Nước với mong muốn thức tỉnh những người chiến sĩ tham gia vào cuộc kháng chiến của dân tộc. Thế nhưng giọng thơ của ông không hề mang tính giáo điều mà chan chứa, đằm thắm những nghẹn ngào.

Đoạn thơ thứ hai đã thể hiện sự chiêm nghiệm sâu sắc của Nguyễn Khoa Điềm về hình ảnh Đất Nước. Do đó, nó không chỉ tạo nên sự đồng cảm trong tâm hồn người đọc. Mà còn tăng sức nặng bởi những triết lý, tư tưởng. Nhưng cái tài tình của Nguyễn Khoa Điềm là diễn đạt nó bằng cảm xúc nồng nàn, suy tư sâu lắng.

Gợi ý cho bạn 🌳 Phân Tích Rừng Xà Nu 🌳 15 Bài Văn Phân Tích Tác Phẩm Hay

Cảm Nhận Về Bài Thơ Đất Nước Đoạn 3 – Mẫu 14

Tiếp theo đây, SCR.VN chia sẻ thêm đến bạn đọc bài văn mẫu Cảm Nhận Về Bài Thơ Đất Nước Đoạn 3

Đất Nước được tạo nên bởi linh hồn, bởi điệu hồn của mỗi người con dân tộc đã gửi gắm trong đó tình yêu và máu thịt của mình. Đoạn thơ thứ 3 chính là những lập luận vừa sắc bén mà cũng đằm thắm trữ tình của Nguyễn Khoa Điềm, để từ đó giúp người đọc trả lời câu hỏi: Đất Nước do ai làm nên?

“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu….Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha”

Lượt qua có thể thấy, ở đây Nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện cái nhìn rất mới mẻ, độc đáo của nhà thơ. Xưa nay, viết về danh lam thắng cảnh, non kì gấm vóc của đất nước dân tộc, vốn là mảnh đất, là đề tài đã nhiều người cày xới, nhiều bước chân khao khát khám phá kiếm tìm.

Nhưng ở họ, người đọc mới chỉ nhìn thấy vẻ đẹp bát ngát, non kỳ thủy tú của giang sơn gấm vóc chứ chưa thấy phần hồn cốt thẳm sâu đằng sau mỗi mảnh đất, danh thắng.

Song, đến Nguyễn Khoa Điềm thì nhà thơ không nhìn danh thắng ở hồn cốt bên ngoài mà nhìn sâu vào hồn cốt để thấy được những huyền tích. Đó là những truyền thuyết thiêng liêng, thấm đượm tinh thần thượng võ của dân tộc.

Thứ hai, trong hành trình đi tìm câu trả lời cho câu hỏi Đất Nước do ai làm nên, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm không chỉ thể hiện cái nhìn mới mẻ mà còn thể hiện cách cảm nhận mới mẻ. Dáng núi hình sông không phải là sự tạo tác của thiên nhiên mà là sự hóa thân của tâm hồn con người.

Từ nỗi đau trong cuộc đời mỗi cá nhân, mỗi thân phận đã hóa thân làm nên một dáng hình, một ao ước một lối sống ông cha. Sự tích hòn Vọng Phu không chỉ gợi ra cảnh ly tán. Sự đợi chờ mòn mỏi trong chiến tranh mà còn ca ngợi tình nghĩa thủy chung của những người vợ nhớ chồng.

Cách gọi tên Hòn Trống, hòn Mái của dân gian qua cái nhìn của nhà thơ đã trở thành biểu tượng sự son sắt vĩnh cửu của tình yêu đôi lứa. Những quả đồi thấp bao quanh núi Hy Cương nơi có đền thờ các vua Hùng qua cái nhìn của nhân dân đã trở thành chứng tích của đàn voi 99 con quây quần thuần phục.

Đoạn thơ bắt đầu từ những huyền thoại của văn hóa dân gian nhưng lại bay bổng trên nền thế giới ấy nhờ cái nhìn mới mẻ độc đáo của phương thức tư duy hiện đại. Những núi sông không còn là cảnh sắc thiên nhiên thuần túy, những câu chuyện của văn hóa lịch sử không chỉ đơn thuần mang tính chất thiêng liêng.

“Ôi Đất Nước sau bốn ngàn năm đi đâu ta cũng thấyNhững cuộc đời đã hoá núi sông ta…”

Cái tài hoa và tinh tế trong ngòi bút của Nguyễn Khoa Điềm là vừa gợi được thời gian lịch sử, vừa gợi được không gian mênh mông. Dường như để từ đó nhà thơ muốn khẳng định, lặng lẽ bền bỉ cùng thời gian, trung hậu kiên cường trong không gian là vời vợi những cuộc đời của nhân dân.

Đoạn thơ là niềm xúc động thiêng liêng mà Nguyễn Khoa Điềm gợi nên về sự đóng góp, hóa thân to lớn mà nhân dân góp vào muôn mặt văn hóa, lịch sử, tâm hồn dân tộc. Từ đó, giúp gắn kết tâm hồn con người muôn thế hệ.

Giới thiệu đến bạn 🌟 Sơ Đồ Tư Duy Rừng Xà Nu 🌟 11 Mẫu Vẽ Tóm Tắt Ngắn Hay

Cảm Nhận Về Bài Thơ Đất Nước Đoạn 4 – Mẫu 15

Điều đặc biệt cuối cùng của bài viết, SCR.VN xin dành tặng thêm cho bạn đọc bài Cảm Nhận Về Bài Thơ Đất Nước Đoạn 4 của tác giả Nguyễn Khoa Điềm.

Trường ca “Mặt đường khát vọng” tiêu biểu cho phong cách sáng tác của Nguyễn Khoa Điềm. Tác phẩm được sáng tác vào năm 1971 tại chiến khu Trị Thiên. Nhằm mục đích thứ tỉnh thanh niên đô thị vùng tạm chiến miền Nam về sứ mệnh với cuộc chiến chống Mỹ. Đoạn trích “Đất nước” nằm trong chương năm của đoạn Trường ca và một trong những đoạn hay nhất của tác phẩm viết về đất nước.

Nhưng có lẽ đất nước được nhìn từ nhiều khía cạnh, đầy đủ và trọn vẹn nhất qua đoạn trích ‘Đất nước” ( Trường ca “Mặt đường khát vọng”) của Nguyễn Khoa Điềm. Và đây là mộ trong những đoạn trích tiêu biểu:

Đoạn thơ đã thể hiện được cái “tâm” của nhà thơ đối với đất nước. Nhà thơ mong muốn thế hệ hôm nay đừng bao giờ quên đi nguồn cội của mình. Đừng đánh mất quá khứ, bởi quá khứ đã làm nên hiện tại, không có quá khứ thì làm sao có hiện tại. Dân tộc ta có lịch sử bốn nghìn năm dựng nước và giữ nước.

Đó là một quá khứ bi thương nhưng rất hào hùng của dân tộc. Chính cái quá khứ ấy đã hun đúc làm nên bề dày truyền thống của dân tộc, làm cho dân tộc vẫn tồn tại đến ngày hôm nay. Chính vì vậy mà trong đoạn thơ này, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã nhắc nhở, khuyên nhủ thế hệ hôm nay hãy nhìn rất xa vào quá khứ của dân tộc:

Em ơi emHãy nhìn rất xaVào bốn nghìn năm đất nước

Nhìn về quá khứ rất xa để thấy được năm tháng nào cũng người người lớp lớp bất phân già trẻ, gái trai cũng luôn vừa cần cù làm lụng để kiếm miếng ăn vừa đánh giặc cứu nước, bất chấp hy sinh, gian khổ, bất chấp trước bạo lực của kẻ thù:

Năm tháng nào cũng người người lớp lớp

Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta…Người con gái trở về nuôi cái cùng con

Ông cha ta ngày trước đã luôn đặt quyền lợi của Tổ quốc lên trên hết. Họ sẵn sàng hy sinh những tình cảm riêng tư của mình như tình yêu, tình chồng vợ để đi đánh giặc cứu nước với một thái độ dứt khoát mà không hề so đo, tính toán, phân bì, hơn thiệt.

Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánhNhiều người đã trở thành anh hùngNhiều anh hùng cả anh và em đều nhớ

Đúng là nhiều người đàn bà anh hùng cả anh và em đều nhớ. Chúng ta làm sao quên được những người đàn bà đã đi vào lịch sử của dân tộc trong quá khứ như bà Trưng, bà Triệu…

Và trong cái chiều dài của lịch sử dân tộc ấy, có biết bao lớp người con gái, con trai giống như lớp tuổi chúng ta bây giờ. Họ đã sống và chết một cách giản dị và bình tâm không ai nhớ mặt đặt tên. Nhưng mà nhà thơ đã khẳng định vai trò của họ đối với đất nước thật vô cùng to lớn.

Họ chính là những con người bình thường, giản dị, nhưng có một tình cảm sâu đậm đối với đất nước. Khi đất nước lâm nguy, bị kẻ thù xâm chiếm, họ tạm gác lại những tình cảm riêng tư, lên đường đi chiến đấu, đem máu xương của mình hiến dâng cho Tổ quốc. Chính họ là những con người “làm ra Đất Nước”.

Nhưng em biết không…Nhưng họ đã làm ra Đất Nước.

Tóm lại, trong đoạn thơ trên, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã bộc lộ tấm lòng yêu nước thiết tha. Lòng tự hào dân tộc cao độ của mình và nhà thơ muốn truyền lại cảm xúc trào dâng ấy đến với thế hệ hôm nay. Với mong ước những thế hệ hôm nay đừng bao giờ quên đi truyền thống tốt đẹp ấy của dân tộc. Phải biết kế thừa, gìn giữ và phát huy.

Tiếp theo tham khảo 🌹 Cảm Nhận Về Nhân Vật Tnú 🌹 10 Bài Văn Ngắn Hay Nhất

Từ khóa » Cảm Nhận đoạn 4 đất Nước